SlideShare a Scribd company logo
2
Most read
Why nations fail
LỜI KHEN NGỢI Vì sao các Quốc gia Thất bại
“Acemoglu và Robinson đã có một đóng góp quan trọng cho cuộc tranh luận về vì
sao các quốc gia nhìn giống nhau lại hết sức khác nhau đến vậy trong sự phát triển
kinh tế và chính trị của chúng. Thông qua một lượng lớn thí dụ lịch sử rộng, họ
cho thấy bằng cách nào những sự phát triển thể chế, đôi khi dựa trên hoàn cảnh
rất tình cờ, đã có những hệ quả to lớn. Tính mở của một xã hội, sự sẵn sàng của
nó để cho phép sự phá hủy sáng tạo, và pháp trị dường như là có tính quyết định
đối với sự phát triển kinh tế.”
- Kenneth J. Arrow, giải Nobel Kinh tế, 1972.
“Các tác giả đã chứng minh một cách thuyết phục rằng các nước thoát khỏi nghèo
chỉ khi chúng có các thể chế kinh tế thích hợp, đặc biệt quyền sở hữu tư nhân và
cạnh tranh, Một cách độc đáo hơn, họ chứng tỏ các nước có nhiều khả năng hơn
để phát triển các thể chế đúng khi chúng có một hệ thống chính trị đa nguyên mở
với sự cạnh tranh cho chức vụ chính trị, một số lượng cử tri rộng rãi, và một sự
cởi mở cho các nhà lãnh đạo chính trị mới. Quan hệ mật thiết này giữa các thể chế
chính trị và kinh tế là tâm điểm của đóng góp lớn của họ, và đã dẫn đến một
nghiên cứu đầy sức sống về một trong những vấn đề cốt yếu trong kinh tế học và
kinh tế học chính trị.”
- Gary S. Becker, giải Nobel Kinh tế, 1992.
“Cuốn sách quan trọng và sâu sắc này, được xếp chặt bằng những thí dụ lịch sử,
đưa ra lý lẽ ủng hộ rằng các thể chế chính trị bao gồm ủng hộ các thể chế kinh tế
bao gồm là chìa khóa cho sự thịnh vượng bền vững. Cuốn sách điểm lại bằng
cách nào một số chế độ tốt được đưa vào và sau đó có một vòng xoáy thiện, trong
khi các chế độ tồi vẫn ở trong một vòng xoáy luẩn quẩn. Đấy là phân tích quan
trọng không được quên.”
- Peter Diamond, giải Nobel Kinh tế, 2010.
“Đối với những người nghĩ rằng số phận kinh tế của một quốc gia được định đoạt
bởi địa lý hay văn hóa, Daron Acemoglu và Jim Robinson có tin xấu. Chính là các
thể chế do con người tạo ra, chứ không phải địa hình địa thế hay đức tin của cha
ông chúng ta, là cái quyết định liệu một quốc gia là giàu hay nghèo. Tổng hợp
một cách xuất sắc công trình của các nhà lý luận từ Adam Smith đến Douglass
North với nghiên cứu kinh nghiệm gần đây hơn của các sử gia kinh tế, Acemoglu
và Robinson đã tạo ra một cuốn sách hấp dẫn và rất dễ đọc.”
- Niall Ferguson, tác giả của The Ascent of Money.
“Acemoglu và Robinson – hai chuyên gia hàng đầu thế giới về phát triển – tiết lộ
vì sao không phải địa lý, bệnh tật, hay văn hóa là cái giải thích vì sao một số quốc
gia giàu và một số nghèo, mà đúng hơn là vấn đề của các thể chế và chính trị.
Cuốn sách rất dễ tiếp cận này cung cấp sự thấu hiểu đáng hoan nghênh cho các
chuyên gia và các bạn đọc phổ thông như nhau.”
- Francis Fukuyama, tác giả của The End of History và Last Man và The
Origins of Political Order
“Một cuốn sách xuất sắc và gây phấn khích – thế nhưng cũng là một lời kêu gọi
thức tỉnh gây lo lắng sâu sắc. Acemoglu và Robinson trình bày một lý thuyết đầy
thuyết phục về hầu như mọi thứ cần làm với sự phát triển kinh tế. Các nước trỗi
dậy và thăng tiến khi họ đặt các thể chế chính trị đúng ủng hộ tăng trưởng vào vị
trí, và thất bại – thường một cách ngoạn mục – khi các thể chế đó chai cứng lại
hay không thích nghi. Những người mạnh mẽ luôn luôn và ở mọi nơi đều tìm
cách chộp lấy sự kiểm soát hoàn toàn chính phủ, làm xói mòn sự tiến bộ xã hội
rộng lớn hơn vì sự tham lam của riêng họ. Chặn những người đó với nền dân chủ
hữu hiệu hoặc đứng nhìn quốc gia bạn thất bại.”
- Simons Johnson, đồng tác giả của 13 Bankers và giáo sư tại MIT
Sloan.
“Hai nhà kinh tế học giỏi nhất và uyên bác nhất thế giới, hướng vào vấn đề khó
nhất của mọi vấn đề: vì sao một số quốc gia nghèo và số khác giàu? Được viết với
một sự hiểu biết sâu sắc về kinh tế học và lịch sử chính trị, đây có lẽ là tuyên bố
mạnh mẽ nhất từng được đưa ra cho đến nay rằng ‘thể chế là quan trọng’. Một
cuốn sách khiêu khích, làm sáng tỏ, vậy mà hoàn toàn làm say đắm.”
- Joel Mokyr, giáo sư Robert H. Strotz về Nghệ thuật và Khoa học và
giáo sư Kinh tế học và Lịch sử, Northwestern University
“Trong [cuốn sách] dễ đọc một cách thú vị qua bốn trăm năm lịch sử một cách dễ
dàng này, hai người khổng lồ của khoa học xã hội đương đại đưa cho chúng ta
một thông điệp gây cảm hứng và quan trọng: chính tự do là cái khiến thế giới
giàu. Những kẻ bạo chúa ở mọi nơi hãy run sợ!”
- Ian, Morris, Standford University, tác giả của Why the West Rules –
for Now
“Hãy tưởng tượng ngồi quanh một chiếc bàn lắng nghe Jared Diamond, Joseph
Schumpeter, và James Madison ngẫm nghĩ về hơn hai ngàn năm của lịch sử chính
trị và kinh tế. Hãy tưởng tượng rằng họ dệt các ý tưởng của họ vào một khung
khổ lý thuyết mạch lạc dựa trên việc hạn chế sự khai thác, khuyến khích sự phá
hủy sáng tạo, và tạo ra các thể chế chính trị mạnh chia sẻ quyền lực, và bạn bắt
đầu thấy đóng góp của cuốn sách xuất sắc và được viết một cách lôi cuốn này.”
- Scott E. Page, University of Michigan và Santa Fe Institute.
“Trong cuốn sách có phạm vi hết sức rộng này, Acemoglu và Robinson hỏi một
câu hỏi đơn giản nhưng quan trọng, vì sao một số quốc gia trở nên giàu có và các
quốc gia khác vẫn nghèo? Câu trả lời của họ cũng đơn giản – bởi vì một số chính
thể phát triển các thể chế chính trị bao gồm hơn. Điểm đáng chú ý về cuốn sách
này là tính dứt khoát và tính sáng sủa của cách viết, sự tao nhã của lý lẽ, và sự
phong phú đặc biệt về chi tiết lịch sử. Cuốn sách này là cuốn phải đọc tại một thời
điểm khi các chính phủ khắp thế giới phương Tây phải tìm ra ý chí chính trị để
giải quyết khủng hoảng nợ có quy mô khác thường.”
- Steven Pincus, giáo sư Bradford Durfee về Lịch sử và Nghiên cứu
Quốc tế và Vùng, Yale University
“Là chính trị, ngu ạ! Đó là lời giải thích đơn giản nhưng hấp dẫn của Acemoglu
và Robinson cho vì sao nhiều nước đến vậy không phát triển. Từ Chính thể
Chuyên chế của nhà Stuart đến trước chiến tranh miền Nam, từ Sierra Leone đến
Colombia, công trình có quyền uy này cho thấy giới ưu tú hùng mạnh gian lận các
quy tắc như thế nào để làm lợi cho bản thân họ gây tổn hại cho nhiều người. Lên
kế hoạch chi tiết một tiến trình cẩn trọng giữa những người bi quan và những
người lạc quan, các tác giả đã chứng minh địa lý và lịch sử không phải là định
mệnh. Nhưng họ cũng chứng minh bằng tư liệu các ý tưởng và chính sách kinh tế
hợp lý thường đạt được ít đến thế nào khi thiếu sự thay đổi chính trị căn bản.”
- Dani Rodrik, Kennedy School of Government, Havard University
“Đây không chỉ là một cuốn sách hấp dẫn và lý thú: nó là một cuốn sách thực sự
quan trọng. Nghiên cứu hết sức độc đáo mà các giáo sư Acemoglu và Robinson
đã tiến hành, và tiếp tục làm, về các lực lượng kinh tế, chính trị, và các lựa chọn
chính sách tiến triển cùng nhau như thế nào, và các thể chế tác động ra sao đến sự
tiến triển đó, là thiết yếu để hiểu thành công và thất bại của các xã hội và các quốc
gia. Và ở đây, trong cuốn sách này, những hiểu biết sâu sắc này đến dưới dạng rất
dễ tiếp cận, quả thực rất lôi cuốn. Những người cầm cuốn sách này lên và bắt đầu
đọc sẽ gặp rắc rối đặt nó xuống.”
- Michael Spence, giải Nobel Kinh tế, 2001
“Cuốn sách hấp dẫn và dễ đọc này tập trung vào sự đồng tiến hóa phức tạp của
các thể chế chính trị và kinh tế, trong các hướng tốt và xấu. Nó tìm thấy một sự
cân đối tế nhị giữa logic của ứng xử chính trị và ứng xử kinh tế và những sự
chuyển hướng được tạo ra bởi các sự kiện lịch sử bất ngờ, lớn và nhỏ, tại các
‘critical juncture – bước ngoặt’. Acemoglu và Robinson cung cấp một dải rất rộng
các thí dụ lịch sử để chứng tỏ những sự dịch chuyển như vậy có thể nghiêng ra
sao theo hướng các thể chế thuận lợi, đổi mới tiến bộ, và thành công kinh tế hoặc
theo hướng các thể chế đàn áp và cuối cùng suy tàn hay trì trệ. Bằng cách nào đó
họ có thể gây ra cả sự kích thích lẫn sự suy ngẫm.”
- Robert Solow, giải Nobel Kinh tế, 1987
Why
Nations Fail
THE ORIGINS OF POWER,
PROSPERITY, AND POVERTY
Daron Acemoglu and
Jemes A. Robinson
Crown Publishers ● New York
Vì sao
Các Quốc gia
Thất bại
NGUỒN GỐC CỦA QUYỀN LỰC,
THỊNH VƯỢNG, VÀ NGHÈO KHÓ
Daron Acemoglu và
Jemes A. Robinson
Nguyễn Quang A dịch
For Arda and Asu - DA
Para María Angélica, mi vida y mi Alma - JR
Why nations fail
MỤC LỤC
Lời giới thiệu ● xiii
LỜI NÓI ĐẦU ● 1
Vì sao những người Ai Cập tràn đầy Quảng trường Tahrir để hạ bệ Hosni
Mubarak và nó có ý nghĩa gì cho sự hiểu biết của chúng ta vể các nguyên nhân
của sự thịnh vượng và nghèo khó.
1.
GẦN THẾ MÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 7
Nogales, Arizona, và Nogales, Sonora, là các thị trấn có cùng dân chúng, văn
hóa, và địa lý. Vì sao một thị trấn giàu còn thị trấn kia nghèo?
2.
CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 45
Các nước nghèo không phải bởi vì địa lý, văn hóa của chúng, hay bởi vì các nhà
lãnh đạo của chúng không biết các chính sách nào sẽ làm cho các công dân của
họ giàu.
3.
TẠO RA SỰ THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 70
Sự thịnh vượng và nghèo khó được xác định như thế nào bởi các khuyến khích do
các thể chế tạo ra, và bằng cách nào chính trị xác định các thể chế nào mà một
quốc gia có
4.
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT: SỨC NẶNG CỦA
LỊCH SỬ ● 96
Các thể chế thay đổi thế nào thông qua xung đột chính trị và quá khứ định hình
hiện tại ra sao
5.
“TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG”: TĂNG TRƯỞNG
DƯỚI CÁC THỂ CHẾ KHAI THÁC ● 124
Stalin, Vua Shyaam, Cách mạng Đồ đá mới, và các thành quốc Maya tất cả có gì
chung và bằng cách nào điều này giải thích vì sao sự tăng trưởng hiện thời của
Trung Quốc không thể kéo dài
6.
TRÔI DẠT XA NHAU ● 152
Các thể chế tiến hóa thế nào theo thời gian, thường trôi dạt chậm chạp xa khỏi
nhau
7.
ĐIỂM NGOẶT ● 182
Một cuộc cách mạng chính trị năm 1688 đã làm thay đổi các thể chế ở nước Anh
và đã dẫn đến Cách mạng Công nghiệp như thế nào
8.
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI: CÁC RÀO CẢN ĐỐI VỚI
PHÁT TRIỂN ● 213
Vì sao những kẻ có thế lực chính trị ở nhiều quốc gia đã chống Cách mạng Công
nghiệp
Các ảnh được chèn
9.
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 245
Chủ nghĩa thuộc địa Âu châu đã bần cùng hóa các phần lớn của thế giới thế nào
10.
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 274
Một số phần của thế giới đã đi các con đường khác con đường Anh như thế nào
đến sự thịnh vượng
11.
VÒNG THIỆN ● 302
Các thể chế thúc đẩy thịnh vượng tạo ra các vòng phản hồi dương như thế nào để
ngăn chặn các nỗ lực của giới chóp bu (elite) nhằm làm xói mòn chúng
12.
VÒNG LUẨN QUẨN ● 335
Bằng cách nào các thể chế gây nghèo khó tạo ra các vòng phản hồi âm và tiếp tục
tồn tại
13.
VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI NGÀY NAY ● 368
Thể chế, thể chế, thể chế
14.
PHÁ VỠ KHUÔN ĐÚC ● 404
Một và nước đã thay đổi quỹ đạo kinh tế của họ bằng thay đổi các thể chế của họ
ra sao
15.
HIỂU SỰ THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 428
Thế giới đã có thể khác thế nào và bằng cách nào sự hiểu điều này có thể giải
thích vì sao hầu hết các nỗ lực chống nghèo đã thất bại
LỜI CẢM ƠN ● 463
TIỂU LUẬN VÀ CÁC NGUỒN THƯ MỤC ● 465
TÀI LIỆU THAM KHẢO ● 488
CHỈ MỤC ● 515
xiii
LỜI GIỚI THIỆU
Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ hai mươi ba* của tủ sách SOS2
, cuốn Vì sao các
Quốc gia Thất bại của hai nhà khoa học Daron Acemoglu (giáo sư kinh tế học,
MIT) và James A. Robinson (giáo sư Quản lý nhà nước, Đại học Havard) vừa
xuất bản ở Mỹ đầu năm 2012. Tiêu đề phụ của cuốn sách là, nguồn gốc của quyền
lực, sự thịnh vượng, và nghèo khó. Cuốn sách tìm câu trả lời cho câu một hỏi đơn
giản nhưng đã làm cho nhiều học giả đau đầu trong nhiều thế kỷ qua: vì sao một
số quốc gia giàu và nhiều quốc gia nghèo?
Đã có nhiều lý thuyết (giả thuyết) tìm cách giải đáp cho câu hỏi này hay giải
* Các quyển trước gồm:
1. J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông
tin (NXB VHTT) 2002; Con đường dẫn tới nền kinh tế tự do (NXB Tri thức. 2007)
2. J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002
3. J. Kornai- K. Eggleston: Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002
4. G. Soros: Giả kim thuật tài chính
5. H. de Soto: Sự bí ẩn của tư bản, NXB Chính trị Quốc gia, 2006 [Sự bí ẩn của Vốn]
6. J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội đi về đâu?
7. F.A. Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nông nô
8. G. Soros: Xã hội Mở
9. K. Popper: Sự Khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử
10. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, I, Plato
11. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, II, Hegel và Marx
12. Thomas S. Kuhn: Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học
13. Thomas L. Friedman: Thế giới phẳng, Nhà xuất bản Trẻ, 2006
14. Một năm Hội nghị Diên Hồng Hungary do Nguyễn Quang A tuyển, dịch, biên soạn
15. Kornai János: Bằng Sức mạnh Tư duy, tiểu sử tự thuật đặc biệt, NXB Thanh Hóa, 2008
16. Kornai János: Lịch sử và những bài học, NXB Tri thức, 2007
17. Peter Drucker: Xã hội tri thức, Quản lý, Kinh doanh, Xã hội và Nhà nước, tập tiểu luận
18. Murray Rothabrd: Luân lý của tự do
19. Amartya Sen: Tư tưởng về công bằng, sắp xuất bản
20. Kornai János: Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, dân chủ và thay đổi hệ thống, sắp xuất bản
21. Kornai János: Các ý tưởng về chủ nghĩa tư bản, NXB Thời Đại, 2012.
22. Robert Kagan: Thế giới mà Mỹ tạo ra, 2012
xiv ● LỜI GIỚI THIỆU
thích hiện tượng bất bình đẳng thế giới nhức nhối đó. Có các giả thuyết về địa lý,
văn hóa, sự thiếu hiểu biết của các nhà lãnh đạo quốc gia, nhưng các lý thuyết này
đều không trả lời được một cách thỏa đáng cho câu hỏi đơn giản nêu trên.
Acemoglu và Robinson đưa ra giả thuyết về các thể chế chính trị là cái quyết
định chứ không phải địa lý, văn hóa, hay sự thiếu hiểu biết.
Lập luận đại thể như sau: một quốc gia giàu nếu phần lớn công dân của nó
tham gia vào các hoạt động kinh tế, tạo ra nhiều của cải một cách hiệu quả, luôn
tìm cách mới để thực hiện các nhiệm vụ (cũ và mới) sao cho hiệu quả hơn.
Nhưng cái gì khiến các tác nhân kinh tế (cá nhân, hộ gia đình, các công ty) làm
như vậy? Đó là các khuyến khích (incentive). Không có các khuyến khích, không
có động cơ người ta không tích cực làm việc; các phản khuyến khích thậm chí còn
gây ra tác hại. Nghiên cứu các khuyến khích là một trong những nội dung chính
của kinh tế học (và khoa học xã hội nói chung khi khuyến khích được hiểu theo
nghĩa rộng không chỉ là khuyến khích kinh tế).
Song cái gì định hình các khuyến khích? Đó là các thể chế kinh tế. Các thể chế
kinh tế là các quy tắc ảnh hưởng đến nền kinh tế hoạt động thế nào và đến các
khuyến khích thúc đẩy người dân ra sao. Các tác giả phân ra hai loại thể chế kinh
tế: thể chế kinh tế bao gồm (inclusive economic institution) và các thể chế kinh tế
khai thác (extractive economic institution).
Các thể chế kinh tế bao gồm bảo đảm: các quyền tài sản an toàn; luật pháp và
trật tự; các thị trường và sự ủng hộ của nhà nước đối với các thị trường (qua các
dịch vụ công và các quy định); dễ tham gia hoạt động kinh tế; tôn trọng các hợp
đồng; đa số nhân dân được tiếp cận đến giáo dục và đào tạo và các cơ hội.
Ngược lại thì các thể chế kinh tế là khai thác: thiếu luật pháp và trật tự; các
quyền tài sản không an toàn; các rào cản tham gia và các quy chế cản trở hoạt
LỜI GIỚI THIỆU ● xv
động của các thị trường và tạo ra sân chơi không bằng phẳng.
Cuối cùng, các thể chế kinh tế hình thành trên cơ sở nào? Các thể chế chính trị
định hình các thể chế kinh tế. Các tác giả phân biệt hai loại thể chế chính trị: bao
gồm và khai thác.
Các thể chế chính trị bao gồm bảo đảm: điều kiện cho sự tham gia rộng rãi của
các công dân – chủ nghĩa đa nguyên – đặt ra các ràng buộc và kiểm soát đối với
các chính trị gia; nền pháp trị; nhà nước tập trung ở mức đủ để thực thi luật pháp
và trật tự (nhưng không quá tập trung để biến thành chính thể chuyên chế).
Ngược lại, các thể chế chính trị mang tính khai thác: tập trung quyền lực chính
trị vào tay một số ít người; không có các ràng buộc lên các chính trị gia hay kiểm
soát và cân bằng hay thiếu nền pháp trị.
Các thể chế kinh tế bao gồm thúc đẩy tăng trưởng thông qua: khuyến khích
đầu tư; tận dụng sức mạnh thị trường trong phân bổ nguồn lực, sự tham gia của
các hãng hiệu quả hơn, có khả năng tài trợ vốn cho kinh doanh khởi nghiệp; tạo
điều kiện cho sự tham gia rộng rãi thông qua tạo cơ hội bình đẳng, để các công
dân có cơ hội giáo dục và đào tạo; và quan trọng nhất khuyến khích đầu tư vào
công nghệ mới và chấp nhận sự phá hủy sáng tạo. Như thế, các thể chế bao gồm
tạo ra các khuyến khích để các tác nhân kinh tế hoạt động hiệu quả và kết quả là
tạo ra tăng trưởng bền vững, và như thế thường dẫn các quốc gia đến giàu có.
Tăng trưởng, tuy vậy luôn luôn kéo theo những kẻ thắng và những người thua.
Những kẻ thắng thường ủng hộ, song những người thua thường chống đối. Những
người thua về kinh tế và nhất là những người thua (hay có khả năng bị thua) về
mặt chính trị thường ngăn cản quyết liệt. Và đấy chính là logic của các thể chế
khai thác: những người có quyền thế sợ sự mất quyền lực, sợ sự phá hủy sáng tạo,
sợ bị trở thành kẻ thua, nên tìm cách cản trợ thay đổi, cố duy trì các thể chế khai
xvi ● LỜI GIỚI THIỆU
thác, ưu tiên giữ ổn định chính trị, giữ hiện trạng có lợi cho họ.
Tuy vậy, dưới các thể chế khai thác cũng có thể có tăng trưởng. Đầu tiên, có
tăng trưởng thì mới có của cải để khai thác. Tăng trưởng dưới các thể chế khai
thác chủ yếu diễn ra theo hai kiểu: chuyển nguồn lực từ khu vực năng suất thấp
(thí dụ nông nghiệp) sang khu vực có năng suất cao hơn (công nghiệp hay dịch
vụ, chẳng hạn); giới chóp bu có thể tự tin để tạo ra các yếu tố bao gồm trong các
thể chế kinh tế trong khi vẫn giữ các thể chế chính trị khai thác.
Các thể chế kinh tế khai thác có thể tạo ra tăng trưởng, nhưng không bền vững
trong dài hạn và thường không tạo ra tăng trưởng và vì thế dẫn đến nghèo khó.
Có ái lực mạnh (hay sự đồng vận) giữa các thể chế chính trị bao gồm và các
thể chế kinh tế bao gồm; cũng vậy đối với các thể chế khai thác; chúng tăng
cường lẫn nhau và tạo ra trạng thái ổn định tương đối. Sự kết hợp của các thể chế
chính trị khai thác với các thể chế kinh tế bao gồm có thể tạo ra tăng trưởng,
nhưng cuối cùng sẽ quay về hai trạng thái ổn định hơn: hoặc các thể chế chính trị
chuyển thành các thể chế bao gồm và quốc gia phát triển mạnh, hay các thể chế
kinh tế bao gồm bị thay thế bằng các thể chế khai thác. Tương tự, trạng thái các
thể chế chính trị bao gồm kết hợp với các thể chế kinh tế khai thác cũng là trạng
thái bất ổn định: các lực lượng chính trị sẽ buộc các thể chế kinh tế trở nên bao
gồm, hoặc bản thân các thể chế chính trị bị biến thành khai thác.
Có thể phát triển một loại số đo tổng hợp, theo kiểu như chỉ số HDI chẳng hạn,
cho các thể chế chính trị và kinh tế. Có thể gán, chẳng hạn chỉ số - 1 cho tập các
thể chế tuyệt đối khai thác, và +1 cho tập các thể chế tuyệt đối bao gồm. Khi đó
số đo của các thể chế chính trị của một quốc gia có thể có giá trị từ (-1) đến (+1)
và có thể được biểu diễn như một điểm nào đó giữa (-1 và + 1), thí dụ trên trục
tung (y). Tương tự số đo của tập các thể chế kinh tế cũng lấy giá trị từ -1 đến +1
LỜI GIỚI THIỆU ● xvii
và có thể biểu diễn thí dụ trên trục hoành (x) [ở sơ đồ dưới đây trục x chạy từ phải
qua trái hơi ngược với bình thường một chút].
Như thế ta có bốn ô trên mặt phẳng x-y: ô 1 trên cùng bên phải, ô 2 dưới cùng
bên phải; ô 3 dưới bên trái; và ô 4 trên cùng bên trái.
Tại mỗi thời điểm, mỗi quốc gia có một vị trí ở một trong bốn ô này, và theo
thời gian vị trí có thể dịch chuyển trong từng ô, hay chuyển từ ô này sang ô kia.
Sự dịch chuyển này vẽ lên một quỹ đạo thể chế, và lịch sử thể chế đóng vai trò hết
sức quan trọng trong lý thuyết của hai tác giả này.
Rất nhiều quốc gia nằm ở ô 2 và họ thường nghèo và vị trí càng gần góc dưới
bên phải (-1,-1) thì càng nghèo; có một số quốc gia ở ô 4 và họ thường giàu, các
quốc gia có vị trí càng gần góc trên cùng bên trái (+1,+1) thì càng giàu.
Hai ô 2 và 4 tương đối ổn định. Ô 2 gắn với vòng luẩn quẩn. Ô 4 gắn với vòng
thiện, và sự ổn định tại đây cũng chỉ tương đối, nếu không giữ gìn vẫn có thể thụt
lùi, như trường hợp Venice. Các ô 1 và 3 không ổn định theo nghĩa các quốc gia
nằm ở các ô này sớm muộn (tính bằng hàng chục năm) sẽ chuyển về ô 2 hay ô 4.
Phần cốt lõi thứ hai của lý thuyết là động học của sự thay đổi thể chế. Các tác
giả nhấn mạnh đến tầm quan trọng của: các xung đột (conflict) luôn xảy ra trong
xã hội; sự trôi dạt thể chế (institutional drift), các thể chế ban đầu như nhau theo
xviii ● LỜI GIỚI THIỆU
thời gian sẽ trôi dạt xa nhau; và tạo ra những sự khác biệt nhỏ về thể chế nhưng
các khác biệt nhỏ lại có thể quan trọng trong các bước ngoặt; các bước ngoặt
(critical juncture) là bất cứ sự kiện lớn nào ảnh hưởng đến xã hội như tai họa thiên
nhiên, dịch bệnh, khám phá mới, hay các cuộc cách mạng, hay cái chết của một
nhân vật quan trọng; và sự tùy thuộc ngẫu nhiên (contingency). Các xung đột dẫn
đến sự trôi dạt thể chế, tại các bước ngoặt do những khác biệt nhỏ và sự tùy thuộc
ngẫu nhiên chúng rẽ nhánh theo những con đường rất khác nhau và tạo ra sự phân
kỳ thể chế.
Lý thuyết về thay đổi thể chế cũng như sự đồng vận của các thể chế (chính trị
và kinh tế) bao gồm và sự đồng vận của các thể chế khai thác là các công cụ hùng
mạnh mà các tác giả dùng để tìm câu trả lời cho câu hỏi đơn giản và hết sức cơ
bản mà cuốn sách đặt ra: vì sao có một số quốc gia giàu và nhiều quốc gia nghèo,
vì sao các phương pháp xóa nghèo hiện hành thường thất bại.
Các tác giả đưa bạn đọc chu du khắp thế giới, từ châu Mỹ, Hoa Kỳ, đến châu
Âu, châu Phi, châu Á, châu Đại Dương để tìm hiểu vì sao ở nơi nào đó lại nghèo
hay giàu, các lực lượng chính trị và kinh tế tương tác với nhau ra sao và gây ra
những thay đổi thể chế như thế nào và đưa ra cách giải thích thuyết phục cho các
hiện tượng đó, giúp bạn đọc hiểu trên cơ sở của khung khổ lý thuyết này.
Tầm phủ thời gian của cuốn sách cũng thật ấn tượng, từ cách mạng đồ đá mới
đến 2011, nhưng chi tiết hơn là khoảng một ngàn năm và nhất là từ 1800 đến nay.
Một lý thuyết khoa học luôn là các giả thuyết và giá trị của một lý thuyết chỉ
nằm trong sức mạnh giải thích (và tiên đoán, nhưng trong các khoa học xã hội khó
có thể nói về khả năng tiên đoán) của nó.
Muốn cho quốc gia không thất bại và giàu có thì phải tìm mọi cách để xây
dựng các thể chế chính trị bao gồm. Các tác giả nhấn mạnh không có công thức
LỜI GIỚI THIỆU ● xix
sẵn có cho việc này. Tuy vậy có nhiều việc có thể tạo thuận lợi, có thể thúc đẩy
cho việc hình thành các thể chế chính trị như vậy. Trao quyền (empowerment) cho
nhân dân, hay cho các mảng rộng của xã hội là hết sức quan trọng để cho một quá
trình như vậy có thể hình thành hay mang lại kết quả. Xây dựng nền pháp trị thực
sự, với những ràng buộc lên các chính trị gia, buộc họ phải có trách nhiệm giải
trình và khó lạm dụng quyền lực. Người dân biết quyền của mình và đòi một cách
tích cực các quyền hiến định đó và tham gia vào các tổ chức chính trị. Cần một
nền báo chí tự do và quyền tự do ngôn luận. Và như thế cần có một xã hội dân sự
lành mạnh và sự tham dự tích cực của các công dân. Đấy là cách làm giàu bền
vững nhất không chỉ cho chính mình mà cho cả con cháu nhiều đời sau.
Cuốn sách được viết rất sáng sủa và hết sức dung dị, không đòi hỏi quá nhiều
kiến thức kinh tế học từ bạn đọc. Theo tôi đây là một công trình rất có giá trị và
chắc chắn sẽ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển nói chung và của sự phát triển
kinh tế học nói riêng.
Tôi nghĩ đối tượng bạn đọc của cuốn sách này sẽ rất rộng, từ các nhà kinh tế
học, các nhà khoa học xã hội, các nhà hoạch định chính sách, các chính trị gia,
các nhà báo, sinh viên, học sinh thuộc tất cả các ngành (chứ không chỉ các ngành
xã hội) và bất cứ ai quan tâm khác đều nên đọc cuốn sách này. Và họ sẽ không phí
công vì nó giúp chúng ta hiểu thế giới, hiểu chính mình và tự rút ra các bài học
cho hành động thực tiễn.
Cảm ơn các ông Nguyễn Anh Tuấn và Vũ Văn Lê đã tặng sách. Tôi đã hết sức
cố gắng để truyền tải chính xác nội dung nhưng do hiểu biết hạn chế nên bản dịch
chắc chắn còn nhiều thiếu sót mong được bạn đọc góp ý và lượng thứ.
Hà Nội, 4- 6-2012
Nguyễn Quang A
Why nations fail
LỜI NÓI ĐẦU
uốn sách này là về những khác biệt khổng lồ về thu nhập và mức sống mà
tách biệt các nước giàu trên thế giới, như Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, và Đức,
khỏi các nước nghèo, như các nước ở châu Phi hạ-Sahara, Trung Mỹ và Nam Á.
Khi chúng tôi viết lời nói đầu này, Bắc Phi và Trung Đông rung chuyển bởi
“Mùa xuân Arab” khởi đầu bằng cái được gọi là Cách mạng Hoa Nhài, mà ban
đầu được châm ngòi bởi việc làm công chúng phẫn uất vì sự tự thiêu của một
người bán hàng rong, Mohamed Bouazizi, ngày 17-12-2010. Ngày 14-1-2011,
Tổng thống Zine El Abidine Ben Ali, người đã cai trị Tunesia từ 1987, đã từ chức,
nhưng nhiệt tình cách mạng chống lại sự cai trị của giới ưu tú (elite) có đặc quyền
ở Tunesia còn xa mới giảm bớt đi, đã trở nên mạnh hơn và đã lan ra phần còn lại
của Trung Đông. Hosni Mubarak, người đã cai trị Ai Cập với một bàn tay siết
chặt gần ba mươi năm, đã bị hất cẳng vào ngày 11-1-2011. Số phận của các chế
độ ở Bahrain, Lybia, Syria và Yemen chưa được rõ khi chúng tôi hoàn tất lời nói
đầu này.
Gốc rễ của sự bất mãn tại các nước này là ở sự nghèo khó của chúng. Một
người Ai Cập trung bình có mức thu nhập bằng khoảng 12 phần trăm của mức thu
nhập của công dân Mỹ trung bình, và có thể kỳ vọng để sống ngắn hơn mười
năm; 20 phần trăm dân số sống trong cảnh cực kỳ nghèo. Tuy những khác biệt
này là đáng kể, chúng thực ra là khá nhỏ so với những sự khác biệt giữa Hoa Kỳ
và các nước nghèo nhất trên thế giới, như Bắc Triều Tiên, Sierra Leone, và
Zimbabwe, nơi hơn một nửa dân số sống trong nghèo khó.
Vì sao Ai Cập nghèo hơn Hoa Kỳ nhiều đến vậy? Những ràng buộc nào kéo
những người Ai Cập khỏi việc trở nên phát đạt hơn? Sự nghèo của Ai Cập có là
bất biến, hay có thể được xóa bỏ? Cách tự nhiên để bắt đầu nghĩ về việc này là
nghe bản thân những người Ai Cập nói về các vấn đề họ đối mặt và vì sao họ lại
đứng lên chống chế độ Mubarak. Noha Hamed, một người hai mươi bốn tuổi, làm
việc tại một hãng quảng cáo ở Cairo, đã làm rõ quan điểm của mình khi cô biểu
tình tại Quảng trường Tahrir: “Chúng tôi đã chịu sự tham nhũng, sự áp bức, và
nền giáo dục tồi. Chúng tôi sống giữa một hệ thống thối nát mà phải thay đổi”.
C
2 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Một người khác trên quảng trường, Mosaab El Shami, hai mươi tuổi, sinh viên
dược, nhất trí: “Tôi hy vọng rằng vào cuối năm nay chúng tôi sẽ có một chính phủ
được bầu và rằng quyền tự do phổ quát được áp dụng và rằng chúng ta chấm dứt
nạn tham nhũng mà đã kiểm soát đất nước này”. Những người biểu tình ở Quảng
trường Tahrir đã nói cùng một tiếng nói về sự tham nhũng của chính phủ, sự bất
lực của nó để cung cấp các dịch vụ công, và sự thiếu bình đẳng cơ hội ở nước họ.
Họ đặc biệt than phiền về sự áp bức và sự thiếu các quyền chính trị. Như
Mohamed ElBaradei, nguyên giám đốc Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế,
đã viết trên Twitter ngày 13-1-2011, “Tunesia: áp bức + thiếu công lý xã hội + từ
chối các kênh cho diễn biến hòa bình = một quả bom nổ chậm đang kêu tích tắc”.
Những người Ai Cập và Tunesia đều đã coi các vấn đề kinh tế của họ cơ bản là do
thiếu các quyền chính trị gây ra. Khi những người biểu tình bắt đầu diễn đạt các
đòi hỏi của họ một cách có hệ thống hơn, mười hai đòi hỏi đầu tiên được post lên
bởi Wael Khalil, một kỹ sự phần mềm và blogger người đã nổi lên như một trong
những nhà lãnh đạo của phong trào phản kháng Ai Cập, đã đều tập trung vào sự
thay đổi chính trị. Các vấn đề như tăng lương tối thiểu đã xuất hiện chỉ giữa các
đòi hỏi chuyển tiếp mà sẽ được thực hiện muộn hơn.
Đối với những người Ai Cập, những cái, mà đã néo giữ họ lại, bao gồm một
nhà nước không hiệu quả và thối nát và một xã hội nơi họ không thể sử dụng tài
năng, khát vọng và sự khéo léo của mình và sự giáo dục mà họ có thể có được.
Nhưng họ cũng nhận ra gốc rễ của các vấn đề này là có nguồn gốc chính trị. Tất
cả những cản trở kinh tế mà họ đối mặt bắt nguồn từ cách mà quyền lực chính trị
được sử dụng và bị độc chiếm bởi một elite hẹp. Đấy, họ hiểu, là cái đầu tiên phải
thay đổi.
Thế nhưng, khi tin điều này, những người biểu tình ở Quảng trường Tahrir đã
bất đồng sâu sắc với sự sáng suốt thông thường về chủ đề này. Khi lập luận, vì
sao một nước như Ai Cập lại nghèo, hầu hết các học giả và những người bình luận
nhấn mạnh các yếu tố hoàn toàn khác. Một số người nhấn mạnh sự nghèo của Ai
Cập chủ yếu là do địa lý của nó quyết định, do sự thực rằng đất nước này hầu như
là một sa mạc và thiếu lượng mưa đầy đủ, và rằng đất và khí hậu của nó không
cho phép một nền nông nghiệp sinh lợi. Những người khác thì chỉ ra các tính chất
văn hóa của những người Ai Cập mà được cho là không thuận cho sự phát triển
và thịnh vượng kinh tế. Họ cho rằng những người Ai Cập thiếu đúng loại phong
LỜI NÓI ĐẦU ● 3
cách làm việc và các đặc điểm văn hóa mà đã cho phép các dân tộc khác phát đạt,
và thay vào đó đã chấp nhận các niềm tin Islamic không phù hợp với thành công
kinh tế. Một cách tiếp cận thứ ba, cách chiếm ưu thế giữa các nhà kinh tế học và
các chuyên gia chính sách, lại dựa vào ý niệm rằng các nhà cai trị của Ai Cập đơn
giản đã không biết cái gì cần để làm cho đất nước họ phồn thịnh, và đã đi theo các
chính sách, các chiến lược sai trong quá khứ. Nếu giá như các nhà cai trị này nhận
được lời khuyên đúng từ các cố vấn thích hợp, cách tư duy này tiếp tục, thì sẽ có
sự thịnh vượng. Đối với các học giả và chuyên gia chính sách ấy, sự thực rằng Ai
Cập bị cai trị bởi elite hẹp, chỉ thu vén cho bản thân họ gây tổn hại cho xã hội, có
vẻ không liên quan gì đến việc hiểu các vấn đề kinh tế của nước này.
Trong cuốn sách này chúng tôi sẽ biện luận rằng những người Ai Cập ở Quảng
trường Tahrir, chứ không phải hầu hết các học giả và các nhà bình luận, đã có ý
tưởng đúng. Thực ra, Ai Cập nghèo chính xác bởi vì nó bị cai trị bởi elite hẹp,
giới đã tổ chức xã hội vì lợi ích riêng của họ gây tổn hại cho số rất đông quần
chúng nhân dân. Quyền lực chính trị đã được tập trung hẹp, và đã được sử dụng
để tạo ra sự giàu có hết sức cho những kẻ nắm quyền, như tài sản 70 tỷ USD có
vẻ như đã được cựu Tổng thống Mubarak tích cóp. Những người bị thua thiệt đã
là nhân dân Ai Cập, như họ hiểu rất rõ [điều đó].
Chúng ta sẽ chứng tỏ rằng sự giải thích này về sự nghèo của Ai Cập, sự giải
thích của nhân dân, hóa ra cung cấp một sự giải thích chung cho câu hỏi vì sao
các nước nghèo lại nghèo. Bất luận đó là Bắc Triều Tiên, Sierra Leone, hay
Zimbabwe, chúng ta sẽ chứng tỏ rằng các nước nghèo là nghèo vì chính xác cùng
lý do mà Ai Cập nghèo. Các nước như Vương quốc Anh và Hoa Kỳ đã trở nên
giàu bởi vì các công dân của họ đã lật đổ elite, giới đã kiểm soát quyền lực, và đã
tạo ra một xã hội nơi các quyền chính trị được phân phát rộng rãi hơn nhiều, nơi
các chính phủ có trách nhiệm giải trình và có trách nhiệm với công dân, và nơi số
đông quần chúng nhân dân có thể tận dụng các cơ hội kinh tế. Chúng ta sẽ chứng
tỏ rằng để hiểu vì sao có sự bất bình đẳng như vậy trong thế giới ngày nay, chúng
ta phải đào sâu vào quá khứ và nghiên cứu động học lịch sử của các xã hội.
Chúng ta sẽ thấy rằng lý do mà Vương quốc Anh giàu hơn Ai Cập là bởi vì năm
1688, Vương quốc Anh (hay nước Anh, để cho chính xác) đã có một cuộc cách
mạng mà đã biến đổi hoạt động chính trị và như thế hoạt động kinh tế của quốc
gia. Nhân dân đã chiến đấu vì và đã giành được nhiều quyền chính trị hơn, và họ
4 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
đã dùng chúng để mở rộng các cơ hội kinh tế của họ. Kết quả đã là một quỹ đạo
chính trị và kinh tế khác một cách căn bản, lên đỉnh điểm trong Cách mạng Công
nghiệp.
Cuộc Cách mạng Công nghiệp và các công nghệ mà nó mở ra đã không lan
sang Ai Cập, vì nước đó đã nằm dưới sự kiểm soát của Đế chế Ottoman, mà đã
đối xử với Ai Cập phần nào theo cùng cách như gia đình Mubarak sau này đã đối
xử. Sự cai trị Ottoman ở Ai Cập đã bị Napoleon Bonaparte lật đổ năm 1798,
nhưng sau đó mước này rơi vào sự kiểm soát của chủ nghĩa thực dân Anh, mà
cũng như Ottoman đã ít quan tâm đến việc thúc đẩy sự thịnh vượng của Ai Cập.
Tuy những người Ai Cập đã thoát khỏi được các đế chế Ottoman và Anh, và, năm
1952, đã lật đổ chế độ quân chủ của họ, nhưng đấy đã không phải là các cuộc
cách mạng như cách mạng 1688 ở Anh, và thay cho việc biến đổi căn bản hoạt
động chính trị ở Ai Cập, chúng lại đưa một elite khác lên nắm quyền, giới cũng
chẳng quan tâm đến việc đạt được sự thịnh vượng cho những người dân thường
Ai Cập [hệt] như những người Ottoman và Anh đã chẳng quan tâm. Hậu quả là,
cấu trúc cơ bản của xã hội đã không thay đổi và Ai Cập vẫn nghèo.
Trong cuốn sách này chúng ta sẽ nghiên cứu các hình mẫu này tái tạo mình ra
sao theo thời gian và vì sao đôi khi chúng thay đổi như chúng đã thay đổi ở Anh
năm 1688 và ở Pháp với cách mạng 1789. Việc này sẽ giúp chúng ta hiểu liệu tình
hình ở Ai Cập đã thay đổi hiện nay và liệu cuộc cách mạng đã lật đổ Mubarak sẽ
có dẫn đến một tập mới của các thể chế có khả năng mang lại sự thịnh vượng cho
những người Ai Cập bình thường hay không. Ai Cập đã có các cuộc cách mạng
trong quá khứ mà đã không làm thay đổi tình hình, bởi vì những người tổ chức
các cuộc cách mạng đơn giản đã nắm lấy giây cương từ những người mà họ phế
truất và đã tạo dựng lại một hệ thống tương tự. Quả thực là khó đối với các công
dân bình thường để nắm lấy quyền lực chính trị thực và thay đổi cách xã hội của
họ vận hành. Nhưng là có thể, và chúng ta sẽ xem việc này diễn ra thế nào ở Anh,
Pháp, Hoa Kỳ, và cả ở Nhật Bản, Botswana, và Brazil. Về căn bản chính một sự
biến đổi chính trị thuộc loại này là cái cần cho một xã hội nghèo trở thành giàu.
Có bằng chứng rằng điều này có thể đang xảy ra ở Ai Cập. Reda Metwaly, một
người biểu tình khác ở Quảng trường Tahrir, lập luận, “Bây giờ bạn thấy những
người Muslim và những người Ki tô giáo cùng nhau, bây giờ bạn thấy người già
và người trẻ cùng nhau, tất cả đều muốn cùng một thứ”. Chúng ta sẽ thấy rằng
LỜI NÓI ĐẦU ● 5
một phong trào rộng như vậy trong xã hội đã là một phần then chốt của cái đã xảy
ra trong những biến đổi chính trị khác này. Nếu chúng ta hiểu khi nào và vì sao
những sự chuyển đổi như thế xảy ra, chúng ta sẽ ở vị thế tốt hơn để đánh giá khi
nào chúng ta kỳ vọng các phong trào như vậy thất bại như chúng đã thường thất
bại trong quá khứ và khi nào chúng ta có thể hy vọng rằng chúng sẽ thành công và
cải thiện cuộc sống của hàng triệu người.
Why nations fail
1.
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU
NỀN KINH TẾ CỦA RIO GRANDE
HÀNH PHỐ NOGALES bị cắt đôi bởi một hàng rào. Nếu bạn đứng cạnh nó
và nhìn theo hướng bắc, bạn sẽ thấy Nogales, Arizona, nằm ở Quận Santa
Cruz. Thu nhập của hộ gia đình trung bình ở đó là khoảng 30.000 USD một năm.
Hầu hết trẻ vị thành niên ở trường học, và đa số những người lớn là những người
đã tốt nghiệp trung học. Bất chấp những tranh luận mà người dân đưa ra về hệ
thống chăm sóc sức khỏe Mỹ thiếu sót đến thế nào, dân chúng tương đối khỏe
mạnh, với ước tính tuổi thọ cao theo tiêu chuẩn toàn cầu. Nhiều cư dân trên tuổi
sáu mươi lăm và có tiếp cận đến Medicare (Chăm sóc y tế). Đó chỉ là một trong
nhiều dịch vụ do chính phủ cung cấp mà hầu hết được coi là nghiễm nhiên, như
điện, điện thoại, hệ thống thoát nước, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, mạng lưới
đường kết nối họ với các thành phố khác trong vùng và với phần còn lại của Hoa
Kỳ, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, luật pháp và trật tự. Nhân
dân Nogales, Arizona, có thể tiến hành các hoạt động hàng ngày của họ mà không
có sự sợ hãi về đời sống hay sự an toàn và không phải liên tục sợ trộm cắp, sự
tước đoạt, hay những thứ khác có thể gây nguy hiểm cho các khoản đầu tư của họ
trong các doanh nghiệp và nhà của họ. Quan trọng ngang thế là, người dân
Nogales, Arizona, coi là nghiễm nhiên rằng chính phủ, với tất cả sự không hiệu
quả và đôi khi tham nhũng của nó, là người đại diện của họ. Họ có thể bỏ phiếu
để thay thị trưởng, các thượng và hạ nghị sỹ của họ; họ bỏ phiếu trong các cuộc
bầu tổng thống để xác định ai sẽ lãnh đạo nước họ. Dân chủ là bản chất thứ hai
của họ.
T
8 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Cuộc sống ở phía nam hàng rào, chỉ cách vài mét, là khá khác. Trong khi cư
dân của Nogales, Sonora, sống trong một phần tương đối thịnh vượng của
Mexico, thu nhập của hộ gia đình trung bình ở đó bằng khoảng một phần ba của
thu nhập ở Nogales, Arizona. Hầu hết người lớn ở Nogales, Sonora, không tốt
nghiệp trung học, và nhiều trẻ vị thành niên không đến trường. Các bà mẹ phải lo
về tỷ lệ tử vong trẻ em cao. Điều kiện chăm sóc sức khỏe công cộng nghèo nàn
cho thấy không có gì ngạc nhiên rằng dân cư của Nogales, Sonora, không sống
lâu như các láng giềng phía bắc của họ. Họ không tiếp cận được đến nhiều tiện
nghi công cộng. Đường sá trong tình trạng tồi tàn ở phía nam hàng rào. Luật pháp
và trật tự trong tình trạng tồi tệ hơn. Tội phạm cao, và mở một doanh nghiệp là
một hoạt động rủi ro. Không phải chỉ là bạn có rủi ro bị cướp, mà lấy được tất cả
các giấy phép và bôi trơn mọi bàn tay chỉ để mở là nỗ lực không dễ dàng. Dân cư
Nogales, Sonora, sống với sự tham nhũng và sự vụng về của các nhà chính trị
hàng ngày.
Ngược với các láng giềng phương bắc của họ, dân chủ là một trải nghiệm rất
mới đây đối với họ. Cho đến các cuộc cải cách năm 2000, Nogales, Sonora, hệt
như phần còn lại của Mexico, đã nằm dưới sự kiểm soát thối nát của Đảng Cách
mạng Thể chế, hay Partido Revolucionario Institucional (PRI).
Làm sao mà hai nửa của cái về cơ bản là cùng một thành phố lại khác nhau đến
vậy? Không có sự khác biệt nào về địa lý, khí hậu, hay những loại bệnh phổ biến
trong vùng này, vì các vi trùng không đối mặt với bất cứ hạn chế nào khi qua lại
giữa Hoa Kỳ và Mexico. Tất nhiên, các điều kiện y tế là rất khác nhau, nhưng
điều này chẳng liên quan gì đến môi trường bệnh tật; đó là bởi vì nhân dân ở phía
nam biên giới sống với các điều kiện vệ sinh thấp kém và thiếu sự chăm sóc sức
khỏe tử tế.
Nhưng có lẽ người dân là rất khác nhau. Có thể chăng, cư dân của Nogales,
Arizona, là con cháu của những người nhập cư từ châu Âu, còn những người ở
phía nam là con cháu của những người Aztec? Không phải vậy. Nguồn gốc của
người dân ở cả hai bên biên giới là khá giống nhau. Sau khi Mexico trở nên độc
lập từ Tây Ban Nha năm 1821, vùng xung quanh “Los dos Nogales” đã là một
phần của nhà nước Mexic Vieja California và vẫn thế ngay cả sau Chiến tranh
Mexic-Mỹ 1846-1848. Quả thực, chỉ sau [Thỏa thuận] Gadesden Mua năm 1853
mà biên giới Hoa Kỳ mới được mở rộng ra vùng này. Trung úy N. Michler là
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 9
người, trong khi khảo sát biên giới, đã ghi nhận sự hiện diện của “thung lũng Los
Nogales nhỏ xinh xắn”. Ở đây, ở cả hai bên biên giới, hai thành phố đã mọc lên.
Các cư dân của Nogales, Arizona, và Nogales, Sonora, có chung tổ tiên, thưởng
thức cùng loại thức ăn và âm nhạc, và, chúng ta bạo gan để nói có cùng “văn
hóa”.
Tất nhiên, có một giải thích rất đơn giản và rõ ràng cho những sự khác biệt
giữa hai nửa của Nogales mà bạn có lẽ đã đoán từ lâu: chính là cái biên giới xác
định hai nửa. Nogales, Arizona, là ở Hoa Kỳ. Các cư dân của nó được tiếp cận
đến các thể chế kinh tế của Hoa Kỳ, mà cho phép họ lựa chọn nghề của mình một
cách tự do, có được sự học hành và các kỹ năng, và khuyến khích những người sử
dụng lao động của họ đầu tư vào công nghệ tốt nhất, dẫn đến lương cao hơn cho
họ. Họ cũng được tiếp cận đến các thể chế chính trị cho phép họ tham gia vào các
quá trình dân chủ, để bầu các đại diện của họ và thay thế chúng nếu chúng cư xử
tồi. Hệ quả là, các chính trị gia cung cấp các dịch vụ cơ bản mà công dân đòi hỏi
(từ chăm sóc sức khỏe công cộng, đến đường sá, luật pháp và trật tự). Những
công dân của Nogales, Sonora, không may mắn như vậy. Họ sống trong một thế
giới khác được định hình bởi các thể chế khác. Các thể chế khác nhau này tạo ra
những khuyến khích rất khác nhau cho cư dân của hai Nogales và cho các doanh
nhân và doanh nghiệp muốn đầu tư ở đó. Những khuyến khích được tạo ra bởi các
thể chế khác nhau của [hai] Nogales và của hai nước tương ứng là lý do chính cho
những khác biệt về sự thịnh vượng kinh tế ở hai bên biên giới.
Vì sao các thể chế của Hoa Kỳ lại thuận lợi hơn rất nhiều cho thành công kinh
tế so với các thể chế của Mexico, và cũng thế của cả phần còn lại của Mỹ Latin?
Câu trả lời cho câu hỏi này nằm ở cách mà các xã hội đã hình thành vào đầu thời
kỳ thực dân. Một sự phân kỳ thể chế đã xảy ra khi đó, với những tác động kéo dài
cho đến ngày nay. Để hiểu sự phân kỳ này chúng ta phải bắt đầu ngay ở việc thiết
lập các thuộc địa tại Bắc Mỹ và Mỹ Latin.
SỰ THÀNH LẬP BUENOS AIRES
Đầu năm 1516, Juan Díaz de Solís, hoa tiêu Tây Ban Nha, đã đi thuyền vào một
cửa sông rộng ở Bãi biển phía Đông của Nam Mỹ. Lội lên bờ, de Solís nhận đất
10 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
này cho Tây Ban Nha, đặt tên sông là Riso de la Plata, “Sông Bạc”, bởi vì dân địa
phương có bạc. Dân bản địa ở hai bên cửa sông – người Charrúas ở nơi bây giờ là
Urugay, và người Querandí trên các đồng bằng được biết đến như Pampas ở
Argentina hiện đại – đã coi những kẻ mới đến với sự thù địch. Dân địa phương
này đã là những người săn bắt-hái lượm sống trong các nhóm nhỏ mà không có
quyền uy chính trị tập trung mạnh. Thật vậy, chính đã là một nhóm Charrúas như
vậy đã đánh de Solís bằng gậy cho đến chết khi ông khám phá các vùng mới mà
ông đã thử để chiếm cho Tây Ban Nha.
Năm 1534, người Tây Ban Nha, vẫn lạc quan, đã gửi một đoàn đầu tiên của
những người định cư từ Tây Ban Nha dưới sự lãnh đạo của Pedro de Mendoza.
Họ đã lập một thị trấn ở Buenos Aires trong cùng năm. Nó đã phải là một nơi lý
tưởng cho những người Âu châu. Buenos Aires, theo nghĩa đen là “không khí
trong lành”, đã có một khí hậu ôn hòa, dễ chịu. Thế nhưng cuộc lưu lại đầu tiên
của những người Tây Ban Nha ở đó đã ngắn. Họ đã không đi tìm không khí trong
lành, mà là tìm tài nguyên để khai thác và lao động để cưỡng bức. Tuy vậy, những
người Charrúas và Querandí đã không sốt sắng giúp đỡ. Họ đã từ chối cung cấp
thức ăn cho người Tây Ban Nha, từ chối làm việc khi bị bắt. Họ đã tấn công vùng
định cư mới bằng cung và mũi tên của mình. Những người Tây Ban Nha bị đói, vì
họ đã không lường trước rằng phải tự lo thức ăn cho mình. Buenos Aires đã
không phải là cái họ mơ tới. Đã không thể ép buộc dân địa phương để cung cấp
lao động. Vùng này đã không có bạc hay vàng để khai thác, và bạc mà de Solís đã
thấy thực ra đến suốt lộ trình từ nhà nước Inca trong vùng Andes, xa xôi về phía
tây.
Những người Tây Ban Nha, trong khi cố sống sót, đã bắt đầu gửi các toán
thám hiểm để tìm chỗ mới giàu có hơn và có nhiều dân hơn để dễ cưỡng bức hơn.
Năm 1537, một trong các toán thám hiểm này, dưới sự lãnh đạo của Juan de
Ayolas, đã thâm nhập ngược Sông Paraná, tìm đường đến những người Inca. Trên
đường, nó đã tiếp xúc với người Guaraní, một tộc người tĩnh tại với một nền kinh
tế nông nghiệp dựa vào ngô và sắn. De Ayolas ngay lập tức nhận ra rằng người
Guaraní là một vấn đề hoàn toàn khác với người Charrúas và Querandí. Sau một
xung đột ngắn, những người Tây Ban Nha đã vượt qua sự kháng cự Guaraní và đã
thành lập một thị trấn, Nuestra Señora de Santa María de la Asunción, mà vẫn là
thủ đô của Paraguay ngày nay. Những người Tây Ban Nha xâm chiếm đã lấy các
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 11
công chúa Guaraní làm vợ và nhanh chóng tự phong mình làm một tầng lớp quý
tộc mới. Họ đã thích nghi hệ thống lao động cưỡng bức và cống nạp của người
Guaraní, với bản thân họ ở địa vị lãnh đạo. Đấy là loại thuộc địa mà họ đã muốn
thiết lập, và trong vòng bốn năm Buenos Aires đã bị bỏ vì tất cả những người Tây
Ban Nha định cư ở đó đã chuyển đến thị trấn mới.
Buenos Aires, “Paris của Nam Mỹ”, một thành phố với các đại lộ rộng theo
kiểu Âu châu dựa trên sự giàu có nông nghiệp tuyệt vời của vùng Pampas, đã
không được tái định cư cho đến 1580. Việc từ bỏ Buenos Aires và sự chinh phục
người Guaraní tiết lộ logic của việc châu Âu thực dân hóa châu Mỹ. Ban đầu các
thực dân Tây Ban Nha và, như chúng ta sẽ thấy, các thực dân Anh đã không quan
tâm đến việc tự mình canh tác đất; họ đã muốn những người khác làm việc đó cho
họ, và họ đã muốn sự giàu có, vàng và bạc, để vơ vét.
TỪ CAJAMARCA…
Các cuộc thám hiểm của de Solís, de Mendoza, và de Ayolas đến sau các cuộc
thám hiểm nổi tiếng hơn tiếp sau việc Christopher Columbus nhìn thấy một trong
các đảo của Bahamas ngày 12-10-1492. Người Tây Ban Nha bắt đầu bành trướng
và thuộc địa hóa châu Mỹ một cách dồn dập với việc Hernán Cortés xâm chiếm
Mexico năm 1519, cuộc thám hiểm của Francisco Pizzaro đến Peru một thập niên
rưỡi sau đó, và cuộc thám hiểm của Pedro Mendoza đến Riso de la Plata đúng hai
năm sau đó. Trong thế kỷ tiếp theo, Tây Ban Nha đã chinh phục và thuộc địa hóa
hầu hết trung, tây, và nam Nam Mỹ, còn Bồ Đào Nha đòi Brazil đến phía đông.
Chiến lược thực dân hóa của Tây Ban Nha đã rất hiệu quả. Đầu tiên được hoàn
thiện bởi Cortés ở Mexico, nó dựa vào sự quan sát rằng cách tốt nhất cho người
Tây Ban Nha để khuất phục sự chống đối đã là bắt lãnh tụ bản địa. Chiến lược
này đã cho phép người Tây Ban Nha cướp của cải của lãnh tụ và cưỡng bức dân
bản địa cống nạp và cung cấp thức ăn. Bước tiếp theo đã là tự phong mình làm
elite mới của xã hội bản địa và nắm quyền kiểm soát các phương pháp hiện tồn về
đánh thuế, cống nạp, và đặc biệt, lao động cưỡng bức.
Khi Cortés và những người của ông ta đến thủ đô của đại Aztec, Tenochtitlan,
ngày 8-11-1519, họ được hoan nghênh bởi Moctezuma, hoàng đế Aztec, người,
12 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
mặc dù có nhiều lời khuyên từ các cố vấn của ngài, đã quyết định tiếp đón những
người Tây Ban Nha một cách hữu hảo. Cái gì xảy ra tiếp sau đã được mô tả kỹ
trong tường thuật được biên soạn sau năm 1545 bởi thầy tu dòng Franciscan,
Bernardino de Saghagún, trong bộ sách Florentine Codices nổi tiếng của ông.
Ngay lập lức họ [những người Tây Ban Nha] đã túm chặt lấy
Moctezuma … rồi sau đó từng khẩu súng bắn lên trời … Sự sợ hãi
bao trùm. Mọi người vãi linh hồn. Ngay cả trước khi trời tối, đã có sự
kinh hãi, sự kinh ngạc, sự e sợ, mọi người choáng váng.
Và khi trời rạng sáng ngay lúc ấy lộ ra tất cả các thứ [mà những
người Tây Ban Nha] đòi hỏi: bánh mỳ trắng làm bằng ngô, gà tây
nướng, trứng, nước sạch, gỗ, củi, than … Đấy đã là những thứ
Moctezuma quả thực đã ra lệnh.
Và khi những người Tây Ban Nha đã ổn định xong, ngay lúc ấy họ
đã dò hỏi Moctezuma về tất cả kho báu của thành phố … họ đã tìm
vàng với sự sốt sắng lớn. Và ngay lúc ấy Moctezuma đã dẫn những
người Tây Ban Nha. Họ đã đi bao quanh ông … mỗi người giữ ông,
mỗi người túm lấy ông.
Và khi họ đến nhà kho, một nơi được gọi là Teocalco, ngay lúc ấy
họ đưa ra tất cả những thứ lóng lánh; quạt đầu lông chim quaetzal, các
dụng cụ, các huy hiệu, các đĩa vàng … các hình lưỡi liềm vàng, các
đai [vòng đeo] chân vàng, các đai tay vàng, các đai trán vàng.
Ngay lúc ấy vàng được tách ra … ngay lập tức họ châm lửa, làm
cho tất cả các thứ quý giá ấy … bốc cháy. Chúng bị đốt hết. Và những
người Tây Ban Nha đúc vàng thành các thỏi tách biệt … Và người
Tây Ban Nha đi khắp mọi nơi … Họ tìm mọi thứ, mọi thứ mà họ thấy
là tốt.
Ngay lúc ấy họ đi đến nhà kho riêng của Moctezuma … ở nơi
được gọi là Totocalco … họ lôi ra các tài sản riêng [của Moctezuma]
… tất cả các thứ quý giá; các vòng cổ với các tua tòn ten, các đai tay
với các túm lông chim quaetzal, các đai tay bằng vàng, các vòng đeo
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 13
tay, các đai bằng vàng với vỏ sò … và vương miện ngọc lam, biểu
tượng của người cai trị. Họ lấy hết.
Việc chinh phục những người Aztec bằng quân sự đã hoàn tất vào năm 1521.
Cortés, với tư cách thống đốc của tỉnh Tây Ban Nha Mới, khi đó đã bắt đầu phân
chia tài nguyên quý giá nhất, dân cư bản địa, thông qua thể chế encomienda. Hệ
thống điều tiết lao động encomienda đã xuất hiện đầu tiên ở Tây Ban Nha thế kỷ
thứ mười lăm như một phần của việc tái chiếm miền nam nước này từ tay những
người Moor, Arab, những người đã định cư trong và sau thế kỷ thứ tám. Ở Thế
giới Mới nó đã có dạng độc hại hơn nhiều: nó đã là việc cấp những người bản địa
cho một người Tây Ban Nha, được biết đến như encomandero. Những người bản
địa phải cống nạp và lao dịch cho encomandero, đổi lại các dịch vụ đó
encomandero có trách nhiệm cải đạo họ sang Ki tô giáo.
Một tường thuật ban đầu sống động về hoạt động của encomienda đã đến với
chúng ta từ Bartolomé de la Casas, một thầy tu dòng Dominican, người đã trình
bày sự phê phán sớm nhất và là một trong những phê phán gây ấn tượng (có tính
tàn phá) nhất về hệ thống thuộc địa Tây Ban Nha. De la Casas đã đến hòn đảo
Tây Ban Nha, Hispaniola, năm 1502 với một đội tàu do thống đốc mới, Nicolás
de Ovando, đứng đầu. Ông ngày càng trở nên vỡ mộng và bối rối bởi sự cư xử tàn
ác và bóc lột đối với người bản địa mà ông chứng kiến hàng ngày. Với tư cách
cha tuyên úy ông đã tham gia vào cuộc Tây Ban Nha xâm chiếm Cuba năm 1513,
thậm chí được cấp một encomienda cho ông sử dụng. Tuy vậy, ông đã từ bỏ
quyền được cấp và đã bắt đầu một cuộc vận động dài để cải cách các thể chế
thuộc địa Tây Ban Nha. Các nỗ lực của ông đã đạt đỉnh cao trong cuốn sách của
ông, A Short Account of the Destruction of the Indies (Một Tường thuật Ngắn về
sự Phá hủy Indies), được viết năm 1542, một sự tấn công khinh miệt lên tính dã
man của sự cai trị Tây Ban Nha. Về encomienda ông đã có điều này để nói trong
trường hợp của Nicaragua:
Mỗi người định cư đã bắt cư dân trong thị trấn được phân cho ông ta
(hay được giao cho [encommanded] ông ta, như cách diễn đạt pháp
lý), bắt các cư dân làm việc cho mình, ăn cắp thực phẩm hiếm hoi của
họ cho chính mình và chiếm đất mà những người bản địa đã sở hữu
và đã canh tác mà trên đó họ đã nuôi trồng sản phẩm của họ theo
truyền thống. Người định cư đối xử với toàn bộ dân cư bản địa –
14 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
những người quyền cao chức trọng, các ông già, đàn bà và trẻ con –
như các thành viên của hộ gia đình mình, và với tư cách như thế, bắt
họ làm việc tối ngày vì lợi ích riêng của ông ta, mà không có bất cứ
sự nghỉ ngơi nào.
Về cuộc chinh phục New Granada, Columbia hiện đại, de la Casas kể lại toàn
bộ chiến lược Tây Ban Nha trong hành động:
Để thực hiện các mục đích dài hạn về chiếm đoạt tất cả số vàng sẵn
có, những người Tây Ban Nha đã áp dụng chiến lược thông thường
của họ về chia các thị trấn và dân cư của chúng thành từng phần giữa
họ với nhau (hay giao cho, như họ bảo thế) … và sau đó, như từ trước
đến giờ, đối xử với họ như các nô lệ thông thường. Người chỉ huy
toàn bộ cuộc thám hiểm chiếm lấy Vua của toàn vùng lãnh thổ cho
chính mình và giữ ông ta như tù binh trong sáu hay bảy tháng, đòi
nhiều và nhiều hơn vàng và ngọc lục bảo từ ông ta một cách hoàn
toàn trái phép. Nhà Vua này, một Bogotá, đã khiếp sợ đến mức, vì sự
nóng lòng của ông để được giải thoát khỏi nanh vuốt của những kẻ
gây đau khổ cho mình, ông đã đồng ý với đòi hỏi rằng ông sẽ chất
vàng đầy một nhà và trao cho họ; để đạt mục đích này ông đã gửi
người của mình đi tìm vàng, và từng tí một họ đã mang về nhiều đá
quý. Nhưng ngôi nhà vẫn chưa đầy và cuối cùng những người Tây
Ban Nha đã tuyên bố rằng họ sẽ giết ông vì sự thất hứa. Người chỉ
huy đã gợi ý họ phải đưa ông ra xử trước mặt hắn, với tư cách người
đại diện của luật pháp, và khi họ đã làm như thế, đệ trình cáo trạng
chống lại nhà Vua, hắn đã kết án ông sẽ bị tra tấn nếu ông vẫn khăng
khăng không thực hiện lời hứa đã được thương lượng. Họ đã tra tấn
ông bằng cách treo ông lên cao, đặt miếng mỡ đang cháy lên bụng
ông, trói cả hai chân ông vào hai cọc với các đai sắt và cổ ông vào cái
khác và sau đó, với hai người cầm các tay ông, họ tiến hành đốt gan
bàn chân ông. Thỉnh thoảng, viên chỉ huy ngó tới và lặp lại rằng họ sẽ
tra tấn ông đến chết một cách từ từ trừ phi ông mang lại nhiều vàng
hơn, và đấy là cái họ đã làm, nhà Vua cuối cùng đã không chịu nổi
những sự đau đớn mà họ đã gây ra cho ông.
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 15
Chiến lược và các thể chế chinh phục được hoàn thiện ở Mexico đã được chấp
nhận một cách háo hức ở những nơi khác trong Đế chế Tây Ban Nha. Không ở
đâu việc này được làm một cách hiệu quả hơn việc Pizzaro chinh phục Peru. Như
de las Casas bắt đầu tường thuật của ông:
Vào năm 1531 một tên đại lưu manh khác với một số người đã có
cuộc hành trình đến vương quốc Peru. Với quyết tâm và ý định rõ rệt,
hắn bắt tay vào việc bắt chước chiến lược và chiến thuật của các đồng
bọn phiêu lưu của hắn ở các phần khác của Thế giới Mới.
Pizzaro đã bắt đầu trên bờ biển cạnh thị trấn Tumbes của Peru và tiến về phía
nam. Ngày 15-11-1532, ông đến thị trấn vùng núi Cajarmarca, nơi hoàng đế Inca,
Atahualpa, đã cắm trại với quân đội của ngài. Ngày hôm sau, Atahualpa, người
vừa thắng anh trai Huáscar của mình trong cuộc tranh đua ai sẽ kế vị người cha
mới chết của họ, Huayna Capac, đã cùng đoàn tùy tùng của mình đến nơi những
người Tây Ban Nha cắm trại. Atahualpa đã phát cáu bởi vì tin tức về những hành
động tàn bạo mà những người Tây Ban Nha đã gây ra, như xúc phạm đền thờ
Thần Mặt trời Inti, đã đến với ngài. Những gì đã xảy ra sau đó là điều nhiều người
biết. Người Tây Ban Nha đã đặt một cái bẫy và bật bẫy lên. Họ đã giết những
người bảo vệ và người hầu của Atahualpa, có lẽ nhiều đến hai ngàn người, và đã
bắt giữ ông. Để được tự do, Atahualpa đã hứa chất vàng đầy một phòng và chất
bạc đầy thêm hai phòng nữa có cùng kích thước. Ông đã thực hiện việc này,
nhưng những người Tây Ban Nha, không giữ lời hứa của họ, đã treo cổ ông vào
tháng Bảy 1533. Tháng Mười một năm ấy những người Tây Ban Nha chiếm được
thủ đô Inca, Cusco, nơi giới quý tộc Inca đã bị đối xử như Atahualpa đã bị, bị
tống giam cho đến khi họ mang vàng và bạc lại. Khi họ không thỏa mãn các đòi
hỏi của người Tây Ban Nha, họ bị thiêu sống. Những báu vật nghệ thuật tuyệt vời
của Cusco, như Đền thờ Mặt trời, bị lột mất những phần bằng vàng của chúng và
vàng được nấu chảy để đúc thành các thỏi.
Tại điểm này những người Tây Ban Nha chú tâm vào người dân của Đế chế
Inca. Như ở Mexico, các công dân đã được chia thành các encomienda, với mỗi
encomienda được phân cho mỗi kẻ chinh phục người đã đi cùng Pizzaro.
Encomienda đã là thể chế chủ yếu được dùng cho việc kiểm soát và tổ chức lao
động trong thời gian đầu của thời kỳ thuộc địa, nhưng mau chóng đã đối mặt với
một đấu thủ mạnh mẽ. Năm 1545, một người địa phương có tên Diego Gualpa
16 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
đang tìm một điện thờ bản địa cao ở Andes, trong vùng là Bolivia ngày nay. Một
cơn giói mạnh bất ngờ đã hất ông xuống đất và trước mặt ông xuất hiện một nơi
trữ quặng bạc. Đấy là một phần của một hòn núi bạc mênh mông, mà những
người Tây Ban Nha đã đặt tên là El Cerro Rico, “Núi Giàu”. Xung quanh nó đã
mọc lên thành phố Potosí, mà ở đỉnh cao của nó trong năm 1650 đã có số dân
160.000 người, lớn hơn Lisbon hay Venice trong thời kỳ ấy.
Để khai thác bạc, những người Tây Ban Nha cần các thợ mỏ – rất nhiều thợ
mỏ. Họ đã phái một phó vương, quan chức chính của thuộc địa Tây Ban Nha,
Francisco de Toledo, mà sứ mệnh chính của ông đã là để giải quyết vấn đề lao
động. De Toledo, đến Peru năm 1569, đầu tiên đã dùng năm năm du hành khắp
nơi và tìm hiểu nhiệm vụ mới của ông. Ông cũng đã giao tiến hành một cuộc điều
tra đồ sộ về toàn bộ dân cư trưởng thành. Để tìm được lao động mà ông cần, đầu
tiên de Toledo đã di chuyển toàn bộ dân cư bản địa, tập trung họ vào các thị trấn
mới được gọi là các reduccion – nghĩa đen là những “sự rút bớt” – mà sẽ tạo
thuận lợi cho việc khai thác lao động bởi Quốc vương Tây Ban Nha. Sau đó ông
đã phục hồi và phỏng theo một thể chế lao động Inca được gọi là mita, mà, theo
ngôn ngữ Inca, Quechua, có nghĩa là “a turn – một phiên”. Dưới hệ thống mita
của họ, những người Inca đã sử dụng lao động cưỡng bức để vận hành các đồn
điền được trù tính để cung cấp thực phẩm cho các đền thờ, giới quý tộc, và quân
đội. Đổi lại, elite đã lo việc cứu trợ nạn đói và an ninh. Mita trong tay de Toledo,
đặc biệt mita Potosí, đã trở thành sơ đồ lớn nhất và nặng nề nhất về khai thác lao
động trong thời kỳ thuộc địa Tây Ban Nha. De Toledo đã xác định một vùng lưu
vực mênh mông, chạy từ giữa của Peru hiện đại và bao gồm hầu hết Bolivia hiện
đại. Nó bao phủ một diện tích khoảng hai trăm ngàn dặm vuông. Trong vùng này,
một phần bảy cư dân đàn ông, mới đến các reduccion của họ, được yêu cầu làm
việc tại các mỏ ở Potosí. Mita Potosí đã tồn tại suốt toàn bộ thời kỳ thuộc địa và
đã chỉ bị bãi bỏ vào năm 1825. Bản đồ 1 cho thấy vùng lưu vực của mita được
chồng lên khoảng rộng của Đế chế Inca vào thời Tây Ban Nha chinh phục. Nó
minh họa mức độ mà mita đã chồng gối lên vùng trung tâm của đế chế, bao gổm
thủ đô Cusco.
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 17
Đáng chú ý, bạn vẫn thấy di sản của mita ở Peru ngày nay. Hãy xét những sự
khác biệt giữa các tỉnh Calca và Acomayo gần đó. Có vẻ có vài sự khác biệt giữa
các tỉnh này. Cả hai đều ở trên vùng núi cao, và các hậu duệ, nói tiếng Quechua,
của những người Inca sống ở mỗi tỉnh. Thế nhưng, Acomayo thì nghèo hơn
nhiều, với các cư dân của nó tiêu thụ khoảng một phần ba ít hơn các cư dân ở
Calca. Người dân biết điều này. Ở Acomayo họ hỏi những người nước ngoài can
đảm, “Bạn không biết rằng người dân ở đây nghèo hơn người dân ở đó, ở Calca
18 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
ư? Vì sao bạn lại từng muốn đến đây?” Can đảm bởi vì là khó hơn rất nhiều để
đến Acomayo từ thủ đô khu vực Cusco, trung tâm cổ xưa của đế chế Inca, so với
đến Calca. Đường đến Calca được tráng lớp mặt, còn đường đến Acomayo thì
trong tình trạng hư nát kinh khủng. Để đi quá Acomayo bạn cần một con ngựa
hay một con la. Ở Calca và Acomayo người dân trồng cùng loại cây trồng, nhưng
ở Calca họ bán chúng ở chợ để lấy tiền. Còn ở Acomayo họ nuôi trồng thực phẩm
cho sự tồn tại của riêng họ. Những sự bất bình đẳng này, rõ ràng với con mắt và
người dân sống ở đó, có thể được hiểu dưới dạng những khác biệt thể chế giữa
các tỉnh này – những sự khác biệt thể chế với gốc rễ quay lại đến de Toledo và kế
hoạch khai thác hiệu quả lao động bản địa của ông. Sự khác biệt lịch sử chính
giữa Acomayo và Calco là, Acomayo đã ở trong vùng mita Potosí, còn Calca thì
không.
Ngoài sự tập trung lao động và mita, de Toledo đã củng cố encomienda thành
thuế thân, một khoản cố định bằng bạc mà mỗi người đàn ông trưởng thành phải
nộp hàng năm. Đấy đã là một sơ đồ khác được trù tính để buộc người dân vào thị
trường lao động và giảm bớt lương [có lợi] cho các địa chủ Tây Ban Nha. Một thể
chế khác, repartimiento de mercancias, cũng đã trở nên phổ biến trong nhiệm kỳ
của de Toledo. Có xuất xứ từ động từ tiếng Tây Ban Nha repartir, phân chia,
repartimiento này, nghĩa đen là “phân phối hàng hóa”, dính dáng đến việc cưỡng
bức bán hàng hóa cho những người địa phương với giá do những người Tây Ban
Nha quyết định. Cuối cùng, de Toledo đã đưa ra trajin – theo nghĩa đen có nghĩa
là “gánh nặng” – mà đã sử dụng những người bản địa để mang vác các hàng hóa
nặng, như rượu hay lá coca hay hàng dệt may, như cái thay thế cho bầy động vật,
cho những công việc kinh doanh mạo hiểm của elite Tây Ban Nha.
Khắp thế giới thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, các thể chế và các cấu trúc
xã hội tương tự đã nổi lên. Sau giai đoạn ban đầu của sự cướp bóc, và sự thèm
khát vàng và bạc, những người Tây Ban Nha đã tạo ra một mạng lưới các thể chế
được trù tính để khai thác người dân bản địa. Cung bậc đầy đủ của encomienda,
mita, repartimiento, và trajin đã được thiết kế để ép mức sống của những người
bản địa xuống mức đủ sống qua ngày và như thế moi tất cả thu nhập thặng dư của
việc này cho những người Tây Ban Nha. Việc này đã đạt được bằng cách tước
đoạt đất của họ, cưỡng bức họ lao động, trả lương thấp cho các dịch vụ lao động
của họ, áp đặt các loại thuế cao, tính giá cao cho các hàng hóa đã thậm chí không
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 19
được mua một cách tự nguyện. Tuy các thể chế này đã tạo ra nhiều của cải cho
Quốc vương Tây Ban Nha và đã làm cho những kẻ chinh phục và các hậu duệ của
họ rất giàu, chúng cũng đã biến Mỹ Latin thành lục địa bất bình đẳng nhất thế giới
và đã làm hao mòn nhiều tiềm năng kinh tế của nó.
… ĐẾN JAMESTOWN
Khi những người Tây Ban Nha bắt đầu cuộc chinh phục châu Mỹ của họ trong
các năm 1490, nước Anh còn là một cường quốc nhỏ ở châu Âu, đang phục hồi từ
những hệ quả tàn phá của cuộc nội chiến, các cuộc Chiến tranh Hoa Hồng. Nó đã
không ở trong trạng thái để tận dụng sự tranh giành cướp bóc và vàng và cơ hội
để khai thác những người bản địa của châu Mỹ. Gần một trăm năm sau, vào năm
1588, sự thảm bại may mắn của Armada Tây Ban Nha, một mưu toan của Vua
Tây Ban Nha Philip II để xâm lăng Anh, đã gửi làn sóng sốc chính trị khắp châu
Âu. Dẫu thắng lợi của Anh đã có may mắn đến đâu, nó cũng đã là một dấu hiệu
về sự quả quyết ngày càng tăng của Anh trên biển, điều mà sẽ cho phép họ rốt
cuộc tham gia vào việc theo đuổi đế chế thuộc địa.
Như thế đã không phải ngẫu nhiên rằng những người Anh bắt đầu cuộc thuộc
địa hóa Bắc Mỹ của họ chính xác vào cùng thời gian đó. Nhưng họ đã là những
người đến muộn rồi. Họ đã chọn Bắc Mỹ không phải vì nó hấp dẫn, mà bởi vì đó
là tất cả cái sẵn có còn lại. Các phần “đáng mong muốn” của châu Mỹ, nơi dồi
dào những người bản địa để khai thác và nơi có các mỏ vàng và bạc, đã bị chiếm
mất rồi. Người Anh đã nhận các phần còn thừa. Khi nhà văn nhà nông học Anh
thế kỷ mười tám Arthur Young bàn về nơi sản xuất “các sản phẩm chính” có lời,
mà ông hiểu các sản phẩm chính là các hàng hóa nông nghiệp có thể xuất khẩu
được, đã lưu ý:
Có vẻ xét trên mọi mặt, rằng việc sản xuất các sản phẩm chính của
các thuộc địa của chúng ta giảm về giá trị theo tỷ lệ với khoảng cách
của chúng đến mặt trời. Ở các vùng Tây Ấn, mà là các vùng nóng
nhất, chúng đạt mức 8l. 12s. 1d. trên đầu người. Trong các vùng lục
địa phương nam, đạt mức 5l. 10s. Trong các vùng miền trung, đạt
mức 9s. 6½d. Trong các vùng định cư phương bắc, đạt mức 2s. 6d. Tỷ
20 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
lệ này chắc chắn gợi ý một bài học quan trọng nhất – tránh việc thuộc
địa hóa ở các vùng miền bắc.
Mưu toan đầu tiên của người Anh để lập một thuộc địa, tại Roanoke, ở Bắc
Carolina, giữa 1585 và 1587, đã hoàn toàn thất bại. Vào năm 1607, họ lại thử lần
nữa. Ngay trước khi kết thúc năm 1606, ba tàu, Susan Constant, Godspeed, và
Discovery, dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Christopher Newport, đã khởi
hành đến Virginia. Các nhà thực dân, dưới sự bảo trợ của Công ty Virginia, đã
tiến vào Vịnh Chesapeake và ngược lên một con sông mà họ đã gọi là sông
James, theo tên Quốc vương Anh đang trị vì, James I. Ngày 14-5-1607, họ đã lập
ra khu định cư Jamestown.
Tuy những người định cư trên boong tàu do Công ty Virginia sở hữu đã là
những người Anh, họ đã có một mô hình thuộc địa hóa bị ảnh hưởng mạnh bởi
mẫu do Cortés, Pizzaro, và de Toledo dựng lên. Kế hoạch đầu tiên của họ đã là đi
bắt thủ lĩnh địa phương và sử dụng ông ta như cách để được cung cấp lương thực
thực phẩm, và để cưỡng bức dân cư sản xuất thực phẩm và của cải cho họ.
Khi lần đầu tiên đổ bộ lên Jamestown, các thực dân Anh đã không biết rằng họ
ở bên trong lãnh thổ được yêu sách bởi Hợp bang Powhatan, một liên minh của
khoảng ba mươi chính thể thừa nhận lòng trung thành với một vị vua được gọi là
Wahunsunacock. Thủ đô của Wahunsunacock đã là thị trấn Werowocomoco, chỉ
cách Jemestown có hai mươi dặm. Kế hoạch của các nhà thực dân đã là tìm hiểu
thêm về thế đất [địa hình địa thế và tình hình] ở đây. Nếu không thể xui khiến
được những người địa phương để cung cấp thức ăn và lao động, các nhà thuộc địa
chí ít có khả năng để trao đổi với họ. Ý niệm rằng bản thân những người định cư
sẽ làm việc và nuôi trồng thực phẩm riêng của họ có vẻ đã không thoáng qua đầu
óc họ. Đó không phải là việc mà các nhà chinh phục Thế giới Mới đã làm.
Wahunsunacock mau chóng nhận thức được về sự hiện diện của các nhà thuộc
địa và đã xem xét các ý định của họ với sự nghi ngờ lớn. Ông đã chịu trách nhiệm
về cái đối với Bắc Mỹ quả thực là một đế chế rất rộng. Nhưng ông đã có nhiều kẻ
thù và thiếu sự tập trung chính trị áp đảo của những người Inca. Wahunsunacock
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 21
đã quyết định để thăm dò xem ý định của những người Anh là gì, ban đầu gửi
những người đưa tin nói rằng ông muốn có quan hệ hữu hảo với họ.
Khi mùa đông năm 1607 khép lại, những người định cư ở Jamestown bắt đầu
cạn kiệt thức ăn, và người lãnh đạo được chỉ định của hội đồng cai trị thuộc địa,
Edward Marie Wingfield, đã chần chừ lưỡng lự. Tình hình đã được Đại úy John
Smith cứu vớt. Smith, mà các bài viết của ông đã cung cấp một trong những
nguồn thông tin chính của chúng ta về sự phát triển ban đầu của thuộc địa, là một
nhân vật rất ấn tượng. Sinh ra ở Anh, tại vùng nông thôn Lincolnshire, ông đã coi
thường các mong muốn của cha mình đối với ông để đi kinh doanh và thay vào đó
đã trở thành một người lính gặp may. Đầu tiên ông đã chiến đấu với quân đội Anh
ở Hà Lan, sau đó ông gia nhập lực lượng Áo phục vụ ở Hungary chiến đấu chống
quân đội của Đế chế Ottoman. Bị bắt ở Rumani, ông đã bị bán như nô lệ và bị đưa
đi làm như một người phụ việc ngoài đồng. Một ngày ông đã tìm được cách thắng
ông chủ của mình, ăn trộm quần áo và ngựa của ông chủ, trốn trở lại lãnh thổ Áo.
Smith đã chuốc lấy rắc rối cho mình trên hành trình đến Virginia và đã bị nhốt
trên tàu Susan Constant vì sự nổi loạn coi thường mệnh lệnh của Wingfield. Khi
tàu đến Thế giới Mới, kế hoạch đã là đưa ông ra xử. Trước sự vô cùng kinh tởm
của Wingfield, Newort, và các nhà thuộc địa elite khác, tuy vậy, khi họ mở các
lệnh được niêm phong gắn xi của họ, họ đã phát hiện ra rằng Công ty Virginia đã
bổ nhiệm Smith làm một thành viên của hội đồng cai trị để cai quản Jamestown.
Với Newport lái tàu quay lại Anh lấy hàng cung ứng và nhiều nhà thuộc địa
hơn, và Wingfield không chắc chắn về phải làm gì, chính Smith đã là người cứu
thuộc địa. Ông đã khởi xướng một loạt chuyến buôn mà đã đảm bảo sự cung ứng
thực phẩm trọng yếu. Trong một trong các chuyến này ông đã bị
Opechancanough, một trong những người em của Wahunsunacock, bắt và bị đưa
về trước mặt nhà vua ở Werowocomoco. Ông đã là người Anh đầu tiên gặp
Wahunsunacock, và chính đã là tại cuộc gặp gỡ ban đầu này mà theo một số
tường thuật cuộc sống của Smith đã được cứu chỉ do sự can thiệp của Pocahontas,
em gái của Wahunsunacock. Được trả tự do ngày 2-1-1608, Smith đã quay lại
Jamestown, mà vẫn cạn kiệt thực phẩm ở mức nguy hiểm, cho đến sự quay trở lại
kịp thời của Newport từ nước Anh muộn hơn cùng ngày hôm đó.
Các nhà thuộc địa của Jamestown đã học được ít từ kinh nghiệm ban đầu này.
Khi năm 1608 tiếp diễn, họ tiếp tục tìm vàng và kim loại quý của mình. Họ vẫn có
22 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
vẻ chưa hiểu rằng để tồn tại, họ không thể dựa vào những người địa phương để
cho họ ăn thông qua hoặc sự cưỡng bức hay sự buôn bán. Chính Smith là người
đầu tiên đã nhận ra rằng mô hình thuộc địa hóa mà đã hoạt động rất tốt cho Cortés
và Pizzaro đơn giản sẽ không hoạt động ở Bắc Mỹ. Hoàn cảnh cơ bản thật khác
nhau. Smith đã lưu ý thấy, không giống những người Aztec và Inca, người dân ở
Virginia đã không có vàng. Thật vậy, ông ghi chép trong nhật ký của mình, “Bạn
phải biết thực phẩm là tất cả tài sản của họ”. Anas Todkill, một trong những
người định cư ban đầu người đã để lại một nhật ký rộng lớn, đã bày tỏ rõ những
thất vọng của Smith và vài người khác mà dựa vào đó sự thừa nhận này trở nên rõ
ràng hơn:
“Đã không có trò chuyện, không có hy vọng, không có công việc, trừ
đào vàng, tinh chế vàng, chất vàng”.
Khi Newport lái tàu về nước Anh tháng Tư năm 1608 ông đã chở chuyến hàng
pyrite, vàng của thằng ngốc. Ông đã quay lại vào cuối tháng Chín với các mệnh
lệnh của Công ty Virginia để giữ sự kiểm soát chặt hơn đối với những người địa
phương. Kế hoạch của họ đã là phong vương cho Wahunsunacock, hy vọng rằng
việc này sẽ làm cho ông ta phụ thuộc vào vua Anh James I. Họ đã mời ông đến
Jamestown, nhưng Wahunsunacock, vẫn nghi ngờ các nhà thuộc địa một cách sâu
sắc, đã không có ý định chịu rủi ro bị bắt. John Smith đã ghi lại trả lời của
Wahunsunacock: “Nếu đức Vua của các ngươi gửi quà cho trẫm, trẫm cũng là
một vị Vua, và đây là đất của trẫm … Cha của các ngươi phải đến chỗ trẫm,
không phải trẫm đến chỗ ông ta, chẳng đến pháo đài của các ngươi, mà trẫm cũng
sẽ không cắn một cái mồi như vậy”.
Nếu Wahunsunacock không “cắn mồi như vậy”, thì Newport và Smith sẽ phải
đi đến Werowocomoco để tiến hành việc phong vương. Toàn bộ sự kiện có vẻ đã
là một sự thất bại hoàn toàn với thứ duy nhất lộ ra từ đó, một quyết tâm từ phía
Wahunsunacock rằng đó là lúc thoát khỏi thuộc địa. Ông đã áp đặt một sự cấm
vận thương mại. Jamestown sẽ không còn có thể trao đổi lấy hàng cung ứng.
Wahunsunacock sẽ làm họ chết đói.
Newport căng buồm một lần nữa về Anh, vào tháng 12-1608. Ông đã mang
theo mình một lá thư do Smith viết cầu xin các giám đốc của Công ty Virginia
thay đổi cách nghĩ của họ về thuộc địa. Đã không có khả năng về một sự khai thác
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 23
trở-nên-giàu-nhanh của Virginia theo đường lối của Mexico và Peru. Đã không có
vàng hay kim loại quý, và đã không thể cưỡng bức người dân bản địa để làm việc
hay để cung cấp thực phẩm. Smith đã nhận ra rằng nếu muốn có một thuộc địa có
thể đứng vững được, thì chính các nhà thuộc địa là những người phải làm việc. Vì
thế ông đã cầu xin các giám đốc gửi những loại người phù hợp: “Khi các ngài gửi
lần nữa tôi van xin các ngài hãy gửi khoảng ba mươi thợ mộc, cặp vợ chồng,
những người làm vườn, những người đánh cá, các thợ rèn, các thợ nề, và những
người đào cây, rễ cây, được chu cấp tốt, rồi cả ngàn người như thế khi chúng ta
có.”
Smith đã không muốn các thợ kim hoàn vô dụng nữa. Một lần nữa Jamestown
đã sống sót chỉ bởi vì tài tháo vát của ông. Ông đã tìm được cách để tán tỉnh và
bắt nạt các nhóm bản địa địa phương để trao đổi với ông, và khi chúng không thể,
ông đã làm cái ông có thể. Phía sau ở khu định cư, Smith đã hoàn toàn chịu trách
nhiệm và đã áp đặt quy tắc rằng “ai không làm thì đừng ăn”. Jemestown đã sống
sót qua mùa đông thứ hai.
Công ty Virginia dự định là một doanh nghiệp làm ra tiền, và sau hai năm thảm
hại, đã chẳng thấy tăm hơi nào của lợi nhuận. Các giám đốc của công ty đã quyết
định rằng họ cần một mô hình quản trị mới, thay thế hội đồng cai trị bằng một
thống đốc duy nhất, Người đầu tiên được bổ nhiệm vào chức vụ này đã là Sir
Thomas Gates. Lưu ý đến một số khía cạnh của sự cảnh báo của Smith, công ty đã
nhận ra rằng họ phải thử cái gì đó mới. Sự nhận thức này đã được hiểu rõ bởi
những sự kiện của mùa đông 1609/1610 – bởi cái gọi là “thời chết đói”. Cách
thức quản trị mới đã không có chỗ cho Smith, người bực bội, đã trở về Anh vào
mùa thu năm 1609. Không có tài xoay xở của ông và với Wahunsunacock bóp
nghẹt việc cung cấp thực phẩm, các nhà thuộc địa của Jamestown đã chết. Trong
số năm trăm người đã bước vào mùa đông, chỉ sáu mươi người còn sống vào
tháng Ba. Tình hình đã tuyệt vọng đến mức họ đã phải quay sang ăn thịt người.
“Cái gì đó mới” mà đã được áp đặt lên thuộc địa bởi Gates và người phó của
ông, Sir Thomas Dale, đã là một chế độ lao động nghiêm ngặt hà khắc đối với
những người định cư Anh – tuy tất nhiên không phải đối với elite vận hành thuộc
địa. Chính Dale là người đã truyền bá “Luật Thánh thần, Luân lý và Quân sự”.
Luật này bao gồm các điều khoản:
24 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Không đàn ông hay đàn bà nào được chạy từ thuộc địa sang những người
Indian, bị tội chết.
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 25
Bất cứ ai cướp một vườn, tư hay công, hay một vườn nho, hay người ăn
cắp các bắp ngô sẽ bị phạt tội chết.
Không thành viên nào của thuộc địa sẽ bán hay cho bất cứ hàng hóa nào
của nước này cho một thuyền trưởng, thủy thủ, ông chủ hay thủy thủ để
chở khỏi thuộc địa, cho việc sử dụng riêng của anh ta, bị tội chết.
Nếu những người bản địa không được khai thác, Công ty Virginia lý luận, có
lẽ các nhà thuộc địa có thể. Mô hình mới về phát triển thuộc địa đòi hỏi Công ty
Virginia làm chủ toàn bộ đất. Đàn ông phải ở trong các doanh trại, và được cấp
khẩu phần do công ty quyết định. Các đội làm việc được lựa chọn, mỗi đội được
giám sát bởi một đại diện của công ty. Nó đã gần với thiết quân luật, với việc
hành hình như sự trừng phạt dùng đến đầu tiên. Như một phần của các thể chế
mới cho thuộc địa, điều đầu tiên vừa được trích là quan trọng. Công ty đe dọa giết
những người bỏ đi. Căn cứ vào chế độ lao động mới, bỏ đi để sống với những
người địa phương đã trở thành một lựa chọn ngày càng hấp dẫn cho các nhà thuộc
địa phải làm việc. Căn cứ vào mật độ thấp của dân cư bản địa ở Virginia thời đó,
cũng đã có triển vọng để bỏ đi một mình ra vùng biên cương ngoài tầm kiểm soát
của Công ty Virginia. Quyền lực của công ty là hạn chế khi đối mặt với các lựa
chọn này. Nó đã không thể cưỡng bức những người định cư Anh làm việc nặng
nhọc với mức khẩu phần đủ sống.
Bản đồ 2 cho thấy một ước tính mật độ dân số của các vùng khác nhau của
châu Mỹ vào thời Tây Ban Nha chinh phục. Mật độ dân số của Hoa Kỳ, ngoài vài
ổ, nhiều nhất đã là ba phần tư người trên một dặm vuông. Ở trung tâm Mexico
hay Peru vùng Andes, mật độ dân số cao ở mức bốn trăm người trên một dặm
vuông, cao hơn năm trăm lần. Những gì có thể ở Mexico hay Peru đã là không
khả thi ở Virginia.
Công ty Virginia đã cần một ít thời gian để nhận ra rằng mô hình ban đầu của
nó về thuộc địa hóa đã không hoạt động ở Virginia, và cũng cần một ít thời gian
nữa để thấu hiểu sự thất bại của “Luật Thánh thần, Luân lý và Quân sự”. Bắt đầu
trong năm 1618, một chiến lược hết sức mới đã được chấp nhận. Vì đã không thể
cưỡng bức những người địa phương cũng chẳng thể cưỡng bức những người định
cư, lựa chọn khả dĩ duy nhất đã là khuyến khích những người định cư. Năm 1618
công ty bắt đầu “hệ thống quyền đầu người – headright system”, cấp cho mỗi
26 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
người đàn ông định cư năm mươi mẫu đất [một mẫu Anh, acre, bằng khoảng
4.050 m2
] và thêm năm mươi mẫu cho mỗi thành viên gia đình của ông ta và cho
tất cả các đầy tớ mà gia đình có thể mang sang Virginia. Những người định cư
được cho nhà ở và được giải phóng khỏi các hợp đồng, và năm 1619 một Đại Hội
đồng (General Assembly) được đặt ra mà trên thực tế đã cho tất cả những người
đàn ông trưởng thành quyền quyết định về các luật và các thể chế cai trị thuộc địa.
Nó đã là khởi đầu của nền dân chủ ở Hoa Kỳ.
Công ty Virginia đã cần đến mười hai năm để học bài học đầu tiên của mình
rằng những gì đã hoạt động cho người Tây Ban Nha ở Mexico và ở Trung và
Nam Mỹ sẽ không hoạt động ở miền bắc. Phần còn lại của thế kỷ thứ mười bảy đã
trải qua một chuỗi dài các cuộc đấu tranh về bài học thứ hai: lựa chọn duy nhất
cho một thuộc địa có thể đứng vững về mặt kinh tế đã là tạo ra các thể chế khuyến
khích các nhà thuộc địa đầu tư và làm việc cần cù.
Trong khi mà Bắc Mỹ phát triển, các elite Anh hết lần này đến lần khác đã thử
dựng lên các thể chế mà chúng hạn chế nặng nề đến các quyền kinh tế và chính trị
của tất cả mọi người trừ một số ít có đặc quyền trong dân cư của thuộc địa, hệt
như những người Tây Ban Nha đã làm. Thế nhưng trong mỗi trường hợp mô hình
này đã sụp đổ, như nó đã thất bại ở Virginia.
Một trong những nỗ lực tham vọng nhất đã bắt đầu không lâu sau sự thay đổi
chiến lược của Công ty Virginia. Năm 1632 mười triệu mẫu đất ở phần trên vùng
Vịnh Cheasapeake đã được vua Anh Charles I ban cho Cecilius Calbert, Lord
Baltimore. Hiến chương của Maryland đã trao cho Lord Baltimore quyền tự do
hoàn toàn để lập ra một chính phủ theo bất cứ đường lối nào ông muốn, với điều
VI lưu ý rằng Baltimore đã có “Quyền lực tự do, đầy đủ, và tuyệt đối, theo ý
nghĩa tổng quát của các Tặng phẩm này, để Quy định, Làm, và Ban hành các Đạo
Luật, thuộc bất cứ Loại nào, cho Chính phủ có đức hạnh và tốt phúc của Tỉnh
được nói đến này”.
Baltimore đã thảo một kế hoạch chi tiết để tạo ra một xã hội thái ấp, một biến
thể Bắc Mỹ của một phiên bản được lý tưởng hóa của nước Anh thôn quê thế kỷ
mười bảy. Nó đòi hỏi việc chia đất thành các lô hàng ngàn mẫu, mà sẽ được các
lord (chúa) vận hành. Các chúa sẽ tuyển mộ những người thuê, những người sẽ
canh tác đất và nộp tô (tiền thuê) cho elite có đặc quyền và đang kiểm soát đất.
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 27
Một nỗ lực tương tự đã được đưa ra muộn hơn trong năm 1663, với việc thành lập
Carolina bởi tám chủ sở hữu, kể cả Sir Anthony Ashley-Cooper. Ashley-Cooper
cùng với thư ký của mình, nhà triết học Anh vĩ đại John Locke, đã trình bày Hiến
pháp Cơ bản của Carolina. Tài liệu này, giống Hiến chương Maryland trước nó,
đã cung cấp một kế hoạch chi tiết cho một xã hội tinh hoa chủ nghĩa, có thứ bậc
dựa trên sự kiểm soát bởi một elite có nhiều đất đai. Lời mở đầu ghi rằng “chính
phủ của tỉnh này có thể trở nên thích hợp nhất với nền quân chủ mà dưới đó
chúng ta sống mà tỉnh này là một phần; và rằng chúng ta có thể tránh được việc
dựng lên một nền dân chủ đông đảo”.
Các điều khoản của Hiến pháp Cơ bản đặt ra một cấu trúc xã hội cứng nhắc. Ở
dưới cùng là “những người-leet” (leet-men), với điều khoản 23 ghi, “Tất cả con
của những người leet sẽ là những người leet, và cứ như thế cho mọi thế hệ”. Trên
những người leet, những người không có quyền chính trị nào, là các lãnh chúa
(landgrave) và các tộc trưởng (cazique), những người tạo thành giới quý tộc. Mỗi
lãnh chúa được phân cho bốn mươi tám ngàn mẫu, mỗi tộc trưởng được hai mươi
bốn ngàn mẫu. Đã có một quốc hội đại diện cho các lãnh chúa và tộc trưởng,
nhưng nó sẽ được phép để tranh luận chỉ các biện pháp mà đã được tám chủ sở
hữu chấp thuận trước.
Hệt như nỗ lực áp đặt các quy tắc hà khắc ở Virginia đã thất bại, các kế hoạch
cho cùng loại các thể chế ở Maryland và Carolina cũng thế. Các lý do là giống
nhau. Trong mọi trường hợp đã chứng tỏ là không thể ép buộc những người định
cư vào một xã hội có thứ bậc cứng nhắc, bởi vì đơn giản đã có quá nhiều lựa chọn
mở ra cho họ ở Thế giới Mới. Thay vào đó, phải cung cấp cho họ các khuyến
khích để họ muốn làm việc. Và chẳng bao lâu họ đã đòi nhiều quyền tự do kinh tế
hơn và thêm các quyền chính trị nữa. Cả ở Maryland nữa, những người định cư
khăng khăng đòi có được đất riêng của họ, và họ đã buộc Lord Baltimore vào việc
tạo ra một hội đồng. Vào năm 1691, hội đồng đã xui khiến vua tuyên bố Maryland
là một thuộc địa thuộc Quốc vương [Crown colony, nên chưa được độc lập], như
thế loại bỏ các đặc quyền chính trị của Baltimore và các đại lãnh chúa của ông.
Một cuộc chiến đấu kéo dài tương tự đã xảy ra ở Carolina, lại lần nữa với các chủ
sở hữu bị thua. Nam Carolina trở thành thuộc địa hoàng gia vào năm 1729.
Vào các năm 1720, tất cả mười ba thuộc địa của cái sẽ trở thành Hoa Kỳ đã có
các cấu trúc chính phủ giống nhau. Trong mọi trường hợp đã có một thống đốc,
28 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
và một hội đồng dựa vào quyền bầu cử của những người đàn ông chủ tài sản.
Chúng đã chưa phải là các nền dân chủ; phụ nữ, nô lệ, và những người không có
tài sản đã không được bỏ phiếu. Nhưng các quyền chính trị đã là rất rộng so với
các xã hội đương thời ở nơi khác. Chính các hội đồng này và các nhà lãnh đạo của
chúng là cái đã hợp lại để hình thành Quốc hội Lục địa Đầu tiên (First Continental
Congress) vào năm 1774, khúc dạo đầu cho sự độc lập của Hoa Kỳ. Các hội đồng
đã tin họ có quyền để quyết định cả tư cách thành viên riêng của họ lẫn quyền
đánh thuế. Điều này, như chúng ta biết, gây ra các vấn đề đối với chính phủ thuộc
địa Anh.
CÂU CHUYỆN VỀ HAI HIẾN PHÁP
Bây giờ phải là rõ ràng, rằng không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà Hoa Kỳ,
chứ không phải Mexico, đã thông qua và thực thi một hiến pháp tán thành các
nguyên tắc dân chủ, tạo ra các hạn chế về việc sử dụng quyền lực chính trị, và
phân phối quyền lực đó một cách rộng rãi trong xã hội. Văn kiện mà các đại biểu
đã ngồi xuống để viết ở Philadelphia năm 1787 đã là kết quả của một quá trình dài
được khởi đầu bằng sự hình thành của Đại Hội đồng ở Jamestown năm 1619.
Sự tương phản giữa quá trình lập hiến xảy ra vào thời độc lập của Hoa Kỳ và
quá trình xảy ra sau đó một chút ở Mexico lộ rõ hẳn ra. Trong tháng Hai 1808,
quân đội Pháp của Napoleon Bonaparte đã xâm lăng Tây Ban Nha. Vào tháng
Năm họ đã lấy được Madrid, thủ đô Tây Ban Nha. Vào tháng Chín vua Tây Ban
Nha Ferdinal đã bị bắt và đã thoái vị. Một junta (hội đồng hành chính) quốc gia,
Junta Trung ương, đã thế chỗ ông, cầm ngọn đuốc trong cuộc chiến đấu chống
Pháp. Junta họp lần đầu tiên tại Aranjuez, nhưng đã rút lui xuống phía nam trước
quân đội Pháp. Cuối cùng nó đã đến cảng Cádiz, mà, tuy bị các lực lượng
Napoleonic bao vây, vẫn đã đứng vững. Ở đây Junta đã thành lập một quốc hội,
được gọi là Cortes. Năm 1812 Cortes đã tạo ra cái được biết đến như Hiến pháp
Cádiz, mà nó kêu gọi việc lập ra một nền quân chủ lập hiến dựa trên những quan
niệm của chủ quyền nhân dân. Nó cũng đã kêu gọi chấm dứt các đặc quyền và
đưa vào sự bình đẳng trước pháp luật. Elite của Nam Mỹ, những người vẫn cai trị
trong một môi trường, do encomienda, lao động cưỡng bức, và quyền lực tuyệt
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 29
đối được ban cho họ và nhà nước thuộc địa định hình, đã ghét cay ghét đắng
những đòi hỏi này.
Sự sụp đổ của nhà nước Tây Ban Nha với sự xâm lược Napoleon đã tạo ra một
khủng hoảng hiến pháp trên khắp Mỹ Latin thuộc địa. Đã có tranh luận nhiều về
liệu có thừa nhận thẩm quyền của Junta Trung ương hay không, và đáp lại, nhiều
người Mỹ Latin đã bắt đầu thành lập các junta riêng của họ. Đã chỉ còn là vấn đề
thời gian trước khi họ bắt đầu ý thức được khả năng trở thành thực sự độc lập với
Tây Ban Nha. Tuyên bố độc lập đầu tiên đã xảy ra ở La Paz, Bolivia, năm 1809,
tuy nó đã nhanh chóng bị nghiền nát bởi binh lính Tây Ban Nha được gửi từ Peru
sang. Tại Mexico thái độ chính trị của elite đã được định hình bởi cuộc Nổi loạn
Hidalgo năm 1810, được lãnh đạo bởi một linh mục, Cha Miguel Hidalgo. Khi
quân đội của Hidalgo cướp phá Guanajuato ngày 23 tháng Chín, họ đã giết quản
đốc, quan chức thuộc địa cấp cao, và sau đó đã bắt đầu giết những người gia trắng
một cách không phân biệt. Nó đã giống một cuộc chiến tranh giai cấp hay sắc tộc
hơn là một phong trào độc lập, và nó đã hiệp nhất tất cả elite trong phe đối lập.
Nếu sự độc lập cho phép sự tham gia của nhân dân vào chính trị, elite địa phương,
không chỉ những người Tây Ban Nha, đã chống lại nó. Hệ quả là, elite Mexico đã
xem xét Hiến pháp Cádiz, mà đã mở đường cho sự tham gia của nhân dân, với sự
ngờ vực cực kỳ; họ sẽ chẳng bao giờ công nhận tính hợp pháp của nó.
Năm 1815, khi đế chế Âu châu của Napoleon sụp đổ, Vua Ferdinand VII quay
lại nắm quyền và Hiến pháp Cádiz đã bị bãi bỏ. Khi Quốc Vương Tây Ban Nha
bắt đầu thử đòi lại các thuộc địa Mỹ của nó, nó đã không gặp khó khăn với
Mexico trung thành. Thế nhưng, năm 1820, một đội quân Tây Ban Nha đã tụ tập
ở Cádiz để đi tàu sang châu Mỹ giúp khôi phục lại thẩm quyền Tây Ban Nha đã
nổi loạn chống Ferdinand VII. Các lực lượng quân đội khắp nước đã gia nhập với
họ, và Ferdinand đã buộc phải khôi phục Hiến pháp Cádiz và triệu tập lại Cortes.
Cortes này thậm chí còn cấp tiến hơn Cortes đã soạn ra Hiến pháp Cádiz, và nó đã
đề xuất xóa bỏ mọi hình thức cưỡng bức lao động. Nó cũng đã tấn công các đặc
quyền đặc biệt – thí dụ, quyền của quân đội để được xử các tội hình sự tại các tòa
án riêng của họ. Đối mặt cuối cùng với sự áp đặt văn kiện này ở Mexico, elite ở
đó đã quyết định rằng tốt hơn nếu nó đi một mình và tuyên bố độc lập.
Phong trào độc lập này đã được lãnh đạo bởi Augustín de Iturbide, người đã là
một sỹ quan trong quân đội Tây Ban Nha. Ngày 24-2-1821, ông công bố Plan de
30 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Iguala (Kế hoạch Iguala), tầm nhìn của ông cho một Mexico độc lập. Kế hoạch đã
đề cao một nền quân chủ lập hiến với một hoàng đế Mexic, và đã loại bỏ các quy
định của Hiến pháp Cádiz mà elite Mexic thấy rất đe dọa đến địa vị và các đặc
quyền của họ. Nó đã nhận được sự ủng hộ tức thời, và Tây Ban Nha đã nhanh
chóng nhận ra rằng nó không thể ngăn cái không thể tránh khỏi. Nhưng Iturbide
đã không chỉ tổ chức sự ly khai Mexic. Nhận ra chân không quyền lực, ông đã
nhanh chóng tận dụng sự ủng hộ của quân đội, ông đã tự tuyên bố mình là hoàng
đế, một vị trí mà nhà lãnh đạo vĩ đại của nền độc lập Nam Mỹ, Simón Bolivar, đã
mô tả như “nhờ ân sủng của Chúa và của lưỡi lê”. Iturbide đã không bị ràng buộc
bởi cùng các thể chế chính trị mà các tổng thống Hoa Kỳ bị hạn chế; ông đã
nhanh chóng biến mình thành một kẻ độc tài, và vào tháng Mười 1822, ông đã
giải tán quốc hội được phê chuẩn một cách hợp hiến và đã thay thế nó bằng một
junta do ông chọn. Tuy [triều đại] Iturbide đã không kéo dài, nhưng hình mẫu này
của các sự kiện đã lặp đi lặp lại ở Mexico thế kỷ thứ mười chín.
Hiến pháp Hoa Kỳ đã không tạo ra một nền dân chủ theo các tiêu chuẩn hiện
đại. Ai có thể bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử đã được để cho từng bang quyết
định. Trong khi các bang miền bắc đã nhanh chóng thừa nhận quyền bỏ phiếu của
tất cả những đàn ông da trắng bất kể họ nhận được bao nhiêu thu nhập hay có bao
nhiêu tài sản, còn các bang miền nam đã chỉ làm vậy một cách từ từ. Không bang
nào đã trao quyền bầu cử cho phụ nữ hay các nô lệ, và khi những hạn chế về tài
sản và của cải đã được bãi bỏ đối với đàn ông gia trắng, việc tước quyền bầu cử
của các đàn ông da đen đã được đưa vào một cách tường minh. Chế độ nô lệ, tất
nhiên, đã được coi là hợp hiến khi Hiến pháp Hoa Kỳ được soạn ở Philadelphia,
và sự thương lượng đê tiện nhất đã liên quan đến việc phân chia các ghế trong Hạ
viện giữa các bang. Các ghế này được phân bổ trên cơ sở dân số của mỗi bang,
nhưng các đại biểu quốc hội của các bang miền nam khi đó đã đòi hỏi rằng các nô
lệ phải được tính. Những người miền bắc đã phản đối. Sự thỏa hiệp đã là trong
chia phần các ghế Hạ viện, một nô lệ sẽ được tính như ba phần năm của một
người tự do. Các xung đột giữa miền Bắc và miền Nam của Hoa Kỳ đã được kiềm
chế trong quá trình lập hiến vì quy tắc ba phần năm và những thỏa hiệp khác đã
được nghĩ ra. Những sang sửa mới được thêm vào theo thời gian – thí dụ, Thỏa
hiệp Missouri, một dàn xếp nơi một bang ủng hộ chế độ nô lệ và một bang phản
đối chế độ nô lệ đã luôn luôn được cộng thêm vào toàn liên bang, để giữ sự cân
bằng trong Thượng viện gữa các bang ủng hộ và chống đối chế độ nô lệ. Những
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 31
chuyện vớ vẩn này đã giữ các thể chế chính trị của Hoa Kỳ hoạt động một cách
yên bình cho đến khi Nội Chiến cuối cùng đã giải quyết các xung đột theo cách có
lợi cho miền Bắc.
Nội Chiến đã đẫm máu và tàn phá. Nhưng cả trước và sau chiến tranh đã có
nhiều cơ hội kinh tế cho một phần lớn dân số, đặc biệt ở miền bắc và miền tây
Hoa Kỳ. Tình hình ở Mexico đã rất khác. Nếu Hoa Kỳ đã trải qua năm năm bất ổn
chính trị giữa 1860 và 1865, thì Mexico đã trải nghiệm sự bất ổn hầu như không
ngừng suốt năm mươi năm đầu của sự độc lập. Việc này được minh họa khéo nhất
qua sự nghiệp của Antonio Lospez de Santa Ana.
Santa Ana, con của một quan chức thuộc địa ở Veracruz, trở nên nổi bật như
một người lính chiến đấu cho Tây Ban Nha trong các cuộc chiến tranh độc lập.
Năm 1821, ông đã chuyển sang phía Iturbide và đã không bao giờ nhìn lại. Ông
đã trở thành tổng thống Mexico lần đầu tiên vào tháng Năm 1833, tuy ông thực
hiện quyền lực ít hơn một tháng, thích để cho Valentín Gómez Farías hành động
với tư cách tổng thống hơn. Nhiệm kỳ tổng thống của Gómez Farías kéo dài mười
lăm ngày, sau đó Santa Ana nắm lại quyền lực. Tuy nhiên, đấy đã ngắn như phiên
đầu tiên của ông, và ông đã lại bị Gómez Farías thay thế, vào đầu tháng Bảy.
Santa Ana và Gómez Farías đã tiếp tục điệu nhảy này cho đến giữa 1835, khi
Santa Ana bị Miguel Barragán thay thế. Nhưng Santa Ana đã không là một kẻ bỏ
cuộc. Ông đã quay lại làm tổng thống trong các năm 1839, 1841, 1844, 1847, và,
cuối cùng, giữa 1853 và 1855. Tổng cộng, ông đã là tổng thống mười một lần,
trong đó ông đã chịu trách nhiệm về việc để mất Alamo và Texas và chiến tranh
Mexic-Mỹ tai hại, mà đã dẫn đến việc để mất cái trở thành New Mexico và
Arizona. Giữa 1824 và 1867 đã có năm mươi hai tổng thống ở Mexico, vài trong
số đó đã nắm quyền theo thủ tục đã được phê chuẩn một cách hợp hiến.
Hậu quả của sự bất ổn chính trị chưa từng có này đối với các thể chế và các
khuyến khích kinh tế phải là rõ ràng. Sự bất ổn như vậy đã dẫn đến các quyền tài
sản hết sức không chắc chắn. Nó cũng đã dẫn đến một sự suy yếu nghiêm trọng
của nhà nước Mexic, mà bây giờ đã có ít thẩm quyền và ít khả năng để thu thuế
hay cung cấp các dịch vụ công. Thực vậy, mặc dù Santa Ana đã là tổng thống ở
Mexico, nhiều phần rộng lớn của nước này đã không nằm dưới sự kiểm soát của
ông, mà đã cho phép việc sáp nhập Texas bởi Hoa Kỳ. Ngoài ra, như chúng ta vừa
thấy, động cơ nằm đằng sau sự tuyên bố độc lập Mexic đã là để bảo vệ tập các thể
32 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
chế kinh tế đã được phát triển trong thời kỳ thuộc địa, mà đã biến Mexico, theo
lời của nhà khám phá và nhà địa lý Đức vĩ đại về Mỹ Latin, Alexander von
Humbolt, trở thành “nước của sự bất bình đẳng”. Các thể chế này, do đặt cơ sở xã
hội trên sự khai thác người dân bản địa và tạo ra các độc quyền, đã ngăn chặn các
khuyến khích kinh tế và các sáng kiến của quảng đại quần chúng nhân dân. Trong
khi Hoa Kỳ đã bắt đầu trải nghiệm Cách mạng Công nghiệp trong nửa đầu của thế
kỷ thứ mười chín, thì Mexico đã trở nên nghèo hơn.
CÓ MỘT Ý TƯỞNG, KHỞI ĐỘNG MỘT HÃNG, VÀ NHẬN
ĐƯỢC MỘT KHOẢN VAY
Cách mạng Công nghiệp đã bắt đầu ở nước Anh. Thành công đầu tiên của nó đã
là cách mạng hóa sản xuất quần áo vải bông bằng cách sử dụng các máy mới được
cung cấp lực bởi các bánh xe nước và muộn hơn bởi các động cơ hơi nước. Cơ
giới hóa việc sản xuất vải bông đã làm tăng rất nhiều năng suất của những người
lao động, đầu tiên trong ngành dệt may, và sau đó trong các ngành khác. Động cơ
của những đột phá công nghệ trong khắp nền kinh tế là sự đổi mới sáng tạo
(innovation), với mũi xung kích của các doanh nhân và các nhà kinh doanh mới
háo hức áp dụng các ý tưởng mới của họ. Sự nở hoa ban đầu này đã nhanh chóng
lan qua Bắc Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ. Người dân đã thấy các cơ hội kinh tế
to lớn sẵn có trong thích nghi các công nghệ mới được phát triển ở Anh. Họ cũng
được truyền cảm hứng để phát triển các sáng chế riêng của mình.
Chúng ta có thể thử để hiểu bản chất của các sáng chế này bằng cách ngó xem
ai đã được cấp bằng sáng chế. Hệ thống bằng sáng chế, mà bảo vệ các quyền tài
sản trong các ý tưởng, đã được hệ thống hóa trong Đạo luật về các Độc quyền
được xây dựng và ban hành bởi Quốc hội Anh năm 1623, một phần như một nỗ
lực để ngăn chặn nhà vua khỏi ban một cách tùy tiện “các thư bằng sáng chế” cho
ai mà ngài muốn – trên thực tế cấp các quyền độc quyền để thực hiện các hoạt
động hay các công việc kinh doanh nhất định. Điều nổi bật về bằng chứng cấp
bằng sáng chế ở Hoa Kỳ là, những người được cấp bằng sáng chế đến từ mọi loại
xuất thân, mọi loại bối cảnh và mọi ngành nghề, chứ không chỉ là những người
giàu và ưu tú. Nhiều người đã kiếm được bộn tiền hay trở nên giàu có dựa vào các
bằng sáng chế của mình. Hãy xét Thomas Edison, người sáng chế ra đĩa ghi âm,
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 33
bóng đèn điện và người sáng lập ra General Electric, vẫn là một trong những công
ty lớn nhất thế giới. Edison đã là người con út trong bảy người con. Cha ông,
Samuel Edison, đã theo nhiều nghề, từ tách các tấm ván làm ngói gỗ lợp nhà đến
làm thợ may đến cai quản một quán rượu. Thomas đã ít được học chính thống ở
trường nhưng đã được học tại nhà nhờ mẹ ông.
Giữa 1820 và 1845, chỉ có 19 phần trăm những người được cấp bằng sáng chế
ở Hoa Kỳ đã có cha mẹ là các nhà chuyên nghiệp hay từ các gia đình chủ đất lớn
có thể nhận ra được. Trong cùng thời kỳ, 40 phần trăm những người đã được cấp
bằng sáng chế chỉ đã học tiểu học hay ít hơn, đúng như Edison. Hơn nữa, họ
thường khai thác bằng sáng chế của mình bằng cách thành lập một hãng, lại giống
như Edison. Hệt như Hoa Kỳ trong thế kỷ thứ mười chín về mặt chính trị đã là
dân chủ hơn hầu như bất cứ quốc gia khác nào trên thế giới vào thời đó, nó cũng
đã dân chủ hơn các nước khác khi nói về đổi mới sáng tạo. Điều này là cốt yếu
cho con đường của nó để trở thành quốc gia đổi mới sáng tạo nhất về mặt kinh tế
trên thế giới.
Nếu bạn nghèo với một ý tưởng hay, thì một việc là lấy một bằng sáng chế,
mà, rốt cuộc, cũng không tốn kém lắm. Là chuyện hoàn toàn khác để dùng bằng
sáng chế đó để kiếm tiền. Một cách, tất nhiên, là bán bằng sáng chế cho ai đó
khác. Đấy là cách Edison đã làm lúc đầu, để huy động một ít vốn, khi ông bán
[bằng sáng chế về] máy điện tín Quadruplex cho Western Union lấy 10.000 USD.
Nhưng bán các bằng sáng chế là một ý tưởng hay chỉ cho ai đó giống Edison,
người đã có các ý tưởng nhanh hơn ông có thể đưa chúng vào thực tế. (Ông đã có
một kỷ lục thế giới 1.093 bằng sáng chế đã được cấp cho ông ở Hoa Kỳ, và 1.500
trên toàn thế giới). Cách thực sự để kiếm tiền từ một bằng sáng chế là lập doanh
nghiệp riêng của bạn. Nhưng để khởi động một doanh nghiệp, bạn cần vốn, và
bạn cần các ngân hàng cho bạn vay vốn.
Các nhà sáng chế ở Hoa Kỳ một lần nữa lại gặp may. Trong thế kỷ thứ mười
chín đã có sự mở rộng nhanh của trung gian tài chính và hoạt động ngân hàng mà
đã là một nhân tố cốt yếu tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng nhanh và công nghiệp
hóa mà nền kinh tế đã trải qua. Trong khi vào năm 1818 đã có 338 ngân hàng hoạt
động ở Hoa Kỳ, với tổng tài sản 160 triệu USD, vào năm 1914 đã có 27.864 ngân
hàng với tổng tài sản 27,3 tỷ USD. Các nhà đầu tư tiềm năng ở Hoa Kỳ đã có rồi
sự tiếp cận đến vốn để khởi động các doanh nghiệp của mình. Hơn nữa, sự cạnh
34 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
tranh cao độ giữa các ngân hàng và các tổ chức tài chính ở Hoa Kỳ đã có nghĩa
rằng khoản vốn này đã sẵn có với lãi suất khá thấp.
Cùng thứ đã không đúng ở Mexico. Thực ra, vào năm 1910, khi Cách mạng
Mexic bắt đầu, đã chỉ có bốn mươi hai ngân hàng ở Mexico, và hai trong số đó đã
kiểm soát 60 phần trăm tổng tài sản ngân hàng. Không giống Hoa Kỳ, nơi cạnh
tranh là khốc liệt, hầu như đã không có cạnh tranh giữa các ngân hàng Mexic. Sự
thiếu cạnh tranh này có nghĩa rằng các ngân hàng đã có thể tính lãi suất rất cao
cho các khách hàng của mình, và thường đã giới hạn việc cấp tín dụng cho người
có đặc quyền và người đã giàu rồi, những người sau đó sẽ sử dụng sự tiếp cận của
họ đến tín dụng để tăng sự kìm kẹp của họ đối với các khu vực khác nhau của nền
kinh tế.
Hình thức, mà ngành ngân hàng Mexico đã lấy trong các thế kỷ mười chín và
hai mươi, đã là kết quả trực tiếp của các thể chế chính trị sau độc lập của nước
này. Sự hỗn độn của thời đại Santa Ana được kế tiếp bởi một nỗ lực chết yểu của
chính phủ Pháp của Hoàng đế Napoleon II để tạo ra một chế độ thuộc địa ở
Mexico dưới Hoàng đế Maximillian I giữa 1864 và 1867. Người Pháp đã bị trục
xuất, và một hiến pháp mới đã được thảo. Nhưng chính phủ được lập ra đầu tiên
bởi Benito Juárez và, sau cái chết của ông, bởi Sebastián Lerdo de Tejeda đã mau
chóng bị thách thức bởi một nhà quân sự trẻ có tên là Porfirio Díaz. Díaz đã là
một tướng chiến thắng trong chiến tranh chống lại Pháp và đã nuôi dưỡng khát
vọng quyền lực. Ông đã lập một đội quân nổi loạn và, vào tháng 11-1876, đã đánh
bại quân đội của chính phủ ở Trận Tecoac. Trong tháng Năm của năm sau, ông đã
tự bầu mình làm tổng thống. Ông đã tiếp tục cai trị Mexico ít nhiều không gián
đoạn và theo cách ngày càng chuyên quyền cho đến khi bị lật đổ bởi cách mạng
nổ ra ba mươi tư năm sau.
Giống Iturbide và Santa Ana trước ông, Díaz đã bắt đầu cuộc đời như một chỉ
huy quân đội. Một con đường sự nghiệp như vậy vào hoạt động chính trị đã chắc
chắn được biết đến ở Hoa Kỳ. Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, George
Washington, cũng đã là một tướng thành công trong Chiến tranh Độc lập. Ulysess
S. Grant, một trong các tướng Liên bang chiến thắng của Nội Chiến, đã trở thành
tổng thống năm 1869, và Dwight D. Eisenhower, tổng chỉ huy các Lực lượng
Đồng minh ở châu Âu trong Chiến tranh Thế giới II, đã là tổng thống Hoa Kỳ
giữa 1953 và 1961. Tuy vậy, không giống Iturbide, Santa Ana và Díaz, không ai
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 35
trong các nhà quân sự này đã dùng vũ lực để lên nắm quyền. Họ cũng đã không
dùng vũ lực để tránh phải từ bỏ quyền lực. Họ đã tuân theo hiến pháp. Tuy
Mexico đã có các hiến pháp trong thế kỷ thứ mười chín, chúng đã đặt ra ít ràng
buộc về cái mà Iturbide, Santa Ana và Díaz đã có thể làm. Những người này đã có
thể bị loại bỏ khỏi quyền lực chỉ bằng cùng cách họ đã đạt được nó: bằng sử dụng
vũ lực.
Díaz đã vi phạm các quyền tài sản của nhân dân, tạo thuận lợi cho việc chiếm
đoạt số lượng đất đai rộng lớn, và ông đã trao những độc quyền và các đặc ân cho
những người ủng hộ ông trong mọi lĩnh vực kinh doanh, kể cả ngân hàng. Đã
chẳng có gì mới về cách ứng xử này. Đấy chính xác là cái những kẻ chinh phục
Tây Ban Nha đã làm, và cái Sata Ana đã làm theo bước chân họ.
Lý do mà Hoa Kỳ đã có ngành ngân hàng tốt hơn một cách cơ bản cho sự thịnh
vượng kinh tế đã chẳng liên quan gì đến những sự khác biệt về động cơ của
những người sở hữu ngân hàng. Thực vậy, động cơ lợi nhuận, mà làm nòng cốt
cho bản chất độc quyền của ngành ngân hàng ở Mexico, cũng đã hiện diện cả ở
Hoa Kỳ nữa. Nhưng động cơ lợi nhuận này đã được hướng một cách khác đi bởi
vì các thể chế khác biệt hoàn toàn của Hoa Kỳ. Các chủ ngân hàng đã đối mặt với
các thể chế kinh tế khác hẳn, các thể chế đã buộc chúng phải cạnh tranh mạnh hơn
rất nhiều. Và việc này đã phần nhiều là bởi vì các nhà chính trị, những người soạn
ra các quy tắc cho các chủ ngân hàng, bản thân họ đã phải đối mặt với các khuyến
khích rất khác được tạo ra bởi các thể chế chính trị khác biệt. Thực vậy, vào cuối
thế kỷ thứ mười tám, không lâu sau khi Hiến pháp Hoa Kỳ đi vào hoạt động, một
hệ thống ngân hàng trông giống hệ thống, mà sau đó đã áp đảo ở Mexico, đã bắt
đầu nổi lên. Các chính trị gia đã thử thành lập các độc quyền ngân hàng bang, mà
họ đã có thể đưa cho các bạn và các đối tác của họ để đổi lại một phần lợi nhuận
độc quyền. Các ngân hàng cũng đã mau chóng lao vào công việc kinh doanh cho
các chính trị gia, những người điều tiết họ, vay tiền, hệt như ở Mexico. Nhưng
tình hình này đã không thể duy trì được ở Hoa Kỳ, bởi vì các chính trị gia những
người đã thử lập ra các độc quyền ngân hàng này, không giống như ở Mexico, đã
phải tuân theo sự bầu cử và tái bầu cử. Tạo ra các độc quyền ngân hàng và cấp
các khoản vay cho các chính trị gia là công việc kinh doanh tốt cho các chính trị
gia, nếu họ có thể tránh thoát các hậu quả. Tuy vậy, nó không đặc biệt tốt cho các
công dân. Không giống ở Mexico, ở Hoa Kỳ các công dân đã có thể kìm hãm và
36 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
giải thoát khỏi các chính trị gia, những người lạm dụng chức vụ của mình để làm
giàu cho mình hay tạo ra các độc quyền cho các cánh hẩu của mình. Kết quả là,
các độc quyền ngân hàng đã sụp đổ. Sự phân bố rộng các quyền chính trị ở Hoa
Kỳ, đặc biệt khi so sánh với Mexico, đã đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng đến tài
chính và các khoản vay. Điều này, đến lượt nó, lại đảm bảo rằng những người có
các ý tưởng và các sáng chế có thể được hưởng lợi từ chúng.
SỰ THAY ĐỔI PHỤ THUỘC VÀO CON ĐƯỜNG
Thế giới đã thay đổi trong các năm 1870 và 1880. Mỹ Latin đã không là ngoại lệ.
Các thể chế, mà Porfirio Díaz đã thiết lập, đã không giống hệt các thể chế của
Santa Ana hay của nhà nước thuộc địa Tây Ban Nha. Nền kinh tế thế giới đã phồn
thịnh bột phát trong nửa sau của thế kỷ mười chín, và những đổi mới sáng tạo
trong giao thông như tàu hơi nước và đường sắt đã dẫn đến sự mở rộng to lớn của
thương mại quốc tế. Làn sóng này của toàn cầu hóa đã có nghĩa rằng các nước
giàu tài nguyên như Mexico – hay, chính xác hơn elite ở các nước như vậy – đã
có thể làm giàu chính mình bằng xuất khẩu các nguyên liệu thô và các tài nguyên
thiên nhiên cho Bắc Mỹ hay Châu Âu đang công nghiệp hóa. Díaz và những cánh
hẩu của ông đã thấy mình trong một thế giới khác và đang phát triển nhanh. Họ đã
nhận ra rằng Mexico cũng phải thay đổi. Nhưng điều này đã không có nghĩa là
nhổ cả rễ các thể chế thuộc địa và thay thế chúng bằng các thể chế giống như các
thể chế ở Hoa Kỳ. Thay vào đó, sự thay đổi của họ đã là sự thay đổi “phụ thuộc
vào con đường – path dependent” chỉ dẫn đến pha tiếp theo của các thể chế đã
làm cho phần lớn Mỹ Latin nghèo và bất bình đẳng rồi.
Toàn cầu hóa đã làm cho các vùng bỏ ngỏ bao la của châu Mỹ, “các vùng biên
cương mở-open frontiers” của nó, có giá trị. Thường các vùng biên cương này đã
chỉ trống một cách huyền thoại, vì những người bản địa đã ở đó và họ đã bị truất
quyền sở hữu một cách tàn nhẫn. Dẫu sao, sự tranh cướp các tài nguyên có giá trị
mới này đã là một quá trình định rõ của châu Mỹ trong nửa sau của thế kỷ mười
chín. Sự mở ra đột ngột của vùng biên cương có giá trị này đã không dẫn đến các
quá trình tương tự ở Hoa Kỳ và Mỹ Latin, mà đã dẫn đến sự phân kỳ thêm, được
định hình bởi những sự khác biệt thể chế hiện tồn, đặc biệt là những khác biệt liên
quan đến ai có cơ hội có đất. Ở Hoa Kỳ, một chuỗi dài các hành động lập pháp, từ
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 37
Sắc lệnh Đất năm 1785 đến Luật Trang ấp 1862, đã cho sự tiếp cận rộng rãi đến
đất biên cương. Tuy những người bản địa đã bị cho ra ngoài lề, việc này đã tạo ra
một vùng biên cương bình đẳng và năng động về mặt kinh tế. Trong hầu hết các
nước Mỹ Latin, tuy vậy, các thể chế chính trị ở đó đã tạo ra kết quả rất khác. Đất
vùng biên cương đã được phân cho những người có thế lực chính trị và những
người giàu có và có các mối quan hệ, làm cho những người như vậy thậm chí
hùng mạnh hơn.
Díaz cũng đã bắt đầu dỡ bỏ nhiều di sản thể chế thuộc địa cụ thể, cản trở
thương mại quốc tế, mà ông thấy trước sẽ làm cho ông và những người ủng hộ
ông giàu hơn rất nhiều. Mô hình của ông, tuy vậy, vẫn tiếp tục không phải là kiểu
phát triển kinh tế mà chúng ta thấy ở phía bắc Rio Grandes mà là kiểu của Cortés,
Pizzaro, và de Toledo, nơi elite trở nên rất giàu có trong khi những người còn lại
bị loại trừ. Khi elite đầu tư, nền kinh tế tăng trưởng một chút, nhưng sự tăng
trưởng như vậy luôn luôn dẫn đến thất vọng. Nó cũng đã xảy ra với sự trả giá của
những người thiếu các quyền trong trật tự mới này, như những người Yaqui ở
Sonora, trong vùng nội địa xa của Nogales. Giữa 1900 và 1910, có lẽ ba mươi
ngàn người Yaqui đã bị lưu đày, về bản chất bị bắt làm nô lệ, bị tống đi lao động
ở các đồn điền henequen [cây thùa sợi] ở Yucatán. (Sợi cây henequen đã là một
mặt hàng xuất khẩu có giá trị, vì nó có thể được dùng để làm dây thừng và dây
bện). Sự dai dẳng kéo dài vào thế kỷ hai mươi của một hình mẫu thể chế đặc thù
không thân thiện với tăng trưởng ở Mexico và Mỹ Latin được minh họa rõ bởi sự
thực rằng, hệt như trong thế kỷ mười chín, hình mẫu đã gây ra trì trệ kinh tế và
bất ổn chính trị, các cuộc nội chiến và đảo chính, khi các phe nhóm tranh giành
nhau vì các lợi ích quyền lực. Díaz cuối cùng đã mất quyền lực cho các lực lượng
cách mạng trong năm 1910. Cuộc Cách mạng Mexic được tiếp theo bởi các cuộc
cách mạng khác ở Bolivia năm 1952, ở Cuba năm 1959, và Nicaragua năm 1979.
Trong lúc đó, các cuộc nội chiến kéo dài đã nổ ra ở Columbia, El Salvador,
Guatemala, và Peru. Sự chiếm đoạt hay sự đe dọa chiếm đoạt tài sản vẫn tiếp tục
mau lẹ, với các cuộc cải cách nông nghiệp hàng loạt (hay các cuộc cải cách được
thử) ở Bolivia, Brazil, Chile, Columbia, Guatemala, Peru, và Venezuela. Các cuộc
cách mạng, những sự chiếm đoạt và bất ổn chính trị đã đến cùng với các chính
phủ quân sự và các chế độ độc tài thuộc nhiều loại. Tuy cũng đã có một sự trôi dạt
từ từ hướng về các quyền chính trị rộng lớn hơn, nhưng chỉ đến các năm 1990 thì
38 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
hầu hết các nước Mỹ Latin mới trở thành các nền dân chủ, và thậm chí khi đó
chúng vẫn sa lầy trong bất ổn.
Sự bất ổn này đã đi cùng với sự đàn áp và giết người hàng loạt. Báo cáo [của]
Ủy ban Quốc gia cho Chân lý và Hòa giải năm 1991 ở Chile đã xác định rằng
2.279 người đã bị giết vì các lý do chính trị trong chế độ độc tài Pinochet giữa
1973 và 1990. Có lẽ 50.000 đã bị bỏ tù và tra tấn, và hàng trăm ngàn người đã bị
đuổi việc. Báo cáo [của] Ủy ban Guatemalan về Làm rõ Lịch sử trong năm 1999
đã nhận diện được tổng cộng 42.275 nạn nhân có tên, tuy những người khác đã
cho rằng có đến 200.000 đã bị giết ở Guatemala giữa 1962 và 1996, 70.000 trong
thời chế độ của Tướng Efrain Ríos Montt, kẻ đã có khả năng phạm các tội ác này
mà không bị trừng phạt đến mức hắn ta đã có thể ứng cử tổng thống trong năm
2003; rất may là hắn đã không trúng cử. Ủy ban Quốc gia về Người Mất tích ở
Argentina đã đưa ra số người bị quân đội ở đó giết từ 1976 đến 1983 là 9.000
người, mặc dù nó lưu ý rằng con số thật có thể cao hơn. (Các ước lượng của các
tổ chức nhân quyền thường đưa ra con số 30.000).
KIẾM MỘT HAY HAI TỶ
Những hệ lụy kéo dài của tổ chức xã hội thuộc địa, và của các di sản của các xã
hội đó, định hình những sự khác biệt hiện đại giữa Hoa Kỳ và Mexico, và như thế
giữa hai phần của Nogales. Sự tương phản giữa Bill Gates và Carlos Slim đã trở
thành hai người giàu nhất thế giới thế nào – Warren Buffett cũng là một đối thủ –
minh họa các lực lượng đang tác động. Sự thăng tiến của Bill Gates ai cũng biết,
nhưng địa vị của Gates với tư cách người giàu nhất thế giới và nhà sáng lập của
một trong những công ty đối mới sáng tạo nhất về mặt công nghệ đã không ngăn
cản Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đệ trình các vụ kiện dân sự chống lại Công ty Microsoft
ngày 8-5-1998, cho rằng Microsoft đã lạm dụng sức mạnh độc quyền. Đặc biệt
gây tranh cãi là cách mà Microsoft đã gắn Web broser (trình duyệt mạng) của nó,
Internet Explore, vào hệ điều hành Windows. Chính phủ đã để mắt đến Gates
trong thời gian khá dài, và ngay từ 1991, Ủy Ban Thương mại Liên bang đã lao
vào một cuộc điều tra xem liệu Microsoft đã có lạm dụng sự độc tài của nó về hệ
điều hành máy tính cá nhân hay không. Tháng Mười một 2001, Microsoft đã đạt
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 39
một thỏa thuận với Bộ Tư pháp. Các cánh của nó đã bị cắt bớt cho dù các khoản
tiền phạt đã thấp hơn mức nhiều người đã đòi.
Ở Mexico, Carlos Salem đã không kiếm tiền bằng đổi mới sáng tạo. Lúc đầu
ông ta đã trội hơn về các giao dịch chứng khoán, và về mua và tân trang các hãng
không có lời. Phi vụ lớn của ông ta đã là việc thôn tính Telmex, công ty viễn
thông độc quyền của Mexico được Tổng thống Carlos Salinas tư nhân nhóa năm
1990. Chính phủ đã công bố ý định của mình về bán 51 phần trăm của cổ phiếu
được bầu (chiếm 20,4 phần trăm của tổng số cổ phiếu) trong công ty vào tháng 9-
1989 và đã nhận được các giá đặt mua vào tháng 11-1990. Cho dù Carlos Salem
đã không đặt giá cao nhất, consortium dẫn đầu bởi Grupo Corso của ông đã thắng
thầu. Thay cho việc trả tiền ngay cho các cố phiếu, Salim đã dàn xếp được việc
thanh toán chậm, sử dụng cổ tức của bản thân Telmex để trả cho cổ phiếu. Cái
từng là độc quyền nhà nước nay đã trở thành độc quyền của Salim, và nó đã sinh
lợi khổng lồ.
Các thể chế kinh tế, mà đã biến Carlos Salim thành người là ông ta, là rất khác
với các thể chế ở Hoa Kỳ. Nếu bạn là một doanh nhân khởi nghiệp ở Mexico, các
rào cản gia nhập đóng một vai trò quyết định tại mọi giai đoạn của sự nghiệp của
bạn. Các rào cản này bao gồm các giấy phép đắt tiền mà bạn phải kiếm được, tệ
quan liêu mà bạn phải vượt qua, các chính trị gia và những người đang ở trong
ngành đứng cản đường bạn, và sự khó khăn để kiếm được tài trợ từ một khu vực
tài chính mà thường móc ngoặc với những người đang trong ngành mà bạn thử
cạnh tranh với. Các rào cản này hoặc có thể là không thể vượt qua được, ngăn
không cho bạn vào các lĩnh vực sinh lợi, hay là chiến hữu lớn nhất của bạn, giữ
không cho các đối thủ cạnh tranh của bạn đến gần. Sự khác biệt giữa hai kịch bản,
tất nhiên, là, bạn biết ai và có thể ảnh hưởng đến ai – và phải, bạn có thể đút lót ai.
Carlos Slim, một người có tài, có tham vọng, từ một nền tảng tương đối khiêm tốn
của những người nhập cư Liban, đã là một bậc thầy về nhận được các hợp đồng
độc quyền; ông đã tìm được cách để độc chiếm thị trường viễn thông béo bở ở
Mexico, và sau đó mở rộng tầm với của ông ra phần còn lại của Mỹ Latin.
Đã có những thách thức đối với độc quyền Telmex của Salim. Nhưng chúng đã
không thành công. Năm 1996 Avantel, nhà cung cấp dịch vụ điện thoại đường
dài, đã đưa kiến nghị lên Ủy ban Cạnh tranh Mexic để kiểm tra xem liệu Telmex
đã có một vị thế thống trị thị trường viễn thông hay không. Năm 1997, Ủy ban đã
40 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
tuyên bố rằng Telmex đã có quyền lực độc quyền thật về điện thoại nội hạt, các
cuộc gọi đường dài quốc gia, và các cuộc gọi đường dài quốc tế, giữa những thứ
khác. Nhưng các nỗ lực của các nhà chức trách điều tiết ở Mexico để hạn chế các
độc quyền này đã không đi đến đâu cả. Một lý do là, Slim và Telmex có thể sử
dụng cái được biết đến như một recurso de amparo, theo nghĩa đen là một “sự
kháng án để bảo vệ”. Một amparo thực ra là một đơn để lập luận rằng một luật cá
biệt không áp dụng đối với bạn. Ý tưởng về amparo truy nguyên về hiến pháp
Mexic năm 1857 và khởi đầu được dự định như một sự bảo vệ các quyền cá nhân
và các quyền tự do. Trong tay của Telmex và các độc quyền Mexic khác, tuy vậy,
nó lại biến thành một công cụ kinh khủng để thắt chặt quyền lực độc quyền. Thay
cho bảo vệ các quyền của người dân, amparo lại cung cấp một kẽ hở trong tính
bình đẳng trước pháp luật.
Slim đã kiếm được tiền trong nền kinh tế Mexic phần nhiều nhờ các mối quan
hệ chính trị của ông. Khi đánh bạo sang Hoa Kỳ kinh doanh, ông đã không thành
công. Năm 1999, Grupo Curso của ông đã mua hãng bán lẻ máy tính CompUSA.
Khi đó CompUSA đã cấp đặc quyền kinh tiêu cho một hãng được gọi là COC
Services để bán hàng hóa của nó ở Mexico. Slim ngay lập tức vi phạm hợp đồng
[kinh tiêu] này với ý định lập chuỗi cửa hàng riêng của ông, mà không có bất cứ
sự cạnh tranh nào từ COC. Nhưng COC đã kiện CompUSA tại một Tòa án ở
Dallas. Không có amparo ở Dallas, cho nên Slim đã thua, và đã bị phạt 454 triệu
USD. Luật sư cho COC, Mark Werner sau này đã lưu ý rằng “thông điệp của bản
án này là, trong nền kinh tế toàn cầu này các hãng phải tôn trọng các quy tắc của
Hoa Kỳ nếu chúng muốn đến đây”. Khi Slim phải chịu các thể chế của Hoa Kỳ,
các chiến thuật thông dụng của ông để kiếm tiền đã không có kết quả.
HƯỚNG TỚI MỘT LÝ THUYẾT VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG THẾ GIỚI
Chúng ta sống trong một thế giới bất bình đẳng. Những sự khác biệt giữa các
quốc gia là gống như những khác biệt giữa hai phần của Nogales, chỉ trên quy mô
lớn hơn. Trong các nước giàu, các cá nhân khỏe mạnh hơn, sống lâu hơn, và được
giáo dục tốt hơn nhiều. Họ cũng có sự tiếp cận đến một loạt các tiện nghi và lựa
chọn trong đời sống, từ các kỳ nghỉ đến các con đường sự nghiệp, mà người dân ở
các nước nghèo chỉ có thể mơ đến. Người dân các nước giàu cũng lái xe trên các
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 41
đường không có ổ gà, và có nhà vệ sinh, điện, và nước máy trong nhà của họ. Họ
cũng thường có các chính phủ không bắt giữ hay sách nhiễu họ một cách tùy tiện;
ngược lại, các chính phủ cung cấp các dịch vụ, kể cả giáo dục, chăm sóc sức
khỏe, đường sá, luật và trật tự. Cũng đáng chú ý là sự thực rằng các công dân bỏ
phiếu trong các cuộc bầu cử và có tiếng nói nào đó về hướng chính trị mà nước họ
chấp nhận.
Những khác biệt to lớn trong bất bình đẳng thế giới là hiển nhiên đối với mọi
người, ngay cả đối với những người ở các nước nghèo, tuy họ có thể thiếu truy
cập đến truyền hình hay Internet. Chính sự nhận thức và thực tế về những khác
biệt này thúc đẩy người dân để vượt Rio Grande hay Địa Trung Hải một cách bất
hợp pháp để có cơ hội trải nghiệm mức sống và các cơ hội của nước giàu. Tính
bất bình đẳng này không chỉ có các hậu quả đối với cuộc sống của từng con người
trong các nước nghèo; nó cũng gây ra nỗi bất bình và oán giận với những hậu quả
chính trị khổng lồ ở Hoa Kỳ và những nơi khác. Hiểu vì sao những khác biệt này
tồn tại và cái gì gây ra chúng là tiêu điểm của chúng ta trong cuốn sách này. Phát
triển một sự hiểu biết như vậy không chỉ là một mục đích tự thân, mà cũng là một
bước đầu tiên hướng tới việc tạo ra các ý tưởng tốt hơn về làm thế nào để cải
thiện đời sống của hàng tỷ người vẫn sống trong nghèo khổ.
Những sự chênh lệch ở hai bên hàng rào ở Nagales chỉ là chóp đỉnh của tảng
băng. Như trong phần còn lại của bắc Mexico, mà được hưởng lợi từ trao đổi với
Hoa Kỳ, cho dù không phải toàn bộ sự trao đổi ấy là hợp pháp, cư dân của
Nogales thịnh vượng hơn những người Mexic khác, mà thu nhập hộ gia đình bình
quân hàng năm là khoảng 5.000 USD. Sự thịnh vượng tương đối lớn hơn này của
Nogales, Sonora, đến từ các nhà máy gia công maquiladora [ăn hoa hồng: nhập bộ
phận, chế tác và tái xuất thành phẩm mà không phải chịu bất cứ loại thuế nào] tập
trung trong các khu công nghiệp, mà khu đầu tiên đã được thành lập bởi Richard
Campbell, Jr., một nhà sản xuất giỏ ở California. Người thuê đầu tiên đã là Coin-
Art, một công ty dụng cụ âm nhạc được sở hữu bởi Richard Bosse, chủ sở hữu
của công ty sáo và saxophone Artley ở Nogales, Arizona. Tiếp sau Coin-Art đã là
Memorex (đi dây máy tính); Avent (quần áo bệnh viện); Grant (kính râm);
Chamberlain (một nhà sản xuất dụng cụ mở cửa gara cho [nhà bán lẻ] Sears); và
Samsonite (va ly). Đáng kể, tất cả đều là các doanh nghiệp và doanh nhân có cơ
sở ở Hoa Kỳ, sử dụng vốn và know-how Hoa Kỳ. Sự thịnh vượng lớn hơn của
42 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Nogales, Sonora, tương đối so với phần còn lại của Mexico, vì thế, đến từ bên
ngoài.
Những khác biệt giữa Hoa Kỳ và Mexico, đến lượt, là nhỏ so với những khác
biệt khắp toàn cầu. Công dân trung bình của Hoa Kỳ thịnh vượng bằng bảy lần
công dân Mexic trung bình, bằng hơn mười lần cư dân của Peru hay Trung Mỹ.
Khoảng bằng hai mươi lần của dân cư trung bình ở châu Phi hạ-Sahara, và gần
bằng bốn mươi lần của những người sống trong các nước Phi châu nghèo nhất
như Mali, Ethiopia, và Sierra Leone. Có một nhóm nhỏ nhưng ngày càng tăng của
các nước giàu – hầu hết ở châu Âu và Bắc Mỹ, với sự gia nhập của Australia,
Nhật Bản, New Zealand, Singapore, Nam Hàn, và Đài Loan – mà các công dân
của nó được hưởng cuộc sống rất khác với cuộc sống của cư dân của phần còn lại
của địa cầu.
Lý do mà Nogales, Arizona, giàu hơn nhiều so với Nogales, Sonora, là đơn
giản; chính bởi vì các thể chế rất khác nhau ở hai bên biên giới, mà các thể chế đó
tạo ra những khuyến khích rất khác nhau cho cư dân của Nogales, Arizona, đối lại
Nogales, Sonora. Hoa Kỳ ngày nay cũng giàu hơn hoặc Mexico hay Peru rất
nhiều bởi vì cách các thể chế kinh tế và chính trị của nó định hình các khuyến
khích của các doanh nghiệp, các cá nhân, và các chính trị gia. Mỗi xã hội vận
hành với một tập các quy tắc kinh tế và chính trị được tạo ra và được thực thi bởi
nhà nước và các công dân một cách cùng nhau. Các thể chế kinh tế định hình các
khuyến khích kinh tế: các khuyến khích để trở thành người có học, để tiết kiệm và
đầu tư, để đổi mới và làm theo các công nghệ mới, và vân vân. Chính quá trình
chính trị là cái xác định các thể chế kinh tế nào mà nhân dân sống dưới, và chính
các thể chế chính trị là cái xác định quá trình này hoạt động ra sao. Thí dụ, các thể
chế chính trị của một quốc gia xác định khả năng của các công dân để kiểm soát
các chính trị gia và ảnh hưởng đến việc họ ứng xử thế nào. Việc này, đến lượt nó,
lại xác định liệu các chính trị gia có là các đại diện, mặc dù không hoàn hảo, của
các công dân, hay họ có thể lạm dụng quyền lực được ủy thác cho họ, hay họ đã
chiếm đoạt, để tích lũy gia tài riêng của họ và để theo đuổi các chương trình nghị
sự riêng của họ, mà chúng có hại cho các thứ đó của công dân. Các thể chế chính
trị bao gồm nhưng không bị hạn chế ở các hiến pháp thành văn, và ở chỗ liệu xã
hội có là nền dân chủ hay không. Nó bao gồm quyền lực và năng lực của nhà
nước để điều tiết và cai trị xã hội. Cũng cần thiết để xem xét rộng rãi hơn các
GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 43
nhân tố xác định quyền lực chính trị được phân bố thế nào trong xã hội, đặc biệt
là khả năng của các nhóm khác nhau để hành động một cách tập thể nhằm theo
đuổi các mục tiêu của họ hay để ngăn chặn những người khác khỏi theo đuổi các
mục tiêu của họ.
Vì các thể chế ảnh hưởng đến ứng xử và các khuyến khích trong cuộc sống
thực, chúng tạo ra sự thành công hay sự thất bại của các quốc gia. Tài năng cá
nhân là quan trọng ở mọi mức của xã hội, nhưng ngay cả cái đó cũng cần một
khung khổ thể chế để biến nó thành một lực tích cực. Bill Gates, giống như các
nhân vật thần kỳ khác trong nghành công nghệ thông tin (như Paul Alen, Steve
Ballmer, Steve Jobs, Larry Page, Sergey Brin, và Jeff Bezos), đã có tài năng và
khát vọng rất lớn. Nhưng cuối cùng ông đáp lại các khuyến khích. Hệ thống giáo
dục tại trường ở Hoa Kỳ đã cho phép Gates và những người khác giống ông để có
được một tập duy nhất các kỹ năng để bổ sung cho tài năng của họ. Các thể chế
kinh tế ở Hoa Kỳ đã cho phép những người này thành lập các công ty dễ dàng, mà
không phải đối mặt với các rào cản không thể vượt qua nổi. Các thể chế đó cũng
khiến cho việc cấp tài chính cho các dự án của họ có thể thực hiện được. Các thị
trường lao động Hoa Kỳ đã cho phép họ thuê nhân viên có trình độ, và môi
trường thị trường tương đối cạnh tranh đã cho phép họ mở rộng các công ty của
họ và bán các sản phẩm của họ trên thị trường. Các doanh nhân khởi nghiệp này
đã tự tin ngay từ đầu rằng các dự án ước mơ của họ có thể được thực hiện: họ đã
tin vào các thể chế và nền pháp trị mà các thể chế này đã tạo ra và họ đã không
phải lo lắng về sự an toàn của các quyền tài sản của họ. Cuối cùng, các thể chế
chính trị đã đảm bảo sự ổn định và tính liên tục. Trước hết, chúng làm cho chắc
chắn rằng không có rủi ro nào về một kẻ độc tài lên nắm quyền và thay đổi các
quy tắc của trò chơi, tước đoạt của cải của họ, bỏ tù họ, hay đe dọa đời sống và
sinh kế của họ. Chúng cũng làm cho chắc chắn rằng không lợi ích cá biệt nào
trong xã hội có thể làm chính phủ thiên lệch theo một hướng tai hại về mặt kinh
tế, bởi vì quyền lực chính trị cả bị hạn chế lẫn được phân bố đủ rộng sao cho một
tập các thể chế kinh tế tạo ra các khuyến khích cho sự thịnh vượng có thể nổi lên.
Cuốn sách này sẽ chứng tỏ rằng các thể chế kinh tế là cốt yếu cho việc xác
định liệu một nước là nghèo hay giàu, chính trị và các thể chế chính trị là cái
quyết định một nước có các thể chế kinh tế nào. Cuối cùng các thể chế kinh tế tốt
của Hoa Kỳ đã là kết quả của các thể chế chính trị mà đã nổi lên dần dần sau
44 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
1619. Lý thuyết của chúng ta về sự bất bình đẳng thế giới cho thấy các thể chế
chính trị và kinh tế tương tác với nhau thế nào trong việc gây ra sự nghèo khổ và
sự thịnh vượng, và các phần khác nhau của của thế giới kết thúc ra sao với các tập
khác nhau đến vậy của các thể chế. Sự xem xét ngắn gọn của chúng ta về lịch sử
châu Mỹ bắt đầu cho một cảm giác về các lực định hình các thể chế chính trị và
kinh tế. Các hình mẫu khác nhau của các thể chế ngày nay bén rễ sâu vào quá khứ
bởi vì một khi xã hội được tổ chức theo một cách cá biệt, điều này có xu hướng
tồn tại dai dẳng. Chúng ta sẽ chứng tỏ rằng sự thực này đến từ cách mà các thể
chế chính trị và kinh tế tương tác với nhau.
Sự tồn tại dai dẳng này và các lực lượng tạo ra nó cũng giải thích vì sao lại khó
đến vậy để loại bỏ sự bất bình đẳng thế giới và để làm cho các nước nghèo thịnh
vượng. Tuy các thể chế là chìa khóa cho các khác biệt giữa hai Nogales và giữa
Hoa Kỳ và Mexico, điều đó không có nghĩa rằng sẽ có sự đồng thuận ở Mexico
để thay đổi các thể chế. Không có sự tất yếu nào đối với một xã hội để phát triển
các thể chế tốt nhất cho tăng trưởng kinh tế hay cho phúc lợi của các công dân của
nó, bởi vì các thể chế khác có thể thậm chí còn tốt hơn cho những người kiểm
soát chính trị và các thể chế chính trị. Những kẻ có quyền thế lớn và những người
còn lại của xã hội thường không đồng ý về tập nào của các thể chế nên giữ
nguyên và tập nào phải thay đổi. Carlos Slim sẽ không vui sướng để thấy các mối
quan hệ chính trị của ông biến mất và các rào cản gia nhập bảo vệ các doanh
nghiệp của ông xẹp xuống – không quan trọng rằng sự gia nhập của các doanh
nghiệp mới sẽ làm giàu hàng triệu người Mexic. Bởi vì không có sự đồng thuận
như vậy, việc xã hội kết thúc với các quy tắc nào được quyết định bởi chính trị: ai
có quyền lực và quyền lực này có thể được sử dụng thế nào. Carlos Slim có quyền
lực để có được cái ông ta muốn. Quyền lực của Bill Gates bị hạn chế hơn rất
nhiều. Đó là vì sao lý thuyết của chúng ta không chỉ là về kinh tế học mà cũng về
chính trị học. Nó là về các tác động của các thể chế lên thành công hay thất bại
của các quốc gia – như thế là kinh tế học về nghèo khó và thịnh vượng; nó cũng là
về các thể chế được xác định và thay đổi thế nào theo thời gian, và chúng thất bại
ra sao để thay đổi ngay cả khi chúng tạo ra sự nghèo khó và khốn khổ cho hàng
triệu người – như thế là chính trị học về nghèo khó và thịnh vượng.
2.
CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG
ĐỊA HÌNH ĐỊA VẬT [TÌNH HÌNH]
IÊU ĐIỂM CỦA cuốn sách của chúng ta là giải thích sự bất bình đẳng thế
giới và cả một vài hình mẫu rộng có thể nhìn thấy dễ dàng ẩn núp bên trong
nó. Nước đầu tiên trải qua sự tăng trưởng kinh tế bền vững đã là nước Anh – hay
Vương quốc Anh, hay đơn giản là Anh, với tư cách liên hiệp của nước Anh, xứ
Wales và Scotland được biết đến sau 1707. Sự tăng trưởng đã nổi lên chậm trong
nửa thứ hai của thế kỷ mười tám như Cách mạng Công nghiệp dựa trên các đột
phá công nghệ chủ yếu và sự áp dụng chúng vào công nghiệp, đã bén rễ. Mau
chóng tiếp sau công nghiệp hóa ở Anh đã là công nghiệp hóa ở phần lớn của Tây
Âu và Hoa Kỳ. Sự thịnh vượng Anh cũng đã nhanh chóng lan sang các “thuộc địa
định cư” của Anh là Canada, Australia, New Zealand. Một danh sách của ba mươi
nước giàu bao gồm chúng, thêm Nhật Bản, Singapore, và Nam Hàn. Sự thịnh
vượng của ba nước sau, đến lượt nó, là phần của một hình mẫu lớn hơn trong đó
nhiều quốc gia Đông Á, bao gồm cả Đài Loan và sau đó Trung Quốc, đã trải qua
sự tăng trưởng nhanh mới đây.
Đáy của phân bố thu nhập thế giới vẽ một bức tranh sắc nét và đặc biệt dễ nhận
ra như bức tranh trên đỉnh. Nếu thay vào đó bạn đưa ra một danh sách ba mươi
nước nghèo nhất trên thế giới ngày nay, bạn thấy chúng hầu như tất cả ở châu Phi
hạ-Sahara. Gia nhập với chúng là các nước như Afghanistan, Haiti, và Nepal, mà,
tuy chúng không ở châu Phi, tất cả đều có chung cái gì đó cốt yếu với các quốc
gia Phi châu, như chúng ta sẽ giải thích. Nếu lui lại năm mươi năm, Singapore và
Nam Hàn đã không ở giữa các nước giàu nhất, và đã có nhiều nước khác trong số
ba mươi nước dưới đáy, nhưng bức tranh tổng thể vẫn nhất quán một cách nổi bật
T
46 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
với bức tranh chúng ta thấy ngày nay. Quay lại một trăm, hay một trăm năm mươi
năm, bạn thấy gần như cùng các nước trong cùng nhóm.
Bản đồ 3 cho thấy tình hình (thế đất) trong năm 2008. Các nước được tô màu
đen đậm nhất là các nước nghèo nhất trên thế giới, mà thu nhập trung bình đầu
người của chúng (được các nhà kinh tế học gọi là GDP, tổng sản phẩm quốc nội)
là dưới 2.000 USD một năm. Hầu hết các nước Phi châu có màu này, như
Afghanistan, Haiti và các phần của Đông Nam Á (thí dụ, Campuchia và Lào). Bắc
Triều Tiên [Bắc Hàn] cũng thuộc nhóm nước này. Các nước có màu trắng là các
nước giàu nhất, mà thu nhập trung bình đầu người hàng năm là 20.000 USD hay
nhiều hơn. Ở đây chúng ta thấy các nước tình nghi quen thuộc: Bắc Mỹ, Tây Âu,
Australia và Nhật Bản.
Một hình mẫu lý thú khác có thể được nhận rõ ở châu Mỹ. Lập một danh sách
các quốc gia ở châu Mỹ từ giàu nhất đến nghèo nhất. Bạn sẽ thấy rằng ở trên đỉnh
là Hoa Kỳ và Canada, theo sau là Chile, Argentina, Brazil, Mexico, và Uruguay,
và có lẽ cả Venezuela, tùy thuộc vào giá dầu. Sau đó bạn có Colombia, Cộng hòa
Dominic, Equador, và Peru. Tại đáy, có một nhóm khác, tách biệt, nghèo hơn
nhiều, gồm Bolivia, Guatemala, và Paraguay. Quay lại năm mươi năm, bạn thấy
một sự xếp hạng giống hệt. Quay lại một trăm năm: vẫn thế. Một trăm năm mươi
năm: lại vẫn thế. Như thế không chỉ là, Hoa Kỳ và Canada là giàu hơn Mỹ Latin;
cũng có một sự phân chia rõ ràng và dai dẳng giữa các quốc gia giàu và nghèo
bên trong châu Mỹ.
Một hình mẫu lý thú cuối cùng là ở Trung Đông. Ở đó chúng ta thấy các quốc
gia giàu-dầu như Saudi Arabia và Kuwait, mà có mức thu nhập gần với mức của
ba mươi nước trên đỉnh. Thế nhưng nếu giá dầu sụt, họ sẽ nhanh chóng rớt xuống
bảng. Các nước Trung Đông với ít hay không có dầu, như Ai Cập, Jordan, và
Syria, tất cả đều tụm quanh một mức thu nhập tương tự như thu nhập của
Guatemala hay Peru. Không có dầu, các nước Trung Đông tất cả cũng nghèo, tuy,
giống các nước ở Trung Mỹ và vùng Andes, chứ không nghèo như các nước ở
châu Phi hạ-Sahara.
CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 47
Trong khi có nhiều sự dai đẳng trong hình mẫu thịnh vượng mà chúng ta thấy
quanh mình ngày nay, các hình mẫu này không phải là không thay đổi hay không
thể thay đổi được. Thứ nhất, như chúng ta đã nhấn mạnh rồi, hầu hết sự bất bình
đẳng thế giới hiện hành đã nổi lên từ cuối thế kỷ mười tám, là kết quả của các giai
đoạn chót của Cách mạng Công nghiệp. Các khoảng cách về thịnh vượng đã
không chỉ nhỏ hơn nhiều, [vào thời điểm] mãi đến giữa thế kỷ mười tám, nhưng
những sự xếp hạng mà đã hết sức ổn định từ khi đó là không như nhau khi chúng
ta lùi xa hơn trong lịch sử. Thí dụ, ở châu Mỹ, sự xếp hạng mà chúng ta thấy
trong một trăm năm mươi năm vừa qua là hoàn toàn khác xếp hạng năm trăm năm
trước. Thứ hai, nhiều quốc gia đã trải qua nhiều thập kỷ tăng trưởng nhanh, ví dụ
như phần lớn Đông Á từ Chiến tranh Thế giới II và, Trung Quốc gần đây hơn. Rồi
nhiều trong số các nước này đã thấy sự tăng trưởng đó bắt đầu đảo ngược. Thí dụ,
Argentina đã tăng trưởng nhanh trong năm thập kỷ cho đến 1920, trở thành một
48 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
trong những nước giàu nhất thế giới, nhưng sau đó đã bắt đầu trượt dài. Liên Xô
thậm chí còn là thí dụ đáng chú ý hơn, tăng trưởng nhanh giữa 1930 và 1970,
nhưng rồi đã trải qua một sự sụp đổ nhanh.
Cái gì giải thích những sự khác biệt lớn này về nghèo khó và thịnh vượng và
các hình mẫu tăng trưởng? Vì sao các quốc gia Tây Âu và các nhánh thuộc địa
của chúng đầy người định cư Âu châu bắt đầu tăng trưởng trong thế kỷ mười chín,
hầu như không nhìn lại? Cái gì giải thích sự xếp hạng dai dẳng về bất bình đẳng ở
bên trong châu Mỹ? Vì sao các quốc gia Phi châu hạ-Sahara và Trung Đông đã
không đạt kiểu tăng trưởng thấy ở Tây Âu, trong khi phần lớn Đông Á đã trải
nghiệm tốc độ tăng trưởng kinh tế quá nhanh dễ gây tai nạn?
Người ta có thể nghĩ là, sự thực rằng sự bất bình đẳng thế giới là hết sức lớn và
hợp logic và có các hình mẫu được vẽ sắc nét như vậy, thì có nghĩa rằng nó có
một sự giải thích được chấp nhận rộng rãi. Không phải vậy. Hầu hết các giả
thuyết mà các nhà khoa học xã hội đã đề xuất cho nguồn gốc của sự nghèo khó và
thịnh vượng đơn giản không hoạt động và không giải thích được tình hình một
cách thuyết phục.
GIẢ THUYẾT ĐỊA LÝ
Một lý thuyết được chấp nhận rộng rãi về các nguyên nhân của sự bất bình đẳng
thế giới là giả thuyết địa lý, mà nó cho rằng sự cách biệt [divide] lớn giữa các
nước giàu và nghèo được tạo ra bởi những khác biệt địa lý. Nhiều nước nghèo,
chẳng hạn như các nước ở châu Phi, Trung Mỹ, và Nam Á, nằm ở vùng nhiệt đới
giữa Hạ chí tuyến [Bắc chí tuyến: vĩ độ 23° 26' 22" bắc] và Đông chí tuyến [Nam
chí tuyến: vĩ độ 23° 26' 22" nam]. Ngược lại, các nước giàu có xu hướng ở các
vùng ôn đới. Sự tập trung mang tính địa lý này của nghèo khó và thịnh vượng
mang lại sự quyến rũ nông cạn cho giả thuyết địa lý, mà là điểm xuất phát của các
lý thuyết và quan điểm của nhiều nhà khoa học xã hội và học giả uyên thâm tương
tự. Nhưng điều này không làm cho nó ít sai hơn.
Ngay từ cuối thế kỷ mười tám, nhà triết học chính trị Pháp vĩ đại Montesquieu
đã lưu ý đến sự tập trung mang tính địa lý của thịnh vượng và nghèo khó, và đã đề
xuất một sự giải thích cho nó. Ông cho rằng ở các vùng khí hậu nhiệt đới người
CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 49
dân có xu hướng lười biếng và thiếu tính tò mò. Như một hệ quả, họ không làm
việc siêng năng và không đổi mới, và đấy là lý do vì sao họ nghèo. Montesquieu
cũng đã suy đoán rằng những người lười có xu hướng bị cai trị bởi những kẻ bạo
chúa, gợi ý rằng vị trí nhiệt đới có thể giải thích không chỉ sự nghèo khó mà cả
một số hiện tượng chính trị gắn với thất bại kinh tế, như chế độ độc tài.
Lý thuyết rằng các nước nóng bức là nghèo một cách cố hữu, tuy mâu thuẫn
với sự tiến bộ kinh tế nhanh gần đây của các nước như Singapore, Malaysia,
Botswana, vẫn được biện hộ một cách mạnh mẽ bởi một số người, như nhà kinh
tế học Jeffrey Sachs. Phiên bản hiện đại của quan điểm này nhấn mạnh không
phải đến các ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu lên các nỗ lực làm việc hay quá trình
tư duy, mà đến hai lý lẽ bổ sung: thứ nhất, các bệnh nhiệt đới, nhất là sốt rét, có
các hậu quả rất có hại cho sức khỏe và vì thế cho năng suất lao động; và thứ hai,
đất nhiệt đới không cho phép nền nông nghiệp sinh lời. Kết luận, tuy vậy, cũng
thế: các vùng khí hậu ôn đới có lợi thế tương đối hơn các vùng nhiệt đới và nửa
nhiệt đới.
Sự bất bình đẳng thế giới, tuy vậy, không thể được giải thích bằng khí hậu hay
bệnh tật, hay bất cứ phiên bản nào của giả thuyết địa lý. Hãy chỉ nghĩ về Nogales.
Cái tách hai phần ra không phải là khí hậu, địa lý, hay môi trường bệnh tật, mà là
biên giới Hoa Kỳ-Mexico.
Nếu giả thuyết địa lý không thể giải thích nổi những khác biệt giữa bắc và nam
Nogales, hay Bắc và Nam Hàn, hay Đông và Tây Đức trước khi bức Tường
Berlin sụp đổ, liệu nó vẫn có thể là một lý thuyết hữu ích cho việc giải thích
những khác biệt giữa Bắc và Nam Mỹ? Giữa châu Âu và châu Phi? Hoàn toàn
không.
Lịch sử minh họa rằng không có mối quan hệ đơn giản hay lâu dài giữa khí
hậu hay địa lý và thành công kinh tế. Thí dụ, không đúng rằng vùng nhiệt đới đã
luôn luôn nghèo hơn các vùng ôn đới. Như chúng ta đã thấy ở chương trước, vào
thời Columbus chinh phục châu Mỹ, các vùng nam Hạ Chí Tuyến và bắc Đông
Chí Tuyến, mà hiện nay bao gồm Mexico, Trung Mỹ, Peru và Bolivia, đã có hai
nền văn minh lớn, văn minh Aztec và Inca. Các đế chế này đã tập trung và phức
tạp về mặt chính trị, đã xây dựng đường sá, và đã cung cấp cứu trợ nạn đói.
Những người Aztec đã có cả tiền lẫn chữ viết, và những người Inca, cho dù họ
50 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
thiếu cả hai công nghệ then chốt này, đã ghi lại các lượng thông tin khổng lồ trên
các dây được thắt nút, gọi là các quipu. Ngược lại hoàn toàn, trong thời của những
người Aztec và Inca, các vùng phía bắc và phía nam của vùng người Aztec và
Inca sinh sống, mà ngày nay bao gồm Hoa Kỳ, Canada, Argentina, và Chile, đã
hầu như chỉ có các nền văn minh Thời Đồ Đá thiếu các công nghệ này. Vùng
nhiệt đới ở châu Mỹ như thế đã giàu hơn các vùng ôn đới rất nhiều, gợi ý rằng “sự
thực hiển nhiên” về sự nghèo khó nhiệt đới đã không hiển nhiên và cũng chẳng là
một sự thực. Thay vào đó, sự giàu có lớn hơn ở Hoa Kỳ và Canada thể hiện một
sự đảo ngược hoàn toàn của sự phát đạt tương đối với cái đã có ở đó khi những
người Âu châu đến.
Sự đảo ngược này rõ ràng đã chẳng liên quan gì đến địa lý và, như chúng ta đã
thấy rồi, có liên quan gì đó với cách các vùng này bị thuộc địa hóa. Sự đảo ngược
này đã không giới hạn ở châu Mỹ. Người dân ở Nam Á, nhất là ở tiểu lục địa Ấn
Độ, và ở Trung Quốc đã thịnh vượng hơn những người ở nhiều phần khác của
châu Á, và chắc chắn hơn những người đã sống ở Australia và New Zealand. Điều
này, cũng đã đảo ngược, với Nam Hàn, Singapore, Nhật Bản nổi lên như các quốc
gia giàu nhất ở châu Á, và Australia và New Zealand vượt hầu như tất cả châu Á
về mặt thịnh vượng. Ngay cả bên trong châu Phi hạ-Sahara cũng đã có một sự đảo
ngược tương tự. Gần đây hơn, trước lúc bắt đầu của sự tiếp xúc Âu châu mạnh mẽ
với châu Phi, vùng nam châu Phi đã là vùng được định cư thưa thớt nhất và chẳng
hề có các nhà nước phát triển với bất cứ sự kiểm soát nào đối với lãnh thổ của họ.
Thế nhưng Nam Phi bây giờ là một trong các quốc gia thịnh vượng nhất ở châu
Phi hạ-Sahara. Lui xa hơn trong lịch sử, chúng ta lại thấy nhiều thịnh vượng ở các
vùng nhiệt đới; một số nền văn minh tiền-hiện đại, như Angkor ở Campuchia hiện
đại, Vijayanagara ở nam Ấn Độ, và Aksum ở Ethiopia, đã hưng thịnh trong các
vùng nhiệt đới, như các nền văn minh đại Lưu vực sông Indus ở Mohenjo Daro và
Hapara, ở Pakistan hiện đại, đã hưng thịnh. Như thế lịch sử để lại ít sự nghi ngờ
rằng không có mối quan hệ đơn giản giữa một địa điểm nhiệt đới và thành công
kinh tế.
Các bệnh nhiệt đới rõ ràng gây ra nhiều đau khổ và tỷ lệ tử vong cao ở châu
Phi, nhưng chúng không phải là lý do khiến châu Phi nghèo. Bệnh tật phần lớn là
hậu quả của nghèo khó và của các chính phủ không có khả năng hay không muốn
đảm trách các biện pháp y tế công cộng cần thiết để xóa bỏ chúng. Nước Anh
CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 51
trong thế kỷ mười chín cũng đã là một nơi rất hại cho sức khỏe, nhưng chính phủ
đã đầu tư dần dần vào nước sạch, vào xử lý thích hợp chất thải và nước thải, và,
cuối cùng, vào một ngành chăm sóc sức khỏe hiệu quả. Sức khỏe và ước tính tuổi
thọ được cải thiện đã không là nguyên nhân của thành công kinh tế của nước Anh,
mà là một trong những thành quả của những thay đổi chính trị và kinh tế trước đó.
Cũng đúng thế với Nogales, Arizona.
Phần khác của giả thuyết địa lý là, các vùng nhiệt đới là nghèo bởi vì nền nông
nghiệp nhiệt đới là không sinh lợi một cách cố hữu. Đất nhiệt đới mỏng và không
có khả năng duy trì các chất dinh dưỡng, người ta lập luận, và nhấn mạnh đất này
bị xói mòn nhanh thế nào bởi mưa xối. Chắc chắn có giá trị nào đó trong lý lẽ
này, nhưng như chúng ta sẽ chứng tỏ, yếu tố quyết định chính vì sao năng suất
nông nghiệp – sản lượng nông nghiệp trên một mẫu – lại hết sức thấp ở nhiều
nước nghèo, đặc biệt ở châu Phi hạ-Sahara, ít liên quan đến chất lượng đất. Đúng
hơn, nó là một hậu quả của cấu trúc quyền sở hữu đất và các khuyến khích mà
được các chính phủ và các thể chế tạo ra cho các nông dân sống dưới chúng.
Chúng ta cũng sẽ chứng tỏ rằng sự bất bình đẳng thế giới không thể được giải
thích bằng những khác biệt về năng suất nông nghiệp. Sự bất bình đẳng to lớn của
thế giới hiện đại, mà đã nổi lên trong thế kỷ mười chín, đã là do sự phổ biến
không đều của các công nghệ công nghiệp và sự sản xuất chế tác gây ra. Nó đã
không được gây ra bởi sự khác biệt về thành tích nông nghiệp.
Một phiên bản khác có ảnh hưởng của giả thuyết địa lý đã được thúc đẩy bởi
nhà sinh thái học và sinh học tiến hóa Jared Diamond. Ông cho rằng những nguồn
gốc của sự bất bình đẳng giữa các lục địa vào lúc đầu của thời kỳ hiện đại, năm
trăm năm trước, đã dựa vào các nguồn lực lịch sử khác nhau về các loài thực vật
và động vật, mà sau đó đã ảnh hưởng đến năng suất nông nghiệp. Ở một số nơi,
như vùng Lưỡi liềm Màu mỡ ở Trung Đông hiện đại, đã có nhiều loài mà con
người đã có thể thuần hóa. Ở những nơi khác, như châu Mỹ, đã không có. Có
nhiều loài có khả năng được thuần hóa đã khiến cho rất hấp dẫn đối với các xã hội
để chuyển từ cách sống săn bắt-hái lượm sang cách sống canh tác [chăn nuôi
trồng trọt]. Như một hệ quả, việc canh tác đã phát triển sớm hơn ở vùng Lưỡi liềm
Màu mỡ so với ở châu Mỹ. Mật độ dân số tăng lên, cho phép sự chuyên môn hóa
lao động, thương mại, và đô thị hóa, và sự phát triển chính trị. Một cách quyết
định, ở những nơi canh tác nông nghiệp chiếm ưu thế, đổi mới công nghệ đã diễn
52 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
ra nhanh hơn các phần khác của thế giới rất nhiều. Như thế, theo Diamond, sự sẵn
có khác nhau của các loài thực vật và động vật đã tạo ra những cường độ canh tác
chênh lệch, mà đã dẫn đến các con đường khác nhau của thay đổi công nghệ và sự
thịnh vượng khắp các lục địa khác nhau.
Mặc dù luận đề của Diamod là một cách tiếp cận mạnh mẽ đến câu đố, mà ông
chú tâm vào, nó không thể được mở rộng để giải thích sự bất bình đẳng thế giới
hiện đại. Thí dụ, Diamond cho rằng người Tây Ban Nha đã có thể thống trị các
nền văn minh của châu Mỹ bởi vì họ đã có lịch sử canh tác dài hơn và vì thế có
công nghệ ưu việt hơn. Nhưng bây giờ chúng ta phải giải thích vì sao những
người Mexic và Peru sống trên lãnh thổ trước kia của người Aztec và Inca lại
nghèo. Trong khi có sự tiếp cận đến lúa mỳ, lúa mạch, và ngựa đã có thể khiến
cho những người Tây Ban Nha giàu hơn những người Inca, khoảng cách thu nhập
giữa họ đã không rất lớn. Thu nhập trung bình của một người Tây Ban Nha đã có
lẽ ít hơn hai lần thu nhập trung bình của một công dân trong Đế chế Inca. Luận đề
của Diamond ngụ ý rằng một khi những người Inca được tiếp xúc với tất cả các
loài và các công nghệ sinh ra từ đó mà bản thân họ đã không có khả năng phát
triển, thì họ phải nhanh chóng đạt được mức sống của người Tây Ban Nha. Thế
nhưng cái xảy ra đã hoàn toàn không như vậy. Ngược lại, trong các thế kỷ mười
chín và hai mươi, một khoảng cách lớn hơn nhiều về thu nhập giữa Tây Ban Nha
và Peru đã nổi lên. Ngày nay một người Tây Ban Nha trung bình giàu hơn người
Peru trung bình hơn sáu lần. Khoảng cách này về thu nhập gắn mật thiết với sự
phổ biến không đều của các công nghệ công nghiệp hiện đại, nhưng việc này ít
liên quan hoặc đến tiềm năng thuần hóa thực vật và động vật hay đến những khác
biệt năng suất nông nghiệp giữa Tây Ban Nha và Peru. Trong khi Tây Ban Nha,
mặc dù với một độ trễ, đã chấp nhận và làm theo các công nghệ sức hơi nước,
đường sắt, điện, cơ khí hóa, và sản xuất ở nhà máy, Peru đã không, hay nhiều nhất
đã làm vậy rất chậm chạp và không hoàn hảo. Khoảng cách công nghệ này ngày
nay vẫn còn và tự tái tạo trên một quy mô lớn hơn khi các công nghệ mới, đặc
biệt các công nghệ liên quan đến công nghệ thông tin, cấp nhiên liệu thêm cho sự
tăng trưởng ở nhiều quốc gia phát triển và một số quốc gia đang phát triển. Luận
đề của Diamond không nói cho chúng ta vì sao những công nghệ cốt yếu này
không lan truyền và làm ngang bằng thu nhập trên thế giới và không giải thích
được vì sao nửa phía bắc của Nogales lại giàu hơn rất nhiều nửa sinh đôi của nó
CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 53
nằm ngay ở phía nam hàng rào, mặc dù cả hai đã là phần của cùng nền văn minh
năm trăm năm trước.
Câu chuyện của Nogales làm nổi bật một vấn đề lớn khác trong thích nghi luận
đề của Diamond: như chúng ta đã thấy, dù những hạn chế của các đế chế Inca và
Aztec vào năm 1532 đã thế nào, không nghi ngờ gì Peru và Mexico đã giàu hơn
các phần của châu Mỹ mà đã trở thành Hoa Kỳ và Canada. Bắc Mỹ đã trở nên
thịnh vượng hơn chính xác là bởi vì nó đã nhiệt tình chấp nhận các công nghệ và
những tiến bộ của Cách mạng Công nghiệp. Dân cư trở nên có giáo dục, đường
sắt trải khắp các Bình nguyên Lớn, hoàn toàn ngược lại với cái đã xảy ra ở Nam
Mỹ. Điều này không thể được giải thích bằng vạch ra những nguồn lực địa lý
chênh lệch của Bắc và Nam Mỹ, mà, có lẽ, đã ưu đãi Nam Mỹ.
Sự bất bình đẳng trong thế giới hiện đại chủ yếu là kết quả của sự truyền bá
không đều và sự chấp nhận các công nghệ, và luận đề của Diamond có bao gồm
các lý lẽ quan trọng về mặt này. Thí dụ, ông biện luận, đi theo nhà sử học William
McNeil, rằng sự định hướng [theo chiều] đông-tây của đại lục Á-Âu đã cho phép
cây trồng, động vật, và đổi mới lan từ vùng Lưỡi liềm Màu mỡ vào Tây Âu, trong
khi sự định hướng bắc-nam của châu Mỹ giải thích vì sao các hệ thống chữ viết,
mà được tạo ra ở Mexico, đã không lan tới vùng Andes hay tới Bắc Mỹ. Thế
nhưng sự định hướng của các lục địa không thể cung cấp một giải thích cho sự bất
bình đẳng thế giới ngày nay. Hãy xem xét châu Phi. Tuy Sa mạc Sahara đã có tỏ
ra là một rào cản đáng kể cho sự vận chuyển hàng hóa và ý tưởng từ phương bắc
đến châu Phi hạ-Sahara, rào cản này đã không phải là không thể vượt qua. Những
người Bồ Đào Nha, và sau đó là những người Âu châu khác, đã đi thuyền quanh
bờ biển và đã loại bỏ những khác biệt về kiến thức vào thời khi các khoảng cách
thu nhập đã là rất nhỏ so với các khoảng cách ngày nay. Kể từ đó, châu Phi đã
không bắt kịp châu Âu; ngược lại bây giờ có một khoảng cách thu nhập lớn hơn
rất nhiều giữa hầu hết các nước Phi châu và các nước Âu châu.
Cũng phải là rõ, rằng lý lẽ của Diamond, mà là về bất bình đẳng lục địa, đã
không được trang bị tốt để giải thích sự khác nhau bên trong các lục địa – một
phần quan trọng của sự bất bình đẳng thế giới hiện đại. Thí dụ, trong khi sự định
hướng của khối đất Á-Âu đã có thể giải thích nước Anh đã xoay xở thế nào để
hưởng lợi từ những đổi mới của Trung Đông mà không phải sáng chế lại chúng,
nó không giải thích vì sao Cách mạng Công nghiệp đã xảy ra ở nước Anh hơn là,
54 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
chẳng hạn, ở Moldova. Ngoài ra, như bản thân Diamond đã chỉ ra, Trung Quốc và
Ấn Độ đã hưởng lợi rất nhiều từ các bộ rất phong phú của các động vật và thực
vật, và từ sự định hướng của đại lục Á-Âu. Nhưng hầu hết những người nghèo
của thế giới ngày nay là ở hai nước đó.
Thực ra, cách tốt nhất để thấy phạm vi của luận đề của Diamond là bằng chính
các biến số giải thích của riêng ông. Bản đồ 4 cho thấy số liệu về phân bố của Sus
scrofa – Lợn rừng, tổ tiên của lợn hiện đại, và của bò rừng, tổ tiên của bò hiện
đại. Cả hai loài đã phân bố rộng ở đại lục Á-Âu và thậm chí ở Bắc Phi. Bản đồ 5
cho thấy phân bố của một số tổ tiên hoang dại của các cây trồng đã được thuần
hóa hiện nay, như Oryza sativa, tổ tiên của lúa được trồng ở châu Á, và tổ tiên của
lúa mỳ và lúa mạch. Nó chứng tỏ rằng tổ tiên hoang dã của lúa đã phân bố rộng
khắp nam và đông nam Á, trong khi tổ tiên của lúa mỳ và lúa mạch đã phân bố
dọc theo một cung dài kéo từ Levant, qua Iran và đến Afghanistan và cụm “stan”
(Turkmenistan, Tajikistan, và Krgyzistan). Các loài cổ này có mặt ở phần lớn đại
lục Á-Âu. Nhưng sự phân bố rộng của chúng gợi ý rằng sự bất bình đẳng bên
trong đại lục Á-Âu không thể được giải thích bằng một lý thuyết đựa vào mức độ
tác động của các loài.
CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 55
Giả thuyết địa lý không chỉ không hữu ích cho việc giải thích nguồn gốc của sự
thịnh vượng suốt lịch sử, và đa phần là sai trong sự nhấn mạnh của nó, mà cũng
không có khả năng giải thích thế đất (tình hình đặc trưng) mà chúng ta đã bắt đầu
chương này với. Người ta có thể biện hộ rằng bất cứ hình mẫu bền bỉ nào, ví dụ
như thứ bậc thu nhập ở bên trong châu Mỹ hay những khác biệt sắc nét và trải dài
gữa châu Âu và Trung Đông, có thể được giải thích bởi địa lý không thay đổi.
Nhưng điều này không phải vậy. Chúng ta đã thấy rồi, rằng các hình mẫu bên
trong châu Mỹ là cực kỳ ít có khả năng được thúc đẩy bởi các yếu tố địa lý. Trước
1492, các nền văn minh ở thung lũng trung tâm của Mexico, Trung Mỹ, và vùng
Andes đã có công nghệ và mức sống cao hơn Bắc Mỹ hay các nơi chẳng hạn như
Argentina và Chile. Trong khi địa lý vẫn như thế, các thể chế do các nhà thuộc địa
Âu châu áp đặt đã tạo ra một “sự đảo ngược vận may”. Địa lý cũng không chắc
giải thích được sự nghèo khó của Trung Đông vì các lý do tương tự. Rốt cuộc,
Trung Đông đã dẫn đầu thế giới trong Cách mạng Đồ đá Mới, và các thành phố
56 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
đầu tiên được xây dựng ở nơi nay là Iraq hiện đại. Sắt đã được nấu lần đầu tiên ở
Thổ Nhĩ Kỳ, và vào cuối thời Trung Cổ, Trung Đông đã năng động về mặt công
nghệ. Đã không phải địa lý của Trung Đông là cái đã khiến cho Cách mạng Đồ
Đá Mới hưng thịnh ở phần đó của thế giới, như chúng ta sẽ thấy ở chương 5, và,
lại lần nữa, không phải địa lý là cái làm cho Trung Đông nghèo. Thay vào đó, đã
chính là sự bành trướng và sự củng cố của Đế chế Ottoman, và chính là di sản thể
chế của đế chế này là cái giữ Trung Đông nghèo hiện nay.
Cuối cùng, các yếu tố địa lý là không hữu ích cho việc giải thích không chỉ
những khác biệt mà chúng ta thấy khắp các phần khác nhau của thế giới, mà cũng
chẳng giúp ích cho việc giải thích vì sao các quốc gia như Nhật Bản hay Trung
Quốc lại trì trệ trong các thời kỳ dài và rồi bắt đầu một quá trình tăng trưởng
nhanh. Chúng ta cần một lý thuyết khác, tốt hơn.
CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 57
GIẢ THUYẾT VĂN HÓA
Lý thuyết được chấp nhận rộng rãi thứ hai, giả thuyết văn hóa, liên kết thịnh
vượng với văn hóa. Giả thuyết văn hóa, cũng giống như giả thuyết địa lý, có một
dòng giống lỗi lạc, truy nguyên chí ít về đến Max Weber, nhà xã hội học Đức vĩ
đại, người cho rằng Cải cách Kháng cách1
(Protestant Reformation) và đạo đức
Kháng cách (Protestant ethic) mà nó khích lệ đã đóng vai trò then chốt trong tạo
thuận lợi cho sự thăng tiến của xã hội công nghiệp hiện đại ở Tây Âu. Giả thuyết
văn hóa không còn chỉ dựa vào tôn giáo, mà nhấn mạnh cả các loại khác của niềm
tin, giá trị, và đạo đức nữa.
Mặc dù là không đúng đắn về mặt chính trị để diễn đạt công khai, nhiều người
vẫn cho rằng những người châu Phi nghèo bởi vì họ thiếu một đạo lý làm việc tốt,
vẫn tin vào phù thủy và ma thuật, hoặc kháng cự các công nghệ phương Tây.
Nhiều người cũng tin rằng Mỹ Latin sẽ chẳng bao giờ giàu bởi vì người dân của
nó hoang toàng và túng quẫn, và bởi vì họ có thiên hướng văn hóa “Iberian” hay
“mañana” nào đó.2
Tất nhiên, nhiều người một thời đã tin rằng văn hóa Trung
Quốc hay các giá trị khổng giáo là không thân thiện với tăng trưởng kinh tế, mặc
dù ngày nay người ta om sòm nói về tầm quan trọng của văn hóa làm việc Trung
Hoa như động cơ tăng trưởng ở Trung Quốc, Hồng Kông, và Singapore.
Giả thuyết văn hóa có hữu ích cho việc hiểu sự bất bình đẳng thế giới? Có và
không. Có, theo nghĩa rằng các chuẩn mực xã hội, mà có liên quan đến văn hóa,
là có ý nghĩa và khó thay đổi, và đôi khi chúng cũng ủng hộ các khác biệt thể chế,
mà đấy [sự khác biệt thể chế] là sự giải thích của cuốn sách này cho sự bất bình
đẳng thế giới. Nhưng thường là không, bởi vì các khía cạnh đó của văn hóa
thường được nhấn mạnh – tôn giáo, đạo đức dân tộc, các giá trị Phi châu hay
Latin – đúng là không quan trọng cho việc hiểu về làm thế nào chúng ta lại tới
1
Protestant cũng thường được dịch ra tiếng Việt là Tin lành, tuy phong trào Tin lành (Evangelism) chỉ là một trào lưu
thuộc phong trào Kháng cách (Protestantism), ngoài Tin lành ra còn có các giáo phái khác cũng thuộc cộng đồng Kháng
cách lớn này như Anh giáo, Calvinist vân vân. Tại Việt Nam Tin lành là cộng đồng Kháng cách lớn nhất, có lẽ vì thế mà có
sự lẫn lộn về thuật ngữ như vậy. Trong bản dịch này đôi khi để nguyên là protestant.
2
Mañana tiếng Tây ban Nha có nghĩa là ngày mai, hặc là một thời điểm không xác định trong tương lai, văn hóa mañana
có thể được đặc trưng bằng câu tục ngữ của họ “sao lại phải làm hôm nay nếu cũng có thể làm vào ngày mai”.
58 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
đây và vì sao sự bất bình đẳng thế giới lại dai dẳng. Các khía cạnh khác, thí dụ
như mức độ mà người dân tin cậy lẫn nhau hoặc có khả năng hợp tác, là quan
trọng nhưng chủ yếu chúng là kết quả của các thể chế, chứ không phải là nguyên
nhân độc lập.
Hãy quay lại với Nogales. Như chúng ta đã nhắc tới sớm hơn, nhiều khía cạnh
văn hóa là như nhau ở phía bắc và phía nam hàng rào. Tuy nhiên, có thể có một số
khác biệt rõ rệt về các thông lệ, chuẩn mực, và giá trị, mặc dù đấy không phải là
những nguyên nhân mà là những kết quả của các con đường phát triển khác nhau
của hai nơi. Thí dụ, trong các cuộc điều tra những người Mexic thường nói rằng
họ tin cậy những người khác ít hơn các công dân Hoa Kỳ nói họ tin những người
khác. Nhưng không phải là một sự ngạc nhiên rằng những người Mexic thiếu sự
tin cậy khi chính phủ của họ không thể loại bỏ các cartel ma túy hay cung cấp một
hệ thống pháp lý hoạt động không thiên vị. Cũng đúng như thế với Bắc và Nam
Hàn, khi chúng ta thảo luận ở chương tiếp theo. Niền Nam là một trong các nước
giàu nhất trên thế giới, trong khi miền Bắc vật lộn với nạn đói định kỳ và sự
nghèo khó khốn khổ. Trong khi “văn hóa” là rất khác nhau giữ miền Nam và
miền Bắc hiện nay, nó đã không đóng vai trò gì trong gây ra vận may kinh tế khác
nhau của hai nửa quốc gia này. Bán đảo Triều Tiên đã có một giai đoạn dài của
lịch sử chung. Trước Chiến tranh Triều Tiên và sự chia cắt ở vĩ tuyến 38, nó đã có
một mức độ đồng đều chưa từng có về các mặt ngôn ngữ, sắc tộc, và văn hóa. Hệt
như ở Nogales, cái có ý nghĩa là đường biên giới. Về phía bắc là một chế độ khác,
áp đặt các thể chế khác, tạo ra các khuyến khích khác. Bất cứ sự khác biệt nào về
văn hóa giữa nam và bắc của đường biên giới cắt ngang qua hai nửa Nogales hay
hai miền Triều Tiên như thế không phải là một nguyên nhân của những khác biệt
về sự thịnh vượng, mà, đúng hơn, là một hậu quả.
Còn về châu Phi và văn hóa Phi châu thì sao? Về mặt lịch sử, châu Phi hạ-
Sahara đã nghèo hơn hầu hết các phần khác của thế giới, và các nền văn minh cổ
của nó đã không phát triển bánh xe, chữ viết (trừ Ethiopia và Somalia), hay [cái]
cày. Mặc dù các công nghệ này đã không được sử dụng rộng rãi cho đến khi sự
thực dân hóa Âu châu chính thức đến vào cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ hai
mươi, các xã hội Phi châu biết về chúng sớm hơn nhiều. Những người Âu châu đã
bắt đầu đi thuyền quanh bờ tây vào cuối thế kỷ thứ mười lăm, và những người Á
châu đã liên tục đi thuyền đến Đông Phi sớm hơn nhiều.
CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 59
Chúng ta có thể hiểu vì sao những công nghệ này đã không được chấp nhận từ
lịch sử của Vương quốc Kongo ở cửa sông Congo, mà đã trao tên của nó cho
Cộng hòa Dân chủ Congo hiện đại. Bản đồ 6 cho thấy Kongo đã ở đâu cùng với
một nhà nước trung phi quan trọng khác, Vương quốc Kuba, mà chúng ta sẽ thảo
luận muộn hơn trong cuốn sách.
Kongo đã tiếp xúc mạnh mẽ với người Bồ Đào Nha sau khi thủy thủ Diogo
Cão đến thăm nó lần đầu tiên vào năm 1483. Tại thời đó, Kongo đã là một chính
thể được tập trung cao độ theo các tiêu chuẩn Phi châu, mà thủ đô của nó,
Mbanza, đã có dân số sáu mươi ngàn người, làm cho nó có cùng quy mô như thủ
đô Bồ Đào Nha, Lisbon, và lớn hơn London, có dân số khoảng năm mươi ngàn
vào năm 1500. Vua Kongo, Nzinga a Nkuwu, đã cải đạo sang Công giáo
(Catholicism) và đã đổi tên thành João I. Muộn hơn tên của Mbanza được đổi
thành São Salvador. Nhờ những người Bồ Đào Nha, những người Kongo đã học
về bánh xe và cái cày, và người Bồ Đào Nha thậm chí đã cổ vũ sự chấp nhận
60 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
chúng với các phái đoàn công cán nông nghiệp vào năm 1491 và 1512. Nhưng tất
cả những sáng kiến này đã thất bại. Ấy thế mà, những người Kongo đã hoàn toàn
không phải không thích các công nghệ hiện đại nói chung. Họ đã rất nhanh để
chấp nhận một đổi mới sáng tạo phương Tây đáng kính: súng. Họ đã dùng công
cụ mới và hùng mạnh này để đáp lại các khuyến khích thị trường: để bắt và xuất
khẩu nô lệ. Chẳng hề có dấu hiệu nào ở đây rằng các giá trị hay văn hóa Phi châu
đã ngăn cản sự chấp nhận các công nghệ và thói quen mới. Khi những tiếp xúc
của họ với những người Âu châu sâu thêm, những người Kongo đã chấp nhận các
thói quen phương Tây khác: biết đọc biết viết, phong cách ăn mặc, kiểu mẫu nhà
cửa. Trong thế kỷ mười chín, nhiều xã hội Phi châu cũng đã tận dụng các cơ hội
kinh tế tăng lên do Cách mạng Công nghiệp tạo ra bằng cách thay đổi các hình
mẫu sản xuất của họ. Ở Tây Phi đã có sự phát triển kinh tế nhanh dựa trên xuất
khẩu dầu cọ và lạc; khắp miền nam châu Phi, những người Phi châu đã phát triển
xuất khẩu cho các vùng công nghiệp và khai mỏ đang mở rộng nhanh chóng của
Rand ở Nam Phi. Thế nhưng những thử nghiệm kinh tế đầy hứa hẹn này đã bị xóa
sạch không phải bởi văn hóa Phi châu hay bởi sự bất tài của những người dân
thường Phi châu để hành động vì lợi ích riêng của họ, mà đầu tiên bởi chủ nghĩa
thực dân Âu châu và sau đó bởi các chính phủ Phi châu sau độc lập.
Lý do thực sự của việc những người Kongo không chấp nhận công nghệ ưu
việt bởi vì họ đã không có khuyến khích nào để làm vậy. Họ đã đối mặt với một
rủi ro cao về tất cả sản lượng của họ bị chiếm đoạt hay bị đánh thuế bởi nhà vua
có mọi quyền lực, dẫu cho ngài đã có cải đạo sang Công giáo hay không. Thực ra,
đã không chỉ là tài sản của họ không an toàn. Sự tồn tại tiếp tục của họ được giữ
bằng một sợi chỉ. Nhiều trong số họ đã bị bắt và bị bán làm nô lệ – một môi
trường hầu như không khích lệ đầu tư để làm tăng năng suất dài hạn. Nhà vua
cũng đã chẳng có các khuyến khích để làm cho việc chấp nhận [công nghệ] cày
trên quy mô lớn hay gia tăng năng suất nông nghiệp thành ưu tiên chính của ngài;
xuất khẩu nô lệ đã sinh lợi hơn rất nhiều.
Đã có thể đúng ngày nay rằng những người Phi châu tin cậy lẫn nhau ít hơn
người dân ở những phần khác của thế giới. Nhưng đấy là một kết quả của một lịch
sử dài của các thể chế mà đã làm xói mòn các quyền con người và quyền tài sản ở
châu Phi. Khả năng bị bắt và bị bán như một nô lệ, không nghi ngờ gì đã ảnh
hưởng đến mức độ mà những người Phi châu tin vào nhau về mặt lịch sử.
CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 61
Về đạo đức Protestant của Max Weber thì sao? Mặc dù có thể đúng rằng các
nước hầu thết theo Protestant, ví dụ như Hà Lan và Anh, đã là những thành công
kinh tế đầu tiên của kỷ nguyên hiện đại, có ít quan hệ giữa tôn giáo và thành công
kinh tế. Pháp, nước hầu hết theo Công giáo, đã mau chóng bắt chước thành tích
kinh tế của người Hà Lan và người Anh trong thế kỷ mười chín, và ngày nay Italy
cũng thịnh vượng như bất cứ quốc gia nào trong các quốc gia này. Nhìn xa hơn
sang phương đông, bạn sẽ thấy rằng chẳng có nền kinh tế nào trong các nền kinh
tế thành công của Đông Á có bất cứ quan hệ gì với bất cứ hình thức Kitô giáo
(Christian) nào, cho nên cũng chẳng có mấy sự ủng hộ cho một mối quan hệ đặc
biệt giữa phong trào Protestant và thành công kinh tế cả ở đó nữa.
Hãy quay sang vùng ưa thích đối với những người say mê giả thuyết văn hóa:
Trung Đông. Các nước Trung Đông chủ yếu theo đạo Hồi, và các nước không sản
xuất dầu trong số đó là rất nghèo, như chúng ta đã nhắc tới. Các nước sản xuất
dầu giàu hơn, nhưng của cải trời cho này đã làm chẳng bao nhiêu để tạo ra các
nền kinh tế hiện đại đa dạng ở Saudi Arabia hay Kuwait. Chẳng phải những sự
thực này cho thấy một cách thuyết phục rằng tôn giáo có ý nghĩa? Mặc dù có vẻ
hợp lý, lý lẽ này cũng chẳng đúng. Đúng, các nước Syria và Ai Cập là nghèo, và
dân cư của chúng chủ yếu theo đạo Hồi. Nhưng các nước này cũng khác một cách
có hệ thống theo những cách khác mà quan trọng hơn nhiều đối với sự thịnh
vượng. Trước hết, tất cả chúng đã là các tỉnh của Đế chế Ottoman, mà đã định
hình một cách nặng nề và bất lợi cách chúng đã phát triển. Sau khi sự cai trị
Ottoman sụp đổ, Trung Đông đã bị gộp vào các đế chế thuộc địa Anh và Pháp,
mà, lại lần nữa, làm còi cọc những khả năng của chúng. Sau khi độc lập, chúng đã
hầu như đi theo thế giới thuộc địa trước đó bằng cách phát triển các chế độ chính
trị thứ bậc, chuyên quyền với số ít các thể chế chính trị và kinh tế mà, như chúng
ta sẽ biện luận, là cốt yếu cho việc tạo ra thành công kinh tế. Con đường phát triển
này đã được tạo dựng chủ yếu bởi lịch sử của sự cai trị Ottoman và Âu châu.
Quan hệ giữa Hồi giáo và nghèo khó ở Trung Đông phần lớn là giả.
Vai trò của các sự kiện lịch sử này, hơn là các yếu tố văn hóa, trong định hình
quỹ đạo kinh tế của Trung Đông cũng được thấy trong sự thực rằng các phần của
Trung Đông mà tạm thời thoát khỏi được ảnh hưởng của Đế chế Ottoman và các
cường quốc Âu châu, như Ai Cập giữa 1805 và 1848 dưới thời Muhammad Ali,
đã có thể bắt đầu tiến lên con đường thay đổi kinh tế nhanh. Muhammad Ali đã
62 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
chiếm quyền tiếp sau sự rút lui của các lực lượng Pháp đã chiếm đóng Ai Cập
dưới thời Napoleon Bonaparte. Khai thác sự yếu ớt của ảnh hưởng Ottoman lên
lãnh thổ Ai Cập lúc đó, ông đã có thể lập ra triều đại riêng của mình, mà, dưới
hình thức này hay hình thức khác, đã có thể cai trị cho đến Cách mạng Ai Cập
dưới sự lãnh đạo của Nasser năm 1952. Các cuộc cải cách của Muhammad Ali,
mặc dù cưỡng bức, đã mang lại sự tăng trưởng cho Ai Cập khi bộ máy nhà nước,
quân đội, hệ thống thuế đã được hiện đại hóa và đã có tăng trưởng trong nông
nghiệp và công nghiệp. Tuy nhiên, quá trình hiện đại hóa và tăng trưởng này đã
kết thúc sau cái chết của Ali, vì Ai Cập đã rơi vào ảnh hưởng của châu Âu.
Nhưng có lẽ đấy là cách sai để nghĩ về văn hóa. Có thể các yếu tố văn hóa mà
có ý nghĩa lại không gắn với tôn giáo mà đúng hơn gắn với “các văn hóa dân tộc”
cá biệt. Có lẽ ảnh hưởng của văn hóa Anh là cái quan trọng và giải thích vì sao
các nước như Hoa Kỳ, Canada, và Australia thịnh vượng đến vậy? Mặc dù ý
tưởng này ban đầu nghe có vẻ hấp dẫn, nó cũng chẳng có hiệu lực. Đúng, Hoa Kỳ
và Canada đã là các thuộc địa của Anh, nhưng Sierra Leone và Nigeria cũng thế.
Sự biến động về thịnh vượng bên trong các thuộc địa trước kia của Anh cũng lớn
như sự biến động thịnh vượng trên toàn thế giới. Di sản Anh không phải là lý do
cho thành công của Bắc Mỹ.
Còn có một phiên bản nữa của giả thuyết văn hóa: có lẽ không phải là Anh đối
lại không Anh là cái có ý nghĩa, mà là Âu châu đối lại không Âu châu. Có thể
chăng là, những người Âu châu giỏi hơn vì lý do nào đó bởi vì đạo đức làm việc,
cách nhìn về cuộc sống, các giá trị Do Thái-Kitô giáo, hay di sản La Mã của họ?
Đúng là dân cư của Tây Âu và Bắc Mỹ, những phần thịnh vượng nhất của thế
giới, chủ yếu là những người có nguồn gốc Âu châu. Có lẽ di sản văn hóa Âu
châu ưu việt hơn là cái nằm ở gốc của sự thịnh vượng – và là nơi ẩn náu cuối
cùng của giả thuyết văn hóa. Chao ôi, phiên bản này của giả thuyết văn hóa cũng
có ít khả năng giải thích như các phiên bản khác. Phần lớn hơn của dân cư ở
Argentina và Uruguay, so với dân cư Hoa Kỳ và Canada, là những người có gốc
Âu châu, nhưng thành tích kinh tế của Argentina và Uruguay có nhiều điểm đáng
chê. Nhật Bản và Singapore đã chẳng bao giờ có nhiều hơn một nhúm cư dân gốc
Âu châu, thế nhưng họ thịnh vượng như nhiều phần của Tây Âu.
Trung Quốc, bất chấp nhiều thiếu sót trong hệ thống kinh tế và chính trị của
nó, đã là quốc gia tăng trưởng nhanh nhất của ba thập kỷ vừa qua. Sự nghèo khó
CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 63
của Trung Quốc cho đến cái chết của Mao Trạch Đông đã chẳng liên quan gì đến
văn hóa Trung Hoa; nó đã là do cung cách tai họa mà Mao đã tổ chức nền kinh tế
và điều hành chính trị. Trong các năm 1950, Mao đã thúc đẩy phong trào Đại
Nhảy Vọt, một chính sách công nghiệp hóa quyết liệt mà đã dẫn tới chết đói hàng
loạt và nạn đói. Trong các năm 1960, ông đã tuyên truyền Cách mạng Văn hóa,
mà đã dẫn đến sự đàn áp hàng loạt trí thức và những người có học – bất cứ ai mà
lòng trung thành với đảng bị nghi ngờ. Việc này, một lần nữa, lại đã dẫn đến
khủng bố và một sự lãng phí khổng lồ tài năng và nguồn lực của xã hội. Cũng thế,
tăng trưởng hiện thời của Trung Quốc chẳng có liên quan gì đến các giá trị Trung
Hoa hay đến những thay đổi về văn hóa Trung Hoa; nó là kết quả của một quá
trình biến đổi kinh tế được tháo xích bởi những cải cách được thực hiện bởi Đặng
Tiểu Bình và các đồng minh của ông, người, sau cái chết của Mao Trạch Đông, đã
dần dần từ bỏ các chính sách và các thể chế kinh tế xã hội chủ nghĩa, đầu tiên
trong nông nghiệp và sau đó trong công nghiệp.
Hệt như giả thuyết địa lý, giả thuyết văn hóa cũng vô ích cho sự giải thích các
khía cạnh khác của địa hình địa thế [tình hình] xung quanh chúng ta ngày nay. Tất
nhiên, có những khác biệt về lòng tin, thái độ văn hóa, và các giá trị giữa Hoa Kỳ
và Mỹ Latin, nhưng hệt như những khác biệt giữa Nogales, Arizona, và Nogales,
Sonora, hoặc giữa Bắc và Nam Hàn, những khác biệt này là hệ quả của các thể
chế và lịch sử thể chế khác nhau của hai nơi. Các yếu tố văn hóa mà nhấn mạnh
văn hóa “Hispanic” hay “Latin” đã đúc Đế chế Tây Ban Nha bằng khuôn không
thể giải thích những sự khác biệt bên trong châu Mỹ Latin – thí dụ, vì sao
Argentina và Chile thịnh vượng hơn Peru và Bolivia. Các loại khác của các lý lẽ
văn hóa – chẳng hạn, những loại nhấn mạnh văn hóa bản địa đương đại – cũng
hoạt động tồi ngang thế. Argentina và Chile có ít dân bản địa so với Peru và
Bolivia. Mặc dù điều này đúng, văn hóa bản địa với tư cách một sự giải thích
cũng chẳng có hiệu lực. Colombia, Ecuador, và Peru có mức sống tương tự nhau,
nhưng ngày nay Columbia có rất ít người bản địa, trong khi Ecuador, và Peru có
nhiều. Cuối cùng, các thái độ văn hóa, mà nói chung là chậm để thay đổi, bản
thân chúng không chắc giải thích được sự tăng trưởng kỳ diệu ở Đông Á và Trung
Quốc. Mặc dù các thể chế tồn tại dai dẳng, trong những hoàn cảnh nhất định
chúng cũng thay đổi nhanh chóng, như chúng ta sẽ thấy.
64 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
GIẢ THUYẾT DỐT NÁT
Lý thuyết được ưa chuộng cuối cùng về vì sao một số quốc gia nghèo và một số
giàu là giả thuyết dốt nát, mà nó khẳng định rằng sự bất bình đẳng thế giới tồn tại
bởi vì chúng ta hay những kẻ cai trị chúng ta không biết làm thế nào để biến các
nước nghèo thành giàu. Ý tưởng này là ý tưởng của hầu hết các nhà kinh tế học,
những người nhận được sự gợi ý từ định nghĩa nổi tiếng do nhà kinh tế học Anh
Lionel Robins đề xuất năm 1935 rằng “kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu
hành vi con người như một mối quan hệ giữa các mục đích và các phương tiện
khan hiếm mà có những cách sử dụng khả dĩ khác”.
Sau đó chỉ là một bước nhỏ để kết luận rằng khoa học kinh tế phải tập trung
vào cách sử dụng tốt nhất các phương tiện khan hiếm để thỏa mãn các mục đích
xã hội. Thực vậy, kết quả lý thuyết nổi tiếng nhất trong kinh tế học, cái được gọi
là Định lý Phúc lợi Thứ nhất, nhận diện hoàn cảnh mà dưới đó sự phân bổ nguồn
lực trong một “nền kinh tế thị trường” là đáng mong mỏi về mặt xã hội nhìn từ
quan điểm kinh tế. Một nền kinh tế thị trường là một sự trừu tượng hóa mà có ý
định nắm bắt một hoàn cảnh trong đó tất cả các cá nhân và các hãng có thể sản
xuất, mua, và bán một cách tự do bất cứ sản phẩm hay dịch vụ nào mà họ muốn.
Khi các hoàn cảnh này không hiện diện thì có một “khiếm khuyết thị trường –
market failure – hay thất bại thị trường”. Những khiếm khuyết như vậy tạo cơ sở
cho một lý thuyết về sự bất bình đẳng thế giới, vì các khiếm khuyết thị trường
càng không được giải quyết, thì một nước càng có khả năng là nghèo. Giả thuyết
dốt nát xác nhận rằng các nước nghèo là nghèo bởi vì chúng có nhiều khiếm
khuyết thị trường và bởi vì các nhà kinh tế học và các nhà hoạch định chính sách
không biết làm thế nào để thoát khỏi chúng và đã chú ý đến lời khuyên sai trong
quá khứ. Các nước giàu là giàu bởi vì họ đã hình dung ra các chính sách tốt hơn
và đã thành công loại bỏ các khiếm khuyết này.
Giả thuyết dốt nát có thể giải thích sự bất bình đẳng thế giới? Có thể chăng
rằng các nước Phi châu nghèo hơn phần còn lại của thế giới là bởi vì các nhà lãnh
đạo của họ có xu hướng có cùng các quan điểm sai lầm về làm thế nào để vận
hành các nước của họ, dẫn đến sự nghèo khó ở đó, trong khi các nhà lãnh đạo Tây
Âu có hiểu biết tốt hơn hay được khuyên bảo tốt hơn, mà giải thích thành công
tương đối của họ? Trong khi có các thí dụ nổi tiếng về các nhà lãnh đạo chọn làm
CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 65
theo các chính sách tai hại bởi vì họ đã hiểu lầm các hậu quả của những chính
sách đó, sự dốt nát có thể giải thích một phần nhỏ của sự bất bình đẳng thế giới.
Xét theo bề ngoài, sự sa sút kinh tế kéo dài, mà đã bắt đầu ngay ở Ghana sau
khi độc lập khỏi Anh, đã do sự dốt nát gây ra. Nhà kinh tế học Anh Tony Killick,
khi đó hoạt động với tư cách một cố vấn cho chính phủ Kwame Nkrumah đã ghi
lại rất chi tiết nhiều vấn đề. Các chính sách của Nkrumah đã tập trung vào phát
triển công nghiệp nhà nước, mà đã hóa ra là rất không hiệu quả. Killick nhớ lại:
Nhà máy giày … mà phải gắn với nhà máy thịt ở miền Bắc qua việc vận
chuyển da xuống miền Nam (suốt một khoảng cách trên 500 dặm) đến
một nhà máy thuộc da (bây giờ bị bỏ hoang); đã phải chở da thuộc ngược
lại bằng xe tải đến nhà máy giày ở Kumasi, ở giữa nước và cách nhà máy
thuộc da khoảng 200 dặm về phía bắc. Vì thị trường giày chính là ở vùng
đô thị Accra, nên sau đó giày phải được vận chuyển thêm 200 dặm quay
lại miền Nam.
Killick bình luận một cách hơi giảm bớt rằng đấy đã là một hoạt động kinh
doanh “mà khả năng sinh lời của nó bị xói mòn bởi sự lựa chọn địa điểm tồi”.
Nhà máy giày chỉ là một trong nhiều dự án như vậy, thêm vào là nhà máy đóng
hộp xoài được đặt tại vùng của Ghana mà đã không trồng xoài và sản lượng của
nó đã nhiều hơn cầu của toàn thế giới đối với sản phẩm đó. Dòng vô tận này của
những việc triển khai phi lý về mặt kinh tế đã không được gây ra bở sự thực rằng
Nkrumah và các cố vấn của ông đã kém hiểu biết hay đã dốt nát về các chính sách
kinh tế đúng. Họ đã có những cố vấn như Killick và đã thậm chí được tư vấn bởi
kinh tế gia được giải Nobel, Sir Arthur Lewis, những người đã biết các chính sách
này là không tốt. Cái đã khiến các chính sách kinh tế có hình thức ấy là sự thực
rằng Nkrumah đã cần phải sử dụng chúng để mua sự ủng hộ chính trị và để duy trì
chế độ phi dân chủ của ông. Thành tích gây thất vọng của Ghana sau độc lập
không thể, và vô số các trường hợp khác về quản lý kinh tế sai rành rành cũng
chẳng thể, đơn giản đổ lỗi cho sự ngu dốt. Rốt cuộc, nếu giả như sự ngu dốt là vấn
đề, thì các nhà lãnh đạo có thiện chí sẽ nhanh chóng học được các loại chính sách
nào làm tăng thu nhập và phúc lợi của các công dân của họ, và sẽ hướng theo các
chính sách đó.
66 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Hãy xem xét những con đường khác nhau của Hoa Kỳ và Mexico. Quy sự
khác biệt này cho sự dốt nát của các lãnh đạo của hai quốc gia, nhiều nhất, là có
vẻ hết sức không hợp lý. Đã không phải là những sự khác biệt về hiểu biết hay về
ý định giữa John Smith và Cortés là cái đã gieo hạt phân kỳ trong giai đoạn thuộc
địa, và đã không phải là những sự khác biệt về hiểu biết giữa các tổng thống Hoa
Kỳ muộn hơn, như Teddy Roosevelt hay Woodrow Wilson, và Porfirio Díaz là
cái đã khiến cho Mexico chọn các thể chế kinh tế làm giàu cho elite gây tổn hại
cho phần còn lại của xã hội vào cuối thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi,
trong khi Roosevelt và Wilson thì đã làm ngược lại. Đúng hơn, đã là những khác
biệt về các ràng buộc thể chế mà các tổng thống và elite của hai nước đã phải đối
mặt. Tương tự, các nhà lãnh đạo của các quốc gia Phi châu, các quốc gia sống khổ
cực dưới các quyền tài sản và các thể chế kinh tế không an toàn, bần cùng hóa
phần lớn dân cư của họ, đã không cho phép điều này xảy ra bởi vì họ đã nghĩ nó
là nền kinh tế tốt; họ đã làm như vậy bởi vì họ đã có thể không bị trừng phạt và
làm giàu cho bản thân họ gây tổn hại cho những người còn lại, hay bởi vì họ đã
nghĩ là quan điểm chính trị tốt, một cách để bản thân họ bám lấy quyền lực bằng
cách mua sự ủng hộ của các nhóm cốt yếu hay elite.
Kinh nghiệm của thủ tướng Ghana trong năm 1971, Kofi Busia, minh họa giả
thuyết ngu dốt có thể gây lạc lối đến thế nào. Busia đã đối mặt với một khủng
hoảng kinh tế nguy hiểm. Sau khi lên nắm quyền năm 1969, giống như Nkrumah
trước ông, ông đã theo đuổi các chính sách kinh tế mở rộng không bền vững và
duy trì những sự kiểm soát giá khác nhau thông qua các hội đồng marketing và đã
định tỷ giá hối đoái cao. Mặc dù Busia đã là một định thủ của Nkrumah, và đã
lãnh đạo một phong trào dân chủ, ông đã phải đối mặt với nhiều ràng buộc chính
trị cũng như thế. Như với Nkrumah, các chính sách kinh tế của ông đã được chấp
nhận không phải bởi vì ông đã “dốt nát” và đã tin rằng những chính sách này là
chính sách kinh tế tốt hay là một cách lý tưởng để phát triển đất nước. Các chính
sách này đã được chọn bởi vì chúng đã tốt về mặt chính trị, cho phép Busia
chuyển nguồn lực cho các nhóm hùng mạnh về mặt chính trị, thí dụ ở các vùng đô
thị, những người cần phải được cảm thấy hài lòng. Những việc kiểm soát giá đã
vắt ngành nông nghiệp, cung cấp thực phẩm rẻ cho các cử tri đô thị và tạo thu
nhập để tài trợ cho chi tiêu của chính phủ. Nhưng những kiểm soát này đã là
không bền vững. Ghana mau chóng đã bị một loạt khủng hoảng về cán cân thanh
toán và thiếu hụt ngoại hối. Đối mặt với những thế lưỡng nan này, ngày 27-12-
CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 67
1971, Busia đã ký một thỏa thuận với Quỹ Tiền tệ Quốc tế, IMF, mà bao gồm một
sự phá giá ồ ạt đồng nội tệ.
IMF, Ngân hàng Thế giới, và toàn bộ cộng đồng quốc tế đã gây áp lực lên
Busia để thực thi những cải cách chứa trong thỏa thuận. Mặc dù các thể chế quốc
tế đã sung sướng không ý thức được, nhưng Busia biết rõ ông đang lao vào một
cuộc đánh bạc chính trị khổng lồ. Hệ quả ngay lập tức của việc phá giá đồng tiền
đã là bạo loạn và bất mãn ở Accra, thủ đô Ghana, mà đã lên đến mức không thể
kiểm soát nổi cho đến khi Busia bị lật đổ bởi quân đội, lãnh đạo bởi Trung Tá
Acheampong, người đã lập tức đảo ngược việc phá giá.
Giả thuyết dốt nát khác các giả thuyết địa lý và văn hóa ở chỗ nó đến dễ dàng
với một gợi ý về “giải quyết” vấn đề nghèo khó như thế nào: nếu sự dốt nát đã
đưa chúng ta đến đây, thì các nhà cai trị và các nhà hoạch định chính sách được
giác ngộ và có hiểu biết sẽ có thể đưa chúng ta ra khỏi và chúng ta phải có khả
năng “sắp đặt-engineer” sự thịnh vượng quanh thế giới bằng cách cung cấp lời
khuyên đúng và thuyết phục các nhà chính trị về nền kinh tế tốt là gì. Thế nhưng
kinh nghiệm của Busia nhấn mạnh sự thực rằng trở ngại chính đối với việc chấp
nhận các chính sách mà sẽ làm giảm những khiếm khuyết thị trường và khích lệ
tăng trưởng kinh tế không phải là sự vô minh, sự dốt nát của các nhà chính trị mà
là các khuyến khích (incentive) và các ràng buộc (constraint) họ đối mặt từ các
thể chế chính trị và kinh tế trong các xã hội của họ.
Mặc dù giả thuyết dốt nát vẫn ngự trị cao nhất giữa hầu hết các nhà kinh tế học
và trong giới làm chính sách phương Tây – mà, hầu như loại trừ tất cả những thứ
khác, chỉ chú tâm vào làm thế nào để sắp đặt, lập kế hoạch sự thịnh vượng – nó
chỉ là một giả thuyết khác không có hiệu lực. Nó không giải thích được các nguồn
gốc của thịnh vượng quanh thế giới và cũng chẳng giải thích được tình hình (thế
đất) quanh chúng ta – thí dụ, vì sao một số quốc gia, chẳng hạn Mexico và Peru,
chứ không phải Hoa Kỳ hay Anh, đã chấp nhận các thể chế và các chính sách bần
cùng hóa đa số công dân của họ, hay vì sao hầu như toàn bộ châu Phi hạ-Sahara
và hầu hết Trung Mỹ lại nghèo hơn Tây Âu hay Đônng Á rất nhiều.
Khi các quốc gia phá vỡ để vượt ra khỏi các hình mẫu thể chế ép buộc họ
nghèo và tìm được cách để bắt đầu bước lên con đường tăng trưởng kinh tế, việc
này không phải bởi vì các nhà lãnh đạo dốt nát của họ đột nhiên trở nên có hiểu
68 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
biết tốt hơn hay ít tự-tư tự lợi hơn hoặc đã nhận được lời khuyên từ các nhà kinh
tế học giỏi hơn. Thí dụ, Trung Quốc là một trong những nước đã chuyển từ các
chính sách kinh tế gây ra nghèo khó và sự chết đói của hàng triệu người sang các
chính sách khích lệ tăng trưởng kinh tế. Nhưng, như muộn hơn chúng ta sẽ thảo
luận chi tiết hơn nhiều, điều này đã không xảy ra bởi vì Đảng Cộng Sản Trung
Quốc cuối cùng đã hiểu rằng sở hữu tập thể về đất nông nghiệp và công nghiệp đã
tạo ra các khuyến khích khủng khiếp. Thay vào đó, Đặng Tiểu Bình và các đồng
minh của ông, những người đã không kém tư lợi hơn các đối thủ của họ mà là
những người có các lợi ích và các mục tiêu chính trị khác, đã đánh bại các đối thủ
hùng mạnh của họ trong Đảng Cộng Sản và đã chỉ huy một cuộc cách mạng chính
trị loại xoàng, thay đổi triệt để ban lãnh đạo và đường hướng của đảng. Các cuộc
cải cách kinh tế của họ, mà đã tạo ra các khuyến khích thị trường trong nông
nghiệp và sau đó trong công nghiệp, đã tất yếu xảy đến từ cách mạng chính trị
này. Chính chính trị là cái đã quyết định sự chuyển từ chủ nghĩa cộng sản sang
các khuyến khích thị trường ở Trung Quốc, chứ không phải lời khuyên tốt hơn
hoặc một sự hiểu đúng hơn về nền kinh tế hoạt động thế nào.
CHÚNG TA SẼ CHỨNG TỎ rằng để hiểu sự bất bình đẳng thế giới chúng ta
phải hiểu vì sao một số xã hội lại được tổ chức theo những cách rất không hiệu
quả và không đáng mong mỏi về mặt xã hội. Các quốc gia đôi khi có tìm được
cách để chấp nhận các thể chế hiệu quả và đạt sự thịnh vượng, nhưng chao ôi, đấy
là những trường hợp hiếm hoi. Hầu hết các nhà kinh tế học và các nhà hoạch định
chính sách đã tập trung vào “getting it right – hiểu đúng, làm đúng”, trong khi cái
thực sự cần đến là một sự giải thích vì sao các quốc gia nghèo lại “get it wrong –
hiểu sai, làm sai”. Làm sai phần lớn không phải là về sự dốt nát hay văn hóa. Như
chúng ta sẽ chứng tỏ, các nước nghèo là nghèo bởi vì những người có quyền lực
đưa ra những lựa chọn mà chúng tạo ra nghèo khó. Họ làm sai không phải bởi sự
sai lầm hay sự ngu dốt mà là cố ý, có chủ tâm. Để hiểu điều này, bạn phải vượt
quá kinh tế học và lời khuyên chuyên gia về cái tốt nhất để làm và, thay vào đó,
nghiên cứu các quyết định thực sự được đưa ra như thế nào, ai sai khiến đưa ra
chúng, và vì sao những người quyết định để làm cái họ làm. Đây là việc nghiên
cứu về chính trị học và các quá trình chính trị. Theo truyền thống kinh tế học đã
bỏ qua chính trị học, nhưng việc hiểu chính trị học là cốt yếu cho việc hiểu sự bất
CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 69
bình đẳng thế giới. Với tư cách một nhà kinh tế học Abba Lerner đã nhận xét
trong các năm 1970, “Kinh tế học đã nhận được danh hiệu Nữ hoàng của các
Khoa học Xã hội bằng cách chọn các vấn đề chính trị đã được giải quyết như lĩnh
vực của mình”.
Chúng ta sẽ chứng tỏ rằng việc đạt sự thịnh vượng phụ thuộc vào việc giải
[quyết] một số vấn đề chính trị cơ bản. Chính xác bởi vì kinh tế học đã giả thiết
rằng các vấn đề chính trị đã được giải mà nó đã không có khả năng tìm ra một lời
giải thích thuyết phục cho sự bất bình đẳng thế giới. Việc giải thích sự bất bình
đẳng thế giới vẫn cần đến kinh tế học để hiểu các loại khác nhau của các chính
sách và những dàn xếp xã hội ảnh hưởng thế nào đến các khuyến khích và hành vi
kinh tế. Nhưng nó cũng cần chính trị học.
3.
TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ
KINH TẾ HỌC CỦA VĨ TUYẾN 38
RONG MÙA HÈ 1945, khi Chiến tranh Thế giới Thứ hai sắp kết thúc, thuộc
địa Nhật ở Triều Tiên bắt đầu sụp đổ. Trong vòng một tháng kể từ ngày 15
tháng Tám khi Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện, Triều Tiên được chia tại vĩ tuyến
38 thành hai khu vực ảnh hưởng. Miền Nam được quản lý bởi Hoa Kỳ. Miền Bắc,
bởi Nga. Hòa bình khó chịu của chiến tranh lạnh bị tan vỡ vào tháng Sáu năm
1950 khi quân đội Bắc Triều Tiên xâm lược miền Nam. Mặc dầu ban đầu quân
Bắc Triều Tiên đã tiến hành đột nhập lớn, chiếm thủ đô Seoul, vào mùa thu, họ đã
rút lui hoàn toàn. Chính khi đó Hwang Poyŏng-Wŏn và anh trai của mình bị chia
ly. Hwang Poyŏng-Wŏn đã tìm được cách để trốn và tránh bị tuyển vào quân đội
Bắc Triều Tiên. Ông ở lại Seoul và làm như một dược sĩ. Anh ông, một bác sĩ làm
việc ở Seoul chữa trị cho những người lính bị thương từ quân đội Nam Hàn, đã bị
bắt về miền bắc khi quân Bắc Triều Tiên rút lui. Bị lôi tách khỏi nhau năm 1950,
họ đã gặp lại năm 2000 ở Seoul lần đầu tiên trong năm mươi năm, sau khi hai
chính phủ cuối đùng đã đồng ý để bắt đầu một chương trình hạn chế về đoàn tụ
gia đình.
Với tư cách một bác sĩ, anh của Hwang Poyŏng-Wŏn đã làm việc cho không
quân, một việc làm tốt trong một chế độ độc tài quân sự. Nhưng ngay cả những
người với các đặc quyền ở Bắc Triều Tiên [cũng] không làm ăn khấm khá. Khi
hai anh em gặp nhau, Hwang Poyŏng-Wŏn đã hỏi về cuộc sống ở bắc vĩ tuyến 38
thế nào. Ông có xe hơi, nhưng anh ông không có. “Anh có điện thọa không?” ông
hỏi anh mình. “Không”, người anh nói. “Con gái anh, nó làm ở Bộ Ngoại giao, có
một điện thoại, nhưng nếu không biết mã, thì không thể gọi được”. Hwang
Poyŏng-Wŏn nhớ tất cả những người từ miền Bắc đã xin tiền thế nào, cho nên
ông đưa một số tiền cho anh mình. Nhưng anh ông bảo, “Nếu anh mang tiền về
chính phủ sẽ bảo, ‘Đưa số tiền đó cho chúng tôi’, cho nên em giữ lấy”. Hwang
T
TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 71
Poyŏng-Wŏn để ý thấy áo của anh mình bị sờn: “Anh cởi áo đó ra và bỏ lại đây,
và khi anh về hãy mặc cái áo này,” ông gợi ý. “Anh không thể làm điều đó,” anh
ông trả lời. “Cái áo này vừa mượn được từ chính phủ để đi đến đây.” Hwang
Poyŏng-Wŏn nhớ lại khi họ chia tay, anh ông không thoải mái đến thế nào và
luôn luôn lo lắng cứ như có ai đó đang nghe lén. Ông nghèo hơn mức Hwang
Poyŏng-Wŏn đã tưởng tượng. Anh ông nói ông sống tốt, nhưng Hwang Poyŏng-
Wŏn nghĩ ông nhìn đáng sợ và gầy như cây sậy.
Nhân dân Nam Hàn có mức sống tương tự như mức sống của Bồ Đào Nha và
Tây Ban Nha. Về phía bắc, ở cái gọi là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên,
hay Bắc Triều Tiên, mức sống hơi giống mức sống của một nước châu Phi hạ-
Sahara, khoảng một phần mười mức sống ở Nam Hàn. Sức khỏe của những người
Bắc Triều Tiên thậm chí còn trong trạng thái tồi tệ hơn; người Bắc Triều Tiên có
thể kỳ vọng sống mười năm ngắn hơn anh em họ của mình ở phía nam vĩ tuyến
38. Bản đồ 7 minh họa theo cách đầy kịch tính về khoảng cách kinh tế giữa hai
miền Triều Tiên. Nó thể hiện số liệu về cường độ ánh sáng vào ban đêm từ các
bức ảnh vệ tinh. Bắc Triều Tiên hầu như hoàn toàn đen thui do thiếu điện; Nam
Hàn rực lên với ánh sáng.
Những khác biệt nổi bật này không phải là cổ xưa. Thực ra, chúng đã không
tồn tại trước cuối Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Nhưng sau 1945, các chính phủ
khác nhau ở miền Bắc và miền Nam đã chọn theo những cách khác nhau để tổ
chức nền kinh tế của họ. Nam Hàn được lãnh đạo, và các thể chế kinh tế và chính
trị ban đầu của nó đã được định hình, bởi Lý Thừa Vãn (Syngman Rhee), một
người được đào tạo tại [các đại học] Havard và Princeton và chống cộng kiên
định, với sự ủng hộ đáng kể của Hoa Kỳ. Lý đã được bầu làm tổng thống năm
1948. Được rèn đúc giữa Chiến tranh Triều Tiên và chống lại mối đe dọa về chủ
nghĩa cộng sản lan xuống phía nam vĩ tuyến 38, Nam Hàn đã không là một nền
dân chủ. Cả Lý lẫn người kế vị của ông, Park Chung Hee, nổi tiếng ngang như
ông, đã đảm bảo các vị trí của họ trong lịch sử như các tổng thống chuyên quyền.
Nhưng cả hai đã cai trị một nền kinh tế thị trường nơi quyền tài sản tư nhân được
công nhận, và sau 1961 Park đã thực sự dùng sức mạnh và ảnh hưởng của nhà
nước để ủng hộ sự tăng trưởng nhanh, hướng tín dụng và các khoản trợ cấp cho
các hãng thành công.
72 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Tình hình ở phía bắc vĩ tuyến 38 đã khác. Kim Nhật Thành (Kim Il-Sung), một
nhà lãnh đạo của những người du kích cộng sản chống Nhật trong Chiến tranh
Thế giới Thứ hai, đã xác lập mình như nhà độc tài vào năm 1947 và, với sự giúp
đỡ của Liên Xô, đã đưa vào một dạng cứng nhắc của nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung như một phần của cái gọi là hệ thống Juche [Tự lực]. Quyền tài sản tư nhân
bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, và các thị trường bị cấm. Quyền tự do bị cắt bớt
không chỉ trên thương trường, mà trong mọi lĩnh vực cuộc sống của những người
Bắc Triều Tiên – trừ những người tình cờ thuộc thành phần của elite rất nhỏ cai trị
xung quanh Kim Nhật Thành và, muộn hơn, xung quanh Kim Jong-Il, con ông và
người thừa kế của ông.
Phải là không ngạc nhiên đối với chúng ta rằng vận may kinh tế của Nam và
Bắc Triều Tiên đã rẽ theo các hướng khác nhau rõ rệt. Nền kinh tế chỉ huy và hệ
thống Tự lực của Kim Nhật Thành chẳng bao lâu đã chứng tỏ là một thảm họa. Từ
TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 73
Bắc Triều Tiên không sẵn có những số liệu thống kê, mà là bí mật nhà nước, để
nói giảm nhẹ nhất. Tuy nhiên, bằng chứng sẵn có xác nhận cái chúng ta biết từ
các nạn đói xảy ra định kỳ quá thường xuyên: không chỉ sản xuất công nghiệp đã
không cất cánh, mà thực ra Bắc Triều Tiên đã trải qua một sự sụp đổ về năng suất
nông ngiệp. Thiếu quyền tài sản tư nhân đã có nghĩa rằng ít người có khuyến
khích để đầu tư hay cố gắng để làm tăng hoặc thậm chí để duy trì năng suất. Chế
độ bóp nghẹt, áp bức đã không thân thiện với đổi mới sáng tạo và thích nghi các
công nghệ mới. Nhưng Kim Nhật Thành, Kim Jong-Il, và những cánh hẩu của họ
đã không có ý định nào về cải cách hệ thống, hay đưa vào quyền tài sản tư nhân,
thị trường, hợp đồng tư nhân, hoặc thay đổi các thể chế kinh tế và chính trị. Bắc
Triều Tiên tiếp tục trì trệ về mặt kinh tế.
Trong khi đó, ở miền Nam, các thể chế kinh tế khích lệ đầu tư và thương mại.
Các nhà chính trị Nam Hàn đã đầu tư vào giáo dục, đạt các tỷ lệ cao về [số người]
biết đọc biết viết và đến trường. Các công ty Nam Hàn đã mau chóng tận dụng lợi
thế dân cư được giáo dục tương đối, các chính sách khích lệ đầu tư và công
nghiệp hóa, xuất khẩu và chuyển giao công nghệ. Nam Hàn mau chóng trở thành
một trong những “Nền kinh tế Thần kỳ” của Đông Á, một trong những quốc gia
tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
Vào cuối các năm 1990, chỉ trong vòng nửa thế kỷ, sự tăng trưởng Nam Hàn
và sự trì trệ Bắc Triều Tiên đã dẫn đến một khoảng cách mười lần giữa hai nửa
của đất nước một thời thống nhất này – hãy tưởng tượng sự chênh lệch đến thế
nào mà vài thế kỷ có thể tạo ra. Thảm họa kinh tế của Bắc Triều Tiên, mà đã dẫn
đến sự chết đói của hàng triệu người, khi đặt đối diện với thành công kinh tế của
Nam Hàn, gây ấn tượng sâu sắc: không phải văn hóa, chẳng phải địa lý, cũng
chẳng phải sự dốt nát có thể giải thích các con đường rẽ theo các hướng hoàn toàn
khác nhau của Bắc Triều Tiên và Nam Triều Tiên. Chúng ta phải ngó tới các thể
chế để có một câu trả lời.
CÁC THỂ CHẾ KINH TẾ KHAI THÁC VÀ BAO GỒM
Các nước khác nhau về thành công kinh tế của họ bởi vì các thể chế khác nhau
của họ, các quy tắc ảnh hưởng đến nền kinh tế hoạt động như thế nào, và các
khuyến khích làm động cơ thúc đẩy người dân. Hãy tưởng tượng những người vị
74 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
thành niên ở Bắc Triều Tiên và Nam Hàn và họ kỳ vọng gì từ cuộc sống. Những
người ở miền Bắc trưởng thành trong nghèo khó, mà không có sáng kiến khởi
nghiệp kinh doanh, tính sáng tạo hay sự giáo dục thỏa đáng để chuẩn bị họ cho
việc làm cần đến kỹ năng. Phần lớn sự giáo dục mà họ nhận được ở trường học là
sự tuyên truyền thuần túy, với ý định trụ đỡ cho sự hợp pháp của chế độ; có ít
sách, nói chi đến máy tính. Sau khi học xong, mọi người phải vào quân đội mười
năm. Các vị thành niên này biết rằng họ sẽ không có khả năng để sở hữu tài sản,
bắt đầu một doanh nghiệp, hay trở nên thịnh vượng hơn cho dù nhiều người tiến
hành các hoạt động kinh tế bất hợp pháp để kiếm sống. Họ cũng biết rằng họ
không có sự tiếp cận hợp pháp đến các thị trường nơi họ có thể sử dụng các năng
khiếu của mình hay thu nhập của mình để mua các hàng hóa mà họ cần hay mong
muốn. Họ thậm chí còn không chắc chắn về loại quyền con người nào họ sẽ có.
Các vị thành niên ở miền Nam nhận được giáo dục tốt, đối mặt với các khuyến
khích cổ vũ chúng cố gắng và vượt trội trong nghề nghiệp mà họ chọn. Nam Hàn
là một nền kinh tế thị trường, dựa trên quyền tài sản tư nhân. Các vị thành niên
Nam Hàn biết, nếu thành công với tư cách doanh nhân hay người lao động, rồi
một ngày họ có thể tận hưởng thành quả của các khoản đầu tư và nỗ lực của họ;
họ có thể cải thiện mức sống của mình, mua xe hơi, nhà và chăm sóc sức khỏe.
Ở miền Nam nhà nước ủng hộ hoạt động kinh tế. Cho nên là có thể đối với các
doanh nhân để vay tiền từ các ngân hàng và các thị trường tài chính, đối với các
công ty nước ngoài để tham gia chung phần với các hãng Nam Hàn, đối với các
cá nhân để lấy các khoản vay thế chấp để mua nhà. Ở miền Nam, nhìn chung, bạn
được tự do mở bất cứ doanh nghiệp nào bạn thích. Ở miền Bắc, bạn không được.
Ở miền Nam, bạn có thể thuê lao động, bán sản phẩm hay dịch vụ của mình, tiêu
tiền của mình trên thương trường theo bất cứ cách nào bạn muốn. Ở miền Bắc, chỉ
có các thị trường chợ đen. Các quy tắc khác nhau này là các thể chế mà dưới
chúng những người Bắc Triều Tiên và Nam Hàn sống.
Các thể chế kinh tế bao gồm [inclusive], ví dụ như các thể chế ở Nam Hàn hay
ở Hoa Kỳ, là các thể chế mà cho phép và khuyến khích sự tham gia của đông đảo
người dân vào các hoạt động kinh tế, mà lợi dụng tốt nhất tài năng và kỹ năng của
họ và cho phép các cá nhân đưa ra các lựa chọn họ muốn. Để là bao gồm, các thể
chế kinh tế phải đề cao quyền tài sản tư nhân an toàn, một hệ thống luật pháp
không thiên vị, và một sự cung ứng các dịch vụ công mà tạo ra một sân chơi bằng
TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 75
phẳng trong đó người dân có thể trao đổi và [thỏa thuận, ký kết] hợp đồng; nó
cũng phải cho phép sự gia nhập của các doanh nghiệp mới và cho phép người dân
lựa chọn sự nghiệp của mình.
SỰ TƯƠNG PHẢN của Nam và Bắc Triều Tiên, và của Hoa Kỳ và Mỹ Latin,
minh họa một nguyên lý chung. Các thể chế kinh tế bao gồm khuyến khích hoạt
động kinh tế, sự tăng năng suất, và sự thịnh vượng kinh tế. Các quyền tài sản tư
nhân an toàn là chính yếu, bởi vì chỉ những người với các quyền như vậy mới sẽ
sẵn sàng đầu tư và tăng năng suất. Một nhà doanh nghiệp người kỳ vọng đầu ra
của mình bị ăn cắp, bị tước đoạt, hay bị đánh thuế hết sẽ có ít khuyến khích để
làm việc, nói chi đến bất cứ khuyến khích nào để cam kết tiến hành đầu tư và đổi
mới. Nhưng các quyền như vậy phải có cho đa số người dân trong xã hội.
Vào năm 1680 chính phủ Anh đã tiến hành một cuộc điều tra dân số ở thuộc
địa Tây Ấn của nó, ở Barbados. Cuộc điều tra dân số tiết lộ rằng trong tổng số cư
dân vào khoảng 60.000 người của hòn đảo, thì 39.000 người là các nô lệ Phi châu
những người đã là tài sản của một phần ba dân cư còn lại. Thực ra, hầu hết họ đã
là tài sản của 175 chủ đồn điền mía lớn nhất, những người cũng sở hữu phần lớn
đất đai. Các chủ đồn điền lớn này đã có các quyền tài sản tư nhân an toàn và được
thực thi tốt đối với đất của họ thậm chí đối với các nô lệ của họ. Nếu một chủ đồn
điền đã muốn bán nô lệ cho chủ khác, ông ta đã có thể làm vậy và kỳ vọng tòa án
để thực thi một việc bán như vậy hay bất cứ hợp đồng khác nào mà ông đã ký. Vì
sao? Trong số bốn mươi thẩm phán và thẩm phán trị an trên đảo, có hai mươi chín
là chủ đồn điền lớn. Hơn nữa, tất cả tám sĩ quan quân đội cao cấp nhất đều là các
chủ đồn điền lớn. Bất chấp các quyền tài sản tư nhân và các hợp đồng an toàn,
được xác định rõ, được thực thi tốt cho elite của đảo, Barbados đã không có các
thể chế kinh tế bao gồm, bởi vì hai phần ba dân số đã là nô lệ mà không có sự tiếp
cận nào đến giáo dục hay đến các cơ hội kinh tế, và không có khả năng hay các
khuyến khích để sử dụng tài năng và kỹ năng của họ. Các thể chế kinh tế bao gồm
đòi hỏi các quyền tài sản tư nhân an toàn và các cơ hội kinh tế không chỉ cho elite
mà cả cho một bộ phận rộng lớn của xã hội.
Các quyền tài sản an toàn, luật, các dịch vụ công, và quyền tự do hợp đồng và
trao đổi, tất cả đều dựa vào nhà nước, thể chế với năng lực cưỡng chế để áp đặt
trật tự, ngăn chặn trộm cắp và gian lận, thực thi các hợp đồng giữa các bên tư
76 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
nhân. Để hoạt động tốt, xã hội cũng cần các dịch vụ công: đường sá và mạng lưới
giao thông để có thể vận chuyển hàng hóa; một hạ tầng cơ sở công sao cho hoạt
động kinh tế có thể hưng thịnh; và loại nào đó của sự điều tiết, của quy chế để
ngăn chặn gian lận và hành động bất lương. Mặc dù nhiều trong số các dịch vụ
công này có thể được cung cấp bởi các thị trường và các công dân tư nhân, mức
độ điều phối cần thiết để làm vậy trên quy mô lớn thường vượt quá [khả năng
của] tất cả trừ một nhà chức trách trung ương. Như vậy nhà nước đan xen một
cách không lay chuyển được vào các thể chế kinh tế, với tư cách người thực thi
luật pháp và trật tự, tài sản và các hợp đồng tư nhân, và thường với tư cách nhà
cung cấp chủ chốt của các dịch vụ công. Các thể chế kinh tế bao gồm cần đến và
sử dụng nhà nước.
Các thể chế kinh tế của Bắc Triều Tiên hay của Mỹ Latin thuộc địa – các mita,
ecomienda, hoặc repartimiento được mô tả trước đây – không có các tính chất
này. Quyền tài sản tư nhân không tồn tại ở Bắc Triều Tiên. Ở Mỹ Latin thuộc địa,
đã có tài sản tư nhân cho người Tây Ban Nha, nhưng tài sản của người bản địa đã
rất không an toàn. Cả trong hai loại xã hội này số đông quần chúng nhân dân đã
không thể đưa ra các quyết định kinh tế mà họ muốn; họ đã phải chịu sự cưỡng
bức hàng loạt. Trong cả hai loại xã hội, sức mạnh của nhà nước đã không được
dùng để tạo ra các dịch vụ công then chốt, thúc đẩy sự thịnh vượng. Ở Bắc Triều
Tiên, nhà nước đã xây dựng một hệ thống trường học để khắc sâu sự tuyên truyền,
nhưng đã không có khả năng ngăn chặn nạn đói. Ở Mỹ Latin thuộc địa, nhà nước
đã chú tâm vào cưỡng bức dân bản địa. Trong cả hai loại xã hội, đã không có sân
chơi bình đẳng hay một hệ thống pháp lý không thiên vị. Ở Bắc Triều Tiên, hệ
thống pháp lý là cánh tay của Đảng Cộng sản, và ở Mỹ Latin nó đã là một công cụ
phân biệt đối xử chống lại quần chúng nhân dân. Chúng ta gọi các thể chế như
vậy, mà có các tính chất ngược lại với tính chất của các thể chế mà chúng ta đã
gọi là các thể chế bao gồm, là các thể chế kinh tế khai thác (extractive) – khai thác
bởi vì các thể chế như vậy được thiết kể để vắt, chiết, khai thác thu nhập và của
cải từ một tập hợp con của xã hội để làm lợi cho một tập con khác.
CÁC ĐỘNG CƠ CỦA SỰ THỊNH VƯỢNG
Các thể chế kinh tế bao gồm tạo ra các thị trường bao gồm, mà không chỉ trao cho
người dân quyền tự do để theo đuổi nghề nghiệp phù hợp nhất với tài năng của họ
TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 77
trong cuộc sống mà cũng tạo ra một sân chơi bằng phẳng tạo cho họ cơ hội để làm
vậy. Những người có các ý tưởng hay sẽ có khả năng khởi tạo các doanh nghiệp,
những người lao động có xu hướng đi làm các công việc nơi năng suất của họ lớn
hơn, và các hãng kém hiệu quả có thể được thay bằng các hãng hiệu quả hơn. Đối
sánh việc người dân chọn nghề nghiệp của mình thế nào dưới các thị trường bao
gồm so với Peru và Bolivia thuộc địa, nơi dưới mita, nhiều người đã bị cưỡng ép
làm việc tại các mỏ bạc và thủy ngân, bất chấp kỹ năng của họ hay liệu họ có
muốn hay không. Các thị trường bao gồm không chỉ là các thị trường tự do.
Barbados trong thế kỷ mười bảy cũng đã có các thị trường. Nhưng theo cùng cách
mà nó đã thiếu các quyền tài sản tư nhân cho tất cả trừ elite chủ đồn điền hạn hẹp,
các thị trường của nó còn xa mới bao gồm; các thị trường về nô lệ thực ra đã là
một phần của các thể chế kinh tế cưỡng bức một cách có hệ thống đa số dân cư và
cướp đoạt mất của họ khả năng để chọn nghề nghiệp và cách họ sử dụng tài năng
của mình.
Các thể chế kinh tế bao gồm cũng mở đường cho hai động cơ khác của sự
thịnh vượng: công nghệ và giáo dục. Tăng trưởng kinh tế bền vững hầu như luôn
luôn đi cùng với những cải thiện công nghệ mà cho phép người dân (lao động),
đất đai, và vốn hiện tồn (nhà, máy móc hiện hành, và vân vân) trở nên hiệu quả
hơn. Hãy nghĩ về các cụ các kỵ của chúng ta, vừa hơn một thế kỷ trước, những
người đã không tiếp cận được đến máy bay, ô tô, hay hầu hết các tân dược và
chăm sóc sức khỏe mà bây giờ chúng ta coi là nghiễm nhiên, không nhắc đến hệ
thống ống nước trong nhà, điều hòa nhiệt độ, siêu thị, radio, hay phim ảnh; nói chi
đến công nghệ thông tin, máy móc tự động, hay máy móc điều khiển bằng máy
tính. Và lùi thêm vài thế hệ nữa, know-how công nghệ và mức sống còn thậm chí
lạc hậu hơn, nhiều đến mức chúng ta thấy khó để tưởng tượng hầu hết người dân
đã vật lộn với cuộc sống như thế nào. Những cải thiện này xảy ra như kết quả từ
khoa học và từ các doanh nhân như Thomas Edison, những người đã áp dụng
khoa học để tạo ra các doanh nghiệp sinh lời. Cái đã khiến cho quá trình này của
đổi mới sáng tạo trở nên có thể, là các thể chế kinh tế cổ vũ tài sản tư nhân, ủng
hộ các hợp đồng, tạo ra sân chơi bằng phẳng, và khuyến khích và cho phép các
doanh nghiệp mới có thể đưa các công nghệ mới vào cuộc sống. Vì thế không
ngạc nhiên rằng xã hội Hoa Kỳ, chứ không phải Mexico hay Peru, là xã hội đã tạo
ra Thomas Edison, và rằng Nam Hàn, chứ không phải Bắc Triều Tiên, tạo ra các
công ty đổi mới về mặt công nghệ như như Samsung và Hyundai ngày nay.
78 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Gắn mật thiết với công nghệ là giáo dục, các kỹ năng, năng lực, và know-how
của lực lượng lao động, kiếm được trong các trường, ở nhà, và ở nơi làm việc.
Chúng ta hiệu quả hơn một thế kỷ trước hết sức nhiều không chỉ bởi vì công nghệ
tốt hơn được chứa đựng trong các máy móc mà cũng bởi vì know-how lớn hơn
mà những người lao động có được. Tất cả công nghệ trên thế giới sẽ có ít ích lợi
nếu không có những người lao động biết làm cho nó hoạt động thế nào. Nhưng có
nhiều kỹ năng và năng lực hơn khả năng đơn thuần để vận hành máy móc. Chính
là giáo dục và các kỹ năng của lực lượng lao động là cái tạo ra tri thức khoa học
mà dựa vào đó sự tiến bộ của chúng ta được dựng nên và là cái cho phép sự thích
nghi và sự chấp nhận làm theo các công nghệ này trong các ngành kinh doanh
khác nhau. Mặc dù chúng ta đã thấy trong chương 1 rằng nhiều nhà đổi mới sáng
tạo, như Thomas Edison, đã không học cao, các đổi mới đó đã đơn giản hơn công
nghệ hiện đại rất nhiều. Ngày nay sự thay đổi công nghệ đòi hỏi giáo dục cả cho
các nhà đổi mới lẫn cho người lao động. Và ở đây chúng ta thấy tầm quan trọng
của các thể chế kinh tế mà tạo ra sân chơi bằng phẳng. Hoa Kỳ có thể tạo ra, hay
thu hút từ các nước ngoài, những người giống như Bill Gates, Steve Jobs, Sergey
Brin, Larry Page, và Jeff Bezos, và hàng trăm nhà khoa học những người đã thực
hiện các phát minh cơ bản trong công nghệ thông tin, năng lượng hạt nhân, công
nghệ sinh học, và các lĩnh vực khác mà dựa vào đó các doanh nhân khởi nghiệp
này đã xây dựng các doanh nghiệp của mình. Cung tài năng có ở đó để được khai
thác bởi vì các vị thành niên ở Hoa Kỳ có sự tiếp cận đến nhiều việc học ở trường
như họ muốn hay họ có khả năng theo học. Bây giờ hãy tưởng tượng một xã hội
khác, thí dụ Congo hoặc Haiti, nơi phần lớn dân cư không có phương tiện nào để
theo học ở trường, hoặc nơi, nếu họ tìm được cách để đến trường, chất lượng dạy
là thảm hại, nơi các giáo viên không có mặt để dạy, và cho dù họ có, có thể không
có cuốn sách nào.
Mức giáo dục thấp của các nước nghèo bị gây ra bởi các thể chế kinh tế mà
không tạo ra các khuyến khích cho cha mẹ để giáo dục con em mình, và bởi các
thể chế chính trị mà không xui khiến chính phủ để xây dựng, cấp tài chính, và hỗ
trợ các trường và mong ước của cha mẹ và trẻ em. Cái giá, mà các quốc gia này
phải trả cho mức giáo dục thấp của dân cư của họ và cho sự thiếu các thị trường
bao gồm, là cao. Họ không động viên được tài năng mới sinh của họ. Họ có nhiều
Bill Gates tiềm năng và có lẽ một hay hai Albert Einsteins những người đang làm
việc như các nông dân nghèo, không được học hành, bị ép làm những việc họ
TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 79
không muốn làm hay bị tuyển vào quân đội, bởi vì họ đã chẳng bao giờ có cơ hội
để thực hiện năng khiếu của họ trong đời.
Khả năng của các thể chế kinh tế để khai thác tiềm năng của các thị trường bao
gồm, khuyến khích đổi mới công nghệ, đầu tư vào con người, và động viên tài
năng và kỹ năng của số đông cá nhân là cốt yếu cho tăng trưởng kinh tế. Giải
thích vì sao rất nhiều thể chế kinh tế không thỏa mãn các mục tiêu đơn giản này là
chủ đề trung tâm của cuốn sách này.
CÁC THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ KHAI THÁC VÀ BAO GỒM
Tất cả các thể chế kinh tế được tạo ra bởi xã hội. Các thể chế kinh tế của Bắc
Triều Tiên, chẳng hạn, được áp đặt lên các công dân bởi những người cộng sản,
những người đã tiếp quản đất nước trong các năm 1940, trong khi các thể chế
kinh tế của Mỹ Latin được áp đặt bởi những kẻ chinh phục Tây Ban Nha. Nam
Hàn đã kết thúc với các thể chế kinh tế rất khác với miền Bắc bởi vì những người
khác với các lợi ích và mục tiêu khác đã đưa ra các quyết định về tổ chức xã hội
thế nào. Nói cách khác, Nam Hàn đã có một nền chính trị khác.
Chính trị là một quá trình theo đó một xã hội chọn ra các quy tắc mà sẽ chi
phối nó. Chính trị bao quanh các thể chế vì lý do đơn giản rằng trong khi các thể
chế bao gồm có thể là tốt cho sự thịnh vượng của một quốc gia, một số người hay
nhóm, chẳng hạn elite của Đảng Cộng sản ở Bắc Triều Tiên hay các chủ đồn điền
mía của Barbados thuộc địa, sẽ khấm khá hơn rất nhiều bằng cách dựng lên các
thể chế mà là các thể chế khai thác. Khi có sự xung đột về các thể chế, cái gì xảy
ra sẽ phụ thuộc vào những người nào hay các nhóm nào chiến thắng trong trò chơi
chính trị – ai có thể kiếm được nhiều sự ủng hộ, nhận được các nguồn lực thêm,
và tạo được các liên minh hữu hiệu hơn. Tóm lại, ai thắng phụ thuộc vào phân bố
quyền lực chính trị trong xã hội.
Các thể chế chính trị của một xã hội là chìa khóa quyết định kết quả của trò
chơi này. Chúng là các quy tắc chi phối các khuyến khích trong chính trị. Chúng
xác định việc chính phủ được chọn thế nào và phần nào của chính phủ có quyền
làm những gì. Các thể chế chính trị xác định ai có quyền lực trong xã hội và
quyền lực đó có thể được sử dụng cho các mục đích nào. Nếu sự phân bố quyền
80 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
lực là hẹp và không bị ràng buộc, thì các thể chế chính trị là chuyên chế
(absolutist), như được minh họa bởi các các nền quân chủ chuyên chế trị vì trên
khắp thế giới trong phần lớn lịch sử. Dưới các thể chế chính trị chuyên chế như ở
Bắc Triều Tiên và Mỹ Latin thuộc địa, những người có thể nắm quyền lực này sẽ
có khả năng đặt ra các thể chế kinh tế để làm giàu cho chính họ và làm tăng quyền
lực của họ gây phí tổn cho xã hội. Ngược lại, các thể chế chính trị mà phân phối
quyền lực rộng rãi trong xã hội và bắt nó phải chịu các ràng buộc, là các thể chế
đa nguyên. Thay cho việc được trao cho một cá nhân duy nhất hay một nhóm hẹp,
quyền lực chính trị thuộc về một liên minh rộng hay một đa số của các nhóm.
Rõ ràng có một mối quan hệ mật thiết giữa chủ nghĩa đa nguyên (pluralism) và
các thể chế kinh tế bao gồm. Nhưng chìa khóa cho sự hiểu vì sao Nam Hàn và
Hoa Kỳ có các thể chế kinh tế bao gồm không chỉ là các thể chế chính trị đa
nguyên của chúng mà cũng là các nhà nước tập trung đủ và hùng mạnh của
chúng. Một sự tương phản đích đáng là quốc gia Đông Phi, Somalia. Như chúng
ta sẽ thấy muộn hơn trong cuốn sách này, quyền lực chính trị ở Somalia từ lâu đã
được phân phối rộng rãi – hầu như đa nguyên. Thực vậy không có nhà chức trách
trung ương nào mà có thể kiểm soát hay cho phép cái bất cứ ai làm. Xã hội bị chia
rẽ thành các thị tộc đối kháng sâu sắc mà không thể thống trị lẫn nhau. Quyền lực
của một thị tộc chỉ bị ràng buộc bởi súng của thị tộc khác. Sự phân bổ quyền lực
này dẫn không đến các thể chế bao gồm, mà đến hỗn loạn, và ở gốc rễ của nó là
nhà nước Somalia thiếu bất cứ sự tập trung hóa chính trị hay sự tập trung hóa nhà
nước nào, và sự bất lực của nó để thực thi ngay cả mức tối thiểu của luật pháp và
trật tự để ủng hộ hoạt động kinh tế, thương mại, hay thậm chí sự an toàn cơ bản
của các công dân của nó.
Max Weber, người chúng ta đã gặp trong chương trước, đã cung cấp một định
nghĩa nổi tiếng và được chấp nhận rộng rãi về nhà nước, đồng nhất nó với “độc
quyền về bạo lực hợp pháp” trong xã hội. Không có sự độc quyền như vậy và một
mức độ tập trung hóa mà nó cần phải có, nhà nước không thể đóng vai trò của nó
với tư cách người thực thi pháp luật và trật tự, chưa kể đến cung cấp các dịch vụ
công và cổ vũ và điều tiết hoạt động kinh tế. Khi nhà nước không đạt hầu như bất
cứ sự tập trung hóa chính trị nào, thì xã hội sớm muộn sẽ sa đọa vào hỗn loạn,
như Somalia đã sa vào.
TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 81
Chúng ta sẽ nói đến các thể chế chính trị mà đủ tập trung và đa nguyên như các
thể chế chính trị bao gồm. Khi một trong hai điều kiện này không thỏa mãn,
chúng ta nói đến các thể chế như các thể chế chính trị khai thác.
Có sự đồng vận [synergy] mạnh giữa các thể chế kinh tế và chính trị. Các thể
chế chính trị khai thác tập trung quyền lực vào tay một elite hẹp và đặt ít ràng
buộc lên việc sử dụng quyền lực này. Các thể chế kinh tế sau đó thường được tổ
chức bởi elite này để khai thác các nguồn lực từ phần còn lại của xã hội. Các thể
chế kinh tế khai thác như thế đi cùng một cách tự nhiên với các thể chế chính trị
khai thác. Thực ra, chúng phải phụ thuộc một cách cố hữu vào các thể chế chính
trị khai thác cho sự sống sót của chúng. Các thể chế chính trị bao gồm trao quyền
lực một cách rộng rãi, sẽ có xu hướng nhổ bật rễ các thể chế kinh tế mà tước đoạt
nguồn lực của nhiều người, dựng các rào cản gia nhập, và ngăn hoạt động của các
thị trường sao cho chỉ một số ít được hưởng lợi.
Ở Barbados, chẳng hạn, hệ thống đồn điền dựa trên sự bóc lột nô lệ đã không
thể sống sót mà không có các thể chế chính trị ngăn và loại trừ hoàn toàn các nô
lệ khỏi các quá trình chính trị. Hệ thống kinh tế gây nghèo khó cho hàng triệu
người vì lợi ích của một elite cộng sản hẹp ở Bắc Triều Tiên cũng không thể
tưởng tượng được mà không có sự thống trị chính trị hoàn toàn của Đảng Cộng
Sản.
Mối quan hệ đồng vận [synergistic] này giữa các thể chế kinh tế khai thác và
các thể chế chính trị khai thác tạo ra một vòng phản hồi mạnh: các thể chế chính
trị cho phép elite kiểm soát quyền lực chính trị để chọn các thể chế kinh tế với ít
ràng buộc hay ít lực lượng chống đối. Chúng cũng cho phép elite tổ chức các thể
chế chính trị tương lai và sự tiến hóa của chúng. Các thể chế kinh tế khai thác, đến
lượt mình, làm giàu cho cùng elite, và sự giàu có và quyền lực kinh tế củng cố sự
thống trị chính trị của họ. Ở Barbados hay ở Mỹ Latin, chẳng hạn, các nhà thực
dân đã có khả năng sử dụng quyền lực chính trị của họ để áp đặt một tập các thể
chế kinh tế khiến cho họ kiếm được các gia tài kếch xù với sự tổn hại của phần
còn lại của dân cư. Những nguồn lực mà các thể chế kinh tế này tạo ra đã cho
phép những elite này xây dựng các quân đội và các lực lượng an ninh để bảo vệ
sự độc quyền tuyệt đối của họ về quyền lực chính trị. Hệ lụy dĩ nhiên là, các thể
chế chính trị khai thác và các thể chế kinh tế khai thác ủng hộ lẫn nhau và có xu
hướng tồn tại dai dẳng.
82 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Thực ra, có nhiều hơn sự đồng vận giữa các thể chế kinh tế khai thác và chính
trị khai thác. Khi các elite hiện tồn bị thách thức dưới các thể chế chính trị khai
thác và những người mới đến thắng, những người mới đến cũng thế chỉ phải đối
mặt với ít ràng buộc, Như vậy họ có các khuyến khích để duy trì các thể chế chính
trị này và tạo ra một tập tương tự của các thể chế kinh tế, như Porfirio Díaz và
elite xung quanh ông đã làm vào cuối thế kỷ mười chín ở Mexico.
Các thể chế kinh tế bao gồm, đến lượt, được rèn đúc trên nền tảng được xây
bởi các thể chế chính trị bao gồm, mà khiến cho quyền lực được phân phối rộng
trong xã hội và kiềm chế việc sử dụng tùy tiện nó. Các thể chế chính trị như vậy
cũng làm cho việc những người khác chiếm đoạt quyền lực và làm xói mòn nền
tảng của các thể chế bao gồm trở nên khó hơn. Những người kiểm soát quyền lực
chính trị không thể dễ dàng sử dụng nó để dựng lên các thể chế kinh tế khai thác
cho lợi ích riêng của họ. Các thể chế kinh tế bao gồm, đến lượt mình, tạo ra một
sự phân bổ nguồn lực công bằng hơn, tạo thuận lợi cho sự bền bỉ của các thể chế
chính trị bao gồm.
Đã không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng vào năm 1618, khi Công ty
Virginia đã trao đất cho, và đã giải phóng các nhà thuộc địa, mà trước đó nó đã
thử cưỡng bức, khỏi các hợp đồng hà khắc của họ, và Đại Hội Đồng trong năm
tiếp theo đã cho phép các nhà thuộc địa để bắt đầu cai quản chính họ. Các quyền
kinh tế mà không có các quyền chính trị không được các nhà thuộc địa tin cậy,
những người đã thấy các nỗ lực kiên trì của Công ty Virginia để cưỡng bức họ.
Các nền kinh tế này cũng đã chẳng ổn định và lâu bền. Thực ra, những sự kết hợp
của các thể chế khai thác và các thể chế bao gồm nói chung không ổn định. Các
thể chế kinh tế khai thác dưới các thể chế chính trị bao gồm không chắc sống sót
trong thời gian dài, như thảo luận của chúng ta về Barbados gợi ý.
Tương tự, các thể chế kinh tế bao gồm sẽ không được ủng hộ và cũng đã chẳng
được ủng hộ bởi các thể chế chính trị khai thác. Hoặc chúng sẽ biến thành các thể
chế kinh tế khai thác làm lợi cho các nhóm lợi ích hẹp nắm quyền, hoặc động học
kinh tế mà chúng tạo ra sẽ gây bất ổn cho các thể chế chính trị khai thác, mở
đường cho sự nổi lên của các thể chế chính trị bao gồm. Các thể chế kinh tế bao
gồm cũng có xu hướng làm giảm các lợi ích mà elite có thể hưởng bằng thống trị
các thể chế chính trị khai thác, vì các thể chế đó đối mặt với cạnh tranh trên
TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 83
thương trường và bị ràng buộc bởi các hợp đồng và các quyền tài sản của phần
còn lại của xã hội.
VÌ SAO KHÔNG LUÔN LUÔN CHỌN SỰ THỊNH VƯỢNG?
Các thể chế chính trị và kinh tế, mà rốt cuộc là các lựa chọn của xã hội, có thể là
bao gồm và khuyến khích sự tăng trưởng kinh tế. Hoặc chúng có thể là khai thác
và trở thành những vật cản trở sự tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia thất bại khi
chúng có các thể chế kinh tế khai thác, được ủng hộ bởi các thể chế chính trị khai
thác mà cản trở và thậm chí chặn sự tăng trưởng kinh tế. Nhưng điều này có nghĩa
rằng sự lựa chọn các thể chế – tức là, chính trị học về các thể chế – là cốt yếu cho
sự tìm kiếm của chúng ta để hiểu các lý do cho thành công và thất bại của các
quốc gia. Chúng ta phải hiểu vì sao chính trị của một số xã hội đã dẫn đến các thể
chế bao gồm mà cổ vũ tăng trưởng kinh tế, trong khi chính trị của đại đa số các xã
hội trong suốt lịch sử đã dẫn đến, và ngày nay vẫn dẫn đến, các thể chế kinh tế mà
cản trở tăng trưởng kinh tế.
Có thể có vẻ hiển nhiên rằng mọi người đều có lợi ích trong việc tạo ra loại thể
chế kinh tế mà sẽ mang lại sự thịnh vượng. Chẳng phải mọi công dân, mọi chính
trị gia, và thậm chí một nhà độc tài cướp bóc đã đều muốn làm cho nước mình
càng giàu càng tốt?
Hãy quay lại Vương quốc Kongo mà chúng ta đã thảo luận trước đây. Mặc dù
vương quốc này đã sụp đổ trong thế kỷ mười bảy, nó đã cho cái tên cho một nước
hiện đại mà đã trở nên độc lập khỏi sự cai trị thuộc địa Bỉ năm 1960. Với tư cách
một chính thể độc lập, Congo đã trải qua sự sa sút kinh tế hầu như không bị gián
đoạn và sự nghèo khó gia tăng dưới sự cai trị của Joseph Mobutu giữa 1965 và
1997. Sự sa sút này đã tiếp tục sau khi Mobutu bị Laurent Kabila lật đổ. Mobutu
đã tạo ra một tập của các thể chế kinh tế khai thác hết sức. Các công dân bị bần
cùng hóa, nhưng Mobutu và elite quanh ông ta, được biết đến như Les Grosses
Légumes (các Quan to), đã trở nên cực kỳ giàu có. Mobutu đã xây dựng cho mình
một lâu đài ở quê nơi ông sinh, Gbadolite, ở miền bắc, với một sân bay đủ lớn để
máy bay phản lực siêu thanh Concord hạ cánh, máy bay mà ông thường thuê từ
Hãng Hàng không Pháp, Air France, cho việc đi châu Âu. Ở châu Âu ông đã mua
các lâu đài và sở hữu các dải đất lớn của Brussells, thủ đô Bỉ.
84 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Chẳng phải đã tốt hơn cho Mobutu để dựng lên các thể chế mà làm tăng của
cải của những người Congo hơn là khoét sâu sự nghèo khó của họ? Nếu giả như
Mobutu đã xoay xở để làm tăng sự thịnh vượng của quốc gia mình, chẳng phải
ông ta đã có thể tước đoạt còn nhiều tiền hơn, mua một máy bay Concord thay
cho thuê một chiếc, có nhiều nhà lớn và lâu đài hơn, có lẽ một quân đội lớn hơn
và hùng mạnh hơn? Đáng tiếc đối với công dân của nhiều quốc gia trên thế giới,
câu trả lời là không. Các thể chế kinh tế mà tạo ra các khuyến khích cho tiến bộ
kinh tế có thể đồng thời tái phân phối thu nhập và quyền lực theo một cách mà kẻ
độc tài cướp bóc và những kẻ khác có quyền lực chính trị có thể trở nên tệ hơn,
chứ không phải khá hơn.
Vấn đề cơ bản là, sẽ nhất thiết có những tranh cãi và xung đột về các thể chế
kinh tế. Các thể chế khác nhau có các hệ quả khác nhau đối với sự thịnh vượng
của quốc gia, sự thịnh vượng đó được phân phối thế nào, và ai có quyền lực. Tăng
trưởng kinh tế, do các thể chế có thể mang lại, tạo ra cả những người thắng và
những kẻ thua. Điều này đã là rõ trong Cách mạng Công nghiệp ở nước Anh, mà
đã đặt nền móng của sự thịnh vượng chúng ta thấy ở các nước giàu của thế giới
ngày nay. Nó đã tập trung vào một loạt những thay đổi công nghệ mở đường
trong sức hơi nước, giao thông, và sản xuất hàng dệt. Cho dù cơ khí hóa đã dẫn
đến sự tăng khổng lồ về thu nhập và cuối cùng đã trở thành nền tảng của xã hội
công nghiệp hiện đại, nó đã bị phản đối kịch liệt bởi nhiều người. Không phải bởi
vì sự dốt nát hay sự thiển cận; hoàn toàn ngược lại. Đúng hơn, sự phản đối tăng
trưởng kinh tế như vậy, đáng tiếc, có logic riêng của nó. Tăng trưởng kinh tế và
thay đổi công nghệ luôn đi cùng với cái mà nhà kinh tế học vĩ đại Joseph
Schumpeter đã gọi là sự phá hủy sáng tạo. Chúng thay cái cũ bằng cái mới. Các
khu vực mới thu hút nguồn lực từ các khu vực cũ. Các hãng mới lấy mất công
việc kinh doanh của các hãng đã được xác lập. Các công nghệ mới làm cho các kỹ
năng và các máy móc hiện hành trở nên lỗi thời. Quá trình tăng trưởng kinh tế và
các thể chế kinh tế bao gồm mà sự tăng trưởng dựa vào, tạo ra những người thua
cũng như những kẻ thắng trên chính trường và trên thương trường. Sự sợ hãi phá
hủy sáng tạo thường nằm ở gốc rễ của sự chống đối các thể chế kinh tế và chính
trị bao gồm.
Lịch sử Âu châu cho một thí dụ sinh động về các hậu quả của sự phá hủy sáng
tạo. Vào trước Cách mạng công nghiệp trong thế kỷ mười tám, các chính phủ của
TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 85
hầu hết các nước Âu châu đã được kiểm soát bởi các giới quý tộc và elite truyền
thống, mà nguồn thu nhập chính của họ đã từ việc làm chủ đất hoặc từ các đặc
quyền buôn bán mà họ được hưởng nhờ sự độc quyền được ban cho và các rào
cản tham gia được áp đặt bởi các quốc vương. Phù hợp với ý tưởng về sự phá hủy
sáng tạo, sự mở rộng của các ngành công nghiệp, các nhà máy, và các thị trấn đã
lấy đi các nguồn lực từ đất, đã làm giảm tiền thuê [tô] đất, đã làm tăng lương mà
các địa chủ phải trả cho những người làm công của họ. Các elite này cũng đã thấy
sự nổi lên của các nhà kinh doanh và thương gia mới làm xói mòn các đặc quyền
buôn bán của họ. Xét về mọi mặt, họ đã là những người thua thiệt kinh tế rõ ràng
do công nghiệp hóa. Việc đô thị hóa và sự nổi lên của các tầng lớp trung lưu và
lao động có ý thức về mặt xã hội cũng đã thách thức độc quyền chính trị của các
giới quý tộc có nhiều đất. Như thế với sự mở rộng của Cách mạng Công nghiệp,
các giới quý tộc đã không chỉ là những kẻ thua về mặt kinh tế; họ cũng còn bị rủi
ro trở thành những kẻ thua về mặt chính trị, mất ảnh hưởng của họ lên quyền lực
chính trị. Với quyền lực kinh tế và chính trị của họ bị đe dọa, các elite này thường
đã tạo ra sự chống đối ghê gớm chống lại công nghiệp hóa.
Tầng lớp quý tộc đã không phải là người thua duy nhất từ công nghiệp hóa.
Các thợ thủ công, mà các kỹ năng chân tay của họ được thay thế bằng cơ giới hóa,
tương tự cũng đã chống sự mở rộng công nghiệp. Nhiều người đã tổ chức chống
lại nó, náo loạn và phá hủy máy móc mà họ coi là chịu trách nhiệm về sự sụt giảm
sinh kế của họ. Họ đã là các Luddite, một từ mà ngày nay trở thành đồng nghĩa
với chống đối thay đổi công nghệ. John Key, nhà sáng chế Anh của “chiếc thoi
bay” trong năm 1733, một trong những cải thiện đáng kể trong cơ giới hóa dệt
vải, nhà của ông đã bị các Luddite đốt trong năm 1753. James Hargreaves, nhà
sáng chế của “spinning jenny-máy kéo sợi cơ khí”, một cải thiện bổ sung mang
tính cách mạng trong xe sợi, đã nhận được sự đối xử tương tự.
Trên thực tế, các thợ thủ công đã ít hiệu quả hơn các địa chủ và các elite rất
nhiều trong chống lại công nghiệp hóa. Các Luddite đã không có quyền lực chính
trị – khả năng để ảnh hưởng đến các kết quả chính trị chống lại mong muốn của
các nhóm khác – của giới quý tộc có nhiều đất. Ở Anh, công nghiệp hóa đã tiến
bước, bất chấp sự chống đối của các Luddite, bởi vì sự chống đối của giới quý
tộc, tuy thực, đã câm lặng. Ở các đế chế Áo-Hung và Nga, nơi các quốc vương
chuyên quyền và các quý tộc đã có thể mất nhiều hơn rất nhiều, công nghiệp hóa
86 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
đã bị chặn. Hậu quả là, các nền kinh tế của Áo-Hung và Nga bị đình trệ. Họ đã tụt
lại sau các quốc gia Âu châu khác, nơi tăng trưởng kinh tế đã cất cánh trong thế
kỷ mười chín.
Bất kể thành công và thất bại của các nhóm cụ thể, một bài học là rõ: các nhóm
hùng mạnh thường đứng lên chống lại tiến bộ kinh tế và chống lại các động cơ
của sự thịnh vượng. Tăng trưởng kinh tế không chỉ là một quá trình của các máy
móc nhiều hơn và tốt hơn, của những con người được giáo dục nhiều hơn và tốt
hơn, mà cũng là một quá trình hình thành và làm mất ổn định gắn với sự phá hủy
sáng tạo rộng rãi. Như thế sự tăng trưởng tiến lên chỉ nếu không bị chặn bởi
những kẻ thua kinh tế những người lường trước rằng các đặc quyền kinh tế của họ
sẽ bị mất và bởi những kẻ thua chính trị những người sợ rằng quyền lực chính trị
của họ bị xói mòn.
Sự xung đột về các nguồn lực khan hiếm, thu nhập và quyền lực, chuyển sang
sự xung đột về các quy tắc của trò chơi, các thể chế kinh tế, mà sẽ xác định các
hoạt động kinh tế và ai sẽ được hưởng lợi từ chúng. Khi có một xung đột, những
mong muốn của tất cả các bên không thể được thỏa mãn đồng thời. Một số sẽ bị
đánh bại và bị thất vọng, trong khi những người khác sẽ thành công trong bảo
đảm các kết quả họ thích. Ai là những người thắng của cuộc xung đột này, có các
hệ lụy cơ bản đến quỹ đạo kinh tế của một quốc gia. Nếu các nhóm đứng lên
chống tăng trưởng là những người thắng, họ có thể thành công chặn sự tăng
trưởng kinh tế, và nền kinh tế sẽ đình trệ.
Logic của việc vì sao kẻ hùng mạnh không nhất thiết muốn dựng lên các thể
chế kinh tế mà thúc đẩy thành công kinh tế, có thể mở rộng dễ dàng sang sự lựa
chọn các thể chế chính trị. Trong một chính thể chuyên chế, một số elite có thể sử
dụng quyền lực để dựng lên các thể chế kinh tế họ ưa thích. Phải chăng họ quan
tâm đến việc thay đổi các thể chế chính trị để làm cho chúng đa nguyên hơn?
Nhìn chung là không, vì việc này chỉ pha loãng quyền lực chính trị của họ, làm
cho khó khăn hơn, có thể là không thể, đối với họ để tổ chức các thể chế kinh tế
nhằm thúc đẩy các lợi ích riêng của họ. Ở đây chúng ta lại thấy một nguồn sẵn
của xung đột. Những người chịu đựng các thể chế kinh tế khai thác không thể hy
vọng vào các nhà cai trị chuyên chế để họ tự nguyện thay đổi các thể chế chính trị
và phân chia lại quyền lực trong xã hội. Cách duy nhất để làm thay đổi các thể
chế chính trị này là phải buộc elite tạo ra các thể chế đa nguyên hơn.
TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 87
Theo cùng cách rằng không có lý do vì sao các thể chế chính trị lại tự động trở
nên đa nguyên hơn, không có xu hướng tự nhiên nào hướng tới sự tập trung hóa
chính trị. Chắc chắn có các khuyến khích để tạo ra các thể chế nhà nước tập trung
hơn trong bất cứ xã hội nào, nhất là trong các xã hội không có sự tập trung hóa
nào. Thí dụ, ở Somalia, nếu một thị tộc tạo ra một nhà nước tập trung có khả năng
áp đặt trật tự lên đất nước này, việc này có thể dẫn đến các lợi ích kinh tế và khiến
cho thị tộc này giàu hơn. Cái gì cản việc này? Rào cản chính cho sự tập trung hóa
chính trị lại là một dạng của sự sợ hãi thay đổi: bất cứ thị tộc, nhóm hay chính trị
gia nào thử tập trung quyền lực vào nhà nước cũng sẽ tập trung quyền lực vào tay
của chính họ, và việc này chắc gặp phải sự giận dữ của các thị tộc, nhóm, và các
cá nhân khác, những người sẽ là kẻ thua về mặt chính trị của quá trình này. Thiếu
sự tập trung chính trị có nghĩa không chỉ là thiếu luật pháp và trật tự trong phần
lớn của một lãnh thổ, mà cũng là có nhiều diễn viên với đủ quyền lực để chặn hay
phá vỡ sự việc, và nỗi sợ về sự chống đối và phản ứng bạo lực của họ sẽ thường
làm nhụt chí nhiều người có thể trở thành người tiến hành tập trung hóa. Sự tập
trung hóa chính trị là có khả năng chỉ khi một nhóm người đủ mạnh hơn những
nhóm khác để xây dựng một nhà nước. Ở Somalia, quyền lực được cân bằng đồng
đều, và không một thị tộc nào có thể áp đặt ý chí của mình lên bất cứ thị tộc nào
khác. Vì thế, sự thiếu tập trung chính trị tồn tại dai dẳng.
SỰ THỐNG KHỔ ĐẰNG ĐẴNG CỦA CONGO
Có ít thí dụ tốt hơn, hay phiền muộn hơn về các lực lượng giải thích vì sao thịnh
vượng kinh tế lại hiếm hoi một cách dai dẳng đến vậy dưới các thể chế khai thác
hoặc minh họa sự đồng vận giữa các thể chế kinh tế khai thác và các thể chế chính
trị khai thác hơn là Congo. Các khách viếng thăm người Bồ Đào Nha và Hà Lan
đến Congo vào các thế kỷ mười lăm và mười sáu đã để ý đến “sự nghèo khó khốn
cùng” ở đó. Công nghệ đã thô sơ theo các tiêu chuẩn Âu châu, với những người
Kongo đã không có chữ viết, bánh xe, cũng chẳng có cày. Lý do cho sự nghèo
khó này, và sự miễn cưỡng của những nông dân Kongo để chấp nhận những công
nghệ tốt hơn khi họ biết về chúng, là rõ từ các tường thuật lịch sử. Đã là do bản
chất khai thác của các thể chế kinh tế của nước này.
Như chúng ta đã thấy, Vương quốc Kongo đã được cai trị bởi nhà vua ở
Mbanza, São Salvador sau này. Các vùng xa thủ đô được cai trị bởi một elite
88 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
những người đã đóng các vai trò thống đốc của các phần khác nhau của vương
quốc. Sự giàu có của tầng lớp elite này đã dựa trên các đồn điền nô lệ xung quanh
São Salvador và việc khai thác thuế từ phần còn lại của đất nước. Chế độ nô lệ đã
là trung tâm của nền kinh tế, được dùng bởi elite để cung cấp cho các đồn điền
riêng của họ và bởi những người Âu châu trên bờ biển. Các loại thuế đã rất tùy
tiện; một loại thuế thậm chí đã được thu mỗi khi mũ của vua rơi xuống. Để trở
nên thịnh vượng hơn, người dân Kongo lẽ ra đã phải tiết kiệm và đầu tư – thí dụ,
bằng cách mua các chiếc cày. Nhưng đã không bõ công, vì mọi sản lượng thêm
mà họ sản xuất ra với công nghệ tốt hơn đều sẽ bị vua và elite của ông ta tước
đoạt. Thay cho đầu tư để làm tăng năng suất của họ và bán sản phẩm của họ trên
thị trường, những người Kongo đã chuyển các làng của họ ra xa thị trường; họ đã
cố ra càng xa đường càng tốt, nhằm để giảm việc bị tước đoạt và để thoát khỏi
tầm với của bọn buôn bán nô lệ.
Sự nghèo khó của Kongo vì thế đã là kết quả của các thể chế kinh tế khai thác
mà chặn tất cả các động cơ của sự thịnh vượng hay thậm chí khiến chúng hoạt
động ngược lại. Chính phủ Kongo đã cung cấp rất ít dịch vụ công cho các công
dân của mình, không ngay cả các dịch vụ cơ bản, như các quyền tài sản an toàn
hay luật pháp và trật tự. Ngược lại, bản thân chính phủ đã là mối đe dọa lớn nhất
cho tài sản và các quyền con người của các thần dân của nó. Chế độ nô lệ, đã có
nghĩa rằng thị trường cơ bản nhất, một thị trường lao động bao gồm nơi người dân
có thể chọn nghề hay việc làm của mình theo những cách mà hết sức cốt yếu cho
một nền kinh tế thịnh vượng, đã không tồn tại. Hơn nữa, thương mại đường dài và
các hoạt động buôn bán đã được kiểm soát bởi nhà vua và chỉ mở ra cho những
người gắn với ông ta. Mặc dù elite nhanh chóng biết chữ sau khi những người Bồ
Đào Nha đưa chữ viết vào, nhà vua đã không có nỗ lực nào để truyền bá sự biết
đọc biết viết cho tuyệt đại đa số dân cư.
Tuy nhiên, dù “nghèo khó khốn cùng” đã là phổ biến rộng rãi, các thể chế khai
thác của Kongo có logic riêng hoàn hảo của chúng: chúng làm cho một số ít
người, những người có quyền lực chính trị, rất giàu. Trong thế kỷ mười sáu, vua
Kongo và tầng lớp quý tộc đã có thể nhập khẩu các hàng hóa xa xỉ Âu châu và
được bao quanh bởi những người hầu và nô lệ.
Gốc rễ của các thể chế kinh tế của xã hội Kongo bắt nguồn từ sự phân bổ
quyền lực chính trị trong xã hội và như thế là từ bản chất của các thể chế chính trị.
TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 89
Đã chẳng có gì chặn nhà vua khỏi lấy tài sản hay thân thể của người dân, khác
hơn sự đe dọa nổi loạn. Mặc dù sự đe dọa này là thực, nhưng đã không đủ để làm
cho người dân hay tài sản của họ được an toàn. Các thể chế chính trị của Kongo
đã thực sự là chuyên chế, khiến cho vua và elite về cơ bản không bị ràng buộc
nào, và đã không cho các công dân tiếng nói nào về cách tổ chức xã hội của họ.
Tất nhiên, không khó để thấy rằng các thể chế của Kongo tương phản sắc nét
với các thể chế chính trị bao gồm nơi quyền lực bị ràng buộc, bị chế ngự và được
phân bổ rộng rãi. Các thể chế chuyên chế của Kongo được giữ đúng vị trí bởi
quân đội. Nhà vua có một quân đội thường trực năm ngàn quân vào giữa thế kỷ
mười bảy, mà nòng cốt là năm trăm lính ngự lâm – một lực lượng kinh khủng vào
thời đó. Vì sao nhà vua và tầng lớp quý tộc lại hết sức háo hức chấp nhận các vũ
khí Âu châu như thế là dễ hiểu.
Đã không có cơ hội nào về sự tăng trưởng kinh tế bền vững dưới tập này của
các thể chế kinh tế và thậm chí các khuyến khích cho việc tạo ra sự tăng trưởng
tạm thời cũng đã hết sức hạn chế. Cải cách các thể chế kinh tế để cải thiện các
quyền tài sản cá nhân đã có thể khiến cho xã hội Kongo nói chung thịnh vượng
hơn. Nhưng không chắc là elite được lợi từ sự thịnh vượng rộng hơn này. Thứ
nhất, các cải cách như vậy làm cho elite thành những kẻ thua về kinh tế, bằng
cách làm xói mòn sự giàu có mà buôn bán nô lệ và các đồn điền nô lệ mang lại
cho họ. Thứ hai, các cải cách như vậy là có thể chỉ nếu quyền lực chính trị của
nhà vua và elite bị cắt xén. Thí dụ, nếu nhà vua tiếp tục chỉ huy năm trăm ngự lâm
quân của ông, ai tin một công bố rằng chế độ nô lệ được bãi bỏ? Cái gì chặn nhà
vua khỏi việc đổi ý của ông sau đó? Bảo đảm thực tế duy nhất là một sự thay đổi
về các thể chế chính trị sao cho các công dân có được quyền lực chính trị đối lập
nào đó, trao cho họ tiếng nói nào đó về thuế hay về cái các ngự lâm quân đã làm.
Nhưng trong trường hợp này đáng nghi rằng việc duy trì sự tiêu dùng và phong
cách sống của nhà vua và elite là cao trong danh sách ưu tiên của họ [của các
công dân]. Trong kịch bản này, những thay đổi tạo ra các thể chế kinh tế tốt hơn
làm cho nhà vua và giới quý tộc thành những kẻ thua về mặt kinh tế và chính trị.
Sự tương tác giữa các thể chế kinh tế và chính trị năm trăm năm trước vẫn
thích đáng cho việc hiểu vì sao nhà nước Congo hiện đại hiện nay vẫn nghèo khổ.
Sự đến của các nhà cai trị Âu châu trong khu vực này, và sâu hơn vào lưu vực
sông Congo vào thời “tranh giành châu Phi” vào cuối thế kỷ mười chín, đã dẫn
90 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
đến một sự bất an toàn của các quyền con người và tài sản thậm chí còn quá xá
hơn cả thời tiền thuộc địa ở Kongo. Ngoài ra, nó tái tạo hình mẫu của các thể chế
khai thác và chủ nghĩa chuyên chế trao quyền và làm giàu cho một số ít gây tổn
hại cho số đông, mặc dù số ít bây giờ là các nhà thực dân Bỉ, đặc biệt là Vua
Leopold II.
Khi Congo trở nên độc lập vào năm 1960, cùng hình mẫu của các thể chế, các
khuyến khích, và thành tích kinh tế đã tự tái tạo mình. Các thể chế kinh tế khai
thác này của Congo đã lại được ủng hộ bởi các thể chế chính trị khai thác cao độ.
Tình hình đã còn tồi tệ hơn bởi vì chủ nghĩa thực dân Âu châu đã tạo ra một chính
thể, Congo, được tạo thành từ nhiều nhà nước tiền thuộc địa khác nhau và các xã
hội mà nhà nước quốc gia, được điều hành từ Kinshasa, đã ít kiểm soát được. Mặc
dù Tổng thống Mobutu đã sử dụng nhà nước để làm giàu cho mình và cho các
cánh hẩu của ông – thí dụ, qua chương trình Zaire hóa năm 1973, mà dính líu đến
sự tước đoạt hàng loạt các lợi ích kinh tế nước ngoài – ông đã đứng đầu một nhà
nước không được tập trung hóa với ít quyền lực đối với phần lớn đất nước, và đã
phải kêu gọi sự trợ giúp của nước ngoài để chặn các tỉnh Katanga và Kasai ly khai
trong các năm 1960. Sự thiếu tập trung hóa chính trị này, hầu như đến điểm hoàn
toàn sụp đổ của nhà nước, là một nét đặc trưng mà Congo chia sẻ với phần lớn
của châu Phi hạ-Sahara.
Cộng hòa Dân chủ Congo hiện đại vẫn nghèo bởi vì các công dân của nó vẫn
thiếu các thể chế kinh tế mà tạo ra các khuyến khích cơ bản làm cho một xã hội
thịnh vượng. Không phải là địa lý, văn hóa, hay sự ngu dốt của các công dân hay
của các chính trị gia của nó là cái giữ Congo nghèo, mà là các thể chế kinh tế khai
thác của nó. Những thể chế này vẫn tồn tại sau tất cả những thế kỷ này bởi vì
quyền lực chính trị tiếp tục được tập trung một cách hẹp trong tay của một elite
những người có ít khuyến khích để thực thi các quyền tài sản an toàn cho người
dân, để cung cấp các dịch vụ công cơ bản mà sẽ cải thiện chất lượng cuộc sống,
hay để cổ vũ cho sự tiến bộ kinh tế. Đúng hơn, lợi ích của họ là để khai thác thu
nhập và duy trì quyền lực của họ. Họ đã không sử dụng quyền lực này để xây
dựng một nhà nước tập trung, vì để làm thế sẽ tạo ra cùng các vấn đề về đối lập và
các thách thức chính trị thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có thể tạo ra. Hơn nữa, như ở
phần lớn của phần còn lại của châu Phi hạ-Sahara, sự đấu đá nội bộ quyết liệt
TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 91
được kích bởi các nhóm đối thủ mưu toan kiểm soát các thể chế khai thác đã phá
hủy bất cứ xu hướng tập trung hóa nhà nước nào mà đã có thể tồn tại.
Lịch sử của Vương quốc Kongo, và lịch sử gần đây hơn của Congo, minh họa
một cách sinh động cho việc các thể chế chính trị xác định các thể chế kinh tế ra
sao và, thông qua các thể chế này, xác định các khuyến khích kinh tế và quy mô
cho tăng trưởng kinh tế như thế nào. Nó cũng minh họa mối quan hệ cộng sinh
giữa chủ nghĩa chuyên chế chính trị và các thể chế kinh tế trao quyền và làm giàu
cho số ít gây thiệt hại cho số đông.
TĂNG TRƯỞNG DƯỚI CÁC THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ KHAI THÁC
Congo ngày nay là một thí dụ cực đoan, với sự vô luật pháp và các quyền tài sản
rất không an toàn. Tuy vậy, trong hầu hết trường hợp sự cực đoan như vậy không
phục vụ cho lợi ích của elite, vì nó sẽ phá hủy tất cả các khuyến khích kinh tế và
tạo ra ít nguồn lực để khai thác. Luận đề trung tâm của cuốn sách này là, tăng
trưởng kinh tế và sự thịnh vượng gắn với các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm,
trong khi các thể chế khai thác dẫn đến sự trì trệ và nghèo khó. Nhưng điều này
không ngụ ý rằng các thể chế khai thác chẳng bao giờ có thể tạo ra tăng trưởng,
cũng chẳng ngụ ý rằng tất cả các thể chế khai thác được tạo ra bằng nhau.
Có hai cách khác biệt nhưng bổ sung cho nhau mà theo đó tăng trưởng có thể
nổi lên dưới các thể chế chính trị khai thác. Thứ nhất, cho dù các thể chế kinh tế
là khai thác, tăng trưởng là có thể khi elite có thể trực tiếp phân bổ các nguồn lực
cho các hoạt động có năng suất cao mà bản thân họ kiểm soát. Một thí dụ nổi bật
của loại tăng trưởng này dưới các thể chế khai thác đã là các Đảo vùng Caribe
giữa các thế kỷ mười bảy và mười tám. Hầu hết người dân đã là các nô lệ, làm
việc dưới các điều kiện khủng khiếp ở các đồn điền, sống hầu như không trên
mức sống qua ngày. Nhiều người đã chết do suy dinh dưỡng và kiệt sức. Ở
Barbados, Cuba, Haiti, và Jamaica trong các thế kỷ mười bảy và mười tám, một
thiểu số nhỏ, elite đồn điền, đã kiểm soát mọi quyền lực chính trị và sở hữu tất cả
các tài sản, bao gồm tất cả các nô lệ. Trong khi đa số đã không có quyền nào,
quyền sở hữu và tài sản của elite đồn điền đã được bảo vệ kỹ. Bất chấp các thể
chế kinh tế khai thác mà đã bóc lột một cách dã man đa số dân cư, các đảo này đã
là giữa các nơi giàu nhất trên thế giới, bởi vì nó đã có thể sản xuất đường và bán
92 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
trên các thị trường thế giới. Nền kinh tế của các đảo này đã chỉ trì trệ khi đã có
nhu cầu để chuyển sang các hoạt động kinh tế khác, mà đã đe dọa cả các khoản
thu nhập và quyền lực chính trị của elite đồn điền.
Một thí dụ khác đã là tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa ở Liên Xô từ Kế
hoạch Năm Năm lần thứ nhất trong năm 1928 cho đến tận các năm 1970. Các thể
chế chính trị và kinh tế đã mang tính khai thác cao độ, và các thị trường đã bị hạn
chế nặng nề. Tuy nhiên, Liên Xô đã có thể đạt sự tăng trưởng kinh tế nhanh bởi vì
nó đã có thể sử dụng quyền lực của nhà nước để chuyển các nguồn lực từ nông
nghiệp, nơi chúng đã được sử dụng rất kém hiệu quả, sang công nghiệp.
Loại thứ hai của tăng trưởng dưới các thể chế chính trị khai thác xuất hiện khi
các thể chế cho phép sự phát triển của các thể chế kinh tế bao gồm một chút, cho
dù không hoàn toàn. Nhiều xã hội với các thể chế chính trị khai thác sẽ lảng tránh
các thể chế kinh tế bao gồm bởi vì sợ sự phá hủy sáng tạo. Nhưng mức độ, mà
elite tìm được cách để chiếm độc quyền quyền lực, thay đổi qua các xã hội. Trong
một vài xã hội, vị thế của elite đã có thể đủ an toàn nên họ có thể cho phép một số
bước hướng tới các thể chế kinh tế bao gồm khi họ khá chắc chắn rằng việc này sẽ
không đe dọa quyền lực chính trị của họ. Một cách lựa chọn khả dĩ khác, tình thế
lịch sử đã có thể đến nỗi ban cho một chế độ chính trị khai thác các thể chế kinh
tế khá bao gồm, mà họ quyết định không chặn lại. Những cách này cung cấp cách
thứ hai mà theo đó tăng trưởng kinh tế có thể xảy ra dưới các thể chế chính trị
khai thác.
Công nghiệp hóa nhanh chóng của Nam Hàn dưới thời Tướng Park là một thí
dụ. Park lên nắm quyền qua một cuộc đảo chính năm 1961, nhưng ông đã làm vậy
trong một xã hội được ủng hộ mạnh mẽ bởi Hoa Kỳ và với một nền kinh tế nơi
các thể chế kinh tế về thực chất đã là bao gồm. Mặc dù chế độ của Park là độc
đoán, nó đã cảm thấy đủ an toàn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và thực tế đã
làm vậy một cách rất tích cực – có lẽ một phần bởi vì chế độ đã không trực tiếp
được ủng hộ bởi các thể chế kinh tế khai thác. Khác với Liên Xô và hầu hết các
trường hợp khác của tăng trưởng dưới các thể chế khai thác, Nam Hàn đã chuyển
đổi từ các thể chế chính trị khai thác theo hướng sang các thể chế chính trị bao
gồm trong các năm 1980. Sự chuyển đổi thành công này đã là do một sự hợp lưu
của các yếu tố.
TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 93
Vào các năm 1970, các thể chế kinh tế ở Nam Hàn đã trở nên đủ bao gồm đến
mức chúng đã làm giảm một trong các lý do căn bản cho các thể chế chính trị khai
thác – elite kinh tế đã có ít để kiếm được từ sự thống trị chính trị của chính họ hay
của quân đội. Sự bình đẳng tương đối về thu nhập ở Nam Hàn cũng đã có nghĩa
rằng elite có ít để sợ chủ nghĩa đa nguyên và dân chủ. Ảnh hưởng then chốt của
Hoa Kỳ, đặc biệt căn cứ vào sự đe dọa từ Bắc Triều Tiên, cũng đã có nghĩa rằng
phong trào dân chủ mạnh, mà đã thách thức chế độ độc tài quân sự, đã không thể
bị đàn áp lâu. Mặc dù việc ám sát Tướng Park trong năm 1979 đã tiếp theo bởi
một cuộc đảo chính quân sự khác, lãnh đạo bởi Chun Doo-hwan, người kế vị
được chọn của Chun, Roh Tae-woo, đã khởi xướng một quá trình cải cách chính
trị mà đã dẫn đến sự củng cố của một nền dân chủ đa nguyên sau năm 1992. Tất
nhiên, không có sự chuyển đổi nào thuộc loại này đã xảy ra ở Liên Xô. Kết quả là,
sự tăng trưởng Soviet đã hụt hơi kiệt sức, và nền kinh tế đã bắt đầu suy sụp trong
các năm 1980 và rồi tan vỡ hoàn toàn trong các năm 1990.
Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc hiện nay cũng có nhiều điểm chung với
những kinh nghiệm của cả Liên Xô và Nam Hàn. Trong khi các giai đoạn ban đầu
của sự tăng trưởng Trung Quốc đã được dẫn đầu bởi những cải cách thị trường
triệt để trong khu vực nông nghiệp, các cuộc cải cách trong khu vực công nghiệp
đã im hơi lặng tiếng hơn. Ngay cả ngày nay, nhà nước và Đảng Cộng Sản đóng
vai trò trung tâm trong quyết định khu vực nào và các doanh nghiệp nào sẽ nhận
được thêm vốn và sẽ mở rộng – trong quá trình, kiếm được và đánh mất các
khoản tiền kếch xù. Như ở Liên Xô trong thời hoàng kim của nó, Trung Quốc
đang phát triển nhanh chóng, nhưng đấy vẫn là sự tăng trưởng dưới các thể chế
khai thác, dưới sự kiểm soát của nhà nước, với ít dấu hiệu của một sự chuyển đổi
sang các thể chế chính trị bao gồm. Sự thực rằng các thể chế kinh tế của Trung
Quốc vẫn còn xa mới mang tính bao gồm đầy đủ cũng gợi ý rằng một sự chuyển
đổi theo kiểu Nam Hàn là ít có khả năng, mặc dù tất nhiên không phải là không
thể.
Đáng lưu ý rằng sự tập trung hóa chính trị là chìa khóa cho cả hai cách mà theo
đó tăng trưởng dưới các thể chế chính trị khai thác có thể xảy ra. Không có mức
độ tập trung chính trị nào đó, thì elite đồn điền ở Barbados, Cuba, Haiti, và
Jamaica đã không thể giữ luật pháp và trật tự và bảo vệ các tích sản và tài sản
riêng của họ. Không có sự tập trung chính trị đáng kể và một sự nắm chặt quyền
94 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
lực chính trị, thì các elite quân sự Nam Hàn đã không, và Đảng Cộng Sản Trung
Quốc cũng đã chẳng cảm thấy đủ an toàn để nghĩ ra các cải cách kinh tế quan
trọng và vẫn tìm được cách để bám lấy quyền lực. Và không có sự tập trung hóa
như vậy, thì nhà nước ở Liên Xô hay ở Trung Quốc đã không thể điều phối hoạt
động kinh tế để hướng các nguồn lực vào các lĩnh vực có năng suất cao. Một
đường phân chia chính giữa các thể chế chính trị khai thác vì thế là mức độ tập
trung hóa chính trị của chúng. Các thể chế chính trị khai thác mà không có sự tập
trung hóa, ví dụ như nhiều ở châu Phi hạ-Sahara, sẽ thấy khó để đạt ngay cả sự
tăng trưởng hạn chế.
Cho dù các thể chế khai thác có thể tạo ra sự tăng trưởng nào đó, chúng sẽ
thường không tạo ra sự tăng trưởng kinh tế được giữ vững, và chắc chắn không
tạo ra loại tăng trưởng đi cùng với sự phá hủy sáng tạo. Khi cả các thể chế chính
trị và các thể chế kinh tế đều mang tính khai thác, các khuyến khích sẽ không có ở
đó cho sự phá hủy sáng tạo và thay đổi công nghệ. Trong một thời gian nhà nước
có thể có khả năng để tạo ra tăng trưởng nhanh bằng cách phân bổ các nguồn lực
và con người bằng sắc lệnh, nhưng quá trình này bị hạn chế một cách cố hữu. Khi
đạt các giới hạn, sự tăng trưởng ngừng lại, như đã xảy ra ở Liên Xô trong các năm
1970. Ngay cả khi những người Soviet đã đạt sự tăng trưởng kinh tế nhanh, đã có
ít thay đổi công nghệ trong phần lớn nền kinh tế, mặc dù bằng cách đổ các nguồn
lực ồ ạt vào quân đội họ đã có khả năng phát triển các công nghệ quân sự và thậm
chí vượt trước Hoa Kỳ trong cuộc chạy đua không gian và hạt nhân trong một thời
gian ngắn. Nhưng sự tăng trưởng này mà không có sự phá hủy sáng tạo và không
có sự đổi mới công nghệ trên diện rộng đã là không bền vững và đi đến một sự
kết thúc đột ngột.
Ngoài ra, những sắp xếp, mà ủng hộ tăng trưởng kinh tế dưới các thể chế khai
thác, do bản chất của chúng, là mong manh – chúng có thể sụp đổ hay bị phá hủy
một cách dễ dàng bởi sự đấu đá nội bộ mà bản thân các thể chế khai thác gây ra.
Trên thực tế, các thể chế chính trị và kinh tế khai thác tạo ra một xu hướng chung
cho sự đấu đá nội bộ, bởi vì chúng dẫn đến sự tập trung của cải và quyền lực
trong tay của một elite hẹp. Nếu một nhóm khác có thể lấn át và có thủ đoạn hơn
elite này và nắm lấy sự kiểm soát nhà nước, thì họ sẽ là những người hưởng của
cải và quyền lực này. Hệ quả là, như thảo luận của chúng ta về sự sụp đổ của Đế
chế La Mã muộn hơn và các thành phố Maya sẽ minh họa, sự chiến đấu để kiểm
TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 95
soát nhà nước toàn năng là luôn luôn âm ỉ, và nó sẽ tăng cường một cách định kỳ
và dẫn đến sự hủy hoại của các chế độ này, khi nó biến thành nội chiến và đôi khi
thành sự tan vỡ và sụp đổ hoàn toàn của nhà nước. Một ngụ ý của việc này là, cho
dù một xã hội dưới các thể chế khai thác ban đầu có thể đạt được mức độ tập
trung nhà nước nào đó, nó sẽ không kéo dài. Trên thực tế, việc đấu đá nội bộ để
kiểm soát các thể chế khai thác thường dẫn đến nội chiến và sự vô luật pháp tràn
lan, coi một sự thiếu vắng dai dẳng của sự tập trung nhà nước là thiêng liêng như
ở nhiều quốc gia ở châu Phi hạ-Sahara và một số quốc gia ở Mỹ Latin và Nam Á.
Cuối cùng, khi sự tăng trưởng đến dưới các thể chế chính trị khai thác nhưng ở
nơi các thể chế kinh tế có các khía cạnh bao gồm, như chúng đã là ở Nam Hàn,
luôn luôn có mối hiểm nguy rằng các thể chế kinh tế trở nên khai thác hơn và sự
tăng trưởng ngừng lại. Những người kiểm soát quyền lực chính trị cuối cùng sẽ
thấy có lợi hơn để sử dụng quyền lực của họ để hạn chế cạnh tranh, để làm tăng
phần của họ trong chiếc bánh, hay thậm chí để ăn cắp và cướp bóc từ những
người khác hơn là ủng hộ sự tiến bộ kinh tế. Sự phân bố và khả năng để sử dụng
quyền lực cuối cùng sẽ làm xói mòn chính nền tảng của sự thịnh vượng kinh tế,
trừ phi các thể chế chính trị được biến đổi từ khai thác thành bao gồm.
4.
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT:
SỨC NẶNG CỦA LỊCH SỬ
THẾ GIỚI DO DỊCH HẠCH GÂY RA
RONG NĂM 1346 DỊCH HẠCH, Cái chết Đen, đã đến thành phố cảng Tana
ở cửa Sông Đông ở Biển Đen. Được truyền bởi bọ chét sống trên chuột, bệnh
dịch hạch được đưa từ Trung Quốc bởi các nhà buôn di chuyển dọc theo Con
đường Tơ lụa, mạng lưới thương mại huyết mạch xuyên Á vĩ đại. Nhờ các nhà
buôn xứ Genoa, chuột đã mau chóng làm cho bọ chét và dịch hạch lan từ Tana ra
toàn bộ vùng Địa Trung Hải. Vào đầu 1347, dịch hạch đã đến Constantinople.
Vào mùa xuân 1348, nó đã lan xuyên qua Pháp và Bắc Phi và lên vùng đất hình
chiếc ủng của Italia. Bệnh dịch hạch đã triệt hạ khoảng nửa dân số của bất cứ
vùng nào mà nó đã quét qua. Nhà văn Ilalia Giovanni Boccaccio đã chứng kiến
trực tiếp dịch hạch đến thành phố Florence của Italia. Muộn hơn ông nhớ lại:
Đối mặt với sự ào tới của nó, tất cả sự sáng suốt và khéo léo của con
người đã đều vô hiệu … bệnh dịch hạch đã bắt đầu làm cho các tác
động tai họa của nó trở nên rõ ràng theo một cách lạ thường và gây
khiếp sợ. Nó đã không có dạng được cho là đã có ở phương Đông, nơi
nếu bất cứ ai hộc máu mũi thì đó là một điềm hiển nhiên của cái chết
chắc chắn. Ngược lại, triệu chứng sớm nhất của nó là sự xuất hiện các
hạch ở bẹn hay ở nách, một số hạch có hình thù quả trứng trong khi
các hạnh khác có kích thước khoảng chừng một quả táo bình thường
T
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 97
… Muộn hơn các triệu chứng của căn bệnh thay đổi, và nhiều người
bắt đầu thấy các vết đen và các vết thâm tím trên tay, đùi và các bộ
phận khác trên thân thể họ … Chống lại các chứng bệnh này … Tất cả
lời khuyên của các thầy thuốc và tất cả sức mạnh của y học đều vô ích
và vô hiệu … Và trong hầu hết các trường hợp cái chết xảy ra trong
vòng ba ngày kể từ khi xuất hiện các triệu chứng mà chúng ta mô tả.
Người dân ở nước Anh đã biết dịch hạch đang đến và đã biết rõ về sự diệt vong
sắp đến. Vào giữa tháng Tám năm 1348, Vua Edward III đã yêu cầu Đức Tổng
Giám Mục Cantenbury để tổ chức các lễ cầu nguyện, và nhiều giám mục đã viết
thư cho các linh mục để đọc trong nhà thờ nhằm giúp người dân đối phó với cái
sắp giáng xuống họ. Ralph ở thị trấn Shrewsbury, Đức Giám mục giáo xứ Bath,
đã viết cho các linh mục:
Chúa toàn năng dùng sấm, sét [sic], và các cơn gió mạnh khác mà
ngài phóng từ ngai vàng của ngài để gây đau khổ cho những đứa con
mà ngài muốn cứu rỗi. Do đó, từ khi bệnh dịch hạch tai họa từ
phương Đông đã đến một vương quốc láng giềng, rất đáng lo ngại
rằng, trừ phi chúng ta câu nguyện một cách chân thành và không
ngừng, một bệnh dịch tương tự sẽ trải các nhánh độc hại của nó vào
vương quốc này, và giáng xuống và tiêu hủy sạch cư dân. Vì thế tất cả
chúng ta phải đến trước sự hiện diện của Chúa trong lúc thú tội, đọc
bài thánh vịnh.
Việc đó đã chẳng có ích lợi gì. Dịch hạch tấn công và mau chóng tiêu diệt
khoảng một nửa dân số Anh. Các thảm họa như vậy có thể có những ảnh hưởng to
lớn đến các thể chế của xã hội. Có lẽ dễ hiểu, rất nhiều người đã hóa điên.
Boccaccio đã nhận xét rằng, “một số đã xác nhận rằng một cách không thể sai để
tránh xa tai họa kinh khủng này là uống túy lúy, thỏa sức tận hưởng cuộc sống, đi
vòng quanh ca hát và vui chơi hội hè, chiều theo mọi ham muốn của mình bất cứ
khi nào có cơ hội, nhún vai coi khinh cái quan trọng nhất như một trò đùa lớn …
và điều này giải thích vì sao các bà, những người đã hồi phục, có lẽ ít trong sạch
hơn trong thời kỳ tiếp sau.” Thế nhưng dịch hạch cũng đã có một tác động biến
đổi về mặt xã hội, kinh tế, và chính trị lên các xã hội Âu châu trung cổ.
98 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Vào lúc chuyển giao thế kỷ thứ mười bốn, châu Âu đã có một trật tự phong
kiến, một cách tổ chức xã hội lần đầu tiên nổi lên ở Tây Âu sau sự sụp đổ của Đế
chế La Mã. Nó đã dựa trên một mối quan hệ thứ bậc giữa nhà vua và các chúa
(lord) bên dưới ông, với các nông dân ở dưới cùng. Nhà vua sở hữu đất đai và cấp
đất cho các chúa đổi lấy các dịch vụ quân sự. Sau đó các chúa phân đất cho các
nông dân, đổi lại các nông dân đã phải lao động nhiều mà không được trả công và
bị nhiều loại tiền phạt và thuế. Các nông dân, bởi vì địa vị “nô lệ” của họ, đã được
gọi là các nông nô, bị gắn liền với đất, không có khả năng di chuyển đi nơi khác
nếu không có sự cho phép của chúa của họ, người không chỉ là chúa đất mà cũng
là thẩm phán, bội thẩm đoàn, và lực lượng cảnh sát. Đó đã là một hệ thống mang
tính khai thác hết sức cao, với của cải chảy từ nhiều nông dân lên phía trên cho ít
chúa đất.
Sự khan hiếm lao động nghiêm trọng do dịch hạch gây ra đã làm rung chuyển
nền tảng của trật tự phong kiến. Nó đã khuyến khích các nông dân đòi thay đổi.
Tại Eynsham Abbey, chẳng hạn, các nông dân đã đòi giảm nhiều loại tiền phạt và
việc làm không được trả công. Họ đã nhận được cái họ muốn, và hợp đồng mới
của họ đã bắt đầu với khẳng định, “Vào thời chết chóc hay bệnh dịch hạch, xảy ra
năm 1349, chỉ đúng hai người thuê còn lại trong thái ấp, và họ đã bày tỏ ý định bỏ
đi trừ phi Thầy Nicolas xứ Upton, cha trưởng tu viện và chúa của trang ấp khi đó,
làm một thỏa thuận mới với họ”. Ông đã làm.
Việc xảy ra tại Eynsham đã xảy ra ở mọi nơi. Các nông dân đã bắt đầu giải
phóng mình khỏi lao dịch bắt buộc và nhiều nghĩa vụ với các chúa đất của họ.
Lương bắt đầu tăng lên. Chính phủ đã thử chấm dứt việc này và, vào năm 1351,
đã thông qua Đạo luật [về Những người] Lao động (Statute of Laborers), mà mở
đầu bằng:
Bởi vì phần lớn nhân dân và đặc biệt các thợ và đầy tớ bây giờ đã chết
trong dịch hạch đó, một số, thấy sự thẳng thắn của các ông chủ và sự
khan hiếm đầy tớ, không sẵn sàng phục vụ trừ phi họ nhận được tiền
công thái quá … Chúng ta, xem xét những sự bất tiện nghiêm trọng
mà có thể do sự thiếu lao động, đặc biệt thiếu thợ cày và những lao
động chân tay như vậy, gây ra, đã … thấy phù hợp để quy định: rằng
mọi đàn ông và đàn bà của vương quốc Anh chúng ta … sẽ buộc phải
phục vụ những người mà thấy phù hợp để tìm kiếm anh ta; và anh ta
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 99
sẽ chỉ lấy [tiền] công bằng quần áo đồng phục, sự đền bù phù hợp hay
lương mà, ở những nơi anh ta được tìm kiếm để phục vụ, đã quen để
được trả trong năm thứ hai mươi của triều đại chúng ta ở nước Anh
[Vua Edward III lên ngôi vào ngày 25-1-1327, cho nên sự dẫn chiếu ở
đây là đến năm 1347] hoặc năm hay sáu năm bình thường ngay trước
đó.
Đạo luật thực ra đã thử cố định tiền công ở mức trước Cái Chết Đen. Đặc biệt
làm cho elite Anh lo lắng đã là “sự dụ dỗ”, một nỗ lực của một chúa đất để hấp
dẫn các nông dân khan hiếm của những người khác. Lời giải đã là làm cho việc
bắt giam trở thành sự trừng phạt cho việc bỏ đi mà không được phép của chủ:
Và nếu một thợ gặt hay thợ cắt, hoặc thợ khác hay đầy tớ, dù địa vị
hay điều kiện của người đó thế nào, người được giữ để phục vụ bất cứ
ai, mà rời khỏi sự phục vụ được nói đến ấy trước thời hạn được thỏa
thuận, mà không có sự cho phép hay lý do hợp lý, sẽ phải chịu sự
trừng phạt tống giam, và ngoài ra … không để người nào … trả hoặc
cho phép để được trả bất cứ ai khoản tiền công, quần áo đồng phục,
sự đền bù hay lương nhiều hơn mức theo lệ thường như đã được nói
đến.
Nỗ lực của nhà nước Anh để ngăn những sự thay đổi của các thể chế và tiền
công sau Cái Chết Đen đã không có hiệu lực. Trong năm 1381, Khởi nghĩa Nông
dân nổ ra, và những người nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của Wat Tyler, thậm chí đã
chiếm phần lớn London. Mặc dù cuối cùng họ đã bị đánh bại, và Tyler bị xử tử,
đã không còn các các nỗ lực để thi hành Đạo luật Lao động nữa. Dịch vụ lao động
phong kiến teo dần đi, một thị trường lao động bao gồm đã bắt đầu nổi lên ở nước
Anh, và tiền công tăng lên.
Dịch hạch có vẻ đã tấn công phần lớn thế giới, và ở mọi nơi một phần tương tự
của dân số đã chết. Như thế tác động nhân khẩu học ở Đông Âu đã cũng như ở
nước Anh và Tây Âu. Các lực lượng xã hội và kinh tế đang vận hành đã cũng như
nhau. Lao động khan hiếm và người dân đã đòi các quyền tự do lớn hơn. Nhưng ở
phía Đông, một logic trái ngược mạnh hơn đã tác động. Ít người hơn đã có nghĩa
là tiền công cao hơn trong một thị trường lao động bao gồm. Nhưng điều này đã
cho phép các chúa đất một khuyến khích lớn hơn để giữ thị trường lao động là thị
100 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
trường lao động khai thác và các nông dân làm nô lệ. Ở nước Anh động lực thúc
đẩy này cũng đã có tác động, như được phản ánh trong Đạo Luật Lao động.
Nhưng bất chấp việc đó những người lao động đã có đủ sức mạnh để đạt được cái
họ muốn. Đã không thế ở Đông Âu. Sau dịch hạch, các chúa đất Đông Âu đã bắt
đầu tiếp quản các vùng đất lớn và mở rộng ruộng đất của họ, mà đã lớn hơn ruộng
đất của các chúa đất Tây Âu rồi. Các thị trấn đã yếu hơn và thưa dân hơn, và thay
vì trở nên tự do hơn, những người lao động bắt đầu thấy quyền tự do hiện hành
của họ bị xâm phạm.
Các tác động trở nên đặc biệt rõ sau năm 1500, khi Tây Âu bắt đầu cần đến
những hàng hóa nông nghiệp được sản xuất ở Đông Âu như lúa mỳ, lúa mạch và
gia súc. Tám mươi phần trăm nhập khẩu lúa mạch vào Amsterdam đã đến từ lưu
vực của các sông Elbe, Vistula, và Order. Chẳng bao lâu, năm mươi phần trăm
thương mại hưng thịnh bột phát của Hà Lan đã là với Đông Âu. Khi cầu Tây Âu
tăng, các chúa đất Đông Âu đã siết chặt thêm sự kiểm soát của họ đối với lực
lượng lao động để mở rộng cung. Nó đã được gọi là Chế độ Nông nô Thứ hai,
khác biệt và hà khắc hơn dạng gốc của nó ở đầu Thời Trung Cổ. Các chúa đất đã
tăng thuế mà họ thu trên các mảnh đất riêng của những người thuê của họ và lấy
một nửa tổng sản lượng. Tại Korczyn, Ba Lan, mọi việc làm cho chúa đất đã đều
được trả công trong năm 1533. Nhưng vào năm 1600 gần một nửa đã là lao động
cưỡng bức không được trả công. Trong năm 1500, những người lao động ở
Macklenberg, ở miền đông nước Đức, đã chỉ có nghĩa vụ lao động không được trả
công vài ngày trong một năm. Vào năm 1550 đã là một ngày trong một tuần, và
vào năm 1600 ba ngày trong một tuần. Con của những người lao động đã phải
làm không công cho chúa đất trong nhiều năm. Tại Hungary, các địa chủ đã kiểm
soát toàn bộ đất năm 1514, quy định một ngày làm việc không công trong một
tuần đối với mọi người lao động. Vào năm 1550, mức này đã được nâng lên hai
ngày một tuần. Vào cuối thế kỷ, đã là ba ngày. Các nông nô phải chịu các quy
định này đã chiếm 90 phần trăm dân số nông thôn thời đó.
Mặc dù trong năm 1346 đã có ít sự khác biệt giữa Tây và Đông Âu về mặt các
thể chế chính trị và kinh tế, vào năm 1600 chúng đã khác nhau hoàn toàn. Ở Tây
Âu, những người lao động đã thoát khỏi các khoản phí, phạt, và các quy định
phong kiến, và trở thành một phần then chốt của một nền kinh tế thị trường đang
hưng thịnh. Tại Đông Âu, họ cũng đã dính líu đến một nền kinh tế như vậy,
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 101
nhưng với tư cách các nông nô bị cưỡng bức nuôi trồng thực phẩm và các hàng
hóa nông nghiệp được đòi hỏi ở Tây Âu. Nó đã là một nền kinh tế thị trường
nhưng không phải là một nền kinh tế thị trường bao gồm. Sự phân kỳ [sự rẽ theo
các hướng khác nhau] thể chế này đã là kết quả của một tình thế nơi những sự
khác biệt giữa hai vùng này ban đầu có vẻ đã rất nhỏ: ở Đông Âu các chúa đất đã
được tổ chức tốt hơn một chút; họ đã có nhiều quyền hơn một chút và đã có ruộng
đất được gộp lại hơn. Các thị trấn yếu hơn và nhỏ hơn, các nông dân ít được tổ
chức hơn. Trong sơ đồ lớn của lịch sử, đấy đã là những khác biệt nhỏ. Thế nhưng
những sự khác biệt nhỏ này giữa Tây Âu và Đông Âu đã trở nên hết sức quan
trọng đối với cuộc sống của dân cư của chúng và đối với con đường tương lai của
sự phát triển thể chế khi trật tự phong kiến bị Cái Chết Đen làm lung lay.
Cái Chết Đen là một thí dụ sinh động về bước ngoặt [critical juncture], một sự
kiện lớn hay sự hợp lưu của những yếu tố phá vỡ sự cân bằng kinh tế hay chính trị
hiện tồn trong xã hội. Một bước ngoặt là một con dao hai lưỡi mà có thể gây ra
một sự rẽ đột ngột trong quỹ đạo của một quốc gia. Một mặt nó có thể mở đường
cho sự phá vỡ chu trình của những thể chế khai thác và cho phép những thể chế
bao gồm hơn nổi lên, như ở nước Anh. Hoặc nó có thể tăng cường sự nổi lên của
những thể chế khai thác, như trường hợp của Chế độ Nông nô Thứ hai ở Đông
Âu.
Việc hiểu lịch sử và các bước ngoặt định hình thế nào con đường của các thể
chế kinh tế và chính trị cho phép chúng ta có một lý thuyết đầy đủ hơn về nguồn
gốc của những sự khác biệt về sự nghèo khó và thịnh vượng. Ngoài ra, nó cho
phép chúng ta giải thích tình hình hiện nay và vì sao một số quốc gia chuyển đổi
sang các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm trong khi các quốc gia khác lại
không.
TẠO RA CÁC THỂ CHẾ BAO GỒM
Nước Anh đã là độc nhất giữa các quốc gia khi nó có sự đột phá sang tăng trưởng
kinh tế bền vững trong thế kỷ mười bảy. Những thay đổi kinh tế lớn đã theo sau
một cuộc cách mạng chính trị mà đã mang lại một tập khác biệt của các thể chế
102 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
kinh tế và chính trị, mang tính bao gồm hơn rất nhiều so với các thể chế của xã
hội trước.
Các thể chế này có các hệ lụy sâu sắc không chỉ đối với các khuyến khích
kinh tế và sự thịnh vượng, mà cũng đối với những người gặt hái được các lợi ích
của sự thịnh vượng. Chúng đã dựa không phải vào sự đồng thuận mà, đúng hơn,
đã là kết quả của sự xung đột dữ dội khi các nhóm khác nhau cạnh tranh vì quyền
lực, tranh giành quyền lực của các nhóm khác và cố thử tổ chức các thể chế theo
sự ưa thích riêng của họ. Đỉnh cao của các cuộc đấu tranh thể chế của các thế kỷ
mười sáu và mười bảy đã là hai sự kiện quan trọng quyết định: Nội chiến Anh
giữa 1642 và 1651, và đặc biệt là Cách mạng Vinh quang 1688.
Cách mạng Vinh quang đã hạn chế quyền lực của nhà vua và hành pháp, và đã
chuyển quyền lực cho Quốc hội để quyết định về các thể chế kinh tế. Đồng thời
nó đã mở hệ thống chính trị cho phần bao quát tiêu biểu của xã hội, những người
đã có thể ảnh hưởng đáng kể đến cách nhà nước hoạt động. Cách mạng Vinh
quang đã là nền tảng cho việc tạo ra một xã hội đa nguyên, và nó đã được xây
dựng trên và làm tăng tốc một quá trình tập trung hóa chính trị. Nó đã tạo ra tập
hợp đầu tiên của các thể chế chính trị bao gồm của thế giới.
Như một hệ quả, các thể chế kinh tế cũng đã bắt đầu trở nên bao gồm hơn. Cả
chế độ nô lệ và những hạn chế kinh tế nghiêm ngặt của thời kỳ phong kiến trung
cổ đã không tồn tại ở Anh vào đầu thế kỷ thứ mười bảy. Tuy nhiên, đã có nhiều
hạn chế về các hoạt động kinh tế mà người dân có thể tiến hành. Cả hoạt động
kinh tế trong nước và quốc tế đã bị các độc quyền bóp nghẹt. Nhà nước đã đánh
thuế tùy tiện và đã thao túng hệ thống pháp luật. Phần lớn đất đai bị kẹt vào các
hình thức cổ xưa của các quyền tài sản mà làm cho việc bán là không thể và rủi ro
để đầu tư vào.
Tình hình này đã thay đổi sau Cách mạng Vinh quang. Chính phủ đã chấp
nhận một tập các thể chế kinh tế tạo các khuyến khích cho đầu tư, thương mại và
đổi mới. Nó đã kiên định thực thi các quyền tài sản, kể cả các bằng sáng chế cấp
quyền tài sản cho các ý tưởng, do đó đưa ra kích thích lớn cho sự đổi mới. Nó bảo
vệ luật pháp và trật tự. Chưa từng có về mặt lịch sử đã là việc áp dụng luật Anh
đối với tất cả công dân. Việc đánh thuế tùy tiện đã chấm dứt, và các độc quyền đã
bị bãi bỏ hầu như hoàn toàn. Nhà nước Anh đã năng nổ thúc đẩy các hoạt động
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 103
buôn bán và đã làm việc để thúc đẩy công nghiệp nội địa, không chỉ bằng cách dỡ
bỏ các rào cản đối với sự mở rộng hoạt động công nghiệp mà cũng bằng cách cho
phép sử dụng toàn bộ sức mạnh của hải quân Anh để bảo vệ các lợi ích thương
mại. Bằng cách hợp lý hóa các quyền sở hữu, nó tạo thuận lợi cho việc xây dựng
hạ tầng, đặc biệt đường sá, kênh rạch và muộn hơn đường sắt, mà đã hóa ra là cốt
yếu đối với tăng trưởng công nghiệp.
Những nền tảng này đã làm thay đổi một cách quyết định các khuyến khích
cho người dân và đã thúc đẩy các động cơ của sự thịnh vượng, mở đường cho
Cách mạng Công nghiệp. Đầu tiên và trước hết, Cách mạng Công nghiệp đã phụ
thuộc vào những tiến bộ công nghệ chính khai thác cơ sở tri thức đã được tích tụ
ở châu Âu trong các thế kỷ trước. Nó đã là một sự thay đổi căn bản khỏi quá khứ,
do việc nghiên cứu khoa học và tài năng của nhiều cá nhân độc nhất vô nhị đã làm
cho nó là có thể. Sức mạnh đầy đủ của cuộc cách mạng này đến từ thị trường, mà
đã tạo ra các cơ hội sinh lời cho các công nghệ được phát triển và được áp dụng.
Chính bản chất bao gồm của các thị trường là cái đã cho phép người dân phân bổ
đúng tài năng của họ cho các ngành kinh doanh. Nó cũng đã dựa vào giáo dục và
các kỹ năng, vì đã có các trình độ giáo dục tương đối cao, chí ít theo các tiêu
chuẩn của thời đó, mà đã cho phép sự nổi lên của các doanh nhân khởi nghiệp với
tầm nhìn để sử dụng những công nghệ mới cho các doanh nghiệp của mình và để
tìm những người lao động có kỹ năng để sử dụng chúng.
Không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng Cách mạng Công nghiệp đã
bắt đầu ở nước Anh vài thập kỷ tiếp sau Cách mạng Vinh quang. Các nhà sáng
chế vĩ đại, thí dụ như James Watt (người hoàn thiện động cơ hơi nước), Richard
Trevithick (người xây dựng đầu máy xe lửa đầu tiên), Richard Arkwright (nhà
sáng chế ra máy xe sợi), và Insambard Kingdom Brunel (nhà sáng tạo ra nhiều tàu
hơi nước mang tính cách mạng) đã có khả năng nhận các cơ hội kinh tế do các ý
tưởng của họ tạo ra, đã tự tin rằng các quyền sở hữu trí tuệ của họ được tôn trọng,
và đã có tiếp cận đến các thị trường nơi các đổi mới sáng tạo của họ có thể được
bán và được dùng một cách có lời. Năm 1775, ngay sau khi ông gia hạn bằng
sáng chế của mình về động cơ hơi nước, mà ông đã gọi là “động cơ Lửa”, James
Watt đã viết cho cha mình:
104 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Cha kính mến,
Sau một chuỗi những sự Chống đối khác nhau và mãnh liệt, cuối cùng
con đã có được một điều Luật do Quốc hội ban hành trao quyền về
các động cơ Lửa mới của con cho con và những người được Ủy
quyền của con, trên khắp Vương quốc Anh & các đồn điền trong hai
mươi lăm năm tới, mà con hy vọng sẽ rất ích lợi cho con, vì đã có cầu
đáng kể rồi đối với chúng.
Lá thư này tiết lộ hai thứ. Thứ nhất, Watt đã được thúc đẩy bởi các cơ hội thị
trường mà ông đã dự tính, bởi “cầu đáng kể” ở Vương quốc Anh và các đồn điền
của nó, tức là các thuộc địa hải ngoại của Anh. Thứ hai, nó cho thấy ông đã có
khả năng ảnh hưởng đến Quốc hội ra sao để có được cái ông muốn bởi vì nó đã là
sự đáp lại các lời thỉnh cầu của các cá nhân và các nhà đổi mới.
Những tiến bộ công nghệ, khát vọng của các doanh nghiệp để mở rộng và đầu
tư, và việc sử dụng hữu hiệu các kỹ năng và tài năng tất cả đã trở nên có thể bởi
các thể chế kinh tế bao gồm mà nước Anh đã phát triển. Những cái này, đến lượt
chúng, lại dựa trên nền tảng của các thể chế chính trị bao gồm của nước Anh.
Nước Anh đã phát triển các thể chế chính trị bao gồm này bởi vì hai yếu tố.
Thứ nhất đã là các thể chế chính trị, kể cả một nhà nước được tập trung hóa, mà
đã cho phép nó tiến hành bước triệt để tiếp theo – quả thực chưa từng có – theo
hướng các thể chế bao gồm với sự ập tới của Cách mạng Vinh quang. Trong khi
yếu tố này đã phân biệt nước Anh với phần lớn thế giới, nó đã không phân biệt
đáng kể nước Anh với các nước Tây Âu như Pháp và Tây Ban Nha. Quan trọng
hơn đã là yếu tố thứ hai. Các sự kiện dẫn tới Cách mạng Vinh quang đã rèn đúc
một liên minh rộng và hùng mạnh có khả năng đặt các ràng buộc lâu bền lên
quyền lực của chế độ quân chủ và hành pháp, mà đã buộc phải mở cho các đòi hỏi
của liên minh này. Việc này đặt nền móng cho các thể chế chính trị đa nguyên,
mà rồi đã cho phép phát triển các thể chế kinh tế mà sẽ làm nòng cốt cho Cách
mạng Công nghiệp lần thứ nhất.
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 105
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ MÀ LÀ QUAN TRỌNG
Bất bình đẳng thế giới đã tăng đột ngột đầy kịch tính với Cách mạng Công nghiệp
Anh bởi vì chỉ một số phần của thế giới đã chọn làm theo các đổi mới và các công
nghệ mà những người như Arkwright và Watt, và nhiều người làm theo, đã phát
triển. Sự đáp lại của các quốc gia khác nhau đối với làn sóng công nghệ này, mà
quyết định liệu họ sẽ sống khổ cực dưới sự nghèo khó hay sẽ đạt tăng trưởng kinh
tế bền vững, đã chủ yếu được định hình bởi các con đường lịch sử khác nhau của
các thể chế của họ. Vào nửa thế kỷ thứ mười tám đã có những khác biệt nổi bật
rồi về các thể chế chính trị và kinh tế xung quanh thế giới. Nhưng những khác biệt
này đến từ đâu?
Các thể chế chính trị Anh đã trên con đường của chúng đến chủ nghĩa đa
nguyên lớn hơn rất nhiều vào năm 1688, so với các thể chế ở Pháp và Tây Ban
Nha, nhưng nếu chúng ta quay lại theo thời gian một trăm năm, đến 1588, thì
những sự khác biệt co lại gần như chẳng có gì. Cả ba nước đều đã bị cai trị bởi
các chế độ quân chủ tương đối chuyên quyền: Elizabeth I ở Anh, Philip II ở Tây
Ban Nha, và Henry II ở Pháp. Tất cả đều đã dang chiến đấu với các đại hội đồng
của các công dân – như Quốc hội ở Anh, Cortes ở Tây Ban Nha, và Estates-
General ở Pháp – mà đã đều đòi nhiều quyền hơn và sự kiểm soát chế độ quân
chủ. Tất cả các đại hội đồng này đã có những quyền lực và phạm vi quyền hạn hơi
khác nhau. Thí dụ, Quốc hội Anh và Cortes của Tây Ban Nha đã có thẩm quyền
về thuế, còn Estates-General thì không. Ở Tây Ban Nha việc này đã ít quan trọng,
bởi vì sau 1492 Quốc vương Tây Ban Nha đã có một đế chế Mỹ [châu] mênh
mông và đã được hưởng lợi rất lớn từ vàng và bạc được tìm thấy ở đó. Tại nước
Anh tình hình đã khác. Elizabeth I đã ít độc lập hơn rất nhiều về mặt tài chính,
cho nên bà đã phải cầu xin Quốc hội để được nhiều thuế hơn. Đổi lại, Quốc hội đã
đòi những nhượng bộ, đặc biệt những hạn chế đến quyền của Elizabeth để tạo ra
các độc quyền. Nó đã là một xung đột mà Quốc hội thắng từ từ. Ở Tây Ban Nha,
Cortes lại đã thua trong một xung đột tương tự. Thương mại đã không chỉ bị độc
quyền, nó đã là độc quyền của chế độ quân chủ Tây Ban Nha.
Những sự khác biệt này, mà ban đầu dường như là nhỏ, đã bắt đầu trở nên rất
quan trọng trong thế kỷ mười bảy. Mặc dù châu Mỹ đã được phát hiện ra năm
1492 và Vasco da Gama đã đến được Ấn Độ bằng cách đi vòng quanh Mũi Hảo
Vọng, ở đầu tận cùng niềm nam châu Phi, năm 1498, đã chỉ đến sau 1600 thì một
106 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
sự bành trướng to lớn của thương mại thế giới, đặc biệt ở Đại Tây Dương, mới bắt
đầu xảy ra. Năm 1585 việc thuộc địa hóa đầu tiên của Anh ở Bắc Mỹ đã bắt đầu
tại Roanoke, trong chỗ nơi bây giờ là Bắc Carolina. Năm 1600, Công ty Đông Ấn
Anh được thành lập. Năm 1602 Công ty Đông Ấn Hà Lan ra đời. Năm 1607 Công
ty Virginia thành lập thuộc địa Jamestown. Vào các năm 1620 vùng Caribe bị
thuộc địa hóa, với Barbados bị chiếm năm 1627. Pháp cũng đã bành trướng qua
Đại Tây Dương, lập ra thành phố Quebec năm 1608 như thủ đô của nước Pháp
mới, mà bây giờ là Canada. Những hệ quả của sự bành trướng kinh tế này đối với
các thể chế đã là rất khác nhau đối với Anh so với Tây Ban Nha và Pháp bởi vì
những khác biệt nhỏ ban đầu ấy.
Elizabeth và những người kế vị bà đã không thể độc quyền thương mại với
châu Mỹ. Các nền quân chủ Âu châu khác đã có thể. Vì thế trong khi ở nước Anh,
thương mại xuyên Đại Tây Dương và thuộc địa hóa đã bắt đầu tạo ra một nhóm
lớn các thương gia giàu có với ít mối liên kết với Quốc vương, điều này đã không
như thế ở Tây Ban Nha hay ở Pháp. Các nhà buôn Anh đã bực bội về sự kiểm
soát của hoàng gia và đòi những thay đổi về thể chế chính trị và hạn chế các đặc
quyền của hoàng gia. Họ đã đóng một vai trò thiết yếu trong Nội Chiến và Cách
mạng Vinh quang. Những xung đột tương tự xảy ra ở mọi nơi. Các vua Pháp,
chẳng hạn đã đối mặt với Fronde [Nổi loạn] giữa 1648 và 1652. Sự khác biệt đã là
ở nước Anh đã có khả năng hơn nhiều là các đối thủ của chính thể chuyên chế sẽ
thắng bởi vì họ tương đối giàu hơn và đông hơn các đối thủ của chính thể chuyên
chế ở Tây Ban Nha và Pháp.
Các con đường phân kỳ của các xã hội Anh, Pháp, và Tây Ban Nha trong thế
kỷ mười bảy minh họa tầm quan trọng của sự tác động qua lại của những sự khác
biệt nhỏ về thể chế và các bước ngoặt [critical junctures]. Trong thời gian bước
ngoặt, một sự kiện lớn hay sự hợp lưu của các yếu tố phá vỡ sự cân bằng hiện tồn
của quyền lực chính trị hay kinh tế trong một quốc gia. Những cái này có thể ảnh
hưởng đến chỉ một quốc gia duy nhất, thí dụ như cái chết của Chủ tịch Mao Trạch
Đông năm 1976, mà đầu tiên đã tạo ra một bước ngoặt chỉ cho Trung Hoa Cộng
Sản. Tuy vậy, thường các bước ngoặt ảnh hưởng đến toàn bộ một tập các xã hội,
theo cách mà, thí dụ, sự thuộc địa hóa và sau đó là sự phi thuộc địa hóa đã ảnh
hưởng đến phần lớn địa cầu.
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 107
Những bước ngoặt như vậy là quan trọng bởi vì có những rào cản kinh khủng
chống lại những sự cải thiện từ từ, do kết quả từ sự đồng vận giữa các thể chế
chính trị và kinh tế khai thác và sự ủng hộ mà chúng trao cho nhau. Sự dai dẳng
của vòng phản hồi này tạo ra một vòng luẩn quẩn, Những kẻ hưởng lợi từ hiện
trạng là những người giàu và được tổ chức tốt, và có thể chiến đấu một cách hữu
hiệu chống lại những thay đổi lớn mà sẽ lấy đi các đặc quyền kinh tế hay quyền
lực chính trị của họ.
Một khi một bước ngoặt xảy ra, những thay đổi nhỏ mà quan trọng là những
khác biệt thể chế ban đầu mà chúng khởi động những sự đáp lại rất khác nhau.
Đấy là lý do vì sao những khác biệt thể chế tương đối nhỏ ở Anh, Pháp, và Tây
Ban Nha đã dẫn đến những con đường phát triển khác nhau một cách cơ bản. Các
con đường nảy sinh do kết quả từ một bước ngoặt được tạo ra bởi các cơ hội kinh
tế được thương mại xuyên Đại Tây Dương mở ra cho những người Âu châu.
Cho dù những khác biệt thể chế nhỏ là hết sức quan trọng trong các bước
ngoặt, và tất nhiên, những khác biệt thể chế lớn hơn dẫn đến những hình mẫu còn
khác nhau hơn nữa vào những lúc như vậy. Trong khi những khác biệt thể chế
giữa Anh và Pháp đã là nhỏ trong năm 1588, những sự khác biệt thể chế giữa Tây
và Đông Âu đã lớn hơn nhiều. Ở Tây Âu, các nhà nước mạnh được tập trung hóa
như Anh, Pháp, và Tây Ban Nha đã có các thể chế lập hiến (Quốc hội, Estates-
General, và Cortes). Cũng đã có những sự tương tự cơ bản trong các thể chế kinh
tế, như sự vắng mặt của chế độ nông nô.
Đông Âu khi đó lại là câu chuyện khác. Vương quốc Ba Lan-Lithuania, chẳng
hạn, đã bị cai trị bởi một giai cấp elite được gọi là Szlachta, những người đã hùng
mạnh đến mức họ thậm chí đưa ra các cuộc bầu chọn vua. Đấy đã không là một
sự cai trị chuyên chế như ở Pháp dưới thời Vua Mặt trời, Louis XIV, mà là chính
thể chuyên chế của một elite, các thể chế chính trị khai thác hoàn toàn cũng vậy.
Szlachta đã cai trị một xã hội chủ yếu là nông thôn với đa số áp đảo dân cư là các
nông nô không có quyền tự do di chuyển và các cơ hội kinh tế. Xa hơn sang phía
đông, Peter Đại Đế của Nga đã cũng đang củng cố một chính thể chuyên chế hà
khắc và khai thác hơn rất nhiều so với Louis XIV đã có thể làm được. Bản đồ 8
cung cấp một cách đơn giản để thấy mức khác nhau giữa Tây và Đông Âu vào
đầu thế kỷ mười chín. Nó đánh dấu xem liệu một nước vẫn còn chế độ nông nô
108 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
hay không trong năm 1800. Các nước được tô màu sẫm vẫn còn, các nước màu
sáng thì không. Đông Âu sẫm, Tây Âu sáng.
Thế mà các thể chế của Tây Âu đã không luôn khác biệt đến vậy so với các thể
chế của Đông Âu. Chúng đã bắt đầu, như chúng ta đã thấy ở trước, trở nên khác
biệt trong thế kỷ thứ mười bốn khi Cái Chết Đen tấn công vào năm 1346. Đã [chỉ]
có những khác biệt nhỏ giữa các thể chế chính trị và kinh tế ở Tây  và Đông Âu.
Nước Anh và Hungary thậm chí đã được cai trị bởi cùng một gia tộc, nhà
Angevin. Các khác biệt quan trọng hơn nổi lên sau Cái Chết Đen, sau đó đã tạo ra
bối cảnh mà trong đó những sự khác nhau quan trọng hơn giữa Tây và Đông Âu
đã diễn ra trong các thế kỷ mười bảy, mười tám, và mười chín.
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 109
Nhưng đâu là nơi đầu tiên mà những khác biệt nhỏ về thể chế này xuất hiện và
khởi động quá trình phân kỳ? Vì sao Đông Âu đã có các thể chế chính trị và kinh
tế khác với Tây Âu trong thế kỷ mười bốn? Vì sao sự cân bằng quyền lực giữa
Quốc vương và Quốc hội ở Anh lại khác Pháp và Tây Ban Nha? Như chúng ta sẽ
thấy trong chương tiếp theo, ngay cả các xã hội ít phức tạp hơn xã hội hiện đại
của chúng ta rất nhiều cũng tạo ra các thể chế chính trị và kinh tế mà có những
ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của các thành viên của nó. Điều này đúng ngay
cả cho những người săn bắt-hái lượm, như chúng ta thấy từ các xã hội sống sót
như dân tộc San của Botswana hiện đại, những người không canh tác chăn nuôi
hay thậm chí không sống trong các vùng định cư lâu dài.
Không hai xã hội nào tạo ra cùng các thể chế; chúng có những phong tục riêng
biệt, các hệ thống quyền sở hữu khác nhau, và những cách khác nhau để chia một
con thú bị giết hay của cải cướp được từ các nhóm khác. Một số công nhận uy
quyền của những người già, số khác thì không; một số đạt được mức độ tập trung
hóa chính trị nào đó ngay từ sớm, nhưng số khác thì không. Các xã hội liên tục
phải chịu xung đột kinh tế và chính trị mà được giải quyết theo những cách khác
nhau bởi vì những sự khác biệt lịch sử cụ thể, vai trò của các cá nhân, hay các yếu
tố ngẫu nhiên đơn thuần.
Những sự khác biệt này bắt đầu thường nhỏ, nhưng chúng tích tụ, tạo ra một
quá trình trôi thể chế (institutional drift). Hệt như hai quần thể sinh vật được cô
lập sẽ từ từ trôi xa nhau trong quá trình trôi dạt di truyền, bởi vì những đột biến
gen ngẫu nhiên tích tụ, hai xã hội mặt khác giống nhau cũng sẽ chầm chậm trôi xa
nhau về mặt thể chế. Mặc dù, giống như trôi dạt di truyền, trôi dạt thể chế không
có con đường được xác định trước và thậm chí không cần tích tụ; qua hàng thế kỷ
nó có thể dẫn đến những khác biệt có thể nhận thấy, đôi khi quan trọng. Những sự
khác biệt do trôi dạt thể chế gây ra trở nên đặc biệt quan trọng, bởi vì chúng ảnh
hưởng đến cách xã hội phản ứng với những thay đổi về hoàn cảnh kinh tế hoặc
chính trị trong các bước ngoặt.
Các hình mẫu phân kỳ phong phú về phát triển kinh tế xung quanh thế giới phụ
thuộc vào sự tác động qua lại của các bước ngoặt và sự trôi dạt thể chế. Các thể
chế chính trị và kinh tế hiện hành – đôi khi được định hình bởi một quá trình dài
của sự trôi dạt thể chế và đôi khi như kết quả nảy sinh từ các phản ứng khác nhau
đối với các bước ngoặt trước – tạo ra một cái đe mà trên đó sự thay đổi tương lai
110 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
sẽ được rèn. Cái Chết Đen và sự mở rộng thương mại thế giới sau 1600 đã là hai
bước ngoặt lớn cho các cường quốc Âu châu và đã tương tác với các thể chế ban
đầu khác nhau để tạo ra một sự phân kỳ lớn. Bởi vì trong năm 1346 ở Tây Âu các
nông dân đã có nhiều quyền lực và sự tự trị hơn những người nông dân ở Đông
Âu, Cái Chết Đen đã dẫn đến sự tan rã của chủ nghĩa phong kiến ở phía Tây và
dẫn đến Chế độ Nông Nô Thứ hai ở phía Đông. Bởi vì Đông và Tây Âu đã bắt
đầu phân kỳ trong thế kỷ mười bốn, các cơ hội kinh tế mới của các thế kỷ mười
bảy, mười tám, và mười chín cũng đã có các hệ lụy khác nhau cơ bản đối với các
phần khác nhau này của châu Âu. Bởi vì trong năm 1600 sự kìm kẹp của Quốc
vương ở nước Anh đã yếu hơn ở Pháp và Tây Ban Nha, thương mại Đại Tây
Dương đã mở đường cho việc tạo ra các thể chế mới với chủ nghĩa đa nguyên lớn
hơn ở nước Anh, trong khi lại tăng cường các quốc vương Pháp và Tây Ban Nha.
CON ĐƯỜNG TÙY THUỘC CỦA LỊCH SỬ
Những kết quả của các sự kiện trong các bước ngoặt được định hình bởi sức nặng
của lịch sử, như các thể chế kinh tế và chính trị hiện hành định hình sự cân bằng
quyền lực và phác họa cái gì là khả thi về mặt chính trị. Kết quả, tuy vậy, không
phải là được định trước về mặt lịch sử, mà là tùy thuộc. Con đường chính xác của
sự phát triển thể chế trong các giai đoạn này phụ thuộc vào lực nào trong các lực
đối địch nhau sẽ thành công, các nhóm nào sẽ có khả năng thành lập các liên minh
hữu hiệu, và các lãnh đạo nào sẽ có khả năng xếp đặt các sự kiện có lợi cho họ.
Vai trò của sự tùy thuộc ngẫu nhiên có thể được minh họa bởi những nguồn
gốc của các thể chế chính trị bao gồm ở nước Anh. Không chỉ đã không có gì
được quyết định trước trong chiến thắng của các nhóm tranh nhau để hạn chế
quyền lực của Quốc vương và để cho các thể chế đa nguyên hơn trong Cách mạng
Vinh quang năm 1688, mà toàn bộ con đường dẫn đến cuộc cách mạng chính trị
này đã bị phó mặc cho các sự kiện ngẫu nhiên. Chiến thắng của các nhóm thắng
đã liên kết một cách không lay chuyển được với bước ngoặt được tạo ra bởi sự
tăng lên của thương mại Đại Tây Dương mà đã làm cho các thương gia giàu lên
và mạnh bạo lên chống lại Quốc vương. Nhưng một thế kỷ trước đã còn xa mới
hiển nhiên rằng nước Anh sẽ có bất cứ khả năng nào để thống trị các biển, để
thuộc địa hóa nhiều phần của vùng Caribe và Bắc Mỹ, hay để chiếm phần nhiều
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 111
đến vậy của thương mại béo bở với châu Mỹ và phương Đông. Elizabeth I đã
không và các quốc vương Tudor trước bà cũng đã chẳng xây dựng được một hải
quân hùng mạnh và thống nhất. Hải quân Anh đã dựa vào các tàu cướp biển và
các tàu thương mại độc lập và đã yếu hơn đội tàu Tây Ban Nha rất nhiều. Tuy
nhiên lợi nhuận của thương mại Đại Tây Dương đã thu hút các tàu cướp biển này,
thách thức độc quyền của Tây Ban Nha trên đại dương. Năm 1588 những người
Tây Ban Nha đã quyết định để chấm dứt những thách thức này đối với độc quyền
của họ, cũng như việc nước Anh can thiệp vào Hà Lan thuộc Tây Ban Nha, mà
lúc đó đang chiến đấu chống lại Tây Ban Nha vì độc lập.
Quốc vương Tây Ban Nha Philip I đã cử một đội tàu hùng mạnh, đội Armada,
được Công tước Medina Sidonia chỉ huy. Đã dường như là một kết luận bị từ bỏ
đối với nhiều người rằng người Tây Ban Nha sẽ chắc chắn đánh bại nước Anh,
củng cố độc quyền của họ ở Đại Tây Dương, và có lẽ lật đổ Elizabeth I, cuối cùng
có lẽ có được sự kiểm soát các đảo Anh. Thế nhưng cái gì đó hoàn toàn khác đã
xảy ra. Thời tiết xấu và các sai lầm chiến lược về phía Sidonia, người được đặt
vào vị trí phụ trách vào phút chót sau khi một chỉ huy có kinh nghiệm hơn bị chết,
đã làm cho Armada Tây Ban Nha mất lợi thế của họ. Bất chấp mọi sự chênh lệch,
những người Anh đã phá hủy phần lớn đội tàu của các đối thủ mạnh hơn của họ.
Bây giờ Đại Tây Dương đã mở ra cho những người Anh theo các điều kiện ngang
bằng hơn. Không có chiến thắng ít có khả năng xảy ra này cho những người Anh,
thì các sự kiện mà sẽ tạo ra bước ngoặt biến đổi và đẻ ra các thể chế chính trị đa
nguyên một cách đặc biệt của nước Anh sau-1688 đã chẳng bao giờ bắt đầu. Bản
đồ 9 cho thấy dấu vết của các vụ đắm tàu Tây Ban Nha khi Armada bị rượt đuổi
ngay quanh các đảo Anh.
Tất nhiên, trong năm 1588 chẳng ai đã có thể thấy trước các hệ quả của chiến
thắng may mắn của Anh. Ít người lúc đó có lẽ đã hiểu được rằng việc này sẽ gây
ra một bước ngoặt dẫn đến một cách mạng chính trị lớn một thế kỷ sau.
Không có giả định nào rằng bất cứ bước ngoặt nào sẽ dẫn đến một cách mạng
chính trị thành công hay đến một sự thay đổi tốt hơn. Lịch sử đầy rẫy các thí dụ
về các cuộc cách mạng, các phong trào cấp tiến thay thế một chính thể chuyên chế
bằng một chính thể bạo chúa khác, theo một hình mẫu mà nhà xã hội học Đức
Robert Michels đã gán cho cái tên quy luật sắt của chính thể đầu sỏ, một dạng đặc
biệt độc hại của vòng luẩn quẩn. Sự chấm dứt của chủ nghĩa thuộc địa trong các
112 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
thập niên sau Chiến tranh Thế giới Lần thứ Hai đã tạo ra các bước ngoặt cho
nhiều thuộc địa trước kia. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp ở châu Phi hạ-
Sahara và nhiều trường hợp ở châu Á, các chính phủ sau độc lập đã đơn giản lấy
ra một trang từ cuốn sách của Robert Michels và đã lặp lại và tăng cường những
sự lạm dụng của các chính phủ tiền nhiệm của họ, thường đã thu hẹp một cách
nghiêm ngặt sự phân bổ quyền lực chính trị, dỡ bỏ các hạn chế, và đã làm xói
mòn các khuyến khích ít ỏi mà các thể chế kinh tế đã tạo ra cho đầu tư và tiến bộ
kinh tế. Đã chỉ có vài trường hợp, vài xã hội như Botswana (xem trang 404-414),
mà các bước ngoặt đã được dùng để mở ra một quá trình thay đổi chính trị và kinh
tế mà mở đường cho tăng trưởng kinh tế.
Các bước ngoặt cũng có thể dẫn đến sự thay đổi lớn theo hướng các thể chế
khai thác hơn là theo hướng xa khỏi chúng. Các thể chế bao gồm, dẫu cho có
vòng phản hồi riêng của chúng, vòng thiện, cũng có thể đảo ngược tiến trình và
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 113
trở nên khai thác hơn một cách từ từ bởi vì các thách thức trong các bước ngoặt –
và liệu điều này có xảy ra hay không, lần nữa, lại tùy thuộc. Cộng hòa Venice,
như chúng ta sẽ thấy ở chương 6, đã tiến hành những bước dài quan trọng theo
hướng các thể chế chính trị và kinh tế bao gồm trong thời trung cổ. Nhưng trong
khi các thể chế như vậy dần dần trở nên mạnh hơn ở nước Anh sau Cách mạng
Vinh quang năm 1688, thì ở Venice cuối cùng chúng đã biến mình thành các thể
chế khai thác dưới sự kiểm soát của một elite hẹp mà đã độc quyền hóa cả các cơ
hội kinh tế lẫn quyền lực chính trị.
HIỂU ĐỊA HÌNH ĐỊA THẾ
Sự nổi lên của một nền kinh tế thị trường dựa trên các thể chế bao gồm và sự tăng
trưởng kinh tế bền vững ở nước Anh thế kỷ mười tám đã truyền đi các gợn sóng
lăn tăn quanh thế giới, nhất là bởi vì nó đã cho phép nước Anh thuộc địa hóa một
phần lớn của thế giới. Nhưng nếu ảnh hưởng của sự tăng trưởng kinh tế của Anh
chắc chắn đã lan ra khắp thế giới, thì các thể chế kinh tế và chính trị tạo ra sự tăng
trưởng đó đã không làm vậy một cách tự động. Sự truyền bá của Cách mạng Công
nghiệp đã có những tác động khác nhau lên thế giới theo cùng cách mà Cái Chết
Đen đã có những ảnh hưởng khác nhau đến Tây và Đông Âu, và theo cùng cách
mà sự mở rộng thương mại Đại Tây Dương đã có những tác động khác nhau ở
Anh và Tây Ban Nha. Chính là các thể chế tại chỗ ở các phần khác nhau của thế
giới là cái đã xác định sự tác động, và các thể chế này quả thực đã khác nhau –
những sự khác biệt nhỏ đã được khuếch đại theo thời gian bởi các bước ngoặt
trước. Những sự khác biệt thể chế này và các hệ lụy của chúng đã có xu hướng
tồn tại dai dẳng cho đến hiện nay tại vì các vòng thiện và các vòng luẩn quẩn, mặc
dù một cách không hoàn hảo, và là chìa khóa để hiểu bằng cách nào bất bình đẳng
thế giới nảy sinh và bản chất của tình hình [địa hình địa thế] xung quanh chúng ta.
Một số phần của thế giới đã phát triển các thể chế rất gần các thể chế ở nước
Anh, mặc dù bằng một con đường rất khác. Điều này đã đặc biệt đúng đối với một
số “thuộc địa định cư” Âu châu như Australia, Canada, và Hoa Kỳ, dẫu cho các
thể chế của họ đã vừa hình thành khi Cách mạng Công nghiệp bắt đầu tiến triển.
Như chúng ta đã thấy trong chương 1, một quá trình bắt đầu với việc thành lập
thuộc địa Jamestown năm 1607 và lên đỉnh điểm trong Chiến tranh Độc Lập và
114 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
ban hành Hiến pháp Hoa Kỳ, chia sẻ nhiều của cùng các đặc trưng như cuộc đấu
tranh dài của Quốc hội ở Anh chống lại chế độ quân chủ, vì nó cũng đã dẫn đến
một nhà nước tập trung với các thể chế chính trị đa nguyên. Cách mạng Công
nghiệp sau đó đã lan nhanh sang các nước như vậy.
Tây Âu, trải qua nhiều quá trình lịch sử như nhau, đã có các thể chế giống của
Anh vào thời Cách mạng Công nghiệp. Đã có những khác biệt nhỏ nhưng có hậu
quả lớn giữa nước Anh và phần còn lại [của Tây Âu], mà là lý do vì sao Cách
mạng Công nghiệp đã xảy ra ở Anh chứ không phải ở Pháp. Cuộc cách mạng này
sau đó đã tạo ra một tình thế hoàn toàn mới và các tập khác nhau đáng kể của
những thách thức đối với các chế độ Âu châu, mà đến lượt lại đẻ ra một tập mới
của những xung đột lên đỉnh điểm trong Cách mạng Pháp. Cách mạng Pháp đã là
một bước ngoặt khác mà đã dẫn đến việc các thể chế của Tây Âu hội tụ với các
thể chế của Anh, trong khi Đông Âu đã phân kỳ thêm.
Phần còn lại của thế giới đã đi theo các quỹ đạo thể chế khác nhau. Thuộc địa
hóa Âu châu chuẩn bị cho sự phân kỳ thể chế ở châu Mỹ, nơi ngược lại với các
thể chế bao gồm được phát triển ở Hoa Kỳ và Canada các thể chế khai thác đã nổi
lên ở Mỹ Latin, mà giải thích cho các hình mẫu bất bình đẳng mà chúng ta thấy ở
châu Mỹ. Các thể chế chính trị và kinh tế khai thác của những người Tây Ban Nha
chinh phục ở Mỹ Latin đã kéo dài, buộc phần lớn vùng này phải chịu nghèo.
Argentina và Chile, tuy vậy, đã sống khấm khá hơn hầu hết các nước khác trong
vùng. Chúng đã có ít người bản địa hay sự phong phú khoáng sản và đã “bị lãng
quên” trong lúc những người Tây Ban Nha đã tập trung vào các vùng đất của các
nền văn minh Aztec, Mya, và Inca. Không ngẫu nhiên vùng nghèo nhất của
Argentina là vùng tây bắc, phần duy nhất của Argentina đã hội nhập vào nền kinh
tế thuộc địa Tây Ban Nha. Sự nghèo dai dẳng của nó, các di sản của các thể chế
khai thác, là giống cái được tạo ra bởi mita Potosí ở Bolivia và Peru (trang 16-18).
Châu Phi đã là phần của thế giới với các thể chế ít có khả năng nhất để tận
dụng các cơ hội do Cách mạng Công nghiệp tạo ra. Suốt chí ít một ngàn năm qua,
ngoài các ổ nhỏ và trong các giai đoạn hạn chế, châu Phi đã tụt hậu sau phần còn
lại của thế giới về mặt công nghiệp, sự phát triển chính trị, và thịnh vượng. Nó là
phần của thế giới nơi các nhà nước tập trung đã hình thành rất muộn và rất mỏng
manh. Nơi chúng đã hình thành, chúng chắc đã là chính thể hết sức chuyên chế
như Kongo và thường tồn tại không lâu, và thường sụp đổ. Châu Phi chia sẻ quỹ
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 115
đạo thiếu nhà nước tập trung này với các nước như Afghanistan, Haiti, và Nepal,
mà cũng đã không áp đặt được trật tự trên lãnh thổ của chúng và không tạo ra
được bất cứ gì giống với sự ổn định để đạt được ngay cả một sự tiến bộ nhỏ về
kinh tế. Mặc dù nằm ở các phần rất khác nhau của thế giới, Afghanistan, Haiti, và
Nepal có nhiều nét chung về mặt thể chế với hầu hết các quốc gia ở châu Phi hạ-
Sahara, và như thế là một số trong các nước nghèo nhất thế giới hiện nay.
Các thể chế Phi châu đã tiến hóa ra sao thành hình thức hiện tại hết sức khai
thác của chúng lại minh họa quá trình trôi dạt thể chế bị ngắt quãng bởi các bước
ngoặt, nhưng thời gian này thường với những kết quả hết sức tai ác, đặc biệt trong
thời kỳ mở rộng buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương. Đã có những cơ hội kinh
tế mới cho Vương quốc Kongo khi các nhà buôn Âu châu đến. Thương mại
đường dài mà đã biến đổi châu Âu cũng đã biến đổi Vương quốc Kongo, nhưng
lần nữa, những khác biệt thể chế ban đầu là quan trọng. Chính thể chuyên chế
Kongo đã hóa phép thần thông từ một xã hội hoàn toàn thống trị, với các thể chế
kinh tế chiếm đoạt toàn bộ sản lượng nông nghiệp của các công dân của nó, thành
một xã hội bắt hàng loạt người dân làm nô lệ và bán họ cho những người Bồ Đào
Nha để đổi lấy súng đạn và các hàng hóa xa xỉ cho elite Kongo.
Những sự khác biệt ban đầu giữa nước Anh và Kongo đã có nghĩa rằng trong
khi các cơ hội thương mại đường dài mới đã tạo ra một bước ngoặt hướng tới các
thể chế đa nguyên chính trị ở nước Anh, chúng cũng đã dập tắt bất cứ hy vọng
nào về chính thể chuyên chế bị đánh bại ở Kongo. Ở phần lớn châu Phi các khoản
lợi nhuận đáng kể đã phải là từ bán nô lệ, đã dẫn không chỉ đến sự tăng cường của
nó và thậm chí các quyền sở hữu không an toàn nhiều hơn, mà còn dẫn đến chiến
tranh khốc liệt và sự hủy hoại nhiều thể chế hiện tồn; trong vòng vài thế kỷ, bất cứ
quá trình nào về tập trung hóa nhà nước đã đều bị đảo ngược hoàn toàn, và nhiều
nhà nước Phi châu phần lớn đã sụp đổ. Mặc dù một số nhà nước mới, và đôi khi
hùng mạnh, đã hình thành để lợi dụng việc buôn bán nô lệ, chúng đã dựa trên
chiến tranh và cướp bóc. Bước ngoặt của việc tìm ra châu Mỹ đã có thể giúp nước
Anh phát triển các thể chế bao gồm, nhưng nó đã làm cho các thể chế ở châu Phi
còn khai thác hơn.
Mặc dù buôn bán nô lệ đã hầu như chấm dứt vào năm 1807, chủ nghĩa thực
dân Âu châu tiếp sau không chỉ đã đảo ngược việc hiện đại hóa kinh tế mới nảy
sinh ở các phần của miền nam và tây châu Phi, mà cũng cản trở bất cứ khả năng
116 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
nào của cải cách thể chế bản địa. Điều này đã có nghĩa rằng ngay cả bên ngoài các
vùng như Congo, Madagascar, Namibia, và Tanzania, các vùng nơi sự cướp bóc,
xâu xé hàng loạt, và thậm chí giết người quy mô lớn đã là lệ thường, đã có ít cơ
hội cho châu Phi để thay đổi con đường thể chế của nó.
Còn tệ hơn, cấu trúc của sự thống trị thuộc địa đã để lại trong các năm 1960
cho châu Phi một di sản thể chế phức tạp hơn và độc hại hơn đầu thời kỳ thuộc
địa hóa. Sự phát triển các thể chế chính trị và kinh tế ở nhiều thuộc địa Phi châu
đã có nghĩa rằng thay vì việc tạo ra một bước ngoặt cho những sự cải thiện trong
các thể chế của chúng, sự độc lập đã tạo ra một sự mở cửa cho các nhà lãnh đạo
vô lương tâm để tiếp quản và tăng cường sự khai thác mà các nhà thực dân Âu
châu đã nắm quyền điều khiển. Những khuyến khích chính trị mà các cấu trúc này
tạo ra đã dẫn đến một kiểu chính trị mà nó đã tái tạo các hình mẫu lịch sử của các
quyền sở hữu không an toàn và không hiệu quả dưới các nhà nước với các xu
hướng chuyên chế mạnh nhưng tuy nhiên lại thiếu bất cứ nhà chức trách tập trung
nào trên các lãnh thổ của họ.
Cách mạng Công nghiệp vẫn chưa lan đến châu Phi bởi vì lục địa đó đã trải
qua một vòng luẩn quẩn dài của sự tồn tại dai dẳng và sự tái tạo của các thể chế
chính trị và kinh tế khai thác. Botswana là ngoại lệ. Như chúng ta sẽ thấy (trang
404-416), trong thế kỷ thứ mười chín, Vua Khama, ông nội của thủ tướng đầu tiên
của Botswana khi độc lập, Seretse Khama, đã khởi xướng những thay đổi thể chế
để hiện đại hóa các thể chế chính trị và kinh tế của bộ lạc ông. Hết sức độc đáo,
những thay đổi này đã không bị phá hủy trong thời kỳ thuộc địa, một phần như hệ
quả của các thách thức thông minh của Khama và các thủ lĩnh khác đối với nhà
cầm quyền thuộc địa. Sự tác động qua lại của chúng với bước ngoặt, mà sự độc
lập khỏi ách thống trị thuộc địa đã tạo ra, đã đặt nền móng cho thành công kinh tế
và chính trị của Botswana. Nó đã là một trường hợp khác về những khác biệt lịch
sử nhỏ mà quan trọng.
Có một xu hướng để xem các sự kiện lịch sử như các hệ quả không thể tránh
được của các lực đã bén rễ sâu. Trong khi chúng ta đặt sự nhấn mạnh nhiều đến
lịch sử của các thể chế kinh tế và chính trị tạo ra các vòng thiện và vòng luẩn
quẩn, sự tùy thuộc ngẫu nhiên như thế nào, như chúng ta đã nhấn mạnh trong bối
cảnh của sự phát triển các thể chế ở Anh, có thể luôn luôn là một yếu tố. Seretse
Khama, theo học ở Anh trong các năm 1940, đã phải lòng Ruth Williams, một
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 117
phụ nữ da trắng. Như một hậu quả, chế độ phân biệt chủng tộc apartheid ở Nam
Phi đã thuyết phục chính phủ Anh cấm ông khỏi xứ bảo hộ, lúc đó được gọi là
Bechuanaland (mà bộ máy hành chính của nó đã nằm dưới Cao Ủy Nam Phi), và
ông đã từ bỏ vương vị của mình. Khi ông trở về để lãnh đạo cuộc chiến đấu chống
thực dân, ông đã làm vậy với sự chủ ý không bám lấy các thể chế truyền thống mà
cải biên chúng cho phù hợp với thế giới hiện đại. Khama đã là một người phi
thường, đã không quan tâm đến sự giàu có cá nhân và đã tận tâm xây dựng tổ
quốc ông. Hầu hết các nước Phi châu khác đã không được may mắn như vậy. Cả
hai thứ đều quan trọng, sự phát triển lịch sử của các thể chế ở Botswana và các
yếu tố tùy thuộc ngẫu nhiên mà đã dẫn đến việc các thể chế này được kiến tạo hơn
là bị đạp đổ hay bị làm cho méo mó như tại các nơi khác ở châu Phi.
TRONG THẾ KỶ THỨ MƯỜI CHÍN, chính thể chuyên chế, không khác mấy
chính thể chuyên chế ở châu Phi hay Đông Âu, đã chặn con đường công nghiệp
hóa ở phần lớn châu Á. Ở Trung Quốc, nhà nước đã là chính thể chuyên chế
mạnh, và các thành phố, các thương gia, và các nhà công nghiệp độc lập đã hoặc
không tồn tại hay đã yếu hơn nhiều về mặt chính trị. Trung Quốc đã là một cường
quốc hàng hải lớn và đã dính líu sâu vào thương mại đường dài hàng thế kỷ, trước
những người Âu châu. Nhưng nó đã ngoảnh mặt khỏi các đại dương đúng vào lúc
nhầm thời, khi các hoàng đế nhà Minh đã quyết định vào cuối thế kỷ mười bốn và
đầu thế kỷ mười lăm rằng thương mại đường dài tăng lên và sự phá hủy sáng tạo
mà nó có thể mang lại chắc sẽ đe dọa sự cai trị của họ.
Ở Ấn Độ, sự trôi dạt thể chế đã hoạt động theo cách khác và đã dẫn đến sự
phát triển của hệ thống caste (đẳng cấp) kế truyền cứng nhắc độc đáo mà đã hạn
chế sự vận hành của các thị trường và sự phân bổ lao động giữa các nghề một
cách nghiêm trọng hơn rất nhiều so với trật tự phong kiến ở châu Âu trung cổ. Nó
cũng đã làm nòng cốt cho một hình thức mạnh khác của chính thể chuyên chế
dưới thời các nhà cai trị Mughal. Hầu hết các nước Âu châu đã có các hệ thống
giống nhau trong Thời Trung Cổ. Các họ Anglo-Saxon hiện đại như Baker,
Cooper, và Smith là các hậu duệ trực tiếp của các loại nghề kế truyền. Các baker
làm bánh mỳ, cooper đóng thùng, smith rèn kim loại. Nhưng các loại nghề này đã
chẳng bao giở cứng nhắc như những sự phân biệt đẳng cấp Ấn Độ và đã dần dần
trở nên vô nghĩa như tên tiên đoán nghề của một cá nhân. Mặc dù các thương gia
118 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Ấn Độ đã buôn bán khắp Ấn Độ Dương, hệ thống đẳng cấp và chính thể chuyên
chế Mughal đã là những cản trở nghiêm trọng đối với sự phát triển các thể chế
bao gồm ở Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ mười chín, tình hình thậm chí còn ít thân thiện
hơn cho công nghiệp hóa vì Ấn Độ đã trở thành một thuộc địa khai thác của người
Anh. Trung Quốc đã chẳng bao giờ chính thức bị thuộc địa hóa bởi những người
Âu châu, nhưng sau khi những người Anh đã thành công đánh bại người Trung
Quốc trong các cuộc Chiến tranh Thuốc Phiện giữa 1839 và 1842, và rồi lần nữa
giữa 1856 và 1860, Trung Quốc đã phải ký một loạt các thỏa ước nhục nhã và cho
phép các hàng hóa xuất khẩu Âu châu xâm nhập. Vì Trung Quốc, Ấn Độ, và các
nước khác đã không tận dụng được các cơ hội thương mại và công nghiệp, châu
Á, trừ Nhật Bản, đã tụt lại sau khi Tây Âu tiến lên dẫn đầu.
TIẾN TRÌNH phát triển thể chế mà Nhật Bản đã vạch ra trong thế kỷ thứ mười
chín lần nữa lại minh họa sự tương tác giữa các bước ngoặt và những khác biệt
nhỏ do trôi dạt thể chế gây ra. Nhật Bản, giống Trung Quốc, đã dưới sự cai trị
chuyên chế. Nhà Tokugawa đã tiếp quản năm 1600 và đã cai trị một hệ thống
phong kiến mà cũng đã cấm thương mại quốc tế. Nhật Bản cũng đã đối mặt với
một bước ngoặt được tạo ra bởi sự can thiệp phương Tây khi bốn tàu chiến Hoa
Kỳ, do Matthew C. Perry chỉ huy, đã vào Vịnh Edo vào tháng Sáu 1853, đòi
những nhượng bộ thương mại giống như các nhượng bộ mà Anh nhận được từ
Trung Quốc trong các cuộc Chiến tranh Thuốc phiện. Nhưng bước ngoặt này đã
diễn ra một cách rất khác ở Nhật Bản. Bất chấp sự gần nhau và những tương tác
thường xuyên của chúng, vào thế kỷ mười chín, về mặt thể chế Trung Quốc và
Nhật Bản đã trôi dạt xa nhau rồi. Trong khi sự cai trị của nhà Tokugawa ở Nhật
Bản là chuyên chế và mang tính khai thác, nó đã chỉ có một ảnh hưởng mong
manh đến các nhà lãnh đạo của các lãnh địa phong kiến lớn khác và đã dễ bị thách
thức. Cho dù đã có các cuộc nổi dậy nông dân và bất hòa dân sự, chính thể
chuyên chế ở Trung Quốc đã mạnh hơn, và phe đối lập đã ít được tổ chức và tự trị
hơn. Đã không có thế lực tương đương nào của các lãnh đạo các lãnh địa phong
kiến khác ở Trung Quốc những người đã có thể thách thức sự cai trị chuyên chế
của hoàng đế và vạch ra một con đường thể chế khả dĩ khác. Sự khác biệt thể chế
này, về nhiều phương diện là nhỏ so với những khác biệt tách Trung Quốc và
Nhật Bản khỏi Tây Âu, đã có những hệ quả quyết định trong bước ngoặt được tạo
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 119
ra bởi sự đến mạnh mẽ của những người Anh và Mỹ. Trung Quốc đã tiếp tục con
đường chuyên chế của mình sau các cuộc Chiến tranh Thuốc Phiện, trong khi sự
đe dọa Mỹ đã củng cố phe đối lập với sự cai trị Tokugawa ở Nhật Bản và đã dẫn
đến một cuộc cách mạng chính trị, Minh trị Duy tân, như chúng ta sẽ thấy trong
chương 10. Cuộc cách mạng chính trị Nhật này đã cho phép hình thành các thể
chế chính trị bao gồm hơn và các thể chế kinh tế bao gồm hơn rất nhiều, và đã đặt
nền móng cho sự tăng trưởng nhanh sau đó của Nhật Bản, trong khi Trung Quốc
sống khổ cực dưới ách chính thể chuyên chế.
Nhật Bản đã phản ứng ra sao đối với thách thức do các tàu chiến Hoa Kỳ áp
đặt, bằng cách bắt đầu một quá trình biến đổi thể chế cơ bản, giúp chúng ta hiểu
một khía cạnh khác của địa hình địa thế xung quanh chúng ta: những sự chuyển
đổi từ trì trệ sang tăng trưởng nhanh. Nam Hàn, Đài Loan, và cuối cùng Trung
Quốc đã đạt các tốc độ tăng trưởng kinh tế cao dễ gây tai nạn sau Chiến tranh Thế
giới lần thứ Hai thông qua một con đường tương tự như con đường Nhật Bản đã
đi. Ở mỗi trong các trường hợp này, tăng trưởng đã đến sau những thay đổi lịch sử
về thể chế kinh tế của các nước đó – mặc dù không luôn luôn về thể chế chính trị
của họ, như trường hợp của Trung Quốc làm nổi bật.
Logic của các đoạn tăng trưởng nhanh đi đến một kết thúc đột ngột và sau đó
bị đảo ngược như thế nào cũng được thuật lại. Theo cùng cách mà các bước quyết
định hướng đến các thể chế kinh tế bao gồm có thể châm ngòi cho sự tăng trưởng
kinh tế nhanh, một sự quay ngoắt đột ngột khỏi các thể chế bao gồm có thể dẫn
đến trì trệ kinh tế. Nhưng thường xuyên hơn, những sự sụp đổ của tăng trưởng
nhanh, như ở Argentina hay Liên Xô, là một hậu quả của sự tăng trưởng dưới các
thể chế khai thác sắp đến hồi kết liễu. Như chúng ta đã thấy, điều này có thể xảy
ra hoặc bởi vì sự tranh giành nội bộ về các đồ ăn cướp được của sự khai thác, dẫn
đến sự sụp đổ của chế độ, hay bởi vì sự thiếu vắng cố hữu của đổi mới và sự phá
hủy sáng tạo dưới các thể chế khai thác đặt một giới hạn lên sự tăng trưởng bền
vững. Những người Soviet đã gặp phải khó khăn với các giới hạn này thế nào sẽ
được thảo luận chi tiết hơn trong chương tiếp theo.
NẾU CÁC THỂ CHẾ chính trị và kinh tế của Mỹ Latin hơn năm trăm năm vừa
qua đã được định hình bởi chủ nghĩa thuộc địa Tây Ban Nha, thì các thể chế của
120 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Trung Đông đã được định hình bởi chủ nghĩa thuộc địa Ottoman. Năm 1453
những người Ottoman dưới thời Sultan Mehmet II đã chiếm Constatinople, biến
nó thành thủ đô của họ. Trong phần còn lại của thế kỷ, những người Ottoman đã
chinh phục các phần lớn của vùng Balkan và hầu hết phần còn lại của Thổ Nhĩ
Kỳ. Trong nửa đầu của thế kỷ mười sáu, sự cai trị Ottoman đã lan ra khắp Trung
Đông và Bắc Phi. Vào năm 1566, khi Sultan Süleyman I, được biết đến như Ngài
Tráng Lệ, chết, đế chế của họ đã trải từ Tunesia ở phía Đông, sang Ai Cập, suốt lộ
trình đến Mecca ở Bán Đảo Arab, và lên đến chỗ bây giờ là Iraq hiện đại. Nhà
nước Ottoman đã là chính thể chuyên chế, với sultan có trách nhiệm giải trình với
vài người và chẳng chia quyền lực với ai. Các thể chế kinh tế mà những người
Ottoman áp đặt đã mang tính khai thác cao. Đã không có quyền sở hữu về đất đai,
mà về mặt hình thức tất cả thuộc về nhà nước. Đánh thuế đất và sản lượng nông
nghiệp, cùng với của cướp được từ chiến tranh, đã là nguồn thu chính của chính
phủ. Tuy nhiên, nhà nước Ottoman đã không thống trị Trung Đông theo cùng
cách mà nó đã có thể thống trị vùng trung tâm của nó ở Anatolia [phần lớn của
Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại] hay thậm chí ở mức độ mà nhà nước Tây Ban Nha đã thống
trị xã hội Mỹ Latin. Nhà nước Ottoman đã liên tục bị thách thức bởi những người
Bedouin và các cường quốc bộ lạc khác trong Bán Đảo Arab. Nó đã thiếu không
chỉ năng lực để áp đặt một trật tự ổn định ở phần lớn Trung Đông mà cũng thiếu
năng lực hành chính để thu thuế. Cho nên nó đã “giao” cho các cá nhân, bán
quyền cho những người khác để thu thuế theo bất cứ cách nào họ có thể. Các
nông dân được giao quyền thu thuế này, nông dân thuế, đã trở nên tự trị và hùng
mạnh. Thuế suất trong các lãnh thổ Trung Đông đã rất cao, thay đổi từ một nửa
đến hai phần ba sản lượng mà các nông dân làm ra. Phần nhiều của các khoản
thuế này được nông dân thuế giữ lại cho mình. Bởi vì nhà nước Ottoman đã
không thiết lập được một trật tự ổn định trong các vùng này, các quyền sở hữu
còn xa mới an toàn, và đã có rất nhiều sự vô pháp luật và nghề ăn cướp khi các
nhóm có vũ trang tranh nhau kiểm soát địa phương. Ở Palestin, chẳng hạn, tình
hình đã kinh khủng đến mức bắt đầu vào cuối thế kỷ mười sáu, các nông dân đã
bỏ phần lớn đất đai màu mỡ và chuyển lên các vùng núi cao, mà đã cho họ sự bảo
vệ lớn hơn chống bọn cướp.
Các thể chế kinh tế khai thác trong các vùng đô thị của Đế chế Ottoman cũng
đã không ít ngột ngạt hơn. Thương mại đã dưới sự kiểm soát của nhà nước, và các
nghề đã bị điều tiết một cách nghiêm ngặt bởi các phường hội hay các độc quyền.
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 121
Hậu quả đã là, trong thời của Cách mạng Công nghiệp các thể chế kinh tế của
Trung Đông đã là các thể chế khai thác. Vùng này đã trì trệ về mặt kinh tế.
Vào các năm 1840, những người Ottoman đã thử cải cách các thể chế – thí dụ,
bằng đảo ngược việc giao cho nông dân thu thuế và đưa các nhóm tự trị địa
phương vào dưới sự kiểm soát. Nhưng chính thể chuyên chế đã kéo dài đến Chiến
tranh Thế giới lần thứ Nhất, và các nỗ lực cải cách đã bị ngăn trở bởi nỗi sợ thông
thường về sự phá hủy sáng tạo và sự lo ngại giữa các nhóm elite rằng họ sẽ thua
về mặt kinh tế và chính trị. Trong khi các nhà cải cách Ottoman đã nói về việc
đưa vào quyền sở hữu tư nhân về đất nhằm làm tăng năng suất nông nghiệp, hiện
trạng vẫn tồn tại dai dẳng bởi vì mong muốn kiểm soát chính trị và đánh thuế.
Tiếp sau sự thuộc địa hóa Ottoman là thuộc địa hóa Âu châu sau 1918. Khi sự
kiểm soát Âu châu chấm dứt, cùng động học mà chúng ta đã thấy ở châu Phi hạ-
Sahara được giữ vững, với các thể chế thuộc địa khai thác được tiếp quản bởi các
elite độc lập. Trong một số trường hợp, như chế độ quân chủ Jordan, các elite này
đã là các tác phẩm trực tiếp của các cường quốc thuộc địa, nhưng việc này cũng
xảy ra thường xuyên ở châu Phi, như chúng ta sẽ thấy. Các nước Trung Đông
không có dầu ngày nay có mức thu nhập tương tự như các quốc gia nghèo ở Mỹ
Latin. Họ đã không phải chịu các lực lượng gây bần cùng (immiserizing forces)
như buôn bán nô lệ, và trong một giai đoạn dài họ đã hưởng lợi từ các dòng chảy
công nghệ từ châu Âu. Trong thời Trung Cổ, bản thân Trung Đông về mặt kinh tế
đã cũng là một phần tương đối tiên tiến của thế giới. Vì thế ngày nay nó không
nghèo như châu Phi, nhưng đa số nhân dân vẫn sống trong nghèo khó.
⃰⃰ ⃰⃰ ⃰⃰
CHÚNG TA ĐÃ THẤY rằng các lý thuyết đựa vào địa lý, văn hóa, và sự dốt nát
đều không hữu ích cho việc giải thích địa hình địa thế [tình hình] xung quanh
chúng ta. Chúng không cung cấp một sự giải thích thỏa đáng cho các hình mẫu
nổi bật của sự bất bình đẳng thế giới: sự thực rằng quá trình phân kỳ kinh tế đã
bắt đầu với Cách mạng Công nghiệp ở nước Anh trong các thế kỷ thứ mười tám
và mười chín, rồi sau đó lan ra Tây Âu và các thuộc địa định cư Âu châu; sự phân
122 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
kỳ dai dẳng giữa các phần khác nhau của châu Mỹ; sự nghèo khó của châu Phi và
Trung Đông; sự phân kỳ giữa Đông và Tây Âu; và những sự chuyển đổi từ đình
trệ sang tăng trưởng và đôi khi sự chấm dứt đột ngột của những cú thúc tăng
trưởng. Lý thuyết của chúng ta giải thích được.
Trong các chương còn lại, chúng ta sẽ thảo luận rất chi tiết lý thuyết thể chế
này hoạt động ra sao và minh họa phạm vi rộng rãi của các hiện tượng mà nó có
thể giải thích. Các hiện tượng này trải từ nguồn gốc của Cách mạng Đồ Đá Mới
đến sự sụp đổ của nhiều nền văn minh, hoặc bởi vì các giới hạn nội tại của sự tăng
trưởng dưới các thể chế khai thác, hay bởi vì các bước hạn chế theo hướng bao
gồm bị đảo ngược.
Chúng ta sẽ thấy bằng cách nào và vì sao các bước quyết định theo hướng các
thể chế chính trị bao gồm đã được đưa ra trong Cách mạng Vinh quang ở nước
Anh. Chúng ta sẽ xem cụ thể hơn các vấn đề sau đây:
•Các thể chế bao gồm nổi lên thế nào từ sự tác động qua lại của bước
ngoặt được tạo ra bởi thương mại Đại Tây Dương và bản chất của
các thể chế Anh tồn tại trước đó.
•Bằng cách nào các thể chế này tồn tại dai dẳng và trở nên được củng
cố để đặt nền móng cho Cách mạng Công nghiệp, một phần nhờ
vòng thiện, và một phần nhờ những diễn biến may mắn của sự tùy
thuộc ngẫu nhiên.
•Có bao nhiêu chế độ ngự trị trên các thể chế chuyên chế và khai thác
đã chống lại một cách kiên định sự truyền bá các công nghệ mới
được Cách mạng Công nghiệp mở ra.
•Bản thân những người Âu châu đã dập tắt khả năng tăng trưởng kinh
tế như thế nào ở nhiều phần của thế giới mà họ đã chinh phục.
•Bằng cách nào vòng luẩn quẩn và quy luật sắt của chính thể đầu sỏ
đã tạo ra một xu hướng mạnh mẽ cho các thể chế khai thác tồn tại
dai dẳng, và như thế các vùng đất nơi Cách mạng Công nghiệp
ban đầu đã không lan tới vẫn tương đối nghèo.
NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 123
•Vì sao Cách mạng Công nghiệp và các công nghệ mới khác đã
không lan ra hay không chắc sẽ lan đến các nơi xung quanh thế
giới ngày nay những nơi mà một mức độ tối thiểu của sự tập trung
của nhà nước đã không đạt được.
Việc thảo luận của chúng ta sẽ cũng chứng tỏ rằng các vùng nhất định mà đã
tìm được cách để biến đổi các thể chế theo hướng bao gồm hơn, như Pháp, Nhật
Bản, hay đã cản việc thiết lập các thể chế khai thác, như Hoa Kỳ hoặc Autralia, đã
dễ tiếp thu hơn sự lan tỏa của Cách mạng Công nghiệp và đã đi trước các nước
còn lại. Như ở nước Anh, đấy đã không luôn luôn là một quá trình suôn sẻ, và dọc
đường, nhiều thách thức đối với các thể chế bao gồm đã được khắc phục, đôi khi
bởi vì động học của vòng thiện, đôi khi nhờ con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của
lịch sử.
Cuối cùng, chúng ta cũng sẽ thảo luận về sự thất bại của các quốc gia ngày nay
bị ảnh hưởng nặng nề ra sao bởi lịch sử thể chế của họ, và bao nhiêu lời khuyên
chính sách được thông báo bởi các giả thuyết không đúng và có thể làm cho lạc
lối, và bằng cách nào các quốc gia vẫn có khả năng túm lấy các bước ngoặt và phá
vỡ các khuôn đúc, các vòng kim cô để cải cách các thể chế của họ và bắt đầu
bước lên con đường đến sự thịnh vượng lớn hơn.
5.
“TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI,
VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG”:
TĂNG TRƯỞNG DƯỚI CÁC THỂ CHẾ KHAI THÁC
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI
hững khác biệt thể chế đóng một vai trò cốt yếu trong giải thích sự tăng
trưởng suốt các thời đại. Nhưng nếu hầu hết các xã hội trong lịch sử đều dựa
vào các thể chế chính trị và kinh tế khai thác, thì điều này có ngụ ý rằng tăng
trưởng chẳng bao giờ xảy ra? Hiển nhiên không. Các thể chế khai thác, theo chính
logic của chúng, phải tạo ra của cải sao cho nó có thể được khai thác. Một nhà cai
trị độc chiếm quyền lực chính trị và trong sự kiểm soát của một nhà nước tập
trung có thể đưa ra một mức độ nào đó của luật và trật tự và một hệ thống các quy
tắc, và kích thích hoạt động kinh tế.
Nhưng sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác khác về bản chất với sự tăng
trưởng do các thể chế bao gồm sinh ra. Quan trọng nhất, nó sẽ không là sự tăng
trưởng bền vững mà đòi hỏi sự thay đổi công nghệ, mà đúng hơn là sự tăng
trưởng dựa trên các công nghệ hiện tồn. Quỹ đạo kinh tế của Liên Xô cung cấp
một minh họa sinh động về bằng cách nào nhà chức trách và các khuyến khích do
nhà nước cung cấp có thể khởi xướng sự tăng trưởng nhanh dưới các thể chế khai
thác và cuối cùng loại tăng trưởng này đi đến kết thúc và sụp đổ ra sao.
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI lần thứ nhất đã chấm dứt và các cường quốc chiến
thắng và chiến bại đã gặp nhau tại Cung điện Versailles, bên ngoài Paris, để quyết
định về các tham số của hòa bình. Nổi bật giữa những người tham gia đã là
Woodrow Wilson, tổng thống Hoa Kỳ. Dễ nhận thấy là sự vắng mặt của bất cứ
N
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 125
đại diện nào từ Nga. Chế độ Nga hoàng cũ đã bị những người Bolshevik lật đổ
vào Tháng Mười 1917. Một cuộc nội chiến đã diễn ra ác liệt khi đó giữa quân Đỏ
(Hồng quân, Bolshevik) và quân Trắng (Bạch vệ). Những người Anh, Pháp, và
Mỹ đã gửi một lực lượng viễn chinh chống lại những người Bolshevik. Một phái
đoàn do nhà ngoại giao trẻ, William Bullitt, dẫn đầu và một trí thức và nhà báo kỳ
cựu Lincoln Steffens đã được cử đi Moscow để gặp Lenin và cố hiểu ý định của
những người Bolshevik và tìm cách đi đến thỏa thuận với họ. Steffens đã trở nên
nổi tiếng như một kẻ đập phá thánh tượng, một nhà báo hay bới móc người đã
kiên trì lên án những tội lỗi xấu xa của chủ nghĩa tư bản ở Hoa Kỳ. Ông đã ở Nga
vào thời cách mạng. Sự hiện diện của ông đã có ý định làm cho phái đoàn có vẻ
đáng tin và không quá thù địch. Phái đoàn trở về với những nét phác họa của một
đề nghị từ Lenin về chấp nhận gì cho hòa bình với Liên Xô mới được tạo ra.
Steffens đã hết sức ngạc nhiên trước cái ông thấy như tiềm năng to lớn của chế độ
Soviet.
“Nước Nga Soviet,” ông nhớ lại trong tự truyện 1931 của mình, “là một chính
phủ cách mạng với một kế hoạch tiến hóa. Kế hoạch của họ đã không phải là
chấm dứt những điều xấu xa như nghèo khó và tiền của, sự hối lộ, đặc quyền, sự
bạo ngược, và chiến tranh bằng hành động trực tiếp, mà để tìm ra và loại bỏ các
nguyên nhân của chúng. Họ đã dựng lên một chế độ độc tài, được ủng hộ bởi một
thiểu số được đào tạo, để tiến hành và duy trì trong vài thế hệ một sự sắp xếp lại
một cách khoa học các lực lượng kinh tế mà đầu tiên sẽ dẫn đến dân chủ kinh tế
và cuối cùng đến dân chủ chính trị”.
Khi Steffens trở về từ chuyến công tác ngoại giao, ông đã đi thăm bạn cũ của
mình là nhà điêu khắc Jo Davidson và thấy ông đang nặn một tượng bán thân của
nhà tài chính giàu có Bernard Baruch. “Thế ông đã ở bên Nga,” Baruch nhận xét.
Sefens trả lời, “tôi đã sang tương lai, và nó hoạt động.” Và ông đã có thể hoàn
thiện cách ngôn này thành dạng đã đi vào lịch sử: “Tôi đã thấy tương lai, và nó
hoạt động.”
Ngay cho đến đầu các năm 1980, nhiều người phương Tây đã vẫn thấy tương
lai ở Liên Xô, và họ tiếp tục tin rằng nó hoạt động. Theo một nghĩa nó đã, hay chí
ít nó đã hoạt động một thời gian. Lenin chết năm 1924, và vào năm 1927 Joseph
Stalin đã củng cố sự kìm kẹp của mình trên cả nước. Ông đã thanh trừng các địch
thủ của mình và phát động một đợt vận động để nhanh chóng công nghiệp hóa đất
126 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
nước. Ông đã làm việc đó thông qua việc tiếp sinh lực cho Ủy ban Kế hoạch Nhà
nước, Gosplan, được thành lập năm 1921. Gosplan đã soạn ra Kế hoạch-Năm năm
lần thứ nhất cho giai đoạn 1928 đến 1933. Tăng trưởng kinh tế kiểu Stalin là đơn
giản: phát triển công nghiệp bằng mệnh lệnh nhà nước và nhận được các nguồn
lực cần thiết cho việc này bằng cách đánh thuế nông nghiệp với các thuế suất rất
cao. Nhà nước cộng sản đã không có một hệ thống thuế hiệu quả, nên thay vào đó
Stalin đã “tập thể hóa” nông nghiệp. Quá trình này đòi hỏi sự xóa bỏ quyền sở
hữu tư nhân về đất và việc lùa tất cả nhân dân thôn quê vào các nông trang tập thể
khổng lồ do Đảng Cộng Sản vận hành. Điều này đã khiến cho công việc của
Stalin dễ hơn nhiều để nắm lấy đầu ra nông nghiệp và dùng nó để nuôi tất cả
những người xây dựng, và cung cấp người cho, các nhà máy mới. Những hậu quả
của việc này cho nhân dân nông thôn đã là tai họa. Các nông trang tập thể đã hoàn
toàn thiếu các khuyến khích để khiến người dân làm việc siêng năng, cho nên sản
xuất sa sút nhanh. Phần lớn sản lượng làm ra bị bòn rút đến mức không còn đủ để
ăn. Người dân bắt đầu chết đói. Cuối cùng, có lẽ sáu triệu người đã chết đói, trong
khi hàng trăm ngàn người khác đã bị giết hoặc bị đầy đi Siberia trong tập thể hóa
cưỡng bức.
Cả ngành công nghiệp mới được tạo ra lẫn các nông trang tập thể đã không
hiệu quả về mặt kinh tế theo nghĩa rằng chúng tận dụng tốt nhất các nguồn lực mà
Liên Xô có. Nghe có vẻ như một công thức cho tai họa và sự trì trệ kinh tế, nếu
không phải là sự sụp đổ dứt khoát. Thế nhưng Liên Xô đã tăng trưởng nhanh. Lý
do cho việc này là không khó hiểu. Cho phép người dân đưa ra các quyết định của
riêng mình thông qua các thị trường là cách tốt nhất cho một xã hội sử dụng hiệu
quả các nguồn lực của nó. Khi thay vào đó nhà nước hay một elite hẹp kiểm soát
tất cả các nguồn lực này, các khuyến khích đúng sẽ không được tạo ra, cũng
chẳng có một sự phân bổ hiệu quả các kỹ năng và tài năng của người dân. Nhưng
trong một số trường hợp năng suất của lao động và vốn có thể cao hơn rất nhiều
trong một khu vực hay một hoạt động, như công nghiệp nặng ở Liên Xô, mà ngay
cả một quá trình từ trên xuống, dưới các thể chế khai thác mà nó phân bổ các
nguồn lực tới khu vực đó, có thể tạo ra tăng trưởng. Như chúng ta đã thấy ở
chương 3, các thể chế khai thác ở các hòn đảo Caribe như Barbados, Cuba, Haiti,
và Jamaica đã có thể tạo ra mức thu nhập cao tương đối bởi vì họ đã phân bổ
nguồn lực cho sản xuất đường, một mặt hàng thèm muốn trên khắp thế giới. Việc
sản xuất đường đã dựa vào các toán nô lệ đã chắc chắn không “hiệu quả”, và đã
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 127
không có sự thay đổi công nghệ nào hay sự phá hủy sáng tạo nào trong các nước
này, nhưng điều này đã không cản chúng để đạt được mức độ tăng trưởng nào đó
dưới các thể chế khai thác. Tình hình đã tương tự ở Liên Xô, với công nghiệp
đóng vai trò của đường ở vùng Caribe. Tăng trưởng công nghiệp ở Liên Xô đã
còn được làm cho dễ dàng thêm bởi vì công nghệ của nó đã rất lạc hậu so với
công nghệ đã sẵn có ở châu Âu và Hoa Kỳ, cho nên có thể gặt hái được các khoản
lợi lớn bằng cách phân bổ lại các nguồn lực cho khu vực công nghiệp, cho dù tất
cả những việc này được tiến hành một cách không hiệu quả và bằng vũ lực.
Trước năm 1928 hầu hết người Nga sống ở nông thôn. Công nghệ được nông
dân sử dụng là công nghệ thô sơ, và đã có ít khuyến khích để sinh lợi. Quả thực,
những tàn dư cuối cùng của chủ nghĩa phong kiến Nga đã chỉ mới được xóa bỏ
trước Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất một thời gian ngắn. Như thế đã có tiềm
năng kinh tế khổng lồ chưa được thực hiện từ việc phân bố lại lao động này từ
nông nghiệp sang công nghiệp. Công nghiệp hóa Stalinist là một cách dã man để
tháo, mở khóa cho tiềm năng này. Bằng sắc lệnh, Stalin đã chuyển các nguồn lực
được sử dụng rất kém này sang công nghiệp, nơi họ đã có thể được sử dụng một
cách sinh lời hơn, cho dù bản thân công nghiệp đã được tổ chức rất không hiệu
quả so với mức đã có thể đạt được. Thật vậy, giữa 1928 và 1960 thu nhập quốc
dân đã tăng 6 phần trăm một năm, có lẽ là mức tăng tốc nhanh nhất của tăng
trưởng kinh tế trong lịch sử cho đến thời điểm đó. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh
này đã không được tạo ra bằng sự thay đổi công nghệ, mà bằng sự phân bổ lại lao
động và bằng tích tụ vốn qua tạo ra các công cụ và các nhà máy mới.
Sự tăng trưởng nhanh đến mức đã cần đến các thế hệ của những người phương
Tây để hiểu được, không chỉ Lincoln Steffens. Đã cần đến Cục Tình báo Trung
ương của Hoa Kỳ để hiểu được. Thậm chí đã cần đến các lãnh tụ của chính Liên
Xô, như Nikita Khrushchev, người đã khoác lác một cách khét tiếng trong một bài
phát biểu trước các nhà ngoại giao phương Tây trong năm 1956 rằng “chúng tôi
sẽ chôn các anh [phương Tây]”, để hiểu được. Mãi đến cuối 1977, một sách giáo
khoa hàng đầu của một nhà kinh tế học Anh đã cho rằng các nền kinh tế kiểu
Soviet là ưu việt hơn các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa về mặt tăng trưởng kinh tế,
tạo việc làm đầy đủ và ổn định giá cả và thậm chí về mặt tạo ra những người con
người với động cơ thúc đẩy vị tha. Chủ nghĩa tư bản già nua tồi tàn đã làm tốt hơn
chỉ ở việc cung cấp quyền tự do chính trị. Quả thực, sách giáo khoa đại học được
128 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
sử dụng rộng rãi nhất trong kinh tế học, được viết bởi người được giải Nobel Kinh
tế Paul Samuelson, đã tiên đoán một cách lặp đi lặp lại sự thống trị kinh tế sắp
đến của Liên Xô. Trong lần xuất bản 1961, Samuelson đã tiên đoán rằng thu nhập
quốc dân Soviet sẽ vượt thu nhập quốc dân Hoa Kỳ có thể vào 1984, nhưng chắc
là vào năm 1994. Trong lần tái bản 1980 đã có một chút sửa đổi trong phân tích,
dẫu cho hai thời điểm bị lùi thành 2002 và 2012.
Mặc dù các chính sách của Stalin và các lãnh đạo Soviet kế tiếp đã có thể tạo
ra tăng trưởng kinh tế nhanh, họ đã không thể làm thế theo cách bền vững. Vào
các năm 1970, tăng trưởng kinh tế hầu như đã bị ngừng. Bài học quan trọng nhất
là, các thể chế khai thác không thể tạo ra sự thay đổi công nghệ bền vững vì hai lý
do: sự thiếu các khuyến khích và sự chống đối của elite. Ngoài ra, một khi tất cả
các nguồn lực được sử dụng rất không hiệu quả đã được phân bổ cho công
nghiệp, thì còn ít lợi lộc kinh tế có được bằng sắc lệnh. Sau đó hệ thống Soviet
vấp phải vật chắn đường, với sự thiếu đổi mới và các khuyến khích kinh tế tồi
ngăn cản bất cứ sự tiến bộ thêm nào. Lĩnh vực duy nhất mà trong đó những người
Soviet đã tìm được cách để đạt sự đổi mới nào đó đã là thông qua các nỗ lực lớn
lao trong công nghệ quân sự và hàng không vũ trụ. Như một kết quả họ đã đưa
được con chó đầu tiên, Laika, và con người đầu tiên, Yuri Gagarin, vào vũ trụ. Họ
cũng đã để lại cho thế giới AK-47 như một trong những di sản của họ.
Gosplan đã là cơ quan lập kế hoạch được cho là có toàn quyền, chịu trách
nhiệm về kế hoạch hóa tập trung của nền kinh tế Soviet. Một trong những lợi ích
của chuỗi liên tiếp của các kế hoạch năm năm được soạn thảo và quản lý bởi
Gosplan được cho là có tầm nhìn dài hạn cần thiết cho đầu tư và đổi mới hợp lý.
Trong thực tế, cái được thực hiện trong công nghiệp Soviet ít liên quan đến các kế
hoạch năm năm, mà thường xuyên được xét lại và soạn lại trên cơ sở các mệnh
lệnh của Stalin và Bộ Chính trị, những người thường xuyên thay đổi ý định của họ
và thường xét lại toàn bộ các quyết định trước đây của mình. Tất cả các kế hoạch
đều được gắn nhãn “dự thảo” hay “sơ bộ”. Chỉ có duy nhất một bản kế hoạch
được gắn nhãn “cuối cùng” – là kế hoạch cho công nghiệp nhẹ năm 1939 – được
đưa ra ánh sáng từ trước tới nay. Bản thân Stalin đã nói trong năm 1937 rằng “chỉ
có những kẻ quan liêu mới có thể nghĩ rằng công việc lập kế hoạch kết thúc với
việc tạo ra bản kế hoạch. Việc tạo ra bản kế hoạch chỉ là sự bắt đầu. Hướng thực
sự của kế hoạch bộc lộ ra chỉ sau khi ráp kế hoạch vào với nhau.” Stalin đã muốn
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 129
tối đa hóa sự tự định đoạt của ông để thưởng những người hay các nhóm trung
thành về mặt chính trị với ông và trừng phạt những người không trung thành. Về
Gosplan, vai trò chính của nó đã là để cung cấp thông tin cho Stalin để ông có thể
giám sát tốt hơn các bạn và các kẻ thù của ông. Nó thực sự đã thử tránh đưa ra các
quyết định. Nếu bạn đưa ra một quyết định mà hóa ra là tồi, bạn có thể bị bắn. Tốt
hơn là tránh mọi trách nhiệm.
Một thí dụ về cái gì đã có thể xảy ra nếu bạn coi công việc của mình một cách
quá nghiêm túc, hơn là đoán một cách thành công Đảng Cộng Sản muốn gì, đã là
cuộc tổng điều tra dân số năm 1937. Khi các bản khai được ghi nhận, đã trở nên
rõ ràng là chúng cho thấy dân số khoảng 162 triệu, thấp hơn con số 180 triệu mà
Stalin đã dự tính rất nhiều và quả thực thấp hơn con số 168 triệu mà bản thân
Stalin đã công bố năm 1934. Tổng điều tra dân số năm 1937 là cuộc điều tra đầu
tiên được tiến hành từ 1926, và vì thế là cuộc đầu tiên tiếp sau các nạn đói và các
cuộc thanh trừng hàng loạt vào đầu các năm 1930. Con số dân số chính xác phản
ánh điều này. Sự đáp lại của Stalin đã là sai bắt những người đã tổ chức tổng điều
tra dân số và đày họ đi Siberia hay bắn họ. Ông đã ra lệnh tiến hành một cuộc
tổng điều tra dân số khác vào năm 1939. Lần này những người tổ chức đã hiểu
đúng; họ đã thấy rằng dân số thực đã là 171 triệu.
Stalin đã hiểu rằng trong nền kinh tế Soviet, người dân có ít khuyến khích để
làm việc siêng năng. Một phản ứng tự nhiên là phải đưa các khuyến khích đó vào,
và đôi khi ông đã làm vậy – thí dụ, bằng cách hướng cung ứng thực phẩm đến các
vùng nơi năng suất đã sụt xuống – để tưởng thưởng những sự cải thiện năng suất.
Hơn nữa, ngay từ 1931 ông đã từ bỏ ý tưởng tạo ra “con người xã hội chủ nghĩa”
những người làm việc mà không có các khuyến khích tiền tệ. Trong một bài nói
chuyện nổi tiếng ông đã phê phán “nghề lái buôn bình đẳng”, và trong thời gian
tiếp theo đã không chỉ người làm các việc khác nhau được trả lương khác nhau
mà một hệ thống tiền thưởng cũng đã được đưa vào. Thật đáng làm bài học để
hiểu hệ thống này hoạt động ra sao. Điển hình một hãng dưới kế hoạch hóa tập
trung phải đạt một chỉ tiêu sản lượng đặt ra trong kế hoạch, mặc dù các kế hoạch
như vậy thường được thương lượng lại và thay đổi. Từ các năm 1930, các công
nhân được trả tiền thưởng nếu các mức đầu ra đạt chỉ tiêu. Các khoản này đã có
thể khá cao – đến mức 37 phần trăm lương cho chức vụ quản lý hay kỹ sư cao
cấp. Nhưng trả các khản tiền thưởng như vậy tạo ra đủ loại phản khuyến khích
130 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
(disincentive) đối với thay đổi công nghệ. Một mặt, sự đổi mới, lấy đi nguồn lực
từ sản xuất hiện thời, gây rủi ro về không đạt chỉ tiêu và không được trả tiền
thưởng. Mặt khác, các chỉ tiêu sản lượng thường dựa vào các mức sản xuất trước.
Việc này tạo ra khuyến khích khổng lồ để đừng bao giờ mở rộng sản lượng, vì
việc này chỉ có nghĩa là sẽ phải sản xuất nhiều hơn trong tương lai, vì các chỉ tiêu
tương lai sẽ bị “đẩy lên nấc cao hơn.” Đạt dưới mức [có thể đạt được] đã luôn
luôn là cách tốt nhất để đạt các chỉ tiêu và nhận được tiền thưởng. Sự thực rằng
tiền thưởng được trả hàng tháng cũng khiến tất cả mọi người chú tâm vào hiện tại,
trong khi sự đổi mới là về chịu hy sinh hôm nay nhằm có nhiều hơn vào ngày
mai.
Ngay cả khi tiền thưởng và các khuyến khích đã có hiệu quả trong làm thay đổi
hành vi, thì chúng thường gây ra các vấn đề khác. Kế hoạch hóa tập trung đã đúng
là không tốt khi thay thế cho cái mà nhà kinh tế học vĩ đại thế kỷ mười tám Adam
Smith đã gọi là “bàn tay vô hình” của thị trường. Khi [chỉ tiêu] kế hoạch được
diễn đạt bằng tấn thép tấm, tấm thép được làm quá nặng. Khi được trình bày bằng
diện tích thép tấm, các tấm được làm quá mỏng. Khi kế hoạch về đèn chùm treo
được trình bày bằng tấn, chúng nặng đến mức hầu như không thể treo được trên
trần nhà.
Vào các năm 1940, các nhà lãnh đạo Liên Xô, cho dù không phải là những
người say mê chúng ở phương Tây, [nhưng] đã biết kỹ về các khuyến khích tai ác
này. Các lãnh đạo Soviet đã hành động cứ như chúng đã là do các vấn đề kỹ thuật,
mà có thể chỉnh sửa được. Thí dụ, họ đã thay đổi ý tưởng về trả tiền thưởng dựa
trên các chỉ tiêu sản lượng cho phép các hãng để sang một bên một phần lợi
nhuận để trả thưởng. Nhưng một “động cơ lợi nhuận” như vậy đã không khuyến
khích đổi mới hơn so với tiền thưởng dựa vào sản lượng. Hệ thống giá được dùng
để tính lợi nhuận đã hầu như hoàn toàn không liên quan gì đến giá trị của các đổi
mới hay công nghệ mới. Không giống trong một nền kinh tế thị trường, giá cả ở
Liên Xô được chính phủ quy định, và như thế có ít liên hệ với giá trị. Để tạo ra
các khuyến khích một cách đặc biệt hơn cho đổi mới, Liên Xô đã đưa ra tiền
thưởng đổi mới rành mạch trong năm 1946. Ngay từ 1918, nguyên lý đã được
công nhận rằng một nhà đổi mới nên nhận được phần thưởng bằng tiền cho đổi
mới của mình, nhưng các phần thưởng được quy định là nhỏ và không liên quan
đến giá trị của công nghệ mới. Việc này đã thay đổi chỉ vào năm 1956, khi quy
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 131
định rằng tiền thưởng phải tỷ lệ với năng suất của đổi mới. Tuy vậy, vì năng suất
được tính dưới dạng các lợi ích kinh tế đo được bằng hệ thống giá cả hiện hành,
đấy lại chẳng phải là một khuyến khích tốt để đổi mới. Ta có thể điền đầy nhiều
trang về các khuyến khích tai ác mà các sơ đồ này gây ra. Thí dụ, bởi vì quy mô
của quỹ thưởng đổi mới được giới hạn bởi hóa đơn lương của một hãng, quy định
này ngay lập tức làm giảm khuyến khích để sản xuất hay chấp nhận bất cứ đổi
mới nào mà có thể tiết kiệm lao động.
Tập trung vào các quy tắc và các sơ đồ thưởng khác nhau có xu hướng che mờ
các vấn đề cố hữu của hệ thống. Chừng nào quyền thế và quyền lực chính trị còn
nằm trong tay Đảng Cộng Sản, đã là không thể để làm thay đổi một cách cơ bản
các khuyến khích mà người dân đối mặt, tiền thưởng hay không phải tiền thưởng.
Ngay từ khởi đầu của nó, Đảng Cộng Sản đã sử dụng không chỉ các củ cà rốt mà
cả các cây gậy nữa, các cây gậy bự, để có được cái nó muốn. Năng suất trong nền
kinh tế cũng đã không khác. Một bộ đầy đủ của các luật tạo ra các vi phạm hình
sự đối với các công nhân những người được cảm thấy là lẩn tránh việc. Tháng Sáu
1940, chẳng hạn, một luật đã biến sự vắng mặt, được định nghĩa là bất cứ 20 phút
vắng mặt mà không được phép hoặc thậm chí đứng ngồi không trong công việc,
thành một sự vi phạm hình sự với mức phạt sáu tháng làm việc nặng và cắt 25
phần trăm lương. Tất cả mọi loại trừng phạt tương tự đã được đưa ra, và đã được
thực thi với tần suất gây kinh ngạc. Giữa 1940 và 1955, 36 triệu người, khoảng
một phần ba dân số trưởng thành, đã được phát hiện là phạm các tội như vậy.
Trong số này, 15 triệu đã bị bỏ tù và 250.000 đã bị bắn. Trong bất cứ năm nào, đã
có 1 triệu người lớn bị tù vì những sự vi phạm lao động; đấy là chưa nhắc đến 2,5
triệu người mà Stalin đã đày đến các gulag [trại cải tạo lao động] ở Siberia. Dẫu
sao, nó đã không hoạt động. Mặc dù bạn có thể chuyển ai đó đến một nhà máy,
bạn không thể ép người dân suy nghĩ và có các ý tưởng hay bằng cách đe dọa bắn
bỏ họ. Sự ép buộc giống thế này đã có thể tạo ra sản lượng cao về đường ở
Barbados hay Jamaica, nhưng nó không thể bù cho sự thiếu các khuyến khích
trong một nền kinh tế công nghiệp hiện đại.
Sự thực rằng các khuyến khích thật sự hiệu quả không thể được đưa ra trong
một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã không phải là do các lỗi kỹ thuật trong
thiết kế của các sơ đồ tiền thưởng. Nó là bản chất nội tại của toàn bộ phương pháp
mà theo đó sự tăng trưởng khai thác đã đạt được. Nó đã được thực hiện bằng
132 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
mệnh lệnh của chính phủ, mà đã có thể giải quyết một số vấn đề kinh tế cơ bản.
Nhưng kích thích tăng trưởng kinh tế bền vững đòi hỏi rằng các cá nhân sử dụng
tài năng và các ý tưởng của mình, và việc này chẳng bao giờ có thể làm được
trong một hệ thống kinh tế kiểu Soviet. Những kẻ cai trị Liên Xô đã có thể từ bỏ
các thể chế kinh tế khai thác, nhưng một bước đi như vậy sẽ làm nguy hiểm cho
quyền lực chính trị của họ. Thực vậy, khi Mikhail Gorbachev đã bắt đầu rời khỏi
các thể chế kinh tế khai thác sau 1987, quyền lực của Đảng Cộng Sản đã tan tành,
và với nó, Liên Xô sụp đổ.
LIÊN XÔ đã có khả năng tạo ra sự tăng trưởng nhanh ngay cả dưới các thể chế
khai thác bởi vì những người Bolshevik đã xây dựng một nhà nước tập trung hùng
mạnh và sử dụng nó để phân bổ các nguồn lực sang công nghiệp. Nhưng như
trong mọi trường hợp của tăng trưởng dưới các thể chế khai thác, kinh nghiệm
này đã không dành vai nổi bật cho sự thay đổi công nghệ và đã không bền vững.
Sự tăng trưởng đầu tiên chậm lại, rồi sau đó hoàn toàn xẹp xuống. Mặc dù chóng
tàn, kiểu tăng trưởng này vẫn minh họa các thể chế khai thác có thể kích thích
hoạt động kinh tế ra sao.
Suốt lịch sử hầu hết các xã hội đã bị cai trị bởi các thể chế khai thác, và các thể
chế, mà đã tìm được cách để áp đặt một mức độ trật tự nào đó lên các nước, đã có
khả năng tạo ra sự tăng trưởng hạn chế nào đó – cho dù chẳng có xã hội nào trong
số các xã hội khai thác này đã tìm được cách để đạt tăng trưởng bền vững. Thực
ra, một số điểm ngoặt lớn trong lịch sử được đặc trưng bởi những đổi mới thể chế
mà đã củng cố các thể chế khai thác và đã làm tăng quyền lực của một nhóm để
áp đặt luật và trật tự và hưởng lợi từ sự khai thác. Trong phần còn lại của chương
này, chúng ta đầu tiên sẽ thảo luận bản chất của những đổi mới thể chế mà thiết
lập mức độ nào đó của sự tập trung hóa nhà nước và cho phép sự tăng trưởng dưới
các thể chế khai thác. Sau đó chúng ta sẽ chứng tỏ các ý tưởng này sẽ giúp chúng
ta thế nào để hiểu Cách mạng Đồ đá Mới, sự chuyển đổi hết sức quan trọng sang
nông nghiệp, mà làm nòng cốt cho nhiều khía cạnh của nền văn minh hiện tại của
chúng ta. Chúng ta sẽ kết thúc bằng việc minh họa, với các thí dụ của các thành-
quốc Maya, sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác bị hạn chế ra sao không chỉ
bởi vì sự thiếu tiến bộ công nghệ, mà cũng bởi vì nó cũng khuyến khích sự ẩu đả
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 133
từ các nhóm tranh đua muốn nắm sự kiểm soát nhà nước và sự khai thác mà nó
tạo ra.
TRÊN BỜ SÔNG KASAI
Một trong những nhánh lớn của sông Congo là Kasai. Bắt nguồn ở Angola, nó
chảy theo hướng bắc và nhập với sông Congo ở đông bắc Kinshasa, thủ đô của
Cộng hòa Dân chủ Congo hiện đại. Mặc dù Cộng hòa Dân chủ Congo là nghèo so
với phần còn lại của thế giới, đã luôn luôn có những khác biệt đáng kể về thịnh
vượng của các nhóm khác nhau bên trong Congo. Kasai là ranh giới giữa các
nhóm này. Ngay sau khi đi vào Congo dọc theo bờ tây, bạn sẽ thấy dân tộc Lele,
bên bờ đông là những người Bushong (Bản đồ 6, trang 59). Xét theo bề ngoài,
phải có ít khác biệt giữa hai nhóm này về mặt thịnh vượng. Họ bị tách biệt chỉ bởi
một con sông, mà cả hai bên đều có thể qua bằng thuyền. Hai bộ lạc có chung
nguồn gốc và các ngôn ngữ họ hàng. Ngoài ra, nhiều thứ mà họ xây hay tạo ra là
giống nhau về kiểu cách, bao gồm nhà, quần áo, và đồ thủ công.
Thế nhưng khi nhà nhân chủng học Mary Douglass và nhà sử học Jan Vansina
đã nghiên cứu các nhóm này trong các năm 1950, họ đã phát hiện ra một số khác
biệt gây sửng sốt giữa họ. Như Douglass diễn đạt, “Những người Lele nghèo, còn
những người Bushong giàu …Mọi thứ mà người Lele có hay có thể làm, người
Bushong có nhiều hơn và có thể làm tốt hơn.” Dễ kiếm được những giải thích đơn
giản cho sự không bằng nhau này. Một sự khác biệt, gợi lại sự khác biệt giữa các
nơi ở Peru mà đã bị hay đã không bị lệ thuộc vào mita Potosí, là, những người
Lele đã sản xuất cho đủ sống qua ngày, trong khi những người Bushong sản xuất
để trao đổi trên thị trường. Douglass và Vansina cũng nhận xét rằng những người
Lele đã sử dụng công nghệ thấp. Thí dụ, họ đã không dùng lưới để săn, cho dù
lưới cải thiện năng suất rất nhiều. Douglass biện luận, “sự thiếu vắng lưới là phù
hợp với một xu hướng chung của người Lele là không đầu tư thời gian và lao
động vào trang thiết bị dài hạn.”
Cũng đã có những khác biệt quan trọng về công nghệ nông nghiệp và tổ chức.
Những người Bushong đã thực hành một dạng canh tác hỗn hợp nơi năm vụ được
trồng kế tiếp nhau trong một hệ thống luân canh hai năm. Họ trồng khoai mỡ,
134 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
khoai lang, sắn (mỳ), và đậu và thu hoạch hai, đôi khi ba vụ ngô mỗi năm. Những
người Lele đã không có hệ thống như vậy và đã xoay xở để thu hoạch chỉ một vụ
ngô một năm.
Cũng đã có những khác biệt nổi bật về luật và trật tự. Những người Lele được
phân tán vào các làng được phòng thủ, mà đã liên tục xung đột với nhau. Bất cứ ai
đi giữa hai làng hay thậm chí dám vào rừng để thu lượm thức ăn đã có khả năng
bị tấn công hay bắt cóc. Ở nước Bushong, điều này hiếm khi, nếu có bao giờ, xảy
ra.
Cái gì nằm đằng sau những khác biệt này về các hình mẫu sản xuất, công nghệ
nông nghiệp, và sự thịnh hành của trật tự? Hiển nhiên đã không phải là địa lý đã
khiến những người Lele sử dụng công nghệ săn bắn và nông nghiệp thấp. Đã chắc
chắn không phải là sự vô minh, sự không biết, bởi vì họ đã biết các công cụ người
Bushong sử dụng. Một sự giải thích khả dĩ khác có thể là văn hóa; liệu đã có thể
chăng rằng những người Lele có một văn hóa không khuyến khích họ đầu tư vào
lưới săn và nhà chắc chắn hơn và được xây cất tốt hơn? Nhưng điều này có vẻ
cũng chẳng đúng. Như với người dân Kongo, những người Lele đã rất quan tâm
đến mua súng, và Douglass thậm chí đã nhận xét rằng “việc họ hăm hở mua súng
cầm tay … cho thấy văn hóa của họ không hạn chế họ ở mức các công nghệ thấp
nếu những công nghệ này không đòi hỏi sự cộng tác và nỗ lực dài hạn.” Như thế
không phải một ác cảm văn hóa với công nghệ, chẳng phải sự vô minh, cũng
chẳng phải địa lý cho một sự giải thích tốt về sự thịnh vượng lớn hơn của những
người Bushong so với những người Lele.
Lý do cho những khác biệt giữa hai bộ tộc này nằm ở các thể chế khác nhau
mà đã nổi lên trong đất nước của những người Bushong và Lele. Chúng ta đã
nhắc tới ở trước rằng những người Lele đã sống trong các làng được phòng thủ
mà đã không là phần của một cấu trúc chính trị thống nhất. Đã khác ở bên kia
Kasai. Khoảng năm 1620 một cuộc cách mạng chính trị đã xảy ra với sự lãn đạo
của một người có tên là Shyaam, người đã tạo dựng Vương quốc Kuba, mà chúng
ta đã thấy trên Bản đồ 6 (trang 59), với những người Bushong ở trung tâm của nó
và với bản thân ông như nhà vua. Trước thời kỳ này, có lẽ đã có ít sự khác biệt
giữa những người Bushong và Lele; những sự khác biệt đã nổi lên như những hệ
quả của cách mà Shyaam đã tổ chức lại xã hội ở phía đông sông Kasai. Ông đã
xây dựng một nhà nước và một kim tự tháp các thể chế chính trị. Chúng đã không
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 135
chỉ được tập trung hóa hơn một cách đáng kể so với trước mà cũng đã bao gồm
các cấu trúc rất tinh vi. Shyaam và những người kế vị ông đã tạo ra một bộ máy
quan liêu để thu thuế và một hệ thống luật và lực lượng cảnh sát để thi hành luật.
Các nhà lãnh đạo bị kiểm tra bởi các hội đồng, mà họ phải tham vấn trước khi đưa
ra các quyết định. Thậm chí đã có sự xử án bởi bội thẩm đoàn, một sự kiện có vẻ
độc nhất ở châu Phi hạ-Sahara trước chủ nghĩa thuộc địa Âu châu. Tuy nhiên, nhà
nước tập trung mà Shyaam xây dựng đã là một công cụ khai thác và hết sức
chuyên chế. Đã chẳng ai bỏ phiếu bầu ông, và chính sách đã được quy định từ
trên đỉnh, không phải bởi sự tham gia của nhân dân.
Cuộc cách mạng này dẫn đến sự tập trung hóa nhà nước, luật và trật tự ở nước
Kuba đến lượt nó đã dẫn đến một cuộc cách mạng kinh tế. Nông nghiệp được tổ
chức lại và những công nghệ mới được chọn theo để tăng năng suất. Các cây
trồng mà trước kia đã là các giống chính đã được thay thế bằng các giống mới có
sản lượng cao hơn từ châu Mỹ (đặc biệt là, ngô, sắn, và ớt). Chu trình luân canh
thâm canh đã được đưa vào trong thời gian này, và số lượng thực phẩm được sản
xuất trên đầu người đã tăng gấp đôi. Để chấp nhận các giống cây trồng này và tổ
chức lại nông nghiệp, đã cần nhiều người làm hơn ở ngoài đồng. Cho nên tuổi kết
hôn được hạ xuống hai mươi, mà quy định này đã đưa những người đàn ông vào
lực lượng lao động nông nghiệp ở tuổi trẻ hơn. Sự tương phản với người Lehe là
rõ rệt. Các đàn ông Lele đã thường kết hôn ở tuổi ba mươi lăm và chỉ sau đó mới
làm việc ở ngoài đồng. Cho đến lúc đó, họ đã cống hiến đời họ cho chiến đấu và
đột nhập để cướp bóc.
Mối quan hệ giữa cách mạng chính trị và cách mạng kinh tế đã đơn giản. Nhà
vua Shyaam và những người ủng hộ ông đã muốn khai thác thuế và của cải từ
người Kuba, những người đã phải sản xuất ra một khoản thặng dư trên mức bản
thân họ tiêu thụ. Trong khi Shyaam và những người của ông đã không đưa ra các
thể chế bao gồm ở bờ đông sông Kasai, lượng nào đó của thịnh vượng kinh tế là
nội tại đối với các thể chế khai thác mà đạt được một mức độ nào đó về tập trung
hóa nhà nước và áp đặt luật và trật tự. Khuyến khích hoạt động kinh tế tất nhiên
đã là lợi ích của Shyaam và những người của ông, vì khác đi thì chẳng có gì để
mà khai thác. Giống hệt Stalin, bằng mệnh lệnh Shyaam đã tạo ra một tập các thể
chế mà có thể tạo ra của cải cần thiết để nuôi sống hệ thống này. So với sự thiếu
vắng hoàn toàn của luật và trật tự mà là tình trạng ngự trị ở bên kia của bờ sông
136 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Kasai, thì việc này đã tạo ra sự thịnh vượng kinh tế đáng kể – cho dù phần lớn
chắc đã bị khai thác bởi Shyaam và các elite của ông. Nhưng nó nhất thiết bị hạn
chế. Hệt như ở Liên Xô, đã không có sự phá hủy sáng tạo nào ở Vương quốc
Kuba và không có sự đổi mới công nghệ sau sự thay đổi ban đầu này. Tình hình
này ít nhiều đã không thay đổi vào thời vương quốc lần đầu tiên đụng độ với các
quan chức thuộc địa Bỉ trong cuối thế kỷ mười chín.
THÀNH TÍCH CỦA NHÀ VUA SHYAAM minh họa mức hạn chế nào đó của
thành công kinh tế có thể đạt được ra sao thông qua các thể chế khai thác. Việc
tạo ra sự tăng trưởng như vậy cần đến một nhà nước tập trung. Để tập trung hóa
nhà nước, thường cần đến một cuộc cách mạng chính trị. Một khi Shyaam đã tạo
ra nhà nước này, ông đã có thể sử dụng sức mạnh của nó để tổ chức lại nền kinh
tế và tăng năng suất nông nghiệp, mà sau đó ông có thể đánh thuế.
Vì sao những người Bushong, chứ không phải những người Lele, đã có một
cuộc cách mạng chính trị. Chẳng phải những người Lele đã có thể có Shyaam
riêng của họ? Cái mà Shyaam đạt được đã là một sự đổi mới thể chế không gắn
với địa lý, văn hóa, hay sự thiếu hiểu biết theo bất cứ cách tất định nào. Những
người Lele đã có thể có một cuộc cách mạng như vậy và biến đổi các thể chế của
họ một cách tương tự, nhưng họ đã không làm. Có lẽ đấy là do các lý do mà
chúng ta không hiểu bởi vì sự hiểu biết hạn chế của chúng ta ngày nay về xã hội
của họ. Có khả năng nhất là bởi vì bản chất tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử.
Cùng sự tùy thuộc ngẫu nhiên có lẽ đã có hiệu lực khi một số xã hội ở Trung
Đông mười hai ngàn năm trước đã bắt đầu một tập thậm chí cấp tiến hơn của
những đổi mới thể chế dẫn đến các xã hội định cư và sau đó đến thuần hóa các
thực vật và động vật, như chúng ta thảo luận tiếp đây.
MÙA HÈ DÀI
Khoảng 15.000 năm trước công nguyên (TCN), Thời kỳ Băng hà chấm dứt vì khí
hậu trái đất nóng lên. Bằng chứng từ các lõi băng Greenland gợi ý rằng nhiệt độ
đã tăng ở mức mười lăm độ C trong một khoảng thời gian ngắn. Sự ấm lên này có
lẽ đã trùng với sự tăng lên nhanh của dân số vì sự ấm lên toàn cầu đã dẫn đến sự
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 137
mở rộng các quần thể động vật và sự sẵn có lớn hơn nhiều của các cây dại và thực
phẩm. Quá trình này đã bị đảo ngược nhanh vào khoảng năm 14.000 TCN, bởi
một thời kỳ lạnh đi được biết đến như thời kỳ Younger Dryas, nhưng sau năm
9600 TCN, nhiệt độ toàn cầu lại tăng lên, bảy độ C trong thời gian ngắn hơn một
thập kỷ, và kể từ đó vẫn ở mức cao. Nhà khảo cổ học Brian Fagan gọi nó là mùa
hè dài. Sự ấm lên của khí hậu đã là một bước ngoặt khổng lồ mà đã tạo thành nền
cho Cách mạng đồ Đá mới, nơi các xã hội người đã chuyển sang lối sống định cư,
canh tác, và chăn thả. Việc này và phần còn lại của lịch sử con người đã tiến hành
phơi nắng trong Mùa hè Dài này.
Có một sự khác biệt cơ bản giữa canh tác, chăn thả và săn bắt hái lượm. Những
việc trước dựa trên sự thuần hóa các loài thực vật và động vật, với sự can thiệp
tích cực vào các chu kỳ sống của chúng để làm thay đổi di truyền khiến cho các
loài này hữu ích hơn cho con người. Sự thuần hóa là một sự thay đổi công nghệ,
và cho phép con người sản xuất nhiều thực phẩm hơn nhiều từ các thực vật và
động vật sẵn có. Sự thuần hóa ngô, chẳng hạn, đã bắt đầu khi con người thu lượm
teosinte, giống cây dại là tổ tiên của ngô. Bắp teosinte rất nhỏ, chỉ dài vài
centimet. Chúng thật còi cọc so với bắp ngô hiện đại. Thế nhưng, dần dần, bằng
cách chọn các bông teosinte lớn hơn, và các cây mà các bông của nó không vỡ và
vẫn ở trên thân để thu hoạch, con người đã tạo ra ngô hiện đại, một giống cây
cung cấp nhiều chất dinh dưỡng hơn rất nhiều từ cùng một miếng đất.
Bằng chứng sớm nhất về canh tác, chăn thả và thuần hóa thực vật và động vật
đến từ Trung Đông, đặc biệt từ các vùng được biết đến như Hilly Flank, mà kéo
dài từ miền nam của Israel hiện đại, lên qua Palestine và bờ tây của Sông Jordan,
qua Syria và vào đến đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, bắc Iraq, và tây Iran. Khoảng năm
9.500 TCN các thực vật được thuần hóa đầu tiên, lúa mì emmer và đại mạch hai
hàng, được tìm thấy ở Jericho trên bờ tây Sông Jordan ở Palestine; và lúa mì
emmer, đậu Hà Lan, đậu lentils (lăng), tại Tell Aswad, xa hơn về phía bắc Syria.
Cả hai là các địa điểm của một nền văn hóa gọi là văn hóa Natufian, và cả hai đã
nuôi sống các làng lớn; làng ở Jericho đã có dân số có lẽ năm trăm người vào thời
ấy.
Vì sao các làng canh tác đầu tiên đã xảy ra ở đây chứ không phải nơi khác? Vì
sao những người Natufian, chứ không phải những người khác, đã thuần hóa đậu
Hà Lan và đậu lentils? Phải chăng họ đã may mắn và chỉ ngẫu nhiên sống ở nơi
138 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
đã có nhiều ứng viên tiềm năng cho việc thuần hóa? Trong khi điều này đúng,
nhiều dân tộc khác đã sống giữa các loài này, nhưng họ đã không thuần hóa
chúng. Như chúng ta đã thấy ở chương hai trong các bản đồ 4 và 5, nghiên cứu
của các nhà di truyền học và các nhà khảo cổ học để định rõ sự phân bố của các tổ
tiên hoang dã của các động vật và thực vật hiện đại đã được thuần hóa, tiết lộ rằng
nhiều trong số các tổ tiên này đã trải ra trên các vùng rất rộng, hàng triệu kilomet
vuông. Các tổ tiên hoang dã của các loài động vật được thuần hóa đã lan rộng
khắp lục địa Á-Âu. Mặc dù các vùng Hilly Flank đã được thiên nhiên phú cho
nhiều loại cây trồng hoang dại, ngay cả chúng cũng đã còn xa mới độc nhất. Đã
không phải là, những người Natufian sống trong một vùng được phú cho một cách
duy nhất các loài hoang dại, là cái làm cho họ đặc biệt. Chính là, họ đã sống định
cư trước khi họ bắt đầu thuần hóa các thực vật hay động vật. Một mẩu bằng
chứng đến từ các răng linh dương, mà chúng bao gồm men chân răng
(cementum), xương mô liên kết mà phát triển thành các lớp. Trong mùa xuân và
mùa hè khi sự phát triển của cementum nhanh nhất, các lớp có màu khác với các
lớp hình thành trong mùa đông. Bằng cách lấy một lát cắt qua răng ta có thể thấy
màu của lớp cuối cùng trước khi con linh dương chết. Sử dụng kỹ thuật này ta có
thể xác định xem con linh dương bị giết vào mùa hè hay mùa đông. Tại các vị trí
[khai quật] Natufian, người ta thấy những con linh dương bị giết trong mọi mùa,
gợi ý sự cư trú quanh năm. Làng Abu Hureyra, ở quanh sông Euphrates, là một
trong những khu định cư Natufian được nghiên cứu kỹ lưỡng nhất. Trong thời
gian gần bốn mươi năm các nhà khảo cổ học đã khảo sát các lớp của ngôi làng,
mà cung cấp một trong các thí dụ được tư liệu hóa tốt nhất về cuộc sống định cư
trước và sau canh tác. Khu định cư có lẽ đã bắt đầu vào khoảng năm 9.500 TCN,
và các cư dân đã tiếp tục lối sống săn bắt hái lượm của họ một khoảng thời gian
năm trăm năm nữa trước khi chuyển sang nông nghiệp. Các nhà khảo cổ học đã
ước lượng rằng dân số của làng trước khi canh tác đã là giữa một trăm và ba trăm
người.
Ta có thể nghĩ đủ loại lý do vì sao một xã hội có thể thấy có lợi để sống định
cư. Thường xuyên thay đổi chỗ ở là tốn kém; phải mang trẻ con và người già, và
là không thể để cất trữ thực phẩm cho những lúc đói kém khi di chuyển. Hơn nữa,
các công cụ như đá xay, liềm hái hữu ích cho xử lý các thực phẩm dại, nhưng lại
nặng để mang đi. Có bằng chứng rằng ngay cả những người săn bắt hái lượm đã
cất trữ thực phẩm ở các địa điểm chọn lọc, như các hang. Một sự hấp dẫn của ngô
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 139
là, nó có thể được cất trữ rất dễ, và đấy là lý do then chốt vì sao nó được thâm
canh đến vậy khắp châu Mỹ. Khả năng để giải quyết một cách hiệu quả hơn vấn
đề cất trữ và tích tụ các kho thực phẩm đã phải là một khuyến khích chủ chốt cho
việc chấp nhận cách sống định cư.
Trong khi có thể đáng mong mỏi về mặt tập thể để trở thành người sống định
cư, nhưng điều này không có nghĩa rằng nó nhất thiết xảy ra. Một nhóm di động
của những người săn bắt hái lượm đã phải thống nhất để làm điều này, hay ai đó
đã phải ép buộc họ. Một số nhà khảo cổ học đã gợi ý rằng mật độ dân số tăng lên
và mức sống giảm xuống đã là các yếu tố chủ chốt trong sự nổi lên của cuộc sống
định cư, buộc những người di động ở lại một chỗ. Thế nhưng mật độ dân số của
các địa điểm Natufian đã không lớn hơn mật độ của các nhóm trước đó, cho nên
có vẻ không có bằng chứng về mật độ dân số tăng lên. Bằng chứng xương và răng
cũng không ngụ ý sự xấu đi của sức khỏe. Thí dụ, sự thiếu thực phẩm có xu
hướng tạo ra các đường mỏng trong men răng người, một tình trạng được gọi
thiểu sản men (hypoplasia). Các đường này thực ra ít phổ biến ở những người
Natufian hơn ở những người canh tác muộn hơn.
Quan trọng hơn là lối sống định cư đã có những mặt lợi, nó cũng có các mặt
bất lợi. Giải quyết xung đột có lẽ đã khó hơn nhiều đối với các nhóm định cư, vì
những sự bất hòa đã có thể được giải quyết ít dễ hơn bằng cách một số người hay
nhóm đơn thuần bỏ đi. Một khi người dân đã xây dựng các tòa nhà lâu bền và có
nhiều tài sản hơn mức họ có thể mang, thì bỏ đi đã là một lựa chọn ít hấp dẫn.
Cho nên các làng đã cần những cách hiệu quả hơn để giải quyết xung đột và các
quan niệm tinh vi hơn về tài sản. Các quyết định đã cần được đưa ra về ai có
quyền tiếp cận đến miếng đất gần làng, hay ai được hái quả từ hàng cây nào và
được đánh cá ở phần nào của con suối. Các quy tắc phải được phát triển, và các
thể chế mà tạo ra và thực thi các quy tắc đã phải được thảo ra tỉ mỉ.
Để cho cuộc sống định cư nổi lên, vì thế có vẻ hợp lý rằng những người săn
bắt hái lượm đã bị buộc phải định cư, và việc này đã phải xảy ra sau một sự đổi
mới thể chế tập trung quyền lực vào tay một nhóm mà có thể trở thành elite chính
trị, thực thi các quyền tài sản, duy trì trật tự, và cũng hưởng lợi từ địa vị của họ
bằng cách khai thác các nguồn lực từ phần còn lại của xã hội. Thực vậy, một cuộc
cách mạng tương tự như cuộc đã được nhà Vua Shyaam khở xướng, cho dù ở quy
mô nhỏ hơn, chắc đã là bước đột phá dẫn đến cuộc sống định cư.
140 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Bằng chứng khảo cổ học quả thực gợi ý rằng những người Natufian đã phát
triển một xã hội phức tạp được đặc trưng bởi hệ thống thứ bậc, trật tự, và sự bất
bình đẳng – những sự khởi đầu của cái chúng ta nhận ra như các thể chế khai thác
– một thời gian dài trước khi họ trở thành những người nông dân. Một mẩu bằng
chứng có tính thuyết phục cho hệ thống thứ bậc và sự bất bình đẳng như vậy đến
từ các mộ Natufian. Một số người đã được chôn cất với số lượng lớn đá obsidian
(đá vỏ chai) và vỏ ốc răng (dentalium), mà được lấy từ bờ Địa Trung Hải gần
Mount Carmel. Các loại đồ trang trí khác gồm các vòng đeo cổ, các nịt chân, và
các vòng tay, mà được làm bằng răng chó và đốt ngón chân hươu cũng như vỏ sò
ốc. Những người khác được chôn mà không có các thứ này. Vỏ ốc và cả đá vỏ
chai đã được trao đổi, và việc kiểm soát sự trao đổi này đã khá chắc là một nguồn
của sự tích lũy quyền lực và sự bất bình đẳng. Bằng chứng thêm về sự bất bình
đẳng kinh tế và chính trị đến từ địa điểm Natufian ở Ain Mallaha, ngay bắc biển
Galilee. Giữa một nhóm của khoảng năm mươi lều tròn và nhiều hố, rõ ràng được
dùng để cất trữ, có một tòa nhà lớn được trát vữa một cách tăng cường gần vị trí
trung tâm được dọn quang. Tòa nhà này hầu như chắc chắn đã là nhà của một thủ
lĩnh. Trong số những chỗ mai táng ở địa điểm, một số công phu hơn nhiều, và
cũng có bằng chứng về sự thờ cúng sọ, có lẽ biểu thị sự thờ phụng tổ tiên. Những
sự thờ cúng như vậy là phổ biến ở các địa điểm Natufian, đặc biệt ở Jericho. Sự
trội hơn của bằng chứng từ các địa điểm Natufian gợi ý rằng đấy có lẽ đã là các xã
hội với các thể chế tinh vi xác định sự thừa kế địa vị elite rồi. Họ đã tiến hành
buôn bán với các nơi ở xa và đã có các dạng mới nảy sinh của tôn giáo và các thứ
bậc chính trị.
Sự nổi lên của các elite chính trị rất có thể đã tạo ra sự chuyển đổi đầu tiên
sang cuộc sống định cư và sau đó sang canh tác. Như các địa điểm Natufian cho
thấy, cuộc sống định cư không nhất thiết có nghĩa là canh tác và chăn thả. Người
dân đã có thể định cư nhưng vẫn kiếm sống bằng săn bắt hái lượm. Rốt cuộc Mùa
hè Dài đã làm cho các cây dại dồi dào hơn, và săn bắt hái lượm chắc đã hấp dẫn
hơn. Hầu hết người dân có thể đã khá thỏa mãn với cuộc sống đủ sống dựa trên
săn bắt hái lượm mà đã không đòi hỏi nhiều nỗ lực. Ngay cả sự đổi mới công
nghệ cũng không nhất thiết dẫn đến sự sản xuất nông nghiệp gia tăng. Thực vậy,
được biết rằng một sự đổi mới công nghệ lớn, việc đưa rìu thép vào giữa nhóm
người Thổ dân Australia được biết đến như người Yir Yoront, đã không dẫn đến
sự sản xuất mạnh hơn mà đến việc ngủ nhiều hơn, bởi vì nó cho phép việc thỏa
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 141
mãn những đòi hỏi đủ sống một cách dễ dàng hơn, với ít khuyến khích để làm
việc nhiều hơn.
Cách giải thích truyền thống, dựa vào địa lý, cho cuộc Cách mạng đồ Đá Mới –
cốt lõi của lý lẽ của Jared Diamond, mà chúng ta đã thảo luận ở chương 2 – là, nó
đã được thúc đẩy bởi sự sẵn có tình cờ của nhiều loài thực vật và động vật mà có
thể dễ dàng được thuần hóa. Điều này đã khiến cho canh tác và chăn thả hấp dẫn
và đem lại cuộc sống định cư. Sau khi các xã hội đã trở thành xã hội định cư và
bắt đầu canh tác, họ bắt đầu phát triển hệ thống thứ bậc chính trị, tôn giáo, và các
thể chế phức tạp hơn một cách đáng kể. Mặc dù được chấp nhận rộng rãi, bằng
chứng từ những người Natufian gợi ý rằng cách giải thích truyền thống này đặt
cái xe trước con ngựa. Những thay đổi thể chế đã xảy ra trong các xã hội một thời
gian khá dài trước khi chúng chuyển sang canh tác và có lẽ đã là nguyên nhân của
cả việc chuyển sang sống định cư, mà đã tăng cường những sự thay đổi thể chế,
lẫn của Cách mạng đồ Đá Mới tiếp sau đó. Hình mẫu này được gợi ý không chỉ
bởi bằng chứng từ các vùng Hilly Flank, các vùng được nghiên cứu sâu nhất, mà
cả bởi sự trội hơn của bằng chứng từ châu Mỹ, châu Phi hạ-Sahara, và Đông Á.
Chắc chắn việc chuyển sang canh tác đã dẫn đến năng suất nông nghiệp lớn
hơn và đã cho phép sự bành trướng đáng kể của dân số. Thí dụ, ở các địa điểm
như Jericho và Abu Hureyna, ta thấy rằng làng canh tác ban đầu đã lớn hơn làng
trước canh tác rất nhiều. Nói chung, các làng đã lớn lên từ hai đến sáu lần khi sự
chuyển đổi xảy ra. Hơn nữa, nhiều hệ quả mà người ta đã lập luận một cách
truyền thống như bắt nguồn từ sự chuyển đổi này đã xảy ra một cách chắc chắn.
Đã có sự chuyên môn hóa nghề nghiệp lớn hơn và sự tiến bộ công nghệ nhanh
hơn, và có lẽ sự phát triển của các thể chế chính trị phức tạp hơn và có lẽ ít bình
quân chủ nghĩa hơn. Nhưng liệu việc này có xảy ra tại một nơi cá biệt hay không
đã không được xác định bởi sự sẵn có của các loài thực vật và động vật. Thay vào
đó, nó đã là hệ quả của xã hội đã trải qua các loại đổi mới thể chế, xã hội và chính
trị mà đã cho phép cuộc sống định cư và sau đó sự canh tác nổi lên.
Mặc dù Mùa Hè Dài và sự hiện diện của các loài cây trồng và động vật đã cho
phép việc này xảy ra, nhưng nó đã không xác định một cách chính xác ở đâu và
khi nào nó xảy ra, sau khi khí hậu đã ấm lên. Đúng hơn, việc này đã được xác
định bởi sự tương tác của một bước ngoặt, Mùa Hè Dài, với những sự khác biệt
nhỏ nhưng quan trọng về thể chế. Khi khí hậu ấm lên, một số xã hội, như những
142 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
người Natufian, đã phát triển các yếu tố của các thể chế được tập trung hóa và hệ
thống thứ bậc, mặc dù các yếu tố này đã ở quy mô rất nhỏ so với quy mô của các
nhà nước-quốc gia hiện đại. Như những người Bushong dưới thời Shyaam, các xã
hội đã được tái tổ chức để tận dụng các cơ hội lớn hơn được tạo ra bởi sự tràn
ngập của các thực vật và động vật hoang dã, và không nghi ngờ gì các elite chính
trị những người đã là những người hưởng lợi chính của các cơ hội mới này và của
quá trình tập trung hóa chính trị. Các nơi khác, mà đã có các thể chế chỉ hơi khác
một chút, đã không cho phép các elite chính trị của chúng tận dụng một cách
tương tự bước ngoặt này và tụt lại phía sau quá trình tập trung hóa chính trị và sự
tạo ra các xã hội định cư, nông nghiệp, và phức tạp hơn. Và điều này mở đường
cho một sự phân kỳ tiếp sau thuộc loại chính xác mà chúng ta đã thấy trước đây.
Một khi những sự khác biệt này đã nổi lên, chúng lan ra một số nơi chứ không ra
những nơi khác. Thí dụ, canh tác đã lan ra châu Âu từ Trung Đông vào khoảng
năm 6.500 TCN, phần lớn như một hệ quả của sự di cư của các nông dân. Tại
châu Âu, các thể chế đã trôi dạt xa các phần của thế giới, chẳng hạn như châu Phi,
nơi các thể chế ban đầu đã là khác và nơi những đổi mới được khởi động bởi Mùa
Hè Dài ở Trung Đông đã chỉ xảy ra muộn hơn nhiều, và thậm chí khi đó theo một
dạng khác.
NHỮNG ĐỔI MỚI THỂ CHẾ của những người Natufian, mặc dù chúng rất có
khả năng đã làm nòng cốt cho cuộc Cách mạng đồ Đá Mới, đã không để lại một di
sản đơn giản trong lịch sử thế giới và đã không dẫn một cách không thể lay
chuyển được đến sự thịnh vượng dài hạn của các đất nước ở Israel, Palestine, và
Syria hiện đại. Syria và Palestine là các phần tương đối nghèo của thế giới hiện
đại, và sự thịnh vượng của Israel đã chủ yếu được nhập khẩu bởi sự định cư của
những người Do Thái sau Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai và trình độ giáo dục
cao của họ và sự tiếp cận dễ dàng của họ đến các công nghệ tiên tiến. Sự tăng
trưởng ban đầu của những người Natufian đã không trở thành bền vững vì cùng lý
do mà sự tăng trưởng Soviet đã xẹp xuống. Mặc dù hết sức đáng kể, thậm chí
mang tính cách mạng trong thời của nó, đấy đã là sự tăng trưởng dưới các thể chế
khai thác. Đối với xã hội Natufian cũng đã chắc là, loại tăng trưởng này đã gây ra
các xung đột sâu sắc về ai sẽ kiểm soát các thể chế và sự khai thác mà chúng cho
phép. Đối với mỗi elite được hưởng lợi từ sự khai thác, có một không-elite người
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 143
sẽ thích thay thế anh ta. Đôi khi sự đấu đá nội bộ sẽ thay một elite bằng một elite
khác. Đôi khi nó phá hủy toàn bộ xã hội khai thác, và tháo xích cho một quá trình
sụp đổ nhà nước và xã hội, như nền văn minh hùng vĩ của các thành-quốc Maya
được xây dựng hơn một ngàn năm trước đã trải qua.
SỰ KHAI THÁC KHÔNG ỔN ĐỊNH
Sự canh tác đã nổi lên một cách độc lập ở nhiều nơi quanh thế giới. Ở nơi bây giờ
là Mexico, các xã hội đã hình thành mà thiết lập các nhà nước và các khu định cư,
và đã chuyển sang nông nghiệp. Như với những người Natufian ở Trung Đông, họ
cũng đã đạt mức độ nào đó của sự tăng trưởng kinh tế. Các thành-quốc Maya
trong vùng nam Mexico, Belize, Guatemala, và Tây Honduras thực ra đã xây
dựng một nền văn minh khá tinh vi dưới kiểu riêng của chúng về các thể chế khai
thác. Kinh nghiệm Maya minh họa không chỉ khả năng tăng trưởng dưới các thể
chế khai thác mà cả các giới hạn cơ bản khác của loại tăng trưởng này: sự bất ổn
định chính trị mà nổi lên và cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của cả xã hội, lẫn của
nhà nước, khi các nhóm và những người khác nhau đấu tranh để trở thành những
kẻ khai thác.
Các thành phố Maya đầu tiên đã bắt đầu phát triển vào khoảng năm 500 TCN.
Các thành phố ban đầu này cuối cùng đã phá sản, vào thời gian nào đó trong thế
kỷ đầu tiên sau công nguyên (SCN). Một mô hình chính trị mới đã nổi lên khi đó,
tạo ra nền tảng cho Thời đại Cổ điển, giữa các năm 250 và 900 SCN. Thời kỳ này
đã đánh dấu sự phát triển đầy đủ của văn hóa và nền văn minh Maya. Nhưng nền
văn minh này cũng đã sụp đổ trong tiến trình của sáu trăm năm tiếp theo. Vào thời
của các nhà chinh phục Tây Ban Nha đến trong đầu thế kỷ thứ mười sáu, các đền
thờ và cung điện của các địa điểm Maya như Tikal, Palenque, và Calakmul đã lùi
xa dần vào rừng, và đã không được tái phát hiện ra cho đến thế kỷ mười chín.
Các thành phố Maya đã chưa bao giờ thống nhất thành một đế chế, mặc dù một
số thành phố đã phụ thuộc vào các thành phố khác, và chúng thường có vẻ đã hợp
tác, đặc biệt trong chiến tranh. Mối liên kết chính giữa các thành-quốc của vùng,
mà năm mươi trong số đó chúng ta có thể nhận ra bởi các nét khắc chìm [glyph]
của riêng họ, là, người dân của họ đã nói khoảng ba mươi mốt ngôn ngữ Maya
144 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Những người Maya đã phát triển
một hệ thống chữ viết và có ít nhất mười lăm ngàn câu khắc còn lại mô tả nhiều
khía cạnh của đời sống elite, văn hóa, và tôn giáo. Họ cũng đã có một bộ lịch tinh
vi để nghi ngày tháng được biết đến như lịch Đếm Dài. Nó đã rất giống với lịch
riêng của chúng ta, trong đó nó đếm số năm diễn ra từ một thời điểm cố định và
đã được tất cả các thành phố Maya sử dụng. Lịch Đếm Dài bắt đầu vào năm 3.114
TCN, mặc dù chúng ta không biết người Maya đã gắn cho thời điểm này tầm
quan trọng gì, mà đi trước rất xa sự nổi lên của bất cứ thứ gì giống với xã hội
Maya.
Những người Maya đã là các nhà xây dựng khéo léo những người đã sáng chế
ra xi măng một cách độc lập. Các công trình và những câu khắc của họ cung cấp
thông tin quan trọng về quỹ đạo của các thành phố Maya, vì họ thường đã ghi các
sự kiện được tính niên đại theo lịch Đếm Dài. Ngó ngang qua tất cả các thành phố
Maya, các nhà khảo cổ học như thế đã có thể đếm xem có bao nhiêu tòa nhà được
hoàn tất trong các năm cá biệt. Vào khoảng năm 500 SCN, có ít công trình được
ghi niên đại. Thí dụ, vào năm theo lịch Đếm Dài tương ứng với năm 514 sau công
nguyên, đã chỉ có mười công trình được ghi. Sau đó đã có sự tăng đều đặn, đạt hai
mươi vào năm 672 SCN, và bốn mươi vào giữa thế kỷ thứ tám. Sau đấy số các
công trình được ghi niên đại giảm xuống. Vào thế kỷ thứ chín, nó giảm xuống
mười công trình mỗi năm, và vào thế kỷ thứ mười, xuống zero. Những chữ khắc
ghi niên đại này cho chúng ta bức tranh rõ ràng về sự mở rộng của các thành phố
Maya và sự co lại của chúng sau đó từ cuối thế kỷ thứ tám.
Phân tích này về niên đại có thể được bổ sung bởi việc xem xét danh sách các
vua mà người Maya đã ghi lại. Tại thành phố Maya ở Copán, bây giờ ở miền tây
Honduras, có một công trình nổi tiếng được biết đến như Án Thờ Q. Án Thờ Q
ghi lại tên của tất cả các vua, bắt đầu từ nhà vua sáng lập của triều đại K’inich
Yax K’uk’ Mo’ hay “Vua Mặt trời Xanh chim Quetzal vẹt Macaw Đệ nhất”, được
đặt tên không chỉ theo mặt trời mà cả theo hai loại chim kỳ lạ của rừng Trung Mỹ
mà lông của chúng được người Maya đánh giá rất cao. Vua K’inich Yax K’uk’
Mo’ lên nắm quyền ở Copán vào năm 426 SCN, mà chúng ta biết từ niên đại theo
lịch Đếm Dài được ghi trên Án Thờ Q. Ông đã lập ra triều đại mà đã trị vì trong
bốn trăm năm. Một số người kế vị của K’inich Yax đã có những tên sinh động
ngang thế. Nét khắc chìm của vị vua cai trị thứ mười ba dịch ra là “18 Thỏ”, tiếp
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 145
sau ông là “Khói Khỉ” và rồi đến “Khói Vỏ Sò”, người chết vào năm 763 SCN.
Tên cuối cùng trên án thờ là Vua Yax Pasaj Chan Yoaat, hay “Trời Rạng Sáng
Thần Soi Sáng Đệ nhất”, người đã là nhà cai trị thứ mười sáu của dòng dõi này và
đã lên ngôi khi Khói Vỏ Sò chết. Sau ông chúng ta biết về chỉ một vị vua nữa,
Ukit Took (“Thánh Bảo Trợ Đá Lửa”), từ một mảnh vỡ của một án thờ. Sau Yax
Pasaj, các công trình và các chữ khắc đã ngừng lại, và có vẻ rằng triều đại đã bị
lật đổ không lâu sau. Ukit Took có lẽ đã thậm chí không phải là người có quyền
kế vị thực tế mà chỉ là một người đòi không chính đáng.
Có một cách cuối cùng của việc xem xét bằng chứng này tại Copán, cách được
các nhà khảo cổ học AnnCorinne Freter, Nancy Gonlin, và David Webster phát
triển. Các nhà nghiên cứu này đã trình bày một cách chi tiết sự thăng trầm của
Copán bằng cách xem xét sự trải ra của khu định cư ở Thung lũng Copán trong
một thời kỳ dài 850 năm, từ năm 400 SCN đến năm 1250 SCN, sử dụng một kỹ
thuật được gọi là thủy hóa đá vỏ chai, mà tính hàm lượng nước của đá vỏ chai vào
ngày nó được khai. Một khi được khai, hàm lượng nước giảm theo một tốc độ
được biết, cho phép các nhà khảo cổ học tính tuổi của miếng đá vỏ chai được khai
từ mỏ. Freter, Gonlin và Webster sau đó đã có khả năng để xác định các miếng đá
vỏ chai đã được định tuổi có thể tìm thấy ở đâu trong Thung lũng Copán và lần
theo dấu vết xem thành phố đã được mở rộng và sau đó bị co lại như thế nào. Vì
có thể đưa ra một sự phỏng đoán hợp lý về số các nhà và công trình trong một
vùng cá biệt, có thể ước lượng dân số của thành phố. Trong giai đoạn 400-449
SCN, dân số đã không đáng kể, được ước lượng ở mức khoảng sáu trăm người.
Nó đã tăng đều đặn lên đỉnh điểm hai mươi tám ngàn vào thời kỳ 750-799 SCN.
Mặc dầu con số này có vẻ không lớn theo các tiêu chuẩn đương thời, nhưng đã là
rất đông cho thời kỳ ấy; những con số này hàm ý rằng trong thời kỳ này, Copán
đã có dân số lớn hơn London hay Paris. Các thành phố Maya khác, như Tikal và
Calakmul, không nghi ngờ gì đã lớn hơn nhiều. Phù hợp với bằng chứng này từ
niên đại theo lịch Đếm Dài, năm 800 SCN đã là đỉnh điểm dân số cho Copán. Sau
đỉnh này nó bắt đầu rớt, và vào năm 900 SCN nó đã giảm xuống còn khoảng
mười lăm ngàn người. Từ đó sự giảm sút vẫn tiếp tục, và vào năm 1200 SCN dân
số đã trở lại mức tám trăm năm trước.
Cơ sở cho phát triển kinh tế của Maya Thời Kỳ Cổ Điển đã cũng như cơ sở cho
những người Bushong và Natufian: việc tạo ra các thể chế khai thác với mức độ
146 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
nào đó của sự tập trung hóa nhà nước. Các thể chế này đã có nhiều yếu tố then
chốt. Vào khoảng năm 100 SCN, tại thành phố Tikal ở Guatemala, đã nổi lên một
loại mới của vương quốc triều đại. Một tầng lớp cai trị dựa trên ajaw (chúa hay
nhà cai trị) đã bén rễ với một nhà vua được gọi là k’uhul ajaw (chúa thánh thần)
và, dưới ông, một hệ thống thứ bậc của các quý tộc. Chúa thánh thần đã tổ chức
xã hội với sự hợp tác của các elite này và cũng liên lạc, hiệp thông với các thần.
Trong chừng mực mà chúng ta biết, tập mới này của các thể chế chính trị đã
không cho phép bất cứ loại tham gia nào của dân chúng, nhưng nó đã mang lại sự
ổn định. K’uhul ajaw thu các đồ cống nạp từ các nông dân và đã tổ chức lao động
để xây các công trình vĩ đại, và sự liên kết của các thể chế này đã tạo cơ sở cho
một sự mở rộng kinh tế mạnh mẽ. Nền kinh tế của những người Maya đã dựa trên
một sự chuyên môn hóa nghề nghiệp sâu rộng, với các thợ gốm, thợ dệt, thợ mộc
lành nghề, và những người làm công cụ và đồ trang trí khéo léo. Họ cũng đã trao
đổi đá vỏ chai, da báo, vỏ sò biển, cacao, muối, lông chim giữa họ với nhau và
giữa các chính thể trên những khoảng cách xa ở Mexico. Họ có lẽ cũng đã có tiền,
và giống những người Aztec, đã sử dụng hạt cacao làm tiền.
Cách, mà theo đó Maya Thời Đại Cổ Điển đã dựa vào việc tạo ra các thể chế
chính trị khai thác, là rất giống tình hình của người Bushong, với Yax Ehb’ Xook
ở Tikal đóng vai trò giống như vai trò của Vua Shyaam. Các thể chế chính trị mới
đã dẫn đến một sự tăng đáng kể về thịnh vượng kinh tế, mà phần lớn của nó sau
đó được khai thác bởi elite mới xung quanh k’uhul ajaw. Một khi hệ thống này
được củng cố, vào khoảng năm 300 SCN, tuy vậy, đã có ít sự thay đổi thêm về
công nghệ. Mặc dù, có bằng chứng nào đó về những kỹ thuật thủy lợi và quản lý
nước được cải thiện, công nghệ nông nghiệp đã thô sơ và dường như đã không
thay đổi. Kỹ thuật xây dựng và nghệ thuật đã trở nên tinh vi hơn rất nhiều theo
thời gian, nhưng về tổng thể đã có ít đổi mới.
Đã không có sự phá hủy sáng tạo. Nhưng đã có các hình thức phá hủy khác, vì
sự giàu có mà các thể chế khai thác đã tạo ra cho k’uhul ajaw và elite Maya đã
dẫn đến chiến tranh liên miên, mà đã trở nên tồi tệ hơn theo thời gian. Chuỗi các
xung đột đã được ghi lại trong các dòng chữ khắc Maya, với các nét chìm đặc biệt
cho biết rằng một cuộc chiến tranh đã xảy ra vào một thời điểm cá biệt trong lịch
Đếm Dài. Hành tinh (sao) Kim đã là thiên thể bảo trợ của chiến tranh, và những
người Maya đã coi một số pha của quỹ đạo hành tinh này như đặc biệt thuận lợi
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 147
cho việc tiến hành chiến tranh. Nét [khắc] chìm biểu thị chiến tranh, được biết
như “chiến tranh sao” bởi các nhà khảo cổ học, cho thấy một ngôi sao trút một
chất lỏng, mà có thể là nước hay máu, xuống trái đất. Các dòng khắc cũng tiết lộ
các hình mẫu liên minh và cạnh tranh. Đã có các cuộc tranh giành quyền lực kéo
dài giữa các nhà nước lớn hơn, như Tikal, Calakmul, Copán, và Palenque, và các
nhà nước này đã chinh phục các nhà nước nhỏ hơn đưa chúng vào địa vị chư hầu.
Bằng chứng cho việc này đến từ các nét chìm đánh dấu những sự lên ngôi vua.
Trong thời kỳ này, chúng bắt đầu cho thấy rằng các nhà nước nhỏ hơn bây giờ bị
thống trị bởi nhà nước khác, kẻ cai trị từ bên ngoài.
Bản đồ 10 (trang 148) cho thấy các thành phố Maya chính và các hình mẫu
khác nhau của mối quan hệ giữa chúng như được các nhà khảo cổ học Nikolai
Grube và Simon Martin dựng lại. Các hình mẫu này cho biết rằng mặc dù các
thành phố lớn như Calakmul, Dos Pilas, Piedras Negras, và Yaxchilian đã có các
mối quan hệ ngoại giao rộng, một số thường bị thống trị bởi một số khác và chúng
cũng đã chiến đấu với nhau.
Sự thực áp đảo về sự sụp đổ Maya là, nó trùng với sự lật đổ mô hình chính trị
dựa trên k’uhul ajaw. Chúng ta đã thấy ở Copán rằng sau cái chết của Yax Pasaj
trong năm 810 SCN đã không có thêm vua nào. Vào khoảng thời gian này các
cung điện hoàng gia bị bỏ rơi. Hai mươi dặm về phía bắc Copán, tại thành phố
Quiringuá, nhà vua cuối cùng, Trời Ngọc Thạch, đã lên ngôi vua giữa năm 795 và
800 SCN. Công trình kỷ niệm được ghi niên đại cuối cùng là từ 810 SCN theo
lịch Đếm Dài, cùng năm mà Yax Pasaj chết. Thành phố bị bỏ rơi ngay sau đó.
Khắp khu vực Maya câu chuyện đều giống nhau; các thể chế chính trị mà đã tạo
ra bối cảnh cho sự mở rộng buôn bán, nông nghiệp, và dân số đã biến mất. Các
triều đình hoàng gia đã không hoạt động, các công trình và các đền đài đã không
được tạo ra, và các cung điện bị bỏ trống. Như các thể chế chính trị và xã hội đã
làm sáng tỏ, sự đảo ngược quá trình tập trung hóa nhà nước, nền kinh tế đã co lại
và dân số giảm xuống.
148 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Trong một số trường hợp các trung tâm chính đã sụp đổ do bạo lực lan rộng.
Vùng Petexbatun của Guatemala – nơi các đền thờ lớn sau đó bị phá đổ và đá
được dùng để xây dựng các tường phòng thủ rộng – cung cấp một thí dụ sinh
động. Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, nó đã rất giống với cái đã xảy
ra trong Đế chế La Mã cổ đại. Muộn hơn, ngay cả ở những địa điểm, như Copán,
nơi đã có ít dấu hiệu về bạo lực vào thời gian sụp đổ, nhiều công trình đã bị tẩy
xóa hay bị phá hủy. Ở một số nơi elite vẫn còn thậm chí sau việc lật đổ ban đầu
của k’uhul ajaw. Tại Copán, có bằng chứng về elite tiếp tục dựng lên các tòa nhà
mới trong ít nhất hai trăm năm nữa trước khi chúng cũng đã biến mất. Ở những
nơi khác các elite có vẻ đã biến mất cùng lúc khi chúa thánh thần biến mất.
Bằng chứng khảo cổ học hiện có không cho phép chúng ta đi đến một kết luận
dứt khoát về vì sao k’uhul ajaw và các elite quanh ông ta bị lật đổ và vì sao các
thể chế mà đã tạo ra Maya Thời Kỳ Cổ điển lại sụp đổ. Chúng ta biết việc này đã
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 149
xảy ra trong bối cảnh chiến tranh gia tăng giữa các thành phố, và có vẻ có khả
năng rằng sự chống đối và sự nổi loạn ở bên trong thành phố, có lẽ do phe nhóm
elite khác lãnh đạo, đã lật đổ thể chế.
Mặc dù các thể chế khai thác, mà những người Maya tạo ra, đã làm ra của cải
đủ để cho thành phố thịnh vượng và elite trở nên giàu có và tạo ra nghệ thuật và
các công trình kỷ niệm tuyệt vời, hệ thống đã không ổn định. Các thể chế khai
thác mà trên đó elite hẹp này cai trị đã tạo ra sự bất bình đẳng sâu rộng, và như
thế tạo ra tiềm năng cho sự đấu đá nội bộ giữa những người có thể hưởng lợi từ
của cải được khai thác từ nhân dân. Sự xung đột này cuối cùng đã dẫn đến sự phá
hủy nền văn minh Maya.
HỎNG CÁI GÌ?
Các thể chế khai thác là rất phổ biến trong lịch sử bởi vì chúng có một logic mạnh
mẽ: chúng có thể tạo ra sự thịnh vượng hạn chế nào đó trong khi đồng thời phân
phối nó vào tay của một giới elite nhỏ. Để cho sự tăng trưởng này xảy ra, phải có
sự tập trung hóa chính trị. Một khi việc này đã xảy ra, nhà nước – hay elite kiểm
soát nhà nước – có các khuyến khích để đầu tư và tạo ra của cải, cổ vũ những
người khác đầu tư để cho nhà nước có thể khai thác các nguồn lực từ họ, và thậm
chí bắt chước một vài trong số các quá trình mà bình thường được khởi động bởi
các thể chế kinh tế bao gồm và các thị trường. Trong các nền kinh tế đồn điền ở
Caribe, các thể chế khai thác đã có dạng của elite cưỡng bức các nô lệ sản xuất
đường. Tại Liên Xô, các thể chế khai thác đã có dạng của Đảng Cộng Sản phân
bổ lại các nguồn lực từ nông nghiệp sang công nghiệp và sắp đặt loại nào đó của
các khuyến khích cho các nhà quản lý và công nhân. Như chúng ta đã thấy, các
khuyến khích như vậy đã bị bản chất của hệ thống làm xói mòn.
Tiềm năng tạo ra tăng trưởng khai thác tạo một lực đẩy cho việc tập trung
chính trị và là lý do vì sao Vua Shyaam đã muốn tạo ra Vương quốc Kuba, và
chắc cung cấp các lời giải thích vì sao những người Natufian ở Trung Đông đã
thiết lập một dạng thô sơ của luật và trật tự, hệ thống thứ bậc, và các thể chế khai
thác mà cuối cùng đã dẫn đến Cách mạng đồ Đá Mới. Các quá trình tương tự chắc
cũng đã là nòng cốt cho sự nổi lên của các xã hội định cư và sự chuyển đổi sang
150 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
nông nghiệp ở châu Mỹ, và đã có thể thấy trong nền văn minh tinh vi mà những
người Maya đã xây dựng trên nền tảng được sắp đặt bởi các thể chế hết sức khai
thác cưỡng bức số đông làm lợi cho số ít các elite.
Tuy vậy, sự tăng trưởng được tạo ra bởi các thể chế khai thác về bản chất là rất
khác với sự tăng trưởng được tạo ra dưới các thể chế bao gồm. Quan trọng nhất,
nó không bền vững. Do chính bản chất của chúng, các thể chế khai thác không
khuyến khích sự phá hủy sáng tạo và tạo ra nhiều nhất chỉ một mức độ hạn chế
của tiến bộ công nghệ. Sự tăng trưởng mà chúng tạo ra vì thế kéo dài chỉ lâu
dường ấy. Kinh nghiệm Soviet cho một minh họa sống động về giới hạn này.
Nước Nga Soviet đã tạo ra sự tăng trưởng nhanh vì nó đã nhanh chóng đuổi kịp
một số công nghệ tiên tiến trên thế giới, và các nguồn lực đã được tái phân bổ từ
khu vực nông nghiệp hết sức kém hiệu quả sang công nghiệp. Nhưng cuối cùng
các khuyến khích trong mọi khu vực, từ nông nghiệp đến công nghiệp, đã không
kích thích sự tiến bộ công nghệ. Việc này đã xảy ra chỉ ở vài ổ nơi các nguồn lực
được đổ vào và nơi sự đổi mới được tưởng thưởng mạnh mẽ bởi vì vai trò của nó
trong cạnh tranh với phương Tây. Sự tăng trưởng Soviet, dẫu nhanh đến đâu, đã
nhất thiết là tương đối ngắn ngủi, và nó đã hụt hơi rồi vào các năm 1970.
Thiếu sự phá hủy sáng tạo và đổi mới không phải là lý do duy nhất vì sao có
những giới hạn khắc nghiệt cho sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác. Lịch sử
của các thành-quốc Maya minh họa một sự kết thúc đáng ngại hơn và, than ôi,
phổ biến hơn, lại do logic nội tại của các thể chế khai thác gây ra. Vì các thể chế
này tạo ra những lợi lộc đáng kể cho elite, sẽ có khuyến khích mạnh mẽ đối với
những người khác để chiến đấu thay thế elite hiện thời. Sự đấu đá nội bộ và sự bất
ổn định, như thế là các đặc điểm vốn có của các thể chế khai thác và chúng không
chỉ gây ra thêm những sự kém hiệu quả mà thường cũng đảo ngược bất cứ sự tập
trung chính trị nào, đôi khi thậm chí dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của luật và trật
tự và sa vào hỗn loạn, như các thành-quốc Maya đã trải qua tiếp sau thành công
tương đối của họ trong Thời Kỳ Cổ Điển.
Mặc dù bị hạn chế một cách cố hữu, tăng trưởng dưới các thể chế khai thác tuy
vậy có thể tỏ ra ngoạn mục khi nó trong chuyển động. Nhiều người ở Liên Xô, và
còn nhiều người hơn ở thế giới phương Tây đã bị kinh sợ bởi sự tăng trưởng
Soviet trong các năm 1920, 30, 40, 50, 60, và thậm chí mãi đến các năm 1970,
theo cùng cách mà chúng ta bị mê hoặc bởi nhịp độ chóng mặt của sự tăng trưởng
TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 151
kinh tế ở Trung Quốc hiện nay. Nhưng như chúng ta sẽ thảo luận chi tiết trong
chương 15, Trung Quốc dưới sự cai trị của Đảng Cộng Sản là một thí dụ khác về
xã hội trải qua sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác và một cách tương tự
không chắc sẽ tạo ra sự tăng trưởng bền vững trừ phi nó trải qua một sự biến đổi
chính trị cơ bản theo hướng các thể chế chính trị bao gồm.
6.
TRÔI DẠT XA RA
VENICE ĐÃ TRỞ THÀNH BẢO TÀNG NHƯ THẾ NÀO
HÓM CÁC ĐẢO tạo thành Venice nằm ở niềm cực bắc Biển Adriatic.
Trong Thời Trung Cổ, Venice có lẽ đã là nơi giàu nhất thế giới, với bộ tiên
tiến nhất của các thể chế kinh tế bao gồm, do tính bao gồm chính trị mới nảy sinh
làm nòng cốt. Nó được độc lập vào năm 810 SCN, vào lúc hóa ra là một thời tình
cờ. Nền kinh tế châu Âu đang phục hồi từ sự sa sút mà nó đã phải chịu vì sự sụp
đổ của Đế chế La Mã, và các vua như Charlemagne đang tổ chức lại quyền lực
chính trị tập trung mạnh. Việc này đã dẫn đến sự ổn định, sự an toàn lớn hơn, và
một sự mở rộng thương mại, mà Venice đã ở vị thế độc nhất vô nhị để tận dụng.
Nó đã là quốc gia của các thủy thủ, nằm đúng giữa Địa Trung Hải. Hàng hóa đến
từ phương Đông là gia vị, các hàng hóa chế tác Byzantine và nô lệ. Venice đã trở
nên giàu có. Vào năm 1050, khi Venice đã được mở rộng rồi về mặt kinh tế trong
ít nhất một thế kỷ, nó đã có dân số 45.000 người. Con số này đã tăng 50 phần
trăm lên 70.000 người vào năm 1200. Vào năm 1330 dân số lại tăng thêm 50 phần
trăm lên 110.000 người; Venice thời đó đã lớn như Paris, và có lẽ bằng ba lần
London.
Một trong những cơ sở then chốt cho sự mở rộng kinh tế của Venice đã là một
loạt những đổi mới về hợp đồng làm cho các thể chế kinh tế mang tính bao gồm
hơn nhiều. Đổi mới nổi tiếng nhất đã là commenda, một loại sơ đẳng của công ty
cổ phần, mà đã hình thành chỉ trong thời gian của một thương vụ duy nhất. Một
commenda bao gồm hai đối tác, một đối tác “tĩnh tại” ở lại Venice, và một đối tác
chu du. Đối tác tĩnh tại bỏ vốn vào vụ kinh doanh mạo hiểm, trong khi đối tác chu
du áp tải hàng hóa. Một cách điển hình, đối tác tĩnh tại bỏ phần lớn vốn. Các
doanh nhân trẻ mà bản thân họ không có của cải, khi đó đã có thể tham gia vào
kinh doanh thương mại bằng cách đi áp tải hàng hóa. Nó đã là kênh chủ chốt để
thăng tiến về mặt xã hội. Bất cứ thiệt hại nào xảy ra trong chuyến buôn được chia
N
TRÔI DẠT XA RA ● 153
theo tỷ lệ vốn góp. Nếu chuyến buôn có lời, lợi nhuận dựa vào hai loại hợp đồng
commenda. Nếu commenda là đơn phương, thì đối tác tĩnh tại bỏ 100 phần trăm
vốn và hưởng 75 phần trăm lợi nhuận. Nếu hợp đồng là song phương, đối tác tĩnh
tại bỏ 67 phần trăm vốn và hưởng 50 phần trăm lợi nhuận. Nghiên cứu các tài liệu
chính thức, ta thấy commenda đã là một lực mạnh đến thế nào trong cổ vũ sự
thăng tiến về mặt xã hội: những tài liệu này đầy các tên mới, những người trước
đó đã không thuộc về giới elite ở Venice. Trong các tài liệu của chính phủ trong
các năm 960, 971, và 982 SCN, số tên mới chiếm một cách tương ứng 69 phần
trăm, 81 phần trăm, và 65 phần trăm của những người được ghi chép.
Tính bao gồm kinh tế này và sự trỗi dậy của các gia đình mới thông qua
thương mại đã buộc hệ thống chính trị trở nên thậm chí mở hơn. Tổng trấn, người
điều hành Venice, được Đại Hội (General Assembly) bầu suốt đời. Mặc dù là một
đại hội của tất cả công dân, trên thực tế Đại Hội bị thống trị bởi một nhóm cốt lõi
gồm các gia đình hùng mạnh. Mặc dù tổng trấn đã rất hùng mạnh, quyền lực của
ông đã bị giảm từ từ theo thời gian bởi những thay đổi về thể chế chính trị. Sau
năm 1032, tổng trấn được bầu cùng với một Hội đồng Công tước (Ducal Council)
mới được lập ra, mà công việc của nó cũng là để đảm bảo tổng trấn không nắm
được quyền lực tuyệt đối. Tổng trấn đầu tiên bị hội đồng này bao vây, Domenico
Flabianico, đã là một nhà buôn tơ lụa giàu có từ một gia đình mà trước đó đã
không giữ chức cao. Sự thay đổi thể chế này được kế tiếp bởi một sự mở rộng to
lớn của thương mại và sức mạnh hải hải quân Venice. Trong năm 1082, Venice đã
được ban những đặc quyền rộng rãi tại Constantinople, và một khu Venice đã
được lập ra ở thành phố đó. Nó mau chóng trở thành chỗ ở cho mười ngàn người
Venice. Ở đây chúng ta thấy các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm bắt đầu hoạt
động cùng nhau.
Sự mở rộng kinh tế của Venice, mà đã tạo ra áp lực nhiều hơn cho thay đổi
chính trị, đã bùng nổ sau những thay đổi về thể chế chính trị và kinh tế tiếp sau vụ
ám sát tổng trấn năm 1171. Đổi mới quan trọng đầu tiên đã là việc tạo ra một Đại
Hội Đồng (Great Council), mà trở thành nguồn cuối cùng của quyền lực chính trị
ở Venice từ thời điểm này trở đi. Hội đồng được cấu thành từ các viên chức trong
nhà nước Venice, như các thẩm phán, và đã bị áp đảo bởi các nhà quý tộc. Ngoài
các viên chức này ra, mỗi năm một trăm thành viên mới được chỉ định vào hội
đồng bởi một ủy ban bổ nhiệm mà bốn thành viên ủy ban được lựa chọn bằng
154 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
cách rút thăm từ hội đồng hiện tại. Hội đồng sau đó cũng chọn thành viên cho hai
tiểu hội đồng, Thượng viện và Hội đồng Bốn Mươi, mà đã có các nhiệm vụ lập
pháp và hành pháp khác nhau. Đại Hội Đồng cũng chọn ra Hội đồng Công tước,
mà đã được mở rộng từ hai đến sáu thành viên. Đổi mới thứ hai là việc thành lập
một hội đồng nữa, được Đại Hội Đồng chọn bằng cách rút thăm, để bổ nhiệm
tổng trấn. Mặc dù, sự lựa chọn phải được Đại Hội phê chuẩn, vì họ đề cử bổ
nhiệm một người duy nhất, việc này thực ra trao quyền lựa chọn tổng trấn cho hội
đồng. Đổi mới thứ ba đã là, tổng trấn mới phải tuyên thệ nhậm chức mà hạn chế
quyền lực công tước [của ông]. Theo thời gian các hạn chế này đã được mở rộng
đến mức các tổng trấn tiếp theo đã phải tuân theo các thẩm phán, rồi phải để Hội
đồng Công tước phê chuẩn mọi quyết định của mình. Hội đồng Công tước cũng
đã nắm vai trò để đảm bảo rằng tổng trấn tuân theo tất cả các quyết định của Đại
Hội Đồng.
Những cải cách chính trị này đã dẫn đến một loạt nữa của những đổi mới thể
chế: về luật, việc tạo ra các thẩm phán độc lập, các tòa án, tòa thượng thẩm, và
hợp đồng tư nhân mới và luật phá sản. Các thể chế kinh tế mới này của Venice đã
cho phép tạo ra các hình thức kinh doanh hợp pháp mới và các loại hợp đồng mới.
Đã có một sự đổi mới tài chính nhanh chóng, và chúng ta thấy sự khởi đầu của
hoạt động ngân hàng hiện đại quanh thời gian này ở Venice. Venice năng động
đang tiến tới các thể chế hoàn toàn bao gồm đã có vẻ là không thể ngăn được.
Nhưng đã có một sự căng thẳng trong tất cả chuyện này. Sự tăng trưởng kinh
tế được ủng hộ bởi các thể chế bao gồm của Venice đã đi cùng với sự phá hủy
sáng tạo. Mỗi làn sóng mới của những thanh niên táo bạo những người trở nên
giàu có qua commenda hay các thể chế kinh tế tương tự đã có xu hướng làm giảm
lợi nhuận và thành công kinh tế của các elite có uy quyền đã được thiết lập. Và
những người mới này đã không chỉ làm giảm lợi nhuận của họ mà cũng thách
thức quyền lực chính trị của họ. Như thế đã luôn luôn có một sự cám dỗ, nếu họ
có thể thoát khỏi nó, cho các elite hiện hành đang ngồi trong Đại Hội Đồng để
đóng cửa hệ thống đối với những người mới này.
Ngay từ khi thành lập Đại Hội Đồng, tư cách thành viên được xác định mỗi
năm. Như chúng ta đã thấy, vào cuối mỗi năm, bốn thành viên được chọn một
cách ngẫu nhiên để chỉ định một trăm thành viên cho năm tiếp theo, những người
được chọn một cách tự động. Ngày 3-10-1286, một kiến nghị được đệ trình cho
TRÔI DẠT XA RA ● 155
Đại Hội Đồng rằng các quy tắc được sửa đổi sao cho các việc chỉ định phải được
phê chuẩn bởi đa số của Hội đồng Bốn mươi, mà được kiểm soát chặt chẽ bởi các
gia đình elite. Việc sửa đổi này sẽ cho giới elite này quyền phủ quyết đối với
những sự bổ nhiệm mới vào hội đồng, quyền mà trước kia họ đã không có. Kiến
nghị đã bị đánh bại. Ngày 5-10-1286, một kiến nghị khác được đệ trình; lần này
nó được thông qua. Kể từ đó trở đi đã có sự xác nhận tự động của một cá nhân
nếu bố và ông của người đó đã phục vụ trong hội đồng. Khác đi, thì đòi hỏi sự xác
nhận của Hội đồng Công tước. Ngày 17 tháng Mười, một sự thay đổi khác về quy
tắc đã được thông qua, quy định rằng một sự bổ nhiệm vào Đại Hội Đồng phải
được sự chuẩn y của Hội đồng Bốn mươi, tổng trấn và Hội đồng Công tước.
Các cuộc tranh luận và những sửa đổi hiến pháp của năm 1286 đã báo trước La
Serrata (“Sự Đóng cửa”) của Venice. Tháng Hai 1297, đã được quyết định rằng
nếu bạn đã là thành viên của Đại Hội Đồng trong bốn năm trước, bạn nhận được
sự bổ nhiệm và chuẩn y tự động. Những sự bổ nhiệm mới bây giờ phải được Hội
đồng Bốn mươi phê chuẩn, nhưng chỉ với mười hai phiếu. Sau 11-9-1298 các
thành viên hiện thời và gia đình họ không còn cần xác nhận nữa. Đại Hội Đồng
trên thực tế bây giờ đã bị gắn xi lại đối với người ngoài, và những người giữ chức
ban đầu đã trở thành một tầng lớp quý tộc kế truyền. Dấu xi cho việc này đã đến
vào năm 1315, với Libro d’Oro (“Sách Vàng”), mà là nơi đăng ký chính thức của
giới quý tộc Venice.
Những người ngoài giới quý tộc mới sinh này đã không để quyền lực của họ bị
xói mòn mà không có sự chiến đấu. Những căng thẳng chính trị đã tăng lên đều
đặn ở Venice giữa 1297 và 1315. Đại Hội Đồng đã phản ứng lại một phần bằng
cách làm cho nó lớn hơn. Trong một nỗ lực để bầu các đối thủ lớn tiếng nhất vào,
nó đã phát triển từ 450 lên 1.500. Sự mở rộng này đã được bổ sung bằng đàn áp.
Một lực lượng cảnh sát đã được đưa vào lần đầu tiên trong năm 1310, và đã có sự
gia tăng đều đặn về áp bức nội địa, không nghi ngờ gì như một cách để củng cố
trật tự chính trị mới.
Sau khi đã thực hiện một Serrata chính trị, rồi Đại Hội Đồng chuyển sang chấp
nhận một Serrata kinh tế. Việc chuyển sang các thể chế chính trị khai thác bây
giờ được tiếp theo bởi bước đi theo hướng các thể chế kinh tế khai thác. Quan
trọng nhất họ đã cấm việc sử dụng hợp đồng commenda, một trong những đổi mới
thể chế vĩ đại mà đã làm cho Venice giàu có. Điều này không ngạc nhiên:
156 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
commeda đã làm lợi cho các thương gia mới, và bây giờ elite đã được củng cố
muốn loại trừ họ ra. Đấy đã chỉ là một bước theo hướng các thể chế kinh tế khai
thác hơn. Một bước khác đến khi, bắt đầu từ năm 1314, nhà nước Venice bắt đầu
tiếp quản và quốc hữu hóa thương mại. Nó đã tổ chức các thuyền galley của nhà
nước để làm thương mại và, từ 1324 trở đi, bắt đầu đánh các mức thuế cao những
cá nhân muốn làm thương mại. Thương mại đường dài đã trở thành việc riêng của
giới quý tộc. Đấy là khởi đầu của sự kết thúc thịnh vượng của Venice. Với các
ngành kinh doanh chính bị độc quyền hóa bởi giới elite ngày càng hẹp, sự sa sút
đang tiến triển. Venice có vẻ đã sắp sửa trở thành xã hội bao gồm đầu tiên của thế
giới, nhưng nó đã bị rơi một cú [bị đảo chính]. Các thể chế chính trị và kinh tế trở
nên khai thác hơn, và Venice đã bắt đầu trải qua sự suy tàn kinh tế. Vào năm 1500
dân số đã sụt xuống còn một trăm ngàn người. Giữa 1650 và 1800, khi dân số của
châu Âu đã tăng nhanh, dân số của Venice đã co lại.
Ngày nay hoạt động kinh tế duy nhất mà Venice có, bên cạnh một chút nghề
cá, là du lịch. Thay cho đi tiên phong mở các con đường buôn bán và các thể chế
kinh tế, những người Venice làm pizza và kem và thổi thủy tinh màu cho các đám
người nước ngoài. Khách du lịch đến Venice để xem các kỳ quan trước-Serrata
của Venice, như Dinh Tổng trấn và các con sư tử của Nhà thờ St. Mark, mà đã
được cướp từ Byzantium khi Venice cai trị vùng Địa Trung hải. Từ một cường
quốc Venice đã biến thành một viện bảo tàng.
TRONG CHƯƠNG NÀY chúng ta tập trung vào sự phát triển lịch sử của các thể
chế ở các phần khác nhau của thế giới và giải thích vì sao chúng đã tiến hóa theo
những cách khác nhau. Chúng ta đã thấy trong chương 4 các thể chế của Tây Âu
đã phân kỳ ra sao với các thể chế của Đông Âu và sau đó các thể chế của nước
Anh đã phân kỳ thế nào khỏi các thể chế của các nước còn lại của Tây Âu. Đấy đã
là hệ quả của những khác biệt nhỏ về thể chế, chủ yếu như kết quả từ một sự trôi
dạt thể chế tương tác với các bước ngoặt. Có thể cám dỗ khi đó để nghĩ rằng
những sự khác biệt thể chế này là đỉnh của một tảng băng lịch sử sâu, nơi dưới
mặt nước chúng ta thấy các thể chế Anh và Âu châu trôi dạt một cách không thể
lay chuyển nổi khỏi các thể chế ở các nơi khác, dựa trên các sự kiện lịch sử truy
nguyên lại hàng ngàn năm. Phần còn lại, như họ nói, là lịch sử.
TRÔI DẠT XA RA ● 157
Ngoại trừ rằng nó không phải vậy, vì hai lý do. Thứ nhất, các bước tiến đến
các thể chế bao gồm, như tường thuật của chúng ta về Venice cho thấy, có thể bị
đảo ngược. Venice đã trở nên phồn vinh. Nhưng các thể chế chính trị và kinh tế
của nó bị lật đổ, và sự thịnh vượng đó đảo ngược. Ngày nay Venice giàu chỉ bởi
vì những người kiếm được thu nhập của họ ở nơi khác chọn tiêu ở đó để thán
phục vẻ huy hoàng của quá khứ của nó. Sự thực rằng các thể chế bao gồm có thể
đảo ngược cho thấy rằng không có một quá trình tích tụ đơn giản của sự cải thiện
thể chế.
Thứ hai, những sự khác biệt nhỏ về thể chế mà đóng vai trò cốt yếu trong các
bước ngoặt, do bản chất của chúng là phù du. Bởi vì chúng là nhỏ, chúng có thể
đảo ngược, rồi lại có thể xuất hiện lại và bị đảo ngược lại một lần nữa. Chúng ta
sẽ thấy trong chương này rằng, ngược với cái ta có thể kỳ vọng từ các lý thuyết
địa lý hay văn hóa, nước Anh, nơi bước quyết định đến các thể chế bao gồm xảy
ra trong thế kỷ thứ mười bảy, đã là một nơi ao tù nước đọng, không chỉ trong
hàng ngàn năm tiếp sau Cách mạng đồ Đá Mới ở Trung Đông mà cả vào đầu của
Thời Trung Cổ, tiếp sau sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã. Các hòn đảo Anh đã
không đáng kể đối với Đế chế La Mã, chắc chắn ít quan trọng hơn Tây Âu lục địa,
Bắc Phi, vùng Balkan, Constantinople, hay Trung Đông. Khi Đế chế Tây La Mã
sụp đổ trong thế kỷ thứ năm sau công nguyên, Anh đã chịu sự suy tàn toàn diện
nhất. Nhưng các cuộc cách mạng mà cuối cùng đã mang lại Cách mạng Công
nghiệp đã xảy ra không phải ở Italy, Thổ Nhĩ Kỳ, hay thậm chí ở tây Âu lục địa,
mà là ở các hòn đảo Anh.
Trong việc hiểu con đường đến Cách mạng Công nghiệp của nước Anh và các
nước đi theo nó, di sản của La Mã (Rome) tuy vậy là quan trọng vì nhiều lý do.
Thứ nhất, La Mã, giống Venice, đã trải qua những đổi mới thể chế ban đầu trọng
đại. Như ở Venice, thành công kinh tế ban đầu của La Mã đã dựa trên các thể chế
bao gồm – chí ít theo tiêu chuẩn của thời ấy. Như ở Venice, các thể chế này đã trở
nên khai thác hơn một cách dứt khoát theo thời gian. Với La Mã, điều này đã là
hệ quả của sự thay đổi từ chế độ Cộng Hòa (510 TCN – 49 TCN) sang Đế chế (49
TCN – 476 SCN). Cho dù trong thời kỳ Cộng hòa, La Mã đã xây dựng một đế chế
bề thế, và buôn bán đường dài và giao thông đã hưng thịnh, phần lớn nền kinh tế
La Mã đã dựa trên sự khai thác. Sự chuyển đổi từ cộng hòa sang đến chế đã làm
158 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
tăng sự khai thác và cuối cùng đã dẫn đến loại đấu đá nội bộ, bất ổn định, và sụp
đổ mà chúng ta đã thấy với các thành-quốc Maya.
Thứ hai và quan trọng hơn, chúng ta sẽ thấy rằng sự phát triển thể chế tiếp theo
của Tây Âu, mặc dù đã không là một sự thừa kế trực tiếp của La Mã, đã là một hệ
quả của các bước ngoặt mà đã phổ biến khắp khu vực theo sau sự sụp đổ của Đế
chế Tây La Mã. Các bước ngoặt đã có ít sự giống nhau ở các phần khác của thế
giới, như châu Phi, châu Á, hay châu Mỹ, mặc dù chúng ta cũng chứng tỏ thông
qua lịch sử Ethiopia rằng khi các nơi khác có trải qua các bước ngoặt tương tự,
đôi khi chúng phản ứng lại theo những cách giống nhau một cách rõ rệt. Sự suy
sụp La Mã đã dẫn đến chủ nghĩa phong kiến, mà, như một sản phẩm phụ, đã làm
cho chế độ nô lệ teo đi, đã tạo ra các thành phố nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của
các quốc vương và các quý tộc, và trong quá trình tạo ra một bộ các thể chế nơi
quyền lực chính trị của những kẻ cai trị bị yếu đi. Chính là trên nền tảng phong
kiến này mà Cái Chết Đen tạo ra sự tàn phá và củng cố thêm các thành phố độc
lập và các nông dân gây thiệt hại cho các vua, các quý tộc, và các địa chủ lớn. Và
chính là trên cái nền này mà các cơ hội được tạo ra bởi thương mại Đại Tây
Dương đang diễn ra. Nhiều phần của thế giới đã không trải qua những thay đổi
này, và vì thế đã trôi dạt xa ra.
CÁC ĐỨC HẠNH LA MÃ …
Người bảo vệ dân thường La Mã, Tiberius Gracchus, đã bị đánh bằng gậy đến
chết vào năm 133 TCN bởi các thượng nghị sĩ La Mã và xác ông đã bị quẳng
xuống sông Tiber không có nghi thức nào. Những người giết ông đã là các quý
tộc giống như bản thân Tiberius, và vụ ám sát đã được lên kế hoạch bởi người em
họ của ông, Publius Cornelius Scipio Nasica. Tiberius Gracchus đã có một dòng
dõi quý tộc hoàn hảo như một hậu duệ của một số lãnh đạo lừng danh của Cộng
hòa La Mã, kể cả Lucius Aemillius Paullus, anh hùng của các cuộc chiến tranh
Illyrian và Punic thứ Hai, và Scipio Africanus, vị tướng đã đánh bại Hannibal
trong Chiến tranh Punic thứ Hai. Vì sao các thượng nghĩ sĩ hùng mạnh của thời
ông, ngay cả em họ của ông, đã quay lại chống ông?
TRÔI DẠT XA RA ● 159
Câu trả lời cho ta biết nhiều về những căng thẳng trong Cộng hòa La Mã và
các nguyên nhân của sự suy sụp sau đó của nó. Cái khiến cho Tiberius đọ sức với
các thượng nghị sĩ hùng mạnh này đã là sự sẵn sàng của ông để đứng lên chống
lại họ trong một vấn đề cốt yếu của thời đó: sự phân bổ đất và các quyền của
những dân thường (plebeian), các công dân La Mã bình thường.
Vào thời của Tiberius Gracchus, La Mã là một nền cộng hòa đã có từ lâu. Các
thể chế chính trị của nó và các đức hạnh của những người lính-công dân La Mã –
như được thể hiện bởi bức tranh nổi tiếng, Lời thề của nhà Horatii, của Jacques-
Louis David, mà cho thấy những người con thể với cha mình rằng họ sẽ bảo vệ
Cộng Hòa La Mã đến hơi thở cuối cùng – vẫn được nhiều sử gia coi như nền tảng
thành công của nền cộng hòa. Các công dân La Mã đã lập ra nền cộng hòa bằng
cách lật đổ vua của họ, Lucius Tarquinius Superbus, được biết đến như Tarquin
người Tự hào, vào khoảng 510 TCN. Nền cộng hòa đã thiết kế một cách tài tình
các thể chế chính trị của nó với nhiều yếu tố bao gồm. Nó được cai trị bởi các
quan viên (magistrate) được bầu cho một năm. Sự thực rằng chức vụ quan viên
được bầu chọn hàng năm, và nhiều người đồng thời giữ chức ấy đã làm giảm khả
năng của bất cứ một cá nhân nào để củng cố hay lạm dụng quyền lực của mình.
Các thể chế của nền cộng hòa đã chứa một hệ thống kiểm soát và cân bằng mà đã
phân phối quyền lực một cách khá rộng. Điều này đã là thế cho dù không phải tất
cả công dân đã có sự đại diện ngang nhau, vì việc bỏ phiếu đã là gián tiếp. Cũng
đã có rất nhiều nô lệ thiết yếu cho việc sản xuất ở phần lớn Italy, có lẽ chiếm đến
một phần ba dân số. Các nô lệ tất nhiên chẳng có quyền gì, nói chi đến sự đại diện
chính trị.
Dẫu sao, như ở Venice, các thể chế chính trị La Mã đã có các yếu tố đa
nguyên. Các dân thường đã có đại hội riêng của họ được gọi là Đại Hội Dân
Thường (Plebeian Assembly), mà đã có thể bầu ra người bảo vệ dân thường
(plebeian tribune) của mình, người có quyền phủ quyết các hành động của các
quan viên. Chính các dân thường đã đưa Tiberius Gracchus lên nắm quyền của
người bảo vệ dân thường trong năm 133 TCN. Sức mạnh của họ đã được rèn bởi
“sự ly khai”, một dạng đình công của dân thường, đặc biệt của binh lính, những
người có thể bỏ đi đến một quả đồi ở bên ngoài thành phố và từ chối hợp tác với
các quan viên cho đến khi những khiếu nại của họ được giải quyết. Sự đe dọa này
tất nhiên là đặc biệt quan trọng trong thời chiến. Được cho rằng chính trong một
160 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
sự ly khai như vậy vào thế kỷ thứ năm trước công nguyên mà các công dân đã có
được quyền để bầu người bảo vệ của họ và thông qua các luật để cai quản cộng
đồng của mình. Sự bảo vệ chính trị và pháp lý của họ, cho dù bị hạn chế theo các
tiêu chuẩn hiện thời của chúng ta, đã tạo ra các cơ hội kinh tế cho các công dân và
một mức độ bao gồm nào đó trong các thể chế kinh tế. Kết quả là, thương mại
khắp vùng Địa Trung Hải đã hưng thịnh dưới Nền cộng hòa La Mã. Bằng chứng
khảo cổ học gợi ý rằng trong khi đa số công dân và nô lệ đã sống không cao hơn
mức tồn tại qua ngày là mấy, thì nhiều người La Mã, kể cả một số công dân
thường, đã đạt thu nhập cao, với sự tiếp cận đến các dịch vụ công như hệ thống
thoát nước và đèn đường của thành phố.
Hơn nữa, có bằng chứng rằng cũng đã có sự tăng trưởng kinh tế nào đó ở Cộng
hòa La Mã. Chúng ta có thể theo dõi sự thịnh vượng kinh tế của Cộng hòa La Mã
từ các vụ đắm tàu. Đế chế mà những người La Mã xây dựng theo một nghĩa nào
đó đã là một mạng lưới các thành phố cảng – từ Athens, Antioch, và Alexandria ở
phía đông; qua Rome, Carthage, và Cadiz; suốt lộ trình đến London ở cực tây.
Khi các lãnh thổ La Mã mở rộng, thương mại và đội tàu cũng thế, mà có thể tìm
thấy dấu vết từ các vụ đắm tàu được các nhà khảo cổ học tìm thấy dưới đáy Địa
Trung Hải. Các xác tàu đắm này có thể được định niên đại bằng nhiều cách. Các
tàu thường chở các vò hai quai chứa đầy rượu hay dầu ô liu, được chuyển từ Italy
sang Gaul, hay dầu ô liu Tây Ban Nha để bán hay phát không ở Rome. Các vò hai
quai, là các bình làm bằng đất sét nung được gắn xi, thường chứa thông tin về ai
đã làm ra chúng và làm khi nào. Ngay gần sông Tiber ở Rome có một quả núi
nhỏ, Monte Testaccio, cũng được biết đến như Monte dei Cocci (“Núi Gốm”),
được tạo thành bởi khoảng năm mươi ba triệu vò hai quai. Khi các vò được dỡ
xuống từ các tàu, chúng được bỏ lại, trong hàng thế kỷ đã tạo thành một quả đồi
lớn.
Các hàng hóa khác trên tàu và bản thân chiếc tàu đôi khi có thể được định niên
đại bằng sử dụng phương pháp carbon phóng xạ, một kỹ thuật mạnh được các nhà
khảo cổ học sử dụng để xác định tuổi của các di vật hữu cơ. Các thực vật tạo ra
năng lượng bằng quang hợp, mà sử dụng năng lượng mặt trời để biến carbon
dioxite thành đường. Khi chúng làm việc này, các thực vật kết hợp một lượng
isotope phóng xạ có sẵn trong tự nhiên, carbon-14. Sau khi thực vật chết, carbon-
14 giảm đi do phân rã phóng xạ. Khi các nhà khảo cổ học tìm thấy một chiếc tàu
TRÔI DẠT XA RA ● 161
đắm, họ có thể định niên đại gỗ vỏ tàu bằng cách so sánh phần carbon-14 trong đó
với phần được kỳ vọng từ carbon-14 khí quyển. Việc này cho một ước lượng về
thời điểm khi cây gỗ bị đốn. Chỉ khoảng 20 vụ đắm tàu đã được định niên đại lâu
như năm 500 TCN. Đấy có lẽ đã không phải là các tàu La Mã, và rất có thể là của
người Cartaginian, chẳng hạn. Nhưng sau đó số các tàu La Mã đắm đã tăng lên
nhanh chóng. Vào khoảng thời gian [chúa Jesus] Christ sinh ra, chúng đạt đỉnh
điểm 180 vụ tàu đắm.
Các tàu đắm là một cách thuyết phục để vạch ra tình trạng kinh tế của Cộng
hoà La Mã, và chúng có cho thấy bằng chứng về sự tăng trưởng kinh tế nào đó,
nhưng phải giữ chúng đúng với thực trạng. Có lẽ hai phần ba nội dung của các tàu
đã là tài sản của nhà nước La Mã, các khoản thuế và cống nạp được mang từ các
tỉnh về Rome, hay ngũ cốc và dầu ô liu từ Bắc Phi để phát không cho các công
dân của thành phố. Chính [vỏ của] những thành quả này của sự khai thác là cái
phần lớn đã làm nên Monte Testaccio.
Một cách quyến rũ khác để tìm bằng chứng về sự tăng trưởng kinh tế là từ Dự
án Lõi Băng Greenland. Khi các bông tuyết rơi xuống, chúng mang theo một
lượng nhỏ các chất ô nhiễm không khí, đặc biệt là các kim loại chì, bạc và đồng.
Tuyết đông cứng lại và chất đống trên đỉnh lớp tuyết rơi trong các năm trước đã
biến thành băng. Quá trình này xảy ra liên tục hàng ngàn năm, và cung cấp một cơ
hội vô song cho các nhà khoa học để hiểu mức độ ô nhiễm không khí hàng ngàn
năm trước. Trong các năm 1990-1992, Dự án Lõi Băng Greenland đã khoan
xuống xuyên qua 3.030 mét băng phủ khoảng 250.000 năm lịch sử loài người.
Một trong những khám phá chính của dự án này, và những nghiên cứu trước nó,
là, đã có một sự tăng lên rõ rệt của các chất ô nhiễm không khí bắt đầu từ khoảng
năm 500 TCN. Lượng chì, bạc, và đồng trong không khí khi đó đã tăng đều đặn,
đạt một đỉnh vào thế kỷ đầu tiên sau công nguyên. Thật đáng chú ý, mức chì này
trong không khí lại đạt được chỉ vào thế kỷ thứ mười ba. Những khám phá này
cho thấy việc khai mỏ La Mã đã mạnh đến thế nào, so với tình trạng trước và sau
nó. Đợt bột phát này trong khai mỏ cho thấy một cách rõ ràng sự mở rộng kinh tế.
Nhưng sự tăng trưởng La Mã đã không bền vững, xảy ra dưới các thể chế một
phần bao gồm và một phần khai thác. Mặc dù các công dân La Mã đã có các
quyền chính trị và kinh tế, tình trạng nô lệ đã phổ biến và rất khai thác, và giới
elite, tầng lớp nghị sĩ, thống trị cả nền kinh tế lẫn hoạt động chính trị. Bất chấp sự
162 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
hiện diện của Đại hội Dân thường và người bảo vệ dân thường, chẳng hạn, quyền
lực thật vẫn do Thượng viện nắm, mà các thành viên của nó đã là các địa chủ lớn
tạo thành tầng lớp nghị sĩ. Theo sử gia La Mã Livy, Thượng Viện được lập ra bởi
vua đầu tiên của La Mã, Romulus, và gồm một trăm người đàn ông. Các hậu duệ
của họ tạo thành tầng lớp nghị sĩ, mặc dù cũng có thêm dòng dõi mới tham gia.
Sự phân bổ đất đã rất không đều và rất có khả năng còn bất bình đẳng hơn vào thế
kỷ thứ hai trước công nguyên. Đấy là gốc rễ của vấn đề mà đã đưa Tiberius
Gracchus lên phía trước với tư cách người bảo vệ dân thường.
Khi sự mở rộng của nó ra khắp vùng Địa Trung Hải tiếp tục, La Mã đã trải qua
một sự tràn vào của những của cải lớn. Nhưng của cải hậu hĩ này phần lớn đã bị
một số ít gia đình giàu có trong hàng ngũ nghị sĩ chiếm lấy, và sự bất bình đẳng
giữa người giàu và người nghèo đã tăng lên. Các nghị sĩ đã có sự giàu sang không
chỉ do họ kiểm soát các tỉnh màu mỡ của mình mà cũng còn do các bất động sản
và ruộng đất rất lớn của họ khắp Italy. Các bất động sản ruộng đất này được cung
cấp người bởi các toán nô lệ, thường là những người bị bắt trong các cuộc chiến
tranh mà La Mã đã tiến hành. Nhưng các bất động sản ruộng đất này đến từ đâu
cũng quan trọng ngang thế. Các đội quân La Mã trong thời Cộng hòa đã gồm các
công dân-binh lính những người là các chủ đất nhỏ, đầu tiên ở Rome và sau đó ở
các phần khác của Italy. Theo truyền thống họ chiến đấu trong quân đội khi cần
và sau đó quay về mảnh đất của mình. Khi La Mã mở rộng và các chiến dịch kéo
dài hơn, thì mô hình này đã ngừng hoạt động. Những người lính xa mảnh đất của
họ đôi khi hàng năm, và nhiều miếng đất được chiếm hữu đã bị bỏ không. Các gia
đình binh sĩ đôi khi đối mặt với hàng núi nợ nần và trên bờ vực chết đói. Nhiều
miếng đất vì thế dần dần bị bỏ không và bị sáp nhập vào ruộng đất của các nghị
sĩ. Khi tầng lớp nghị sĩ ngày càng giàu lên, số đông các công dân không có đất, đã
tập trung về Rome, thường sau khi được giải ngũ khỏi quân đội. Không còn
miếng đất cắm dùi nào để quay về, họ tìm việc làm ở Rome. Vào cuối thế kỷ thứ
hai TCN, tình trạng đã đạt đến điểm sôi nguy hiểm, cả bởi vì khoảng cách giàu
nghèo đã rộng ra đến mức chưa từng có, lẫn bởi vì đã có hàng đàn công dân bất
mãn ở Rome sẵn sàng nổi loạn đáp lại những sự bất công này và quay sang chống
lại giới quý tộc La Mã. Nhưng quyền lực chính trị lại tùy thuộc vào các địa chủ
giàu có của tầng lớp nghị sĩ, những người đã được hưởng lợi của những thay đổi
đã diễn ra hơn hai thế kỷ qua. Đa số họ không có ý định nào về thay đổi hệ thống
mà đã phục vụ họ tốt đến vậy.
TRÔI DẠT XA RA ● 163
Theo sử gia La Mã Plutarch, Tiberius Gracchus, khi chu du khắp Etruria, một
vùng bây giờ là trung tâm Italy, đã biết về khó khăn mà các gia đình công dân-
binh lính phải chịu đựng. Bất luận bởi vì kinh nghiệm này hoặc bởi vì những va
chạm khác với các nghị sĩ hùng mạnh của thời ông, ngay sau đó ông đã bắt đầu
lao vào một kế hoạch táo bạo để thay đổi sự phân bổ đất ở Italy. Ông đã đại diện
cho người bảo vệ thường dân trong năm 133 TCN, sau đó sử dụng chức vụ này để
đề xuất cải cách ruộng đất: một ủy ban sẽ điều tra xem liệu đất công có bị chiếm
một cách bất hợp pháp hay không và sẽ chia lại số đất vượt mức hạn điền hợp
pháp ba trăm mẫu cho các công dân La Mã không có ruộng. Mức hạn điền ba
trăm mẫu thực ra đã là phần của một luật cũ, mặc dù đã bị bỏ qua và không được
thực hiện trong hàng thế kỷ. Kiến nghị của Tiberius Gracchus gây ra làn sóng sốc
trong tầng lớp nghị sĩ, những người đã có khả năng ngăn cản việc thực hiện các
cải cách của ông trong một thời gian. Khi Tiberius Gracchus sử dụng sức mạnh
đám đông ủng hộ ông để đuổi một người bảo vệ dân thường khác, người đã đe
dọa phủ quyết cuộc cải cách ruộng đất của ông, ủy ban mà ông đề xuất cuối cùng
đã được thành lập. Thượng Viện, tuy vậy, đã ngăn cản việc thực hiện bằng cách
bỏ đói nguồn tài chính của ủy ban, không cấp tài chính cho nó.
Tình hình lên đến cực đỉnh khi Tiberius Gracchus đòi số tiền, mà vua của
thành phố Hy Lạp Pergamun đã để lại cho nhân dân La Mã, cho ủy ban của ông.
Ông cũng đã thử ứng cử làm người bảo vệ dân thường thêm một lần thứ hai, một
phần bởi vì ông sợ bị Thượng Viện ngược đãi sau khi ông từ chức. Việc này đã
trao cớ cho Thượng Viện để buộc tội rằng Tiberius đã âm mưu tự phong mình
làm vua. Ông và những người ủng hộ ông đã bị tấn công, và nhiều người đã bị
giết. Bản thân Tiberius Gracchus đã là một trong những người đầu tiên bị đổ,
nhưng cái chết của ông đã không giải quyết được vấn đề, và những người khác sẽ
thử cải cách ruộng đất và các khía cạnh khác của nền kinh tế và xã hội La Mã.
Nhiều người sẽ đối mặt với số phận tương tự. Em trai của Tiberius Gracchus,
chẳng hạn, cũng đã bị các địa chủ giết hại, sau khi ông đảm nhiệm trọng trách của
anh mình.
Những sự căng thẳng này lại nổi lên một cách định kỳ trong thế kỷ tiếp theo –
chẳng hạn, đã dẫn đến “Chiến tranh Xã hội” giữa năm 91 TCN và 87 TCN. Người
bảo vệ hung hăng các lợi ích của giới nghị sĩ, Lucius Cornelius Sulla, không chỉ
đã đàn áp một cách độc ác những đòi hỏi thay đổi mà cũng đã cắt xén một cách
164 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
nghiêm trọng các quyền của người bảo vệ dân thường. Cùng các vấn đề cũng là
một yếu tố trung tâm trong sự ủng hộ mà Julius Caesar đã nhận được từ nhân dân
Rome trong cuộc chiến đấu của ông chống lại Thượng Viện.
Các thể chế chính trị tạo thành cốt lõi của Nền cộng hòa La Mã đã bị Julius
Caesar lật đổ năm 49 TCN khi ông chuyển quân đoàn của mình qua Rubicon, con
sông tách các tỉnh La Mã vùng Cisalpine Gaul khỏi Italy. Rome rơi vào tay
Caesar, và một cuộc nội chiến khác đã nổ ra. Mặc dù Caesar là người chiến thắng,
ông đã bị giết bởi các nghị sĩ bất bình, do Brutus và Cassius đứng đầu trong năm
44 TCN. Cộng hòa La Mã sẽ chẳng bao giờ được tái tạo. Một cuộc nội chiến mới
đã nổ ra giữa những người ủng hộ Caesar, đặc biệt là Mark Anthony và Octavian,
và các kẻ thù của ông. Sau khi Anthony và Octavian chiến thắng, họ lại đánh lẫn
nhau, cho đến khi Octavian trở thành người chiến thắng ở trận Actium năm 31
TCN. Vào năm sau, và suốt bốn mươi lăm năm tiếp theo, Octavian, được biết đến
sau năm 28 TCN như Augustus Caesar, đã cai trị La Mã một mình. Augustus đã
tạo ra Đế chế La Mã, mặc dù ông đã ưa tước công dân thứ nhất (pricep) hơn, một
loại “người thứ nhất giữa những người ngang nhau”, và gọi chế độ là Principate
(Nguyên thủ). Bản đồ 11 cho thấy Đế chế La Mã với quy mô rộng nhất của nó
vào năm 117 SCN. Nó cũng bao gồm sông Rubicom, mà Caesar đã băng qua một
cách định mệnh đến vậy.
Chính sự chuyển đổi này từ nền cộng hòa sang chế độ nguyên thủ, và sau đó là
đế chế trần trụi, đã gieo các hạt giống suy sụp của La Mã. Các thể chế chính trị
một phần bao gồm, mà đã tạo cơ sở cho thành công kinh tế, dần dần đã bị xói
mòn. Mặc dù Cộng hòa La Mã đã tạo ra một sân chơi nghiêng có lợi cho tầng lớp
nghị sĩ và những người La Mã giàu có khác, nó đã không là một chế độ chuyên
chế và đã chưa bao giờ tập trung nhiều quyền lực đến vậy vào một chức vị.
Những thay đổi được Augustus tháo ra, như với Serrata ở Venice, đã có các hệ
quả chính trị đầu tiên nhưng sau đó sẽ có những hệ quả kinh tế đáng kể. Như một
kết quả của những thay đổi này, vào thế kỷ thứ năm SCN, Đế chế Tây La Mã, như
phương Tây gọi nó sau khi nó tách khỏi phương Đông, đã suy sụp về mặt kinh tế
và quân sự, và đã trên bờ vực sụp đổ.
TRÔI DẠT XA RA ● 165
166 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
… CÁC TẬT XẤU LA MÃ
Flavius Aetius đã là một trong các nhân vật rất ấn tượng vào cuối Đế chế La Mã,
được tung hô như “người La Mã cuối cùng” bởi Edward Gibbon, tác giả của The
Decline and Fall of Roman Empire (Sự Suy tàn và Sụp đổ của Đế chế La Mã).
Giữa năm 433 và 454 SCN, cho đến khi ông bị hoàng đế Valentinian III giết,
Aetius, một vị tướng, đã là người hùng mạnh nhất trong Đế chế La Mã. Ông đã
định hình cả chính sách đối nội lẫn đối ngoại, đã chiến đấu một loạt trận đánh
quan trọng chống lại những người dã man, và cả những người La Mã khác trong
các cuộc nội chiến. Ông đã là độc nhất giữa các tướng hùng mạnh chiến đấu trong
các cuộc nội chiến về việc không tìm kiếm chức vị hoàng đế cho chính mình. Từ
cuối thế kỷ thứ hai, nội chiến đã trở thành sự thật phũ phàng của cuộc sống trong
Đế chế La Mã. Giữa cái chết của Marcus Aurelius trong năm 180 SCN cho đến sự
sụp đổ của Đế chế Tây La Mã trong năm 476 SCN, đã hầu như không có thập
niên nào mà không có một cuộc nội chiến hay một cuộc đảo chính cung đình
chống lại hoàng đế. Ít hoàng đế đã chết vì các nguyên nhân tự nhiên hay trong
chiến trận. Hầu hết đã bị giết bởi những kẻ cướp ngôi hay binh lính của chính họ.
Sự nghiệp của Aetius minh họa những thay đổi từ Cộng hòa La Mã và Đế chế
ban đầu đến cuối Đế chế La Mã. Không chỉ sự dính líu của ông vào các cuộc nội
chiến liên miên và quyền lực của ông trong mọi khía cạnh công việc của đế chế
tương phản với quyền lực bị hạn chế hơn rất nhiều của các vị tướng và các nghị sĩ
trong các giai đoạn trước, mà nó cũng làm nổi bật sự thịnh vượng của những
người La Mã đã thay đổi căn bản thế nào trong các thế kỷ ở giữa theo những cách
khác nhau.
Vào cuối Đế chế La Mã, những người được gọi là dã man, mà ban đầu bị
thống trị và bị sáp nhập vào các đội quân La Mã hay bị sử dụng như các nô lệ, bây
giờ đã chi phối nhiều phần của đế chế. Như một thanh niên, Aetius đã bị những
người dã man bắt làm con tin, đầu tiên bởi những người Goth dưới thời Alaric và
sau đó bởi những người Hun. Các quan hệ của La Mã với những người dã man
này biểu thị tình hình đã thay đổi ra sao từ thời Cộng hòa. Alaric đã cả là một kẻ
thù tàn bạo lẫn là một đồng minh, đến mức mà vào năm 405 ông ta đã được bổ
nhiệm làm một trong những tướng cấp cao của quân đội La Mã. Tuy vậy, sự dàn
TRÔI DẠT XA RA ● 167
xếp đã là tạm thời. Vào năm 408 Alaric đã chiến đấu chống lại những người La
Mã, xâm lăng Italy và cướp phá Rome.
Những người Hun cũng đã cả là những kẻ thù hùng mạnh và đôi khi là các
đồng minh của những người La Mã. Mặc dù họ cũng đã bắt Aetius làm con tin,
muộn hơn họ đã chiến đấu bên cạnh ông trong một cuộc nội chiến. Nhưng những
người Hun đã không đứng lâu ở một bên, và dưới thời Attila họ đã đánh các trận
lớn chống lại những người La Mã vào năm 451, ngay ở bên kia sông Rhine. Lần
này bảo vệ người La Mã đã là những người Goth, dưới thời Theodoric.
Tất cả điều này đã không cản các elite La Mã thử thỏa hiệp vô nguyên tắc với
những người chỉ huy dã man, thường không để bảo vệ các lãnh thổ La Mã, mà để
giành ưu thế trong các cuộc tranh giành quyền lực nội bộ. Thí dụ, những người
Vandal, dưới vua của họ, Geiseric, đã tàn phá các phần lớn của Bán đảo Iberian
và sau đó đã chinh phục các vựa lúa La Mã ở Bắc Phi từ năn 429 trở đi. Sự đáp lại
của La Mã đối với việc này đã là đề nghị cho con gái của hoàng đế Valentinian III
làm một cô dâu cho Geiseric. Lúc đó Geiseric đã kết hôn với con gái của một
trong các nhà lãnh đạo của những người Goth, nhưng điều này có vẻ đã không
cản ông. Ông đã hủy hôn với cái cớ rằng vợ ông đã thử ám sát ông và đã đuổi bà
về nhà bà sau khi cắt cả hai tai và mũi bà. May cho người sắp-là-cô dâu, bởi vì
tuổi trẻ của cô, nên cô được giữ ở Italy và đã chẳng bao giờ hoàn tất việc kết hôn
của cô với Geiseric. Muộn hơn cô kết hôn với một vị tướng hùng mạnh khác,
Petronius Maximus, người đạo diễn vụ giết Aetius bởi hoàng đế Valentinian III,
mà bản thân ông bị giết không lâu sau trong một âm mưu được Maximus ngấm
ngầm dự tính. Muộn hơn Maximus tuyên bố mình là hoàng đế, nhưng triều đại
của ông đã rất ngắn, chấm dứt bởi cái chết của ông trong một cuộc tấn công của
những người Vandal dưới thời Geiseric chống lại Italy, mà đã thấy Rome thất thủ
và bị cướp bóc một cách man rợ.
VÀO ĐẦU thế kỷ thứ năm, những người dã man đã thật sự ở ngoài cổng. Một số
sử gia cho rằng nó đã là một hệ quả của những đối thủ kinh khủng hơn mà những
người La Mã đã phải đối mặt vào cuối Đế chế. Nhưng thành công của những
người Goth, Hun, và Vandal chống lại Rome đã là một triệu chứng, không phải là
nguyên nhân, của sự suy tàn của La Mã. Trong thời Cộng hòa, La Mã đã phải đối
168 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
phó với các đối thủ có tổ chức và đe dọa hơn rất nhiều, như những người
Carthagianinan. Sự suy tàn của La Mã, đã có những nguyên nhân rất giống các
nguyên nhân của các thành-quốc Maya. Các thể chế chính trị và kinh tế ngày càng
khai thác của La Mã đã gây ra sự sụp đổ của nó bởi vì chúng đã gây ra sự đấu đá
nội bộ kịch liệt và nội chiến.
Nguồn gốc của sự suy tàn quay lại chí ít đến sự nắm quyền của Augustus, mà
khởi động những sự thay đổi khiến cho các thể chế chính trị mang tính khai thác
hơn nhiều. Đấy bao gồm những thay đổi về cấu trúc của quân đội, mà làm cho
việc ly khai là không thể, như thế loại bỏ một yếu tố cốt yếu đảm bảo sự đại diện
chính trị cho những người La Mã bình thường. Hoàng đế Tiberius, người kế tiếp
Augustus vào năm 14 SCN, đã bãi bỏ Đại hội Dân thường và đã chuyển quyền
lực của nó cho Thượng Viện. Thay cho tiếng nói chính trị, các công dân La Mã
bây giờ đã có của bố thí cho không gồm lúa mì và, sau đó là dầu ô liu, rượu, thịt
heo, và giữ người dân được giải trí bởi các rạp xiếc và các cuộc tranh đua đấu sĩ.
Với những cải cách của Augustus, các hoàng đế đã bắt đầu dựa không nhiều vào
quân đội gồm các công dân-người lính, mà dựa vào Vệ binh Praetorian, nhóm ưu
tú của những người lính chuyên nghiệp do Augustus lập ra. Bản thân Vệ binh mau
chóng trở thành một kẻ môi giới độc lập quan trọng về ai sẽ trở thành hoàng đế,
thường thông qua không phải các phương tiện hòa bình mà qua các cuộc nội chiến
và âm mưu. Augustus cũng đã củng cố tầng lớp quý tộc chống lại các công dân
La Mã bình thường, và sự bất bình đẳng gia tăng, mà đã là nòng cốt của xung đột
giữa Tiberius Gracchus và các nhà quý tộc, đã tiếp tục, có lẽ thậm chí còn được
tăng cường.
Sự tích tụ quyền lực ở trung tâm làm cho các quyền tài sản của những người
La Mã bình thường ít an toàn hơn. Đất của nhà nước cũng đã mở rộng với đế chế
như một hệ quả của sự tịch thu, và đã tăng lên mức nửa tổng số đất đai ở nhiều
phần của đế chế. Các quyền tài sản trở nên đặc biệt bất ổn định bởi vì sự tập trung
quyền lực vào tay hoàng đế và đoàn tùy tùng của ông. Theo một hình mẫu không
khác biệt quá với cái đã xảy ra ở các thành-quốc Maya, sự đấu đá nội bộ quyết liệt
để giành sự kiểm soát vị trí hùng mạnh này đã tăng lên. Các cuộc nội chiến trở
thành một sự cố thường xuyên, thậm chí cả trước thế kỷ thứ năm hỗn loạn, khi
những người dã man trị vì tối cao. Thí dụ, Septimus Severus đã chiếm lấy quyền
lực từ Didius Julianus, người đã phong mình làm hoàng đế sau vụ ám sát Pertinax
TRÔI DẠT XA RA ● 169
vào năm 193 SCN. Servius, hoàng đế thứ ba trong cái gọi là Năm của Năm Hoàng
đế, sau đó đã tiến hành chiến tranh chống lại các địch thủ của ông đòi quyền kế vị,
các tướng Pescennius Niger và Clodius Albinus, những người cuối cùng đã bị
đánh bại trong các năm tương ứng 194 và 197 SCN. Servius đã tịch thu tất cả tài
sản của các địch thủ thất trận của ông trong nội chiến tiếp sau. Mặc dù các nhà cai
trị có tài, như Trajan (98 đến 117 SCN), Hadrian, và Markus Aurelius trong thế
kỷ tiếp theo, đã có thể kìm sự suy tàn, họ đã không thể, hay đã không muốn, xử lý
các vấn đề thể chế cơ bản. Chẳng ai trong những người này đã đề xuất việc bỏ đế
chế hay tái tạo lại các thể chế chính trị hiệu quả theo các đường lối của Cộng hòa
La Mã. Markus Aurelius, cho dù các thành công của ông, lại được kế vị bởi con
ông Comodus, người đã giống Caligula hay Nero hơn là giống cha mình.
Sự bất ổn gia tăng đã là hiển nhiên từ cách bố trí và địa điểm của các thị trấn
và thành phố trong đế chế. Vào thế kỷ thứ ba SCN mọi thành phố lớn trong đế chế
đã phải có tường bảo vệ. Trong nhiều trường hợp, các công trình tưởng niệm bị
cướp phá để lấy đá, mà được dùng trong xây công sự. Ở xứ Gaul trước khi những
người La Mã đến vào năm 125 TCN, đã thường xây các khu định cư trên đỉnh
đồi, vì dễ bảo vệ. Với sự đến ban đầu của La Mã, các khu định cư đã dời xuống
đồng bằng. Trong thế kỷ thứ ba, xu hướng này bị đảo ngược.
Theo cùng với sự bất ổn chính trị gia tăng là những thay đổi trong xã hội mà đã
chuyển các thể chế kinh tế theo hướng khai thác nhiều hơn. Mặc dù tư cách công
dân đã được mở rộng đến mức vào năm 212 SCN gần như tất cả cư dân của đế
chế đều là công dân, sự thay đổi này đã đi cùng với những thay đổi về địa vị giữa
các công dân. Bất cứ ý nghĩa nào mà đã có thể là sự bình đẳng trước pháp luật đều
đã bị xấu đi. Thí dụ, dưới triều đại Hadrian (117 đến 138 SCN), đã có những khác
biệt rõ ràng về các loại luật được áp dụng cho các loại công dân La Mã khác nhau.
Quan trọng không kém là, vai trò của công dân đã hoàn toàn khác với vai trò đã
có trong những ngày của Cộng hòa La Mã, khi họ đã có thể sử dụng quyền lực
nào đó đối với các quyết định chính trị và kinh tế thông qua các đại hội ở Rome.
Chế độ nô lệ vẫn còn liên tục khắp La Mã, mặc dù có một số tranh cãi về liệu
tỷ phần nô lệ trong dân cư có thực sự giảm hay không trong các thế kỷ. Quan
trọng ngang thế là, khi đế chế phát triển, ngày càng nhiều người lao động nông
nghiệp đã bị giảm xuống địa vị nửa-nô lệ và bị cột chặt vào ruộng đất. Địa vị của
những “colonus” nửa-nô lệ này được thảo luận sâu rộng trong các tài liệu pháp
170 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
luật như các bộ luật Codex Theodosianus và Codex Justinianus, và có lẽ có xuất
xứ trong triều đại Docletian (284 đến 305 SCN). Quyền của các chúa đất đối với
các colonus đã tăng lên tuần tự. Hoàng đế Constantine trong năm 332 đã cho phép
các chúa đất xích một colonus lại người mà họ tình nghi là thử bỏ trốn, và từ năm
365 SCN, các colonus đã không được phép bán các tài sản riêng của mình mà
không có sự cho phép của chúa đất.
Hệt như chúng ta có thể sử dụng các tàu đắm và các lõi băng Greenland để
theo dõi sự mở rộng kinh tế của La Mã trong các thời kỳ đầu, chúng ta cũng có
thể sử dụng chúng để lần theo dấu vết suy tàn của nó. Vào năm 500 SCN, đỉnh
của các tàu đắm từ 180 đã giảm xuống còn 20. Khi La Mã suy tàn, thương mại
Địa Trung Hải sụp đổ, và một số học giả cho rằng nó đã không quay lại đỉnh điểm
La Mã của nó cho đến thế kỷ thứ mười chín. Băng Greenland kể một câu chuyện
tương tự. Những người La Mã đã dùng bạc để đúc tiền, chì đã có nhiều công
dụng, kể cả để làm các ống và bộ đồ ăn. Sau khi lên đỉnh điểm vào thế kỷ thứ nhất
SCN, lượng chì, bạc và đồng trong các lõi băng giảm xuống.
Kinh nghiệm về tăng trưởng kinh tế trong Cộng hòa La Mã đã thật ấn tượng,
cũng như các thí dụ khác về tăng trưởng dưới các thể chế khai thác, như Liên Xô.
Nhưng sự tăng trưởng đó đã bị hạn chế và không bền vững, ngay cả khi đã tính
đến rằng nó đã xảy ra dưới các thể chế một phần bao gồm. Sự tăng trưởng đã dựa
vào năng suất nông nghiệp tương đối cao, các khoản cống nạp đáng kể từ các tỉnh,
và thương mại đường dài, nhưng nó đã không được trụ đỡ bởi tiến bộ công nghệ
hay sự phá hủy sáng tạo. Những người La Mã đã kế thừa một số công nghệ cơ
bản, các công cụ bằng sắt và vũ khí, sự biết đọc biết viết, cày trong nông nghiệp,
và kỹ thuật xây dựng. Những ngày ban đầu trong nền Cộng hòa, họ đã tạo ra
những công nghệ khác: xi măng xây nề, máy bơm, và bánh xe nước. Nhưng sau
đó, công nghệ đã trì trệ suốt thời kỳ của Đế chế La Mã. Trong chuyên chở bằng
tàu thuyền, chẳng hạn, đã có ít thay đổi trong thiết kế tàu thuyền hay thừng chão,
và những người La Mã đã chẳng bao giờ phát triển bánh lái đuôi tàu, thay vào đó
lái tàu bằng các mái chèo. Bánh xe nước đã lan truyền rất chậm, cho nên năng
lượng nước đã chẳng bao giờ cách mạng hóa nền kinh tế La Mã. Ngay cả những
thành tựu vĩ đại như cầu máng nước và cống rãnh thành phố đã sử dụng công
nghệ hiện tồn, mặc dù những người La Mã đã hoàn thiện nó. Đã có thể có sự tăng
trưởng nào đó mà không có đổi mới sáng tạo, dựa vào công nghệ hiện tồn, nhưng
TRÔI DẠT XA RA ● 171
đó đã là sự tăng trưởng mà không có phá hủy sáng tạo. Và nó đã không kéo dài.
Khi các quyền sở hữu trở nên ngày càng không an toàn và các quyền kinh tế của
công dân tiếp theo sau sự sa sút của các quyền chính trị, cũng thế sự tăng trưởng
kinh tế suy sụp.
Điều đáng chú ý về các công nghệ mới trong thời kỳ La Mã là, sự tạo ra và sự
phổ biến của chúng có vẻ đã được thúc đẩy bởi nhà nước. Đấy là tin tốt, cho đến
khi chính phủ quyết định rằng nó không quan tâm đến phát triển công nghệ nữa –
một sự cố quá thường xuyên do nỗi sợ sự phá hủy sáng tạo. Nhà văn La Mã vĩ đại
Pliny Già kể lại câu chuyện sau đây. Trong triều đại của hoàng đế Tiberius, một
người đã sáng chế ra kính không thể vỡ và đã yết kiến hoàng đế dự tính rằng sẽ
được một phần thưởng lớn. Ông ta đã minh họa sáng chế của mình, và Tiberius đã
hỏi liệu ông ta đã nói cho bất cứ ai khác về sáng chế này hay chưa. Khi người đó
trả lời chưa, Tiberius đã sai lôi ông ta ra và giết, “e rằng vàng bị giảm xuống giá
trị của bùn”. Có hai điều lý thú về câu chuyện này. Thứ nhất, người đã đi đến
Tiberius trước tiên vì một phần thưởng, hơn là tự mình dựng một doanh nghiệp và
kiếm lợi nhuận bằng cách bán kính. Điều này cho thấy vai trò của chính phủ La
Mã trong kiểm soát công nghệ. Thứ hai, Tiberius đã vui sướng phá hủy sự đổi
mới bởi vì các tác động kinh tế có hại mà nó có [đối với ông]. Đấy là nỗi sợ các
tác động kinh tế của sự phá hủy sáng tạo.
Cũng có bằng chứng trực tiếp từ thời kỳ Đế chế về nỗi sợ các hệ quả chính trị
của sự phá hủy sáng tạo. Suetonius kể câu chuyện về hoàng đế Vespasian, người
đã cai trị giữa năm 69 và 79 SCN, đã tiếp nhận ra sao sự chạy chọt của một người
đã sáng chế ra một công cụ để chuyên chở các cột đá đến Capitol, thành trì của
Rome, với chi phí tương đối nhỏ. Các cột đã to, nặng và rất khó chuyên chở.
Chuyển chúng tới Rome từ các mỏ nơi chúng được làm ra dính líu đến công việc
của hàng ngàn người, với tốn phí rất lớn đối với chính phủ. Vespasian đã không
giết người đó, nhưng ông cũng từ chối sử dụng sự đổi mới, tuyên bố rằng “Sẽ làm
sao có thể đối với trẫm để nuôi ăn số dân thường này?” Một lần nữa lại một nhà
sáng chế đến với chính phủ. Có lẽ sáng chế này đã tự nhiên hơn kính không thể
vỡ, vì chính phủ La Mã đã dính líu sâu vào chuyện khai cột đá và chuyên chở
chúng. Lại lần nữa, sự đổi mới sáng tạo bị bác bỏ bởi vì sự đe dọa của sự phá hủy
sáng tạo, không phải bởi vì tác động kinh tế của nó, mà là bởi vì nỗi lo sợ sự phá
hủy sáng tạo chính trị. Vespasian đã lo rằng trừ phi ông giữ cho dân chúng hạnh
172 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
phúc và dưới sự kiểm soát, còn không thì sẽ gây bất ổn chính trị. Những người
dân thường La Mã phải được giữ luôn bận rộn và dễ bảo, cho nên đã là tốt để có
việc làm cho họ, chẳng hạn việc vận chuyển cột loanh quanh. Điều này bổ sung
cho bánh mì và các rạp xiếc, mà cũng đã được phân phát miễn phí để giữ cho dân
chúng thỏa mãn. Có lẽ thật đích đáng rằng cả hai thí dụ này đến không lâu sau khi
nền Cộng hòa bị sụp đổ. Các hoàng đế La Mã đã có sức mạnh lớn hơn rất nhiều
để cản sử thay đổi so với các nhà cai trị La Mã trong thời Cộng hòa.
Một lý do quan trọng khác cho sự thiếu đổi mới công nghệ đã là sự phổ biến
của tình trạng nô lệ. Khi các lãnh thổ mà những người La Mã kiểm soát được mở
rộng, một số rất đông bị bắt làm nô lệ, thường được đưa về Italy để làm việc tại
các điền trang lớn. Nhiều công dân của Rome đã không cần phải lao động: họ đã
sống nhờ vào những thứ phát không của chính phủ. Thế thì đổi mới sáng tạo đến
từ đâu? Chúng ta đã bàn luận rằng đổi mới sáng tạo đến từ những người mới với
các ý tưởng mới, phát triển các giải pháp mới cho các vấn đề cũ. Tại La Mã,
những người làm việc sản xuất đã là các nô lệ và, muộn hơn, các nửa-nô lệ, các
colonus, với ít khuyến khích để đổi mới, vì các ông chủ của họ, chứ không phải
họ, được hưởng lợi ích từ bất cứ sự đổi mới nào. Như chúng ta sẽ thấy nhiều lần
trong cuốn sách này, các nền kinh tế dựa vào sự trấn áp lao động và các hệ thống
như các chế độ nô lệ và nông nô là không đổi mới một cách khét tiếng. Điều này
đúng từ thế giới cổ xưa đến thời hiện đại. Ở Hoa Kỳ, chẳng hạn, các bang miền
bắc đã tham gia vào Cách mạng Công nghiệp, chứ không phải các bang miền
Nam. Tất nhiên chế độ nô lệ và nông nô đã tạo ra của cải to lớn cho những người
là các chủ nô và kiểm soát các nông nô, nhưng nó đã không tạo ra đổi mới công
nghệ hay sự thịnh vượng cho xã hội.
CHẲNG AI VIẾT TỪ VINDOLANDA
Vào năm 43 SCN hoàng đế La Mã Claudius đã chinh phục nước Anh, nhưng
Scotland thì không. Một nỗ lực vô ích cuối cùng đã được tiến hành bởi thống sứ
La Mã Agricola, người đã từ bỏ và, trong năm 85 đã xây một loạt pháo đài để bảo
vệ biên giới phía bắc của nước Anh. Một pháo đài lớn nhất trong những số này đã
ở Vindolanda, ba mươi lăm dặm về phía tây Newcastle, và được vẽ trên Bản đồ
11 (trang 165) ở cực tây bắc của Đế chế La Mã. Muộn hơn, Vindolanda đã được
TRÔI DẠT XA RA ● 173
hợp nhất vào thành phòng thủ dài tám mươi lăm dặm mà hoàng đế Hadrian đã xây
dựng, nhưng trong năm 103 SCN, khi một đội trưởng đội trăm người La Mã
(centurion), Candidus, đã đóng ở đây, nó đã là một pháo đài cô lập. Candidus đã
cùng bới bạn mình Octavius tham gia cung ứng cho đơn vị đồn trú La Mã và đã
nhận một bức thư trả lời từ Octavius cho một bức thư mà ông đã gửi:
Octavius gửi cho bạn mình Candidus, những lời chào. Tôi đã viết cho
anh nhiều lần rằng tôi đã mua khoảng năm ngàn thùng bông lúa, vì lý
do đó tôi cần tiền mặt, ít nhất năm trăm đồng denarius, kết quả sẽ là
tôi sẽ mất khoản tiền mà tôi đã đặt cọc, khoảng ba trăm denarius, và
tôi sẽ bị bối rối. Vì thế, tôi yêu cầu anh, gửi cho tôi một số tiền mặt
càng nhanh càng tốt. Số da sống mà anh viết đang ở Cataractonium –
hãy viết rằng chúng và xe ngựa mà anh viết về được trao cho tôi. Tôi
đã sẵn sàng rồi để thu chúng trừ rằng tôi đã không quan tâm đến việc
làm tổn thương các con súc vật trong khi đường sá xấu. Hãy kiểm tra
với Tertius về 8½ denarius mà anh ta đã nhận từ Fatalis. Anh ta vẫn
chưa ghi chúng vào bên có của tài khoản của tôi. Đảm bảo chắc chắn
rằng anh gửi tiền mặt cho tôi để tôi có thể có các bông lúa trên sàn
tuốt lúa. Chào Spectatus và Fimus. Tạm biệt.
Thư từ giữa Candidus và Octavius minh họa một số mặt quan trọng của sự
thịnh vượng của nước Anh La Mã: nó tiết lộ một nền kinh tế tiền tệ tiên tiến với
các dịch vụ tài chính. Nó tiết lộ sự hiện diện của đường sá được xây dựng, cho dù
đôi khi trong điều kiện tồi tàn. Nó tiết lộ sự hiện diện của một hệ thống tài khóa
thu thuế để trả lương của Candidus. Hiển nhiên nhất nó tiết lộ rằng cả hai người
đã biết đọc biết viết và đã có khả năng tận dụng lợi thế của một dịch vụ bưu chính
loại nào đó. Nước Anh La Mã cũng đã hưởng lợi từ việc sản xuất hàng loạt gốm
chất lượng cao, đặc biệt ở Oxfordshire; các trung tâm đô thị với các nhà tắm và
các tòa nhà công cộng; và những kỹ thuật xây nhà sử dụng vữa và ngói lợp mái
nhà.
Vào thế kỷ thứ tư, tất cả trong suy tàn, và sau năm 411 SCN Đế chế La Mã đã
từ bỏ nước Anh. Binh lính bị rút đi, những người ở lại đã không được trả lương,
và khi nhà nước La Mã sụp đổ, các nhân viên quản lý đã bị dân cư địa phương
tống khứ. Vào năm 450 SCN tất cả các dấu hiệu hào nhoáng này của sự thịnh
vượng kinh tế đã mất hết. Tiền đã biến mất khỏi sự lưu thông. Các khu vực đô thị
174 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
bị bỏ trống, và các tòa nhà bị lột đá. Đường sá bị cỏ dại bao phủ. Loại gốm duy
nhất được sản xuất là gốm thô làm bằng tay, không được chế tác hàng loạt. Người
dân quên dùng vữa thế nào, và sự biết đọc biết viết suy giảm đáng kể. Các nóc
nhà được làm bằng cành cây, chứ không phải lợp ngói. Không ai còn viết từ
Vindolanda nữa.
Sau năm 411 SCN, nước Anh đã trải qua một sự sụp đổ kinh tế và trở thành
một nơi ao tù nước đọng nghèo nàn – và không phải lần đầu tiên. Trong chương
trước chúng ta đã thấy Cách mạng đồ Đá Mới đã bắt đầu như thế nào ở Trung
Đông vào khoảng 9.500 TCN. Trong khi cư dân của Jericho và Abu Hureyra đã
sống trong các thị trấn nhỏ và canh tác, dân cư của nước Anh vẫn săn bắt và hái
lượm, và vẫn làm vậy trong 5.500 năm nữa. Ngay cả khi đó những người Anh đã
không sáng chế ra việc canh tác hay chăn thả; những cách làm này đã được mang
đến từ bên ngoài bởi những người di cư lan ngang châu Âu từ Trung Đông trong
hàng ngàn năm. Khi các cư dân ở nước Anh đuổi kịp các đổi mới lớn này, những
người ở Trung Đông phát minh ra các thành phố, chữ viết và đồ gốm. Vào năm
3.500 TCN, các thành phố lớn như Uruk và Ur đã nổi lên ở Mesopotamia, nay là
Iraq hiện đại. Uruk đã có thể có dân số mười bốn ngàn người vào năm 3.500
TCN, và bốn mươi ngàn người không lâu sau đó. Bàn chuốt gốm đã được sáng
chế ở Mesopotamia vào cùng khoảng thời gian như bánh xe giao thông. Thủ đô
Ai Cập Memphis đã nổi lên như một thành phố lớn không lâu sau đó. Chữ viết
xuất hiện một cách độc lập ở cả hai khu vực. Trong khi những người Ai Cập đã
đang xây các kim tự tháp vĩ đại ở Giza khoảng năm 2.500 TCN, những người
Anh đã xây dựng đài tưởng niệm cổ nổi tiếng nhất của họ, vòng tròn đá ở
Stonehenge. Không tồi theo các tiêu chuẩn Anh, nhưng thậm chí đã không đủ lớn
để chứa được một trong những chiếc thuyền nghi lễ được chôn dưới chân kim tự
tháp của Vua Kufu. Nước Anh tiếp tục tụt hậu và để vay mượn từ Trung Đông và
phần còn lại của châu Âu cho đến và bao gồm cả thời kỳ La Mã.
Bất chấp một lịch sử không may như vậy, đã chính ở nước Anh là nơi mà xã
hội bao gồm thực sự đầu tiên đã nổi lên và là nơi Cách mạng Công nghiệp đã khởi
hành. Chúng ta đã biện luận trước đây (trang 102-11) rằng đấy đã là kết quả của
một loạt những tương tác giữa những khác biệt nhỏ về thể chế và các bước ngoặt
– chẳng hạn, Cái Chết Đen và sự khám phá ra châu Mỹ. Sự phân kỳ Anh đã có
gốc rễ lịch sử, nhưng cách nhìn từ Vindolanda gợi ý rằng những rễ này đã không
TRÔI DẠT XA RA ● 175
sâu đến thế và chắc chắn không được định trước về mặt lịch sử. Chúng đã không
được trồng trong Cách mạng đồ Đá Mới, hay thậm chí trong các thế kỷ của sự bá
chủ La Mã. Vào năm 450 SCN, vào đầu của cái mà các sử gia gọi là Thời Kỳ Đen
Tối, nước Anh đã trượt lại vào nghèo khó và hỗn loạn chính trị. Đã không có một
nhà nước tập trung hữu hiệu nào ở nước Anh trong hàng trăm năm.
NHỮNG CON ĐƯỜNG PHÂN KỲ (RẼ THEO CÁC HƯỚNG
KHÁC NHAU)
Sự thăng tiến của các thể chế bao gồm và sự tăng trưởng công nghiệp sau đó ở
nước Anh đã không xảy ra như một di sản trực tiếp của các thể chế La Mã (hay
sớm hơn). Điều này không có nghĩa rằng đã chẳng có gì quan trọng xảy ra với sự
sụp đổ của Đế chế Tây La Mã, một sự kiện lớn tác động đến hầu hết châu Âu. Vì
các phần khác nhau của châu Âu chia sẻ cùng các bước ngoặt, các thể chế của
chúng sẽ trôi dạt theo kiểu cách giống nhau, có lẽ theo một cách Âu châu đặc biệt.
Sự sụp đổ của Đế chế La Mã đã là một phần cốt yếu của những bước ngoặt chung
này. Con đường Âu châu này tương phản với những con đường ở các phần khác
nhau của thế giới, kể cả châu Phi hạ-Sahara, châu Á, và châu Mỹ, mà đã phát triển
một cách khác biệt một phần bởi vì chúng đã không đối mặt với cùng các bước
ngoặt.
Nước Anh La Mã đã sụp đổ với một tiếng nổ lớn. Điều này đã ít đúng hơn ở
Italy, hay ở xứ Gaul La Mã (nay là nước Pháp hiện đại), hoặc thậm chí ở Bắc Phi,
ở những nơi nhiều trong các thể chế cũ còn tồn tại dưới dạng nào đó. Thế nhưng
không có sự nghi ngờ gì rằng sự thay đổi từ ưu thế của một nhà nước La Mã duy
nhất sang một sự thừa quá nhiều của các nhà nước được vận hành bởi những
người Frank, Visigoth, Ostrogoth, Vandal, và Burgundian đã là sự thay đổi quan
trọng. Sức mạnh của các nhà nước này đã yếu hơn nhiều, và chúng đã bị đày đọa
bởi một loạt dài các cuộc đột nhập từ các ngoại vi của chúng. Từ phương bắc là
những người Viking và Dane đến trên những chiếc thuyền dài của họ. Từ hướng
đông là những kị binh Hun đến trên lưng ngựa. Cuối cùng, sự nổi lên của Islam
như một tôn giáo và lực lượng chính trị trong thế kỷ sau cái chết của Mohammed
vào năm 632 SCN đã dẫn đến việc tạo ra các nhà nước Islamic mới ở phần lớn Đế
chế Byzantine, Bắc Phi, và Tây Ban Nha. Các quá trình chung này đã làm rung
176 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
chuyển châu Âu, và theo sau họ một loại xã hội cá biệt, thông thường được nhắc
tới như xã hội phong kiến, đã nổi lên. Xã hội phong kiến đã là phi tập trung, bởi
vì các nhà nước tập trung mạnh đã bị teo đi, cho dù một số nhà cai trị như
Charlemagne đã thử tái lập chúng.
Các thể chế phong kiến, mà dựa trên lao động không tự do, bị cưỡng bức (các
nông nô), đã rõ ràng là khai thác, và chúng đã tạo ra cơ sở cho một giai đoạn dài
của sự tăng trưởng khai thác và chậm ở châu Âu trong Thời Trung Cổ. Nhưng
chúng cũng đã có hậu quả cho những sự phát triển muộn hơn. Thí dụ, trong thời
gian dân số nông thôn bị hạ xuống địa vị nông nô, tình trạng nô lệ biến mất khỏi
châu Âu. Trong thời gian khi đã là có thể đối với các elite để hạ toàn bộ dân cư
nông thôn thành nông nô, đã có vẻ không cần thiết để có một giai cấp nô lệ tách
biệt như tất cả các xã hội trước đó đã có. Chủ nghĩa phong kiến cũng đã tạo ra
chân không quyền lực trong đó các thành phố độc lập chuyên môn hóa về sản
xuất và thương mại đã có thể phồn thịnh. Nhưng khi sự cân bằng quyền lực thay
đổi sau Cái Chết Đen, chế độ nông nô bắt đầu tan rã ở Tây Âu, vũ đài được dựng
lên cho một xã hội đa nguyên hơn rất nhiều mà không có sự hiện diện của bất cứ
nô lệ nào.
Các bước ngoặt, mà gây ra xã hội phong kiến, đã khác biệt, nhưng chúng đã
không hoàn toàn bị giới hạn ở châu Âu. Một sự so sánh thích hợp là với nước Phi
châu hiện đại Ethiopia, mà đã phát triển từ Vương quốc Aksum, được thành lập ở
miền bắc nước này vào khoảng năm 400 TCN. Aksum đã là một vương quốc
tương đối phát triển vào thời của nó và đã tham gia thương mại quốc tế với Ấn
Độ, Arabia, Hy Lạp, và Đế chế La Mã. Theo nhiều cách, nó đã có thể so sánh
được với Đế chế Đông La Mã trong thời kỳ đó. Nó đã sử dụng tiền, đã xây dựng
các công trình kỷ niệm và các tòa nhà công và đường sá, và đã có công nghệ rất
giống, chẳng hạn, trong nông nghiệp và vận tải bằng tàu thuyền. Cũng có sự
tương tự ý thức hệ lý thú giữa Aksum và La Mã. Trong năm 312 SCN, hoàng đế
La Mã Constantine đã cải đạo sang Kitô giáo (Christianity), như Vua Ezana của
Aksum đã cải đạo trong khoảng cùng thời gian đó. Bản đồ 12 (trang sau) cho thấy
vị trí của nhà nước Aksum lịch sử trong Ethiopia và Eritrea hiện đại-ngày nay, với
các đồn tiền tiêu ngang Hồng Hải ở Saudi Arabia và Yemen.
Hệt như La Mã suy sụp, Aksum cũng đã thế, và sự suy sụp lịch sử của nó đã
theo một hình mẫu gần với hình mẫu suy sụp của Đế chế Tây La Mã. Vai trò
TRÔI DẠT XA RA ● 177
được đóng bởi những người Hun và Vandal trong sự suy sụp của La Mã đã được
đóng bởi những người Arab, những người, trong thế kỷ thứ bảy, đã mở rộng vào
Hồng Hải và xuống Bán đảo Arabia. Aksum đã mất các thuộc địa của nó ở Arabia
và các đường thương mại của nó. Việc này đã thúc đẩy nhanh sự suy sụp kinh tế:
tiền bị ngưng đúc, dân số thành thị đã rớt xuống, và nhà nước đã tập trung lại vào
nội địa và lên cao nguyên của Ethiopia hiện đại.
178 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Ở châu Âu, các thể chế phong kiến đã nổi lên tiếp sau sự sụp đổ của quyền lực
nhà nước tập trung. Cũng thế đã xảy ra tại Ethiopia, dựa vào một hệ thống được
gọi là gult, mà dính líu đến việc hoàng đế cấp đất phong. Thể chế này được nhắc
đến trong các bản thảo thế kỷ thứ mười ba, mặc dù nó có thể đã bắt nguồn sớm
hơn nhiều. Từ gult bắt nguồn từ một từ của ngôn ngữ Amharic có nghĩa là “ông
đã nhượng một khoảng đất phong.” Nó có nghĩa rằng trong sự trao đổi lấy đất,
người nắm giữ gult phải cung cấp các dịch vụ cho hoàng đế, đặc biệt các dịch vụ
quân sự. Đổi lại, người nắm giữ gult có quyền để khai thác đồ cống nạp từ những
người canh tác trên đất phong đó. Các nguồn lịch sử khác nhau gợi ý rằng những
người nắm giữ gult khai thác, giữa một nửa và ba phần tư sản lượng nông nghiệp
của các nông dân. Hệ thống này đã là một sự phát triển độc lập với những sự
giống nhau đáng chú ý với chủ nghĩa phong kiến Âu châu, nhưng có lẽ còn khai
thác hơn. Tại đỉnh cao của chủ nghĩa phong kiến ở nước Anh, các nông nô đối
mặt với sự khai thác ít nặng nề hơn và mất khoảng một nửa sản lượng của họ cho
chúa đất theo dạng này hay dạng khác.
Nhưng Ethiopia đã không là đại diện của châu Phi. Ở nơi khác, chế độ nô lệ đã
không được thay thế bằng chế độ nông nô; chế độ nô lệ Phi châu và các thể chế
ủng hộ nó vẫn tiếp tục thêm nhiều thế kỷ. Ngay cả con đường cuối cùng của
Ethiopia cũng rất khác. Sau thế kỷ thứ bảy, Ethiopia vẫn đã cô lập ở vùng núi của
Đông Phi khỏi các quá trình mà sau đó đã ảnh hưởng đến con đường thể chế của
châu Âu, như sự nổi lên của các thành phố độc lập, các ràng buộc mới sinh đối
với quốc vương và sự mở rộng thương mại Đại Tây Dương sau việc khám phá ra
châu Mỹ. Hệ quả là, phiên bản của các thể chế chuyên chế của nó phần lớn vẫn
không thay đổi. Lục địa Phi châu muộn hơn đã tương tác trong một năng lực rất
khác với châu Âu và châu Á. Đông Phi đã trở thành nhà cung cấp nô lệ chủ yếu
cho thế giới Arab, và Tây và Trung Phi, với tư cách nhà cung cấp nô lệ, đã bị lôi
kéo vào nền kinh tế thế giới trong thời gian sự mở rộng Âu châu gắn với thương
mại Đại Tây Dương. Thương mại Đại Tây Dương đã dẫn thế nào đến những con
đường phân kỳ một cách rõ rệt giữa Tây Âu và châu Phi còn là một thí dụ nữa về
sự phân kỳ thể chế do kết quả từ sự tương tác giữa các bước ngoặt và những sự
khác biệt thể chế hiện tồn. Trong khi ở nước Anh các khoản lợi nhuận của buôn
bán nô lệ đã giúp làm giàu cho những người chống chủ nghĩa chuyên chế, thì ở
châu Phi chúng lại đã giúp tạo ra và tăng cường chủ nghĩa chuyên chế.
TRÔI DẠT XA RA ● 179
Xa châu Âu hơn, các quá trình trôi dạt thể chế hiển nhiên còn tự do hơn để đi
theo con đường riêng của chúng. Ở châu Mỹ, chẳng hạn, mà đã bị cắt khỏi châu
Âu vào khoảng năm 15.000 TCN bởi sự tan băng nối liền Alaska với Nga, đã có
những đổi mới thể chế tương tự như các đổi mới thể chế của những người
Natufian, dẫn đến cuộc sống tĩnh tại, hệ thống thứ bậc, và sự bất bình đẳng – nói
ngắn gọn, đến các thể chế khai thác. Những điều này đã xảy ra đầu tiên ở Mexico
và Peru Andean và Bolivia, và đã dẫn đến Cách mạng đồ Đá Mới châu Mỹ, với
việc thuần hóa ngô. Đã chính là ở các nơi này mà các hình thức ban đầu của sự
tăng trưởng khai thác đã xảy ra, như chúng ta đã thấy trong các thành-quốc Maya.
Nhưng cũng theo cùng cách, mà những đột phá lớn theo hướng các thể chế bao
gồm và tăng trưởng công nghiệp ở châu Âu đã không đến từ các nơi thế giới La
Mã đã có ảnh hưởng mạnh nhất, các thể chế bao gồm ở châu Mỹ đã không phát
triển ở những vùng đất của các nền văn minh sớm này. Thực vậy, như chúng ta đã
thấy ở chương 1, các nền văn minh định cư dày đặc này đã tương tác theo một
cách tai ác với chủ nghĩa thuộc địa Âu châu để tạo ra một “sự đảo ngược vận
may,” làm cho các nơi trước kia tương đối giàu trở thành tương đối nghèo ở châu
Mỹ. Ngày nay chính Hoa Kỳ và Canada, những nơi khi đó đã tụt hậu xa đằng sau
các nền văn minh phức tạp ở Mexico, Peru, và Bolivia, là giàu hơn phần còn lại
của châu Mỹ rất nhiều.
NHỮNG HỆ QUẢ CỦA SỰ TĂNG TRƯỞNG SỚM
Thời kỳ dài, giữa Cách mạng đồ Đá Mới mà đã bắt đầu vào năm 9.500 TCN và
Cách mạng Công nghiệp Anh vào cuối thế kỷ thứ mười tám, đã bừa bộn với các
đợt cố gắng tăng trưởng kinh tế. Những đợt cố gắng này được kích bởi những đổi
mới thể chế mà cuối cùng đã mất hiệu lực. Ở La Mã Cổ xưa các thể chế của nền
Cộng hòa, mà đã tạo ra mức độ nào đó của sức sống kinh tế và đã cho phép việc
xây dựng một đế chế đồ sộ, đã bị tàn phá sau cuộc đảo chính của Julius Caesar và
sự xây dựng đế chế dưới thời Augustus. Đã cần đến hàng thế kỷ để cuối cùng Đế
chế La Mã biến mất, và sự suy sụp đã kéo dài; nhưng một khi các thể chế cộng
hòa tương đối bao gồm đã nhường đường cho các thể chế khai thác của đế chế, thì
sự thoái bộ kinh tế đã trở nên hầu như không thể tránh khỏi.
180 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Động học của Venice cũng đã tương tự. Sự thịnh vượng kinh tế của Venice đã
được tạo dựng bởi các thể chế mà đã có các yếu tố bao gồm quan trọng, nhưng
các thể chế này đã bị xói mòn khi các elite hiện tồn đã đóng hệ thống lại với
những người gia nhập mới và thậm chí đã cấm các thể chế mà đã tạo ra sự thịnh
vượng của nền cộng hòa.
Dẫu kinh nghiệm La Mã có đáng chú ý đến thế nào, không phải sự thừa kế của
La Mã là cái đã dẫn trực tiếp đến sự nổi lên của các thể chế bao gồm ở nước Anh
và đến Cách mạng Công nghiệp Anh. Các nhân tố lịch sử định hình các thể chế
phát triển thế nào, nhưng đây không phải là một quá trình đơn giản, tiền định, tích
lũy. La Mã và Venice minh họa các bước ban đầu tiến đến tính bao gồm đã bị đảo
ngược ra sao. Phong cảnh kinh tế và thể chế mà La Mã đã tạo ra khắp châu Âu và
Trung Đông đã không dẫn một cách không thể lay chuyển nổi đến các thể chế bao
gồm được bén rễ chắc của các thế kỷ muộn hơn. Thực ra, những việc này đã nổi
lên đầu tiên và mạnh nhất ở nước Anh, nơi ảnh hưởng La Mã đã yếu nhất và nơi
nó biến mất một cách dứt khoát nhất, hầu như không có một dấu vết, trong thế kỷ
thứ năm SCN.
Thay vào đó, như chúng ta đã thảo luận ở chương 4, lịch sử đóng một vai trò
chủ yếu thông qua sự trôi dạt thể chế mà tạo ra những sự khác biệt thể chế, dẫu
đôi khi nhỏ, mà sau đó được khuếch đại lên khi chúng tương tác với các bước
ngoặt. Chính bởi vì những sự khác biệt thể chế này thường là nhỏ mà chúng có
thể bị đảo ngược một cách dễ dàng và không nhất thiết là hệ quả của một quá
trình tích lũy đơn giản.
Tất nhiên, La Mã đã có những ảnh hưởng lâu dài lên châu Âu. Luật và các thể
chế La Mã đã ảnh hưởng đến luật và các thể chế mà các vương quốc của những
người dã man đã dựng lên sau sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã. Cũng chính sự
sụp đổ của La Mã đã là cái tạo ra phong cảnh chính trị phi tập trung mà đã phát
triển thành trật tự phong kiến. Sự biến mất của tình trạng nô lệ và sự nổi lên của
các thành phố độc lập đã là các sản phẩm phụ dài, kéo dài (và, tất nhiên, tùy thuộc
ngẫu nhiên về mặt lịch sử) của quá trình này. Những điều này trở nên đặc biệt
quan trọng khi Cái Chết Đen đã làm lung lay xã hội phong kiến một cách sâu sắc.
Từ đống tro tàn của Cái Chết Đen nổi lên các thị trấn và các thành phố mạnh hơn,
và một giai cấp nông dân không còn bị gắn với đất và mới thoát được các nghĩa
vụ phong kiến. Đã chính xác là các bước ngoặt được tháo ra bởi sự sụp đổ của Đế
TRÔI DẠT XA RA ● 181
chế La Mã là những cái đã dẫn đến một sự trôi dạt thể chế mạnh tác động đến
toàn bộ châu Âu theo một cách mà không có cái tương tự ở châu Phi hạ-Sahara,
châu Á, hay châu Âu.
Vào thế kỷ thứ mười sáu, về mặt thể chế châu Âu đã rất khác với châu Phi hạ-
Sahara và châu Mỹ. Tuy đã không giàu hơn nhiều so với hầu hết các nền văn
minh Á châu ngoạn mục nhất ở Ấn Độ hay Trung Quốc, châu Âu đã khác biệt với
các chính thể này trên nhiều phương diện chủ chốt. Thí dụ, nó đã phát triển các
thể chế đại diện thuộc loại không được biết đến ở đó. Những cái này đã sẽ đóng
một vai trò cốt yếu trong sự phát triển của các thể chế bao gồm. Như chúng ta sẽ
thấy trong hai chương tiếp theo, những sự khác biệt thể chế nhỏ sẽ là những cái
thực sự quan trọng bên trong châu Âu; và những cái này tạo thuận lợi cho nước
Anh, bởi vì chính ở đó là nơi trật tự phong kiến đã nhường bước một cách toàn
diện nhất cho những người nông dân có đầu óc thương mại và các trung tâm đô
thị độc lập nơi các nhà buôn và các nhà công nghiệp đã có thể phát đạt. Các nhóm
này đã đòi hỏi rồi các quyền tài sản an toàn hơn, các thể chế kinh tế khác nhau, và
tiếng nói chính trị từ các quốc vương của họ. Toàn bộ quá trình này sẽ tới tột đỉnh
trong thế kỷ thứ mười bảy.
7.
ĐIỂM NGOẶT
RẮC RỐI VỚI DỆT KIM
NĂM 1583 WILLIAM LEE đã trở về từ việc học tập của ông ở Đại học
Cambridge để trở thành linh mục địa phương ở Calverton, nước Anh. Gần đây
Elizabeth I (1558-1603) đã ban hành một quyết định rằng thần dân của bà phải
luôn luôn đội một mũ được đan. Lee đã nghi chép, “những người đan đã là các
phương tiện duy nhất để làm ra đồ như vậy nhưng đã mất quá lâu thời gian để
hoàn thành mặt hàng. Tôi đã bắt đầu nghĩ. Tôi nhìn mẹ và các chị em tôi ngồi
trong ánh sáng chiều tà thoăn thoắt với những chiếc kim đan của họ. Nếu đồ được
đan bằng hai kim và một hàng sợi, tại sao lại không dùng nhiều kim để đưa sợi”.
Ý nghĩ rất quan trọng này đã là khởi đầu của việc cơ giới hóa sản xuất hàng
dệt. Lee đã trở nên bị ám ảnh với việc làm ra một chiếc máy mà sẽ giải phóng con
người khỏi việc đan bằng tay không bao giờ ngớt. Ông nhớ lại, “tôi đã bắt đầu sao
lãng các nghĩa với Nhà thờ và gia đình. Ý tưởng về chiếc máy của tôi và việc tạo
ra nó đã chiếm hết tâm trí và trái tim tôi.”
Cuối cùng, vào năm 1589, “khung dệt kim” máy dệt kim của ông đã xong. Ông
đi London với sự hứng khởi xin một cuộc yết kiến với Elizabeth I để giới thiệu
với bà chiếc máy hữu ích đến thế nào và yêu cầu bà cấp cho một bằng sáng chế
mà sẽ ngăn những người khác sao chép thiết kế của ông. Ông đã thuê một tòa nhà
để dựng máy lên và, với sự giúp đỡ của đại biểu địa phương ở Quốc hội Richard
Parkyns, gặp Henry Carey, Chúa công Hudson, một thành viên của Hội đồng Cơ
mật của Nữ hoàng. Carey đã dàn xếp cho Nữ hoàng Elizabeth đến xem chiếc máy,
nhưng phản ứng của bà đã gây choáng váng. Bà đã từ chối cấp bằng sáng chế cho
Lee, thay vào đó lại nhận xét, “Cậu Lee, nhà ngươi nhắm cao. Nhà ngươi hãy cân
nhắc sáng chế này có thể làm gì đối với các thần dân đáng thương của ta. Nó sẽ
chắc chắn làm cho họ phá sản bằng cách cướp đi công ăn việc làm của họ, như thế
ĐIỂM NGOẶT ● 183
biến họ thành những kẻ ăn mày.” Bị đánh bại, Lee chuyển sang Pháp để thử vận
may của mình ở đó; khi đã thất bại ở đó, ông quay về nước Anh, nơi ông đã yêu
cầu James I (1603-1625), vua kế vị Elizabeth, cấp bằng sáng chế, James I cũng đã
từ chối, vì cùng lý do như Elizabeth. Cả hai đã sợ rằng việc cơ giới hóa sản xuất
dệt kim sẽ gây bất ổn về mặt chính trị. Nó sẽ ném người dân khỏi việc làm, gây ra
thất nghiệp và bất ổn chính trị, và đe dọa quyền lực hoàng gia. Máy dệt kim đã là
một đổi mới hứa hẹn sự tăng năng suất khổng lồ, nhưng nó cũng hứa hẹn một sự
phá hủy sáng tạo.
PHẢN ỨNG ĐỐI VỚI sáng chế tài giỏi của Lee minh họa ý tưởng then chốt của
cuốn sách này. Sự sợ hãi phá hủy sáng tạo là lý do chủ yếu vì sao đã không có sự
gia tăng bền vững của mức sống giữa các cuộc Cách mạng đồ Đá Mới và Cách
mạng công nghiệp. Đổi mới công nghệ làm cho các xã hội loài người thịnh
vượng, nhưng nó cũng kéo theo việc thay thế cái cũ bằng cái mới, và sự phá hủy
các đặc quyền kinh tế và quyền lực chính trị của những người nhất định. Cho tăng
trưởng kinh tế bền vững, chúng ta cần các công nghệ mới, những cách mới để làm
các thứ, và thường thường chúng sẽ đến từ những người mới như Lee. Nó có thể
làm cho xã hội thịnh vượng, nhưng quá trình phá hủy sáng tạo mà nó khởi động
sẽ đe dọa sinh kế của những người làm việc với công nghệ cũ, như những người
đan tay mà sẽ thấy mình bị thất nghiệp bởi công nghệ của Lee. Quan trọng hơn,
những đổi mới lớn như máy dệt kim của Lee cũng đe dọa định hình lại quyền lực
chính trị. Cuối cùng chẳng phải là sự lo lắng cho số phận của những người có thể
trở thành những người thất nghiệp như kết quả của máy dệt của Lee đã là cái dẫn
Elizabeth I và James I đến chống đối sáng chế của ông; mà chính là sự sợ hãi của
họ rằng họ sẽ trở thành những kẻ thua chính trị – nỗi lo ngại của họ rằng những
người bị sáng chế sa thải sẽ gây ra bất ổn chính trị và đe dọa quyền lực riêng của
họ. Như chúng ta đã thấy với các Luddite (trang 85-86), thường có thể phớt lờ sự
kháng cự của những người lao động như những người đan bằng tay. Nhưng giới
elite, đặc biệt khi quyền lực của họ bị đe dọa, tạo ra một rào cản ghê gớm hơn đối
với đổi mới. Sự thực rằng họ có nhiều để mất từ sự phá hủy sáng tạo có nghĩa
không chỉ rằng họ sẽ không phải là những người đưa những sự đổi mới sáng tạo
mới vào, mà cũng có nghĩa rằng họ thường chống lại và thử chặn những đổi mới
như vậy. Như thế xã hội cần những người mới đến để đưa ra những đổi mới cấp
tiến nhất, và những người mới này và sự phá hủy sáng tạo họ gây ra thường phải
184 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
vượt qua nhiều nguồn kháng cự, kể cả sự kháng cự từ các nhà cai trị và các elite
hùng mạnh.
Trước nước Anh thế kỷ thứ mười bảy, các thể chế khai thác đã là chuẩn mực
suốt lịch sử. Có lúc chúng đã có thể tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, như đã được chỉ
ra trong hai chương trước, đặc biệt khi chúng chứa những yếu tố bao gồm, như ở
Venice và Rome. Nhưng chúng đã không cho phép sự phá hủy sáng tạo. Sự tăng
trưởng mà chúng tạo ra đã không bền vững, và đi đến một sự kết thúc bởi vì thiếu
các đổi mới sáng tạo mới, bởi vì sự đấu đá chính trị nội bộ kịch liệt do mong
muốn để hưởng lợi từ sự khai thác gây ra, hoặc bởi vì các yếu tố bao gồm mới
sinh đã bị đảo ngược một cách dứt khoát, như ở Venice.
Ước tính tuổi thọ của một cư dân của một làng Netufian ở Abu Hureyra có lẽ
đã không khác mấy với ước tính tuổi thọ của một công dân La Mã Cổ xua. Ước
tính tuổi thọ của một người La Mã điển hình đã khá giống tuổi thọ của một cư dân
trung bình của nước Anh trong thế kỷ thứ mười bảy. Về mặt thu nhập, trong năm
301 SCN, hoàng đế La Mã Diocletian đã ban hành Chỉ dụ về Giá Tối đa, mà đã
quy định một sơ đồ lương mà những loại người lao động khác nhau được trả.
Chúng ta không biết chính xác các loại lương và giá của Diocletian đã được thực
thi tốt như thế nào, nhưng khi sử gia kinh tế Robert Allen sử dụng chỉ dụ của ngài
để tính các mức sống của một một người lao động điển hình không có kỹ năng,
ông đã thấy chúng hầu như chính xác như các mức sống của một người lao động
không có kỹ năng ở Italy thế kỷ mười bảy. Xa hơn theo hướng bắc, ở nước Anh,
lương đã cao hơn và tăng lên, và tình hình đã đang thay đổi. Việc này đã xảy ra
như thế nào là chủ đề của chương này.
XUNG ĐỘT CHÍNH TRỊ LUÔN LUÔN HIỆN DIỆN
Xung đột về các thể chế và sự phân bổ các nguồn lực đã tràn khắp trong lịch sử.
Chúng ta đã thấy, chẳng hạn, xung đột chính trị đã định hình thế nào sự tiến triển
của La Mã Cổ xưa và Venice, nơi cuối cùng nó đã được giải quyết có lợi cho các
elite, những người đã có khả năng tăng sự bám giữ quyền lực của họ.
Lịch sử Anh cũng đầy rẫy xung đột giữa nền quân chủ và các thần dân của nó,
giữa các phe nhóm khác nhau đấu tranh giành quyền lực, và giữa các elite và các
ĐIỂM NGOẶT ● 185
công dân. Kết quả, tuy vậy, đã không luôn luôn để củng cố quyền lực của những
người nắm nó. Trong năm 1215, các nam tước, tầng lớp elite dưới vua, đã chống
lại Vua John và đã bắt nhà vua ký Magna Carta (“Hiến chương Vĩ đại”) ở
Runnymede (xem Bản đồ 9, trang 112). Văn kiện này đã ban hành một số nguyên
tắc cơ bản mà đã là những thách thức đáng kể đối với quyền lực của nhà vua.
Quan trọng nhất, nó đã xác lập rằng nhà vua phải tham vấn các nam tước để tăng
các loại thuế. Điều khoản lôi thôi nhất đã là điều số 61, mà nó nói rõ, “các nam
tước sẽ chọn bất cứ hai mươi lăm nam tước nào thuộc lĩnh vực nào họ muốn,
những người với tất cả sức mạnh của họ là để tuân thủ, bảo vệ, và làm cho được
tuân thủ hòa bình và các quyền tự do mà chúng ta đã ban và đã xác nhận chúng
bằng hiến chương hiện tại này của chúng ta.” Về cơ bản, các nam tước đã lập ra
một hội đồng để đảm bảo chắc chắn rằng nhà vua thực hiện hiến chương, và nếu
nhà vua không thực hiện thì hai mươi lăm nam tước này đã có quyền chiếm các
lâu đài, đất đai, và các tài sản “... cho đến khi, theo phán xét của họ, đã được bồi
thường.” Vua John đã không thích Magna Carta, và ngay sau khi các nam tước
giải tán, ông đã bảo giáo hoàng bãi bỏ nó. Nhưng cả quyền lực chính trị của các
nam tước và ảnh hưởng của Magna Carta đã vẫn còn. Nước Anh đã đi bước đi
chập chững đầu tiên của nó hướng tới chủ nghĩa đa nguyên.
Xung đột về các thể chế chính trị vẫn tiếp tục, và quyền lực của nền quân chủ
đã bị hạn chế thêm bởi Quốc hội được bầu đầu tiên trong năm 1265. Không giống
Đại hội Dân thường ở Rome hay các cơ quan lập pháp được bầu ngày nay, các
thành viên của nó khởi đầu đã là các quý tộc phong kiến, và sau đó đã là các hầu
tước (knight) và các quý tộc giàu có nhất của quốc gia. Bất chấp việc gồm có các
elite, Quốc hội Anh đã phát triển hai đặc trưng phân biệt. Thứ nhất, nó đã đại diện
không chỉ cho các elite gắn bó thân thiết với nhà vua mà cả một tập hợp rộng các
lợi ích, kể cả các quý tộc nhỏ dính dáng đến các ngành nghề khác nhau, như
thương mại và công nghiệp, và muộn hơn là “gentry – tầng lớp quý tộc nhỏ”, một
tầng lớp mới của các nông dân thương mại và di động hướng lên. Như thế Quốc
hội đã trao quyền cho một bộ phận khá rộng của xã hội – đặc biệt theo tiêu chuẩn
của thời đó. Thứ hai, và chủ yếu như một kết quả của đặc trưng thứ nhất, nhiều
thành viên Quốc hội đã phản đối một cách kiên định các nỗ lực của nền quân chủ
để tăng quyền lực của nó và sẽ trở thành trụ cột của những người chiến đấu chống
lại chế độ quân chủ trong Nội Chiến Anh và trong Cách mạng Vinh quang.
186 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Dẫu có Magna Carta và Quốc hội được bầu đầu tiên, tuy vậy, xung đột chính
trị vẫn tiếp tục về quyền lực của nền quân chủ và ai là vua. Xung đột giữa-elite
này đã chấm dứt với Chiến tranh Hoa Hồng, một cuộc tranh chấp tay đôi dài giữa
các Dòng họ Lancaster và York, hai dòng họ với các địch thủ để làm vua. Những
người thắng đã là những người thuộc dòng họ Lancaster, mà ứng viên làm vua
của họ, Henry Tudor, đã trở thành Henry VII trong năm 1485.
Hai quá trình có quan hệ qua lại khác đã xảy ra. Quá trình thứ nhất đã là sự tập
trung hóa chính trị tăng lên, được khởi động bởi nhà Tudor. Sau 1485 Henry VII
đã tước vũ khí giới quý tộc, thực ra, phi quân sự họ và vì thế mở rộng một cách ồ
ạt quyền lực của nhà nước trung ương. Con trai ông, Henry VIII, đã thực hiện qua
bộ trưởng chính của ông, Thomas Comwell, một cuộc cách mạng trong chính
phủ. Trong các năm 1530, Comwell đã đưa vào một nhà nước quan liêu mới sinh.
Thay cho chính phủ chỉ làm việc nội trợ riêng cho nhà vua, nó trở thành một tập
hợp tách biệt của các tổ chức lâu dài. Điều này được bổ sung bởi việc Henry VIII
từ bỏ Giáo hội Công giáo (Catholic) La Mã và “sự Giải tán các Tu viện,” mà
trong đó Henry VIII đã chiếm đoạt tất cả đất của Giáo hội. Việc dỡ bỏ quyền lực
của Giáo hội đã là một phần của việc làm cho nhà nước tập trung hơn. Sự tập
trung hóa này của các thể chế nhà nước đã có nghĩa rằng lần đầu tiên, các thể chế
chính trị bao gồm đã trở nên có thể. Quá trình này được khởi xướng bởi Henry
VII và Henry VIII không chỉ đã tập trung hóa các thể chế nhà nước mà cũng đã
làm tăng đòi hỏi cho sự đại diện chính trị có cơ sở rộng hơn. Quá trình tập trung
hóa chính trị thực sự có thể dẫn đến một hình thức của chủ nghĩa chuyên chế, khi
nhà vua và các đồng minh của ông có thể nghiền nát các nhóm hùng mạnh khác
trong xã hội. Đấy quả thực đã là một trong những lý do vì sao có sự phản đối
chống lại sự tập trung hóa nhà nước, như chúng ta đã thấy ở chương 3. Tuy vậy,
đối lập với lực lượng này, sự tập trung hóa các thể chế nhà nước cũng có thể huy
động sự đòi hỏi một hình thức mới sinh của chủ nghĩa đa nguyên, như nó đã làm
ở nước Anh dưới thời Tudor. Khi các nam tước và các elite khác nhận ra rằng
quyền lực chính trị sẽ ngày càng tập trung hơn và rằng quá trình này khó để chặn
lại, họ sẽ đưa ra những đòi hỏi để có tiếng nói về quyền lực được tập trung này sẽ
được sử dụng ra sao. Trong nước Anh của cuối thế kỷ mười lăm và thế kỷ thứ
mưới sáu, điều này đã có nghĩa rằng các nỗ lực của các nhóm này để có một Quốc
hội như cái đối trọng với Quốc vương và để kiểm soát một phần cách nhà nước
hoạt động. Như thế dự án Tudor đã không chỉ khởi xướng sự tập trung hóa chính
ĐIỂM NGOẶT ● 187
trị, một trụ cột của các thể chế bao gồm, mà nó cũng đóng góp gián tiếp cho chủ
nghĩa đa nguyên, trụ cột khác của các thể chế bao gồm.
Những sự phát triển này về các thể chế chính trị đã xảy ra trong một bối cảnh
của những thay đổi lớn về bản chất của xã hội. Đặc biệt quan trọng đã là sự mở
rộng xung đột chính trị mà đã mở rộng tập hợp các nhóm có khả năng để đưa ra
những đòi hỏi đối với nền quân chủ và các elite chính trị. Cuộc Khởi nghĩa Nông
dân (trang 99) năm 1381 đã là mấu chốt, mà sau đó elite Anh bị rung chuyển bởi
một chuỗi dài các cuộc nổi dậy của nhân dân. Quyền lực chính trị đã được phân
bổ lại không chỉ đơn giản từ nhà vua sang các thượng nghị sĩ, mà cũng từ giới
elite sang nhân dân. Những thay đổi này, cùng với những hạn chế ngày càng tăng
lên quyền lực của nhà vua, đã làm cho sự nổi lên của một liên minh rộng chống
lại chính thể chuyên chế là có thể và như thế đặt nền tảng cho các thể chế chính trị
đa nguyên.
Mặc dù bị phản bác, các thể chế chính trị và kinh tế của các triều đại Tudor kế
thừa và duy trì đã rõ ràng là khai thác. Trong năm 1603 Elizabeth I, con gái Henry
VIII người đã lên ngai vàng của nước Anh vào năm 1553, đã chết mà không có
con, các triều đại Tudor bị thay thế bằng triều đại nhà Stuart. Vua Stuart đệ nhất,
James I, đã không chỉ kế thừa các thể chế mà cả xung đột về chúng. Ông đã muốn
trở thành một nhà cai trị chuyên chế. Mặc dù nhà nước đã trở nên tập trung hơn
và sự thay đổi xã hội đang phân bổ lại quyền lực trong xã hội, các thể chế chính
trị đã vẫn chưa là các thể chế đa nguyên. Trong nền kinh tế, các thể chế khai thác
đã tự biểu thị không chỉ trong việc phản đối sáng chế của Lee, mà trong dạng của
các độc quyền, các độc quyền, và nhiều các độc quyền hơn. Trong năm 1601, một
danh sách các độc quyền này được đọc lên trong Quốc hội, với một thành viên hỏi
một cách châm biếm, “không có bánh mỳ ở đó ư?” Vào năm 1621 số chúng đã có
bảy trăm. Như sử gia Anh Christopher Hill diễn đạt, một người đã sống
trong một ngôi nhà được xây bằng gạch độc quyền, với các cửa sổ …
có kính độc quyền; được sưởi ấm bằng than độc quyền (ở Ireland
bằng củi gỗ độc quyền), cháy trong lò sưởi làm bằng sắt độc quyền …
Ông ta tắm bằng xà phòng độc quyền, quần áo của ông ta được hồ
cứng bằng hồ độc quyền. Ông ta mặc quần áo bằng đăng ten độc
quyền, vải lanh độc quyền, da thuộc độc quyền, chỉ vàng độc quyền.
Quần áo của ông ta được giữ bằng dây lưng độc quyền, cúc độc quyền
188 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
và ghim độc quyền. Chúng được nhuộm bằng các thuốc nhuộm độc
quyền. Ông ta ăn bơ độc quyền, các quả lý chua độc quyền, cá trích
đỏ độc quyền, cá hồi độc quyền, và tôm hùm độc quyền. Thức ăn của
ông ta được thêm gia vị bằng muối độc quyền, hồ tiêu độc quyền,
dấm độc quyền … Ông viết bằng bút độc quyền, đọc (qua các cặp
kính độc quyền, với ánh sáng của nến độc quyền) các sách in độc
quyền.
Các độc quyền này, và còn nhiều hơn nữa, đã cho các cá nhân hay các
nhóm quyền độc nhất để kiểm soát việc sản xuất nhiều mặt hàng. Chúng cản
trở loại phân bổ tài năng, mà hết sức cốt yếu cho sự thịnh vượng kinh tế.
Cả James I và con ông, người kế vị ông, Charles I đã khao khát tăng
cường nền quân chủ, giảm ảnh hưởng của Quốc hội, và thiết lập các thể chế
chuyên chế giống các thể chế được xây dựng ở Tây Ban Nha và Pháp để đẩy
mạnh sự kiểm soát của họ và của giới elite đối với nền kinh tế, làm cho các
thể chế có tính khai thác hơn. Xung đột giữa James I và Quốc hội đã lên đến
tột đỉnh trong các năm 1620. Trung tâm của cuộc xung đột này đã là sự kiểm
soát thương mại cả quốc tế lẫn bên trong các đảo Anh. Khả năng của Quốc
vương để cấp các độc quyền đã là nguồn chủ chốt của thu nhập cho nhà
nước, và đã được dùng thường xuyên như một cách để ban các quyền độc
quyền cho những người ủng hộ nhà vua. Không ngạc nhiên, thể chế khai thác
này ngăn chặn sự gia nhập và hạn chế hoạt động của thị trường cũng đã làm
tổn hại hoạt động kinh tế và lợi ích của nhiều thành viên của Quốc hội. Trong
năm 1623, Quốc hội đã ghi một chiến thắng đáng kể bằng tìm được cách để
thông qua Đạo luật Độc quyền, mà đã cấm James tạo ra các độc quyền nội
địa mới. Ông vẫn còn có thể cấp độc quyền thương mại quốc tế, tuy vậy, vì
quyền hạn của Quốc hội đã không mở rộng ra các vấn đề quốc tế. Các độc
quyền hiện tồn, quốc tế hay nội địa, đã không bị đụng chạm đến.
Quốc hội đã không họp đều đặn và phải được nhà vua triệu tập họp.
Thông lệ mà đã nổi lên sau Magna Carta đã là nhà vua phải họp với Quốc hội
để nhận được sự phê chuẩn cho các khoản thuế mới. Charles đã lên ngôi năm
1625, đã từ chối triệu tập Quốc hội họp sau 1629, và đã tăng cường các nỗ
lực của James I để xây dựng một chế độ chuyên chế vững chắc hơn. Ông ta
đưa vào việc cho vay bắt buộc, có nghĩa rằng người dân phải cho ông ta
ĐIỂM NGOẶT ● 189
“vay” tiền, và ông ta đơn phương thay đổi các điều khoản của món vay và từ
chối trả nợ. Ông đã tạo ra và bán các quyết định trong một lĩnh vực mà Đạo
luật Độc quyền đã để lại cho ông: các doanh nghiệp mạo hiểm buôn bán với
nước ngoài. Ông cũng đã làm xói mòn tính độc lập của ngành tư pháp và đã
thử can thiệp để ảnh hưởng đến kết quả của các vụ kiện. Ông đã thu nhiều
khoản tiền phạt và tiền thù lao, khoản lôi thôi nhất trong số đó là “tiền tàu
thuyền” – trong năm 1634 đánh thuế các hạt ven biển để đóng khoản ủng hộ
Hải quân Hoàng gia, và trong năm 1635, mở rộng việc thu ra các hạt nội địa.
Tiền tàu đã được thu mỗi năm cho đến 1640.
Hành vi ngày càng chuyên chế và các chính sách khai thác của Charles đã
tạo ra sự oán giận và sự chống cự trên khắp đất nước. Trong năm 1640 ông
đã đối mặt với một xung đột với Scotland và, không có đủ tiền để đưa một
quân đội thích đáng ra trận, ông đã buộc phải triệu tập Quốc hội để xin nhiều
thuế hơn. Cái gọi là Quốc hội Ngắn đã họp chỉ ba tuần. Các nghị sĩ hùng biện
những người đến London đã từ chối bàn về thuế, nhưng đã thổ lộ nhiều lời
phàn nàn, cho đến khi Charles gạt bỏ chúng. Những người Scot đã nhận ra
rằng Charles đã không có sự ủng hộ của dân tộc và đã xâm chiếm nước Anh,
chiếm đóng thành phố Newcastle. Charles đã mở ra các cuộc thương thuyết,
và những người Scot đã đòi hỏi rằng Quốc hội phải tham gia. Việc này xui
khiến Charles triệu tập cái khi đó được biết đến như Quốc hội Dài, bởi vì nó
tiếp tục họp cho đến 1648, từ chối giải tán ngay cả khi Charles đã yêu cầu nó
làm thế.
Trong năm 1642 Nội Chiến đã nổ ra giữa Charles và Quốc hội, cho dù có
nhiều người trong Quốc hội đã đứng về phía Quốc vương. Hình mẫu của các
cuộc xung đột đã phản ánh cuộc đấu tranh về các thể chế chính trị và kinh tế.
Quốc hội đã muốn một sự kết thúc các thể chế chính trị chuyên chế; nhà vua
đã muốn chúng được củng cố. Các xung đột này đã có gốc rễ trong kinh tế.
Nhiều người đã ủng hộ Quốc vương bởi vì họ đã được ban cho các độc quyền
béo bở. Thí dụ, các độc quyền địa phương được kiểm soát bởi các nhà buôn
giàu và hùng mạnh ở Shrewsbury và Onswestry đã được Quốc vương bảo vệ
khỏi sự cạnh tranh của các nhà buôn London. Các nhà buôn này đã đứng về
phía Charles I. Ở phía bên kia, công nghiệp luyện kim đã hưng thịnh xung
quanh Birmingham bởi vì các độc quyền đã là yếu ở đó và những người mới
190 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
đến ngành công nghiệp đã không phải phục vụ bảy năm học nghề như họ đã
phải ở các phần khác của nước Anh. Trong Nội Chiến họ đã làm ra gươm và
tạo ra những người tình nguyện cho phía Quốc hội. Tương tự, việc thiếu điều
tiết phường hội ở hạt Lancashire đã cho phép sự phát triển “Vải vóc Mới”,
một loại mới của vải nhẹ, trước năm 1640. Vùng nơi việc sản xuất các vải
này được tập trung đã là phần duy nhất của Lancashire ủng hộ phe Quốc hội.
Dưới sự lãnh đạo của Oliver Cromwell, các Nghị sĩ hùng biện – được biết
đến như những người Đầu Tròn gọi theo kiểu mà theo đó tóc của họ được cắt
– đã đánh bại những người theo chủ nghĩa bảo hoàng – được biết đến như các
Kỵ sĩ. Charles đã bị xét xử và bị hành quyết trong năm 1649. Sự thất bại của
ông và sự thủ tiêu nền quân chủ, tuy vậy, đã không tạo ra các thể chế bao
gồm. Thay vào đó, nền quân chủ bị thay thế bởi chế độ độc tài của Olivier
Cromwell. Tiếp sau cái chết của Cromwell, nền quân chủ được phục hồi
trong năm 1660 và đã lấy lại nhiều đặc quyền mà đã bị tước mất trong năm
1649. Con trai của Charles, Charles II, sau đó lại bắt đầu cùng chương trình
để tạo ra chính thể chuyên chế ở nước Anh. Những nỗ lực này đã chỉ được
tăng cường bởi em trai ông James II, người lên ngôi sau khi Charles chết
trong năm 1685. Trong năm 1688, nỗ lực của James để thiết lập lại chính thể
chuyên chế đã tạo ra một cuộc nội chiến nữa. Lần này Quốc hội đã thống
nhất hơn và có tổ chức hơn. Họ đã mời Statholder (phó Vương, Thống đốc)
Hà Lan, William xứ Orange, và vợ ông, Mary, con gái theo giáo phái Kháng
cách (Protestant) của James, để thay thế James. William mang một quân đội
và yêu sách ngai vàng, để cai trị không như một quốc vương chuyên chế mà
dưới một nền quân chủ lập hiến do Quốc hội tạo dựng. Hai tháng sau sự cập
bến của William ở các đảo Anh tại Brixham ở Devon (xem Bản đồ 9, trang
112), quân đội của James đã tan rã và ông đã chạy trốn sang Pháp.
CÁCH MẠNG VINH QUANG
Sau chiến thắng trong Cách mạng Vinh quang, Quốc hội và William đã
thương lượng một hiến pháp mới. Những thay đổi đã được báo trước bởi
“Tuyên ngôn” của William được đưa ra không lâu trước cuộc xâm lấn của
ông. Chúng được lưu giữ thêm trong Tuyên ngôn về các Quyền (Declaration
ĐIỂM NGOẶT ● 191
of Rights), do Quốc hội soạn ra trong tháng Hai năm 1689. Tuyên ngôn đã
được đọc hết cho William nghe trong cùng phiên họp nơi ông được trao
vương miện. Theo nhiều cách, Tuyên ngôn, mà được gọi là Đạo luật về các
Quyền sau khi nó được ký thành luật, đã mơ hồ. Một cách quyết định, tuy
vậy, nó đã thiết lập các nguyên tắc lập hiến chính yếu. Nó đã xác định sự kế
vị ngai vàng, và đã làm vậy theo một cách trệch đáng kể khỏi các nguyên tắc
cha truyền con nối được công nhận là đúng khi đó. Nếu một lần Quốc hội đã
có thể loại bỏ một quốc vương và thay thế ông ta bằng một người họ ưa thích
hơn, thì tại sao lại không lần nữa? Tuyên ngôn về các Quyền cũng đã khẳng
định rằng quốc vương không thể đình chỉ luật hay không được miễn trừ nghĩa
vụ tuân thủ luật, và nó cũng đã nhắc lại tính bất hợp pháp của thuế mà không
có sự tán thành của Quốc hội. Ngoài ra, nó tuyên bố rằng không thể có quân
đội thường trực nào ở nước Anh mà không có sự ưng thuận của Quốc hội. Sự
mơ hồ lẻn vào các điều khoản như điều số 8, mà tuyên bố, “việc bầu các
thành viên của Quốc hội phải là tự do,” nhưng nó đã không quy định rõ “tự
do” được xác định thế nào. Còn mơ hồ hơn là điều 13, mà nội dung chính của
nó là các Quốc hội cần phải tổ chức [họp] thường xuyên. Vì khi nào và liệu
có thể tổ chức [họp] Quốc hội đã là một vấn đề tranh cãi trong suốt cả thế kỷ,
người ta có thể kỳ vọng sự quy định chi tiết hơn nhiều trong điều khoản này.
Tuy nhiên, lý do của việc hành văn mơ hồ này là rõ. Các điều khoản phải
được thực thi. Trong triều đại của Charles II, đã có một Đạo luật Ba năm mà
nó khẳng định rằng các Quốc hội phải được triệu tập ít nhất một lần trong
mỗi ba năm. Nhưng Charles đã phớt lờ nó, và đã chẳng có gì xảy ra, bởi vì đã
không có phương pháp để thực thi nó. Sau 1688, Quốc hội đã có thể thử đưa
ra một phương pháp để thực thi điều khoản này, như các nam tước đã làm với
hội đồng của họ sau khi Vua John ký Magna Carta. Họ đã không làm vậy bởi
vì họ đã không cần phải làm thế. Điều này là bởi vì quyền lực và quyền quyết
định đã được chuyển cho Quốc hội sau 1688. Ngay cả không có các quy tắc
hay luật lập hiến cụ thể, William đơn giản đã từ bỏ nhiều tập quán của các vị
vua trước đó. Ông đã ngừng can thiệp vào các quyết định pháp lý và từ bỏ
“các quyền” trước, như nhận được thu nhập thuế quan suốt đời. Tóm lại,
những thay đổi này về các thể chế chính trị thể hiện chiến thắng của Quốc hội
đối với nhà vua, và như thế chấm dứt chính thể chuyên chế ở nước Anh và
sau đó ở Vương quốc Anh – khi nước Anh và Scotland thống nhất bằng Đạo
luật Thống nhất năm 1707. Từ đó trở đi, Quốc hội đã nắm vững chắc sự kiểm
192 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
soát chính sách nhà nước. Điều này tạo ra một sự khác biệt to lớn, bởi vì các
lợi ích của Quốc hội đã rất khác với các lợi ích của các vua nhà Stuart. Vì
nhiều người trong Quốc hội đã có các khoản đầu tư quan trọng trong thương
mại và công nghiệp, họ đã có quyền lợi mạnh mẽ trong thực thi các quyền tài
sản. Nhà Stuart đã thường xuyên vi phạm các quyền tài sản; bây giờ chúng sẽ
được giữ gìn. Hơn nữa, khi nhà Stuart kiểm soát việc chính phủ chi tiêu tiền
thế nào, Quốc hội đã phản đối các khoản thuế lớn hơn và đã ngần ngại trước
sự tăng cường quyền lực của nhà nước. Bây giờ bản thân Quốc hội kiểm soát
việc chi tiêu, nó đã vui lòng tăng thuế và chi tiền cho các hoạt động mà nó
cho là có ích. Đứng đầu trong các hoạt động đó đã là tăng cường hải quân,
mà sẽ bảo vệ các lợi ích buôn bán quốc tế của nhiều thành viên của Quốc hội.
Thậm chí còn quan trọng hơn các lợi ích của các nghị sĩ hùng biện đã là
bản chất đa nguyên đang nổi lên của các thể chế chính trị. Nhân dân Anh bây
giờ đã có sự tiếp cận đến Quốc hội, theo một cách mà họ chưa từng có khi
chính sách bị nhà vua lèo lái. Tất nhiên, việc này đã chỉ là một phần bởi vì
các thành viên của Quốc hội được bầu. Nhưng vì nước Anh còn xa mới là
một nền dân chủ trong thời kỳ đó, sự tiếp cận này đã chỉ cung cấp một mức
độ đại diện khiêm tốn. Giữa nhiều bất bình đẳng của nó là chỉ có ít hơn 2
phần trăm dân số đã có thể bỏ phiếu trong thế kỷ thứ mười tám, và những
người này đã phải là các đàn ông. Các thành phố nơi Cách mạng Công
nghiệp đã xảy ra, Birmingham, Leeds, Manchaster, và Sheffield, đã không có
sự đại diện độc lập trong Quốc hội. Thay vào đó các vùng nông thôn lại được
đại diện quá mức. Tồi không kém là, quyền bỏ phiếu ở vùng nông thôn, ở các
“hạt-county”, đã dựa trên quyền sở hữu đất, và nhiều vùng đô thị, các “thành
phố – borough”, đã bị kiểm soát bởi elite nhỏ, người đã không cho phép các
nhà công nghiệp mới được bỏ phiếu hay ứng cử vào một chức vụ. Trong
thành phố Birmingham, chẳng hạn, mười ba thị dân đã có độc quyền để bỏ
phiếu. Thêm vào đấy đã có “các thành phố mục nát,” mà về mặt lịch sử đã có
quyền bỏ phiếu nhưng “đã mục nát hết,” hoặc bởi vì dân cư của nó đã chuyển
đi theo thời gian hay, trong trường hợp của Dunwich ở bờ đông nước Anh, đã
thực sự rơi vào đại dương như kết quả của sự sạt lở bờ. Trong mỗi của các
thành phố mục nát này, một số nhỏ những người bỏ phiếu bầu ra hai thành
viên của Quốc hội. Sarum cổ đã có bảy người có quyền bỏ phiếu, Dunwich
ba mươi hai, và mỗi thành phố bầu hai thành viên của Quốc hội.
ĐIỂM NGOẶT ● 193
Nhưng đã có những cách khác để ảnh hưởng đến Quốc hội và như thế đến
các thể chế kinh tế. Quan trọng nhất đã là thông qua kiến nghị, và cách này
đã quan trọng hơn rất nhiều so với mức độ hạn chế của dân chủ cho sự nổi
lên của chủ nghĩa đa nguyên sau Cách mạng Vinh quang. Bất cứ ai đã đều có
thể kiến nghị với Quốc hội, và họ đã làm. Rất quan trọng, khi người dân kiến
nghị, Quốc hội đã lắng nghe. Điều này hơn bất cứ thứ gì khác đã phản ánh sự
thất bại của chính thể chuyên chế, sự trao quyền cho một mảng khá rộng của
xã hội, và sự thăng tiến của chủ nghĩa đa nguyên ở nước Anh sau 1688. Hoạt
động kiến nghị cuống cồng cho thấy rằng quả thực đã là một nhóm rộng như
vậy trong xã hội, vượt quá xa những người ngồi trong hay thậm chí được đại
diện trong Quốc hội, mà đã có sức mạnh để ảnh hưởng đến cách nhà nước
hoạt động. Và họ đã sử dụng nó.
Trường hợp của các độc quyền minh họa điều này rõ nhất. Chúng ta đã
thấy ở trên các độc quyền đã ở trung tâm của các thể chế kinh tế khai thác
như thế nào trong thế kỷ thứ mười bảy. Chúng đã bị tấn công trong năm 1623
với Đạo luật Độc quyền, và đã là một vấn đề gây bất đồng nghiêm trọng
trong Nội Chiến Anh. Quốc hội Dài đã xóa bỏ tất cả các độc quyền nội địa
mà đã ảnh hưởng hết sức đến đời sống nhân dân. Mặc dù Charles II và James
II đã không thể đưa các độc quyền này trở lại, họ đã tìm được cách để duy trì
khả năng cấp các độc quyền hải ngoại. Một đã là Công ty Hoàng gia Phi
châu, Royal African Company, RAC, mà điều lệ độc quyền của nó được
Charles II ban hành năm 1660. Công ty này đã giữ độc quyền về buôn bán nô
lệ Phi châu béo bở, và thống đốc và cổ đông chính của nó đã là James em của
Charles, người không lâu sau đã trở thành James II. Sau 1688 công ty đã mất
không chỉ thống đốc của nó, mà cả người ủng hộ chính của nó. James đã bảo
vệ một cách chuyên cần sự độc quyền của công ty chống lại “những kẻ xen
ngang,” các nhà buôn độc lập những người đã thử mua nô lệ ở Tây châu Phi
và bán chúng ở châu Mỹ. Đây đã là việc buôn bán rất có lời, và RAC đã đối
mặt với nhiều thách thức, vì tất cả việc buôn bán khác của người Anh qua
Đại Tây Dương đã là tự do. Năm 1689 RAC đã chiếm hàng hóa của một kẻ
xen ngang, một Nightingale (Chim Sơn ca). Nightingale kiện RAC đã chiếm
bất hợp pháp hàng hóa, và Chánh Án Holt đã phán quyết rằng việc chiếm của
RAC là bất hợp pháp bởi vì nó đã sử dụng một quyền độc quyền được tạo ra
bởi đặc quyền hoàng gia. Holt đã lập luận rằng các đặc quyền độc quyền đã
194 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
có thể được tạo ra chỉ bởi luật, và việc này đã phải do Quốc hội làm. Như thế
Holt đã đẩy tất cả các độc quyền tương lai, không chỉ của RAC, vào tay của
Quốc hội. Trước 1688 James II đã có thể nhanh chóng loại bỏ bất cứ thẩm
phán nào người đưa ra phán xét như vậy. Sau 1688 tình hình đã khác.
Bây giờ Quốc hội phải quyết định làm gì với sự độc quyền, và các kiến
nghi bắt đầu bay tới tấp. Một trăm ba mươi lăm đã đến từ những kẻ xen
ngang đòi tự do thương mại ở Đại Tây Dương. Mặc dầu RAC đã phản ứng
bằng đúng cách như thế, nó đã không thể hy vọng để sánh ngang số lượng
hay quy mô của các kiến nghị đòi cái chết của nó. Những kẻ xen ngang đã
thành công trong định khung sự phản đối của họ dưới dạng không chỉ của tư
lợi hạn hẹp, mà của lọi ích quốc gia, mà quả thực đã thế. Như một kết quả,
chỉ 5 trong số 135 kiến nghi được ký bởi bản thân các nhà buôn xen ngang,
và 73 trong số các kiến nghị của những kẻ xen ngang đã đến từ các tỉnh bên
ngoài London, đối lại với 8 cho RAC. Từ các thuộc địa, nơi việc đưa thỉnh
cầu, kiến nghị cũng đã được phép, những kẻ xen ngang thu được 27 kiến
nghị, RAC được 11. Những kẻ xen ngang đã thu thập được nhiều chữ ký hơn
nhiều cho các kiến nghị của họ, tổng cộng 8.000 so với 2.500 cho RAC. Cuộc
chiến đấu tiếp diễn cho đến 1698, khi độc quyền của RAC bị hủy bỏ.
Cùng với vị trí mới này cho việc xác định các thể chế kinh tế và sự đáp lại
nhanh nhạy mới sau 1688, các nghị sĩ bắt đầu thực hiện một loạt những thay
đổi then chốt về các thể chế kinh tế và chính sách của chính phủ mà cuối
cũng đã mở đường cho Cách mạng Công nghiệp. Các quyền tài sản bị xói
mòn dưới thời nhà Stuart đã được tăng cường. Quốc hội đã bắt đầu một quá
trình cải cách về các thể chế kinh tế để thúc đẩy chế tác, hơn là đánh thuế và
cản trở nó. Loại “thuế nền lò sưởi” – một khoản thuế hàng năm cho mỗi lò
sưởi hay cái lò, mà các nhà sản xuất chế tác phải chịu nặng nhất, những
người đã phản đối nó một cách gay gắt – đã được hủy bỏ năm 1689, không
lâu sau khi William và Mary lên ngôi. Thay cho đánh thuế nền lò sưởi Quốc
hội bắt đầu đánh thuế đất.
Việc phân phối lại các gánh nặng thuế khóa đã không chỉ là chính sách
ủng hộ chế tác mà Quốc hội ủng hộ. Cả một loạt các đạo luật và luật pháp mà
mở rộng thị trường và tính sinh lợi của ngành dệt len đã được thông qua. Tất
cả điều này có ý nghĩa chính trị, vì nhiều trong số các nghị sĩ những người
ĐIỂM NGOẶT ● 195
phản đối James đã đầu tư nhiều vào các doanh nghiệp chế tác mới nảy sinh
này. Quốc hội cũng đã thông qua luật pháp mà cho phép việc tổ chức lại hoàn
toàn các quyền tài sản về đất, cho phép sự củng cố và sự loại bỏ nhiều hình
thức cổ xưa về các quyền tài sản và quyền sử dụng.
Một ưu tiên khác của Quốc hội đã là cải cách ngành tài chính. Mặc dù đã
có sự mở rộng hoạt động ngân hàng và tài chính trong thời kỳ dẫn tới Cách
mạng Vinh quang, quá trình này đã được thắt chặt bởi việc thành lập Ngân
hàng Anh quốc (Bank of England) năm 1694, như một nguồn quỹ cho công
nghiệp. Nó đã là một hậu quả trực tiếp khác của Cách mạng Vinh quang.
Việc thành lập Bank of England đã mở đường cho một “cách mạng tài chính”
sâu rộng hơn nhiều, mà đã dẫn đến một sự mở rộng to lớn của các thị trường
tài chính và hoạt động ngân hàng. Vào đầu thế kỷ mười tám, các khoản vay
đã sẵn có cho bất cứ ai người có thể đặt các tài sản thế chấp cần thiết. Sổ sách
của một ngân hàng tương đối nhỏ, C. Hoare’s & Co. ở London, mà đã sống
sót nguyên vẹn từ giai đoạn 1702-1724, minh họa điểm này. Mặc dù ngân
hàng đã có cho các quý tộc và chúa vay, toàn bộ hai phần ba của những
người vay lớn nhất của Hoare trong thời kỳ này đã không phải từ các tầng lớp
xã hội có đặc quyền. Thay vào đó họ đã là các nhà buôn, các nhà doanh
nghiệp, kể cả một John Smith, một người với cái tên thông dụng của một
người Anh trung bình, người đã được ngân hàng cho vay £2.600 trong giai
đoạn 1715-1719.
Cho đến nay chúng ta đã nhấn mạnh Cách mạng Vinh quang đã biến đổi
thế nào các thể chế chính trị Anh, biến chúng thành đa nguyên hơn, và cũng
bắt đầu đặt nền móng cho các thể chế kinh tế bao gồm. Còn một sự thay đổi
quan trọng nữa về các thể chế mà đã nổi lên từ Cách mạng Vinh quang: Quốc
hội đã tiếp tục quá trình tập trung hóa chính trị mà đã được nhà Tudor khởi
xướng. Đã không chỉ là các ràng buộc đã tăng lên, hay nhà nước đã điều tiết
nền kinh tế theo một cách khác, hay nhà nước Anh đã chi tiêu tiền cho những
thứ khác nhau; mà cũng là khả năng và năng lực của nhà nước đã tăng lên
theo mọi hướng. Điều này lần nữa lại minh họa các mối liên hệ giữa sự tập
trung hóa chính trị và chủ nghĩa đa nguyên: Quốc hội đã chống việc làm cho
nhà nước hiệu quả hơn và được cấp nguồn lực tốt hơn trước 1688 bởi vì
Quốc hội đã không thể kiểm soát nó. Sau 1688 đã là một câu chuyện khác.
196 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Nhà nước đã bắt đầu mở rộng, với các khoản chi mau chóng đạt mức 10
phần trăm của thu nhập quốc gia. Việc này được trụ đỡ bởi một sự mở rộng
cơ sở thuế, đặc biệt liên quan đến thuế hàng hóa, mà được thu trên sản phẩm
của một danh sách dài các mặt hàng được sản xuất trong nước. Đấy đã là
ngân sách nhà nước rất lớn trong giai đoạn đó, và thực ra lớn hơn mức mà
chúng ta thấy ngày nay ở nhiều phần của thế giới. Ngân sách nhà nước ở
Colombia, chẳng hạn, đã đạt quy mô tương đối này chỉ trong các năm 1980.
Trong nhiều phần của châu Phi hạ-Sahara – thí dụ ở Sierra Leone – ngân sách
nhà nước ngay cả ngày nay cũng nhỏ hơn rất nhiều so với quy mô của nền
kinh tế mà không có các dòng chảy vào lớn của viện trợ nước ngoài.
Nhưng sự mở rộng quy mô của nhà nước chỉ là một phần của quá trình tập
trung hóa chính trị. Quan trọng hơn điều này đã là chất lượng của cách mà
nhà nước đã vận hành và cách ứng xử của những người kiểm soát nó và
những người làm việc trong [bộ máy của] nó. Việc xây dựng các thể chế nhà
nước ở nước Anh quay lại đến thời Trung Cổ, nhưng như chúng ta đã thấy
(trang 186), các bước theo hướng tập trung hóa chính trị và phát triển bộ máy
hành chính hiện đại đã được làm một cách dứt khoát bởi Henry VII và Henry
VIII. Thế nhưng nhà nước vẫn còn xa hình thức hiện đại mà sẽ nổi lên sau
1688. Thí dụ, nhiều người được chỉ định đã được chọn trên cơ sở chính trị,
chứ không phải bởi vì công trạng và tài năng, và nhà nước đã vẫn chỉ có năng
lực rất hạn chế để thu thuế.
Sau 1688 Quốc hội đã bắt đầu cải thiện khả năng để tăng thu nhập thông
qua đánh thuế, một sự phát triển được minh họa tốt bởi bộ máy quản lý thuế
hàng hóa, mà đã mở rộng nhanh chóng từ 1.211 người năm 1690 lên 4.800
người vào năm 1780. Các thanh tra thuế hàng hóa đã đóng ở khắp đất nước,
được giám sát bởi những người thu, những người tiến hành các đợt thanh tra
để đo lường và kiểm tra số lượng bánh mì, bia, và các mặt hàng khác phải
chịu thuế hàng hóa. Mức độ của hoạt động này được minh họa bởi sử gia
John Brewer người tái dựng lại các vòng thanh tra thuế hàng hóa của Thanh
tra George Cowperthwaite. Giữa 12 tháng Sáu và 5 tháng Bảy năm 1710,
Thanh tra Cowperthwaite đã đi 290 dặm trong quận Richmond ở Yorkshire.
Trong thời gian này ông đã đến 263 nhà buôn lương thực thực phẩm, 71 nhà
buôn lúa mạch (malt), 20 nhà bán nến, và một nhà ủ rượu bia thông thường.
ĐIỂM NGOẶT ● 197
Trong tất cả, ông đã tiến hành 81 đo lường khác nhau về sản xuất và đã kiểm
tra công việc của 9 nhân viên thuế vụ hàng hóa những người đã làm việc cho
ông ta. Tám năm sau chúng ta thấy ông làm việc cũng siêng năng như thế,
nhưng bây giờ ở quận Wakefield, trong một phần khác của Yorkshire. Ở
Wakefield ông đã đi trung bình hơn mười chín dặm mỗi ngày và đã làm việc
sáu ngày một tuần, thường thanh tra bốn hay năm cơ sở. Trong ngày nghỉ của
mình, ngày chủ nhật, ông soạn sổ sách của mình, cho nên chúng ta có một hồ
sơ đầy đủ về các hoạt động của ông ta. Quả thực, hệ thống thuế hàng hóa đã
có sự giữ hồ sơ rất tinh vi. Các quan chức giữ ba loại sổ sách khác nhau, mà
tất cả trong số chúng được cho là khớp với nhau, và bất cứ sự giả mạo nào
với các sổ sách này đều là sự vi phạm nghiêm trọng. Mức đáng chú ý này của
sự giám sát nhà nước đối với xã hội vượt xa mức mà các chính phủ của hầu
hết các nước nghèo có thể đạt được hiện nay, và đấy là trong năm 1710. Cũng
quan trọng, sau 1688 nhà nước bắt đầu dựa nhiều hơn vào tài năng và ít hơn
vào người được bổ nhiệm chính trị, và đã phát triển một hạ tầng cơ sở hùng
mạnh để vận hành đất nước.
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP
Cách mạng Công nghiệp đã được biểu thị trong mọi khía cạnh của nền kinh
tế Anh. Đã có những cải thiện lớn trong giao thông, luyện kim, và sức hơi
nước. Nhưng lĩnh vực quan trọng nhất của đổi mới đã là cơ giới hóa việc sản
xuất vải sợi và sự phát triển các nhà máy để sản xuất các mặt hàng dệt được
chế tác này. Quá trình năng động này đã được tháo ra bởi những thay đổi thể
chế mà đã bắt nguồn từ Cách mạng Vinh quang. Đấy đã không chỉ là về việc
xóa bỏ các độc quyền nội địa, mà đã đạt được vào năm 1640, hay về các loại
thuế khác nhau, hay về sự tiếp cận đến tài chính. Mà đã là về một sự tổ chức
lại cơ bản các thể chế kinh tế ủng hộ các nhà đổi mới sáng tạo và các doanh
nhân khởi nghiệp, dựa trên sự nổi lên của các quyền tài sản ngày càng an toàn
và hiệu quả.
Những sự cải thiện về tính an toàn và hiệu quả của các quyền tài sản,
chẳng hạn, đã đóng vai trò cốt yếu trong “cách mạng giao thông,” lót đường
cho Cách mạng Công nghiệp. Đầu tư vào kênh và đường sá, vào cái được gọi
198 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
là đường lớn, đã tăng lên ồ ạt sau năm 1688. Những khoản đầu tư này, bằng
cách giảm chi phí giao thông, đã giúp tạo ra các diều kiện tiên quyết cho
Cách mạng Công nghiệp. Trước năm 1688, việc đầu tư vào hạ tầng cơ sở như
vậy đã bị cản trở bởi các hành động tùy tiện của các nhà vua Stuart. Sự thay
đổi tình hình sau 1688 được minh họa sinh động bởi vụ sông Salwerpe, ở
Worcestershire, nước Anh. Năm 1662 Quốc hội đã thông qua một đạo luật để
khuyến khích đầu tư nhằm làm cho tàu bè có thể đi lại trên sông Salwerpe, và
gia đình Baldwyn đã đầu tư £6.000 cho mục đích này. Đổi lại họ nhận được
quyền thu phí tàu bè đi lại trên sông. Năm 1693 một dự luật được đưa ra cho
Quốc hội để chuyển quyền thu phí tàu bè cho Bá tước xứ Shrewsbury và
Lord Coventry. Đạo luật này bị thách thức bởi Sir Timothy Baldwyn, người
đã ngay lập tức đệ một đơn khiếu nại lên Quốc hội cho rằng dự luật được
kiến nghị đã cơ bản tước đoạt cha ông, người đã đầu tư nhiều vào dòng sông
với dự tính các khoản phí mà sau đó ông có thể thu. Baldwyn đã biện luận
rằng “đạo luật mới có xu hướng hủy bỏ đạo luật được nhắc đến đó, và lấy đi
tất cả các công trình và vật liệu đã được làm để thực hiện việc ấy.” Sự phân
bổ lại các quyền như việc này đã chính xác là loại việc được các quốc vương
Stuart thực hiện. Baldwyn đã lưu ý, “là hệ quả nguy hiểm để lấy đi quyền của
bất cứ cá nhân nào, giành được dưới một đạo luật của Quốc hội, mà không có
sự đồng ý của họ.” Trong trường hợp này, đạo luật mới đã thất bại, và các
quyền của nhà Baldwyn đã được giữ vững. Các quyền tài sản đã an toàn hơn
nhiều sau 1688, một phần bởi vì làm cho chúng an toàn đã phù hợp với lợi
ích của Quốc hội và một phần bởi vì các thể chế đa nguyên đã có thể bị ảnh
hưởng bởi việc viết đơn kiến nghị. Chúng ta thấy ở đây rằng sau 1688 hệ
thống chính trị đã trở nên đa nguyên hơn đáng kể và đã tạo ra sân chơi tương
đối bằng phẳng bên trong nước Anh.
Đặt cơ sở cho cách mạng giao thông và, nói chung, cho việc sắp xếp lại
đất đai mà xảy ra trong thế kỷ thứ mười tám đã là các đạo luật của Quốc hội
mà làm thay đổi bản chất của quyền sở hữu tài sản. Cho đến 1688 đã có thậm
chí một điều tưởng tượng pháp lý rằng tất cả đất đai ở nước Anh cuối cùng
đều được sở hữu bởi Quốc vương, một di sản trực tiếp của tổ chức phong
kiến của xã hội. Nhiều miếng đất đã bị đè nặng bởi nhiều hình thức cổ xưa
của các quyền tài sản và nhiều đòi hỏi chồng chéo nhau. Nhiều đất đai đã
được giữ trong cái gọi là các bất động sản ruộng đất công bằng (equitable
ĐIỂM NGOẶT ● 199
estate), mà có nghĩa rằng các chủ đất không thể thế chấp, cho thuê, hay bán
đất. Đất chung đã có thể thường chỉ được sử dụng cho những cách sử dụng
truyền thống. Đã có những trở ngại to lớn để sử dụng đất theo những cách mà
là đáng mong muốn về mặt kinh tế. Quốc hội đã bắt đầu để thay đổi tình
trạng này, cho phép các nhóm nhân dân kiến nghị với Quốc hội để đơn giản
hóa và tổ chức lại các quyền tài sản, những sự sửa đổi mà sau đó được biểu
hiện trong hàng trăm các đạo luật của Quốc hội.
Sự tổ chức lại các thể chế kinh tế cũng được thể hiện trong sự nổi lên của
một chương trình nghị sự để bảo vệ sự sản xuất hàng dệt trong nước chống
lại hàng nhập khẩu nước ngoài. Không ngạc nhiên, các nghị sĩ và các cử tri
của họ đã không phản đối tất cả các rào cản gia nhập và các độc quyền.
Những rào cản và độc quyền mà có thể gia tăng thị trường và lợi nhuận riêng
của họ được hoan nghênh. Tuy vậy, một cách quyết định, các thể chế chính
trị đa nguyên – sự thực rằng Quốc hội đã đại diện cho, đã trao quyền cho, và
đã lắng nghe một mảng rộng của xã hội – đã có nghĩa rằng các rào cản gia
nhập này sẽ không bóp nghẹt các nhà công nghiệp khác hay sẽ gạt bỏ hoàn
toàn những người mới đến, như Serrata đã làm ở Venice (trang 155-156).
Các nhà chế tác len hùng mạnh mau chóng phát hiện ra điều này.
Trong năm 1688 một số của các hàng nhập khẩu quan trọng nhất vào Anh
đã là hàng dệt từ Ấn Độ, vải in hoa và vải muslin, mà cấu thành khoảng một
phần tư của toàn bộ hàng dệt nhập khẩu. Cũng đã quan trọng là lụa nhập từ
Trung Quốc. Vải in hoa và lụa được nhập bởi Công ty Đông Ấn, mà trước
1688 đã được hưởng một sự độc quyền do chính phủ ban cho về thương mại
với châu Á. Nhưng độc quyền và quyền lực chính trị của Công ty Đông Ấn
đã được duy trì nhờ các khoản đút lót lớn cho James II. Sau 1688 công ty ở
vào một vị thế dễ bị tổn thương và mau chóng bị tấn công. Việc này được
tiến hành dưới hình thức của một cuộc chiến tranh ác liệt của các kiến nghị
với các nhà buôn hy vọng để buôn bán ở Viễn Đông và Ấn Độ đòi hỏi rằng
Quốc hội thừa nhận sự cạnh tranh đối với Công ty Đông Ấn, trong khi công
ty đáp trả với các phản kiến nghị và đưa ra đề nghị cho Quốc hội vay tiền.
Công ty đã thua và một Công ty Đông Ấn mới để cạnh tranh với nó đã được
thành lập. Nhưng các nhà sản xuất hàng dệt đã không chỉ muốn nhiều cạnh
tranh hơn trong buôn bán với Ấn Độ. Họ đã muốn việc nhập khẩu các hàng
200 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
dệt rẻ tiền (vải in hoa) bị đánh thuế hay thậm chí bị cấm. Các nhà sản xuất
này đã phải đối mặt với cạnh tranh mạnh từ các hàng Ấn Độ nhập khẩu rẻ
này. Tại thời điểm này các nhà sản xuất nội địa quan trọng nhất đã sản xuất
các hàng dệt len, nhưng các nhà sản xuất vải bông đang trở nên ngày càng
quan trọng cả về mặt kinh tế lẫn chính trị.
Ngành len đã tăng các nỗ lực để bảo vệ mình ngay từ các năm 1660. Nó
đã thúc đẩy “Luật Điều chỉnh Chi tiêu,” mà, giữa những thứ khác, đã cấm
việc mặc hay dùng vải có màu sáng hơn. Nó cũng đã lobby Quốc hội để
thông qua pháp luật trong năm 1666 và 1678 mà khiến cho là bất hợp pháp để
ai đó được chôn cất với bất cứ vải liệm nào khác vải liệm bằng len. Cả hai
biện pháp đã bảo vệ thị trường cho các mặt hàng len và đã làm giảm sự cạnh
tranh mà các nhà sản xuất Anh đối mặt từ châu Á. Tuy nhiên, trong thời kỳ
này Công ty Đông Ấn đã quá mạnh để hạn chế nhập khẩu hàng dệt Á châu.
Chiều hướng đã thay đổi sau 1688. Giữa 1696 và 1698, các nhà chế tác len từ
miền Đông nước Anh và miền Tây đã liên minh với các nhà dệt lụa từ
London, Canterbury và Công ty Levant để hạn chế nhập khẩu. Các nhà nhập
khẩu lụa từ Levant, cho dù họ mới mất độc quyền của họ, đã muốn loại trừ
lụa Á châu để tạo ra một niche (thị trường ngách độc đáo) cho lụa từ Đế chế
Ottoman. Liên minh này đã bắt đầu trình bày các dự luật lên Quốc hội để hạn
chế việc mặc vải bông và lụa Á châu và cả về nhuộm và in hoa vải Á châu ở
nước Anh. Đáp lại, trong năm 1701, Quốc hội cuối cùng đã thông qua “một
Đạo luật cho việc nhận người nghèo vào làm hiệu quả hơn, bằng khuyến
khích các ngành công nghiệp của vương quốc này.” Từ tháng Chín 1701, nó
đã ra sắc lệnh: “Tất cả lụa đã được chế biến, đồ bengal và chất liệu, pha với
lụa làm từ cỏ, được sản xuất ở Ba Tư, Trung Quốc, hay Đông Ấn, tất cả vải
in hoa được in, nhuộm, hay được nhuộm màu ở đó, mà được hay sẽ được
nhập vào vương quốc này, sẽ không được mặc.”
Bây giờ đã là bất hợp pháp để mặc đồ lụa và vải in hoa Á châu ở nước
Anh. Nhưng đã vẫn có thể nhập khẩu chúng để tái xuất khẩu sang châu Âu
hay sang nơi khác, đặc biệt sang các thuộc địa châu Mỹ. Hơn nữa, vải in hoa
trơn, chưa được in hoa có thể được nhập về và in hoa tại Anh, và vải muslin
đã được miễn không bị cấm. Sau một cuộc đấu tranh dài, các lỗ hổng này,
như các nhà sản xuất vải len nội địa coi chúng, đã được bịt bằng Đạo luật Vải
ĐIỂM NGOẶT ● 201
in hoa năm 1721: “Sau 25-12-1722, sẽ là không hợp pháp đối với bất cứ cá
nhân hay các cá nhân nào để sử dụng, mặc ở Vương quốc Anh, trong bất cứ
quần áo hay bất cứ đồ dùng nào, bất cứ vải hoa nào được in, vẽ, nhuộm màu
hay nhuộm.” Mặc dù đạo luật này đã loại bỏ sự cạnh tranh từ châu Á đối với
đồ len Anh, nó vẫn để một ngành công nghiệp dệt bông và lanh nội địa tích
cực cạnh tranh với ngành len: sợi bông và lanh pha với nhau để tạo ra loại vải
được nhân dân ưa chuộng gọi là vải fustian (bông thô). Sau khi đã loại bỏ sự
cạnh tranh Á châu, ngành len bây giờ quay sang để ngăn chặn đồ lanh. Lanh
được làm ra chủ yếu ở Scotland và Ireland, mà tạo một cơ hội nào đó cho một
liên minh Anh để đòi loại các nước này ra khỏi các thị trường Anh. Tuy vậy,
đã có các giới hạn cho quyền lực của các nhà sản xuất len. Các nỗ lực mới
của họ vấp phải sự chống đối mạnh mẽ từ các nhà sản xuất vải fustian tại các
trung tâm công nghiệp đang nảy nở ở Manchester, Lancaster, và Liverpool.
Các thể chế chính trị đa nguyên đã ngụ ý rằng tất cả các nhóm khác nhau này
bây giờ đã có sự tiếp cận đến quá trình chính sách ở Quốc hội thông qua bỏ
phiếu và, quan trọng hơn, gửi đơn kiến nghị. Mặc dù các kiến nghị được cả
hai bên soạn thảo và bay tới tấp, cóp nhặt chữ ký để ủng hộ hay chống đối,
kết quả của cuộc xung đột này đã ủng hộ nhóm lợi ích mới và chống lại
những người trong ngành len. Đạo luật Manchaster năm 1736 đã đồng ý rằng
“một lượng lớn vật liệu được làm bằng sợi lanh và sợi bông giả len đã được
chế tạo trong các năm qua, và đã được in và vẽ hoa ở bên trong Vương quốc
Anh này.” Rồi nó tiếp tục để khẳng định rằng “không có gì trong Đạo luật
[năm 1721] được nhắc đến này sẽ được gia hạn hay được hiểu là để cấm việc
mặc hay sử dụng trong y phục, vật liệu nội trợ, đồ nội thất hay đồ khác, bất
cứ loại vật liệu nào được làm bằng sợi lanh và sợi bông giả len, được sản xuất
và in hay vẽ với bất cứ màu hay các màu nào bên trong Vương quốc Anh.”
Đạo luật Manchaster đã là một thắng lợi quan trọng cho các nhà chế tạo
bông mới ra đời. Nhưng tầm quan trọng lịch sử và kinh tế của nó thực ra là
lớn hơn nhiều. Thứ nhất, nó đã giải thích các giới hạn của các rào cản gia
nhập mà các thể chế chính trị đa nguyên của nước Anh có thể cho phép. Thứ
hai, trong nửa thế kỷ tiếp theo, những đổi mới công nghệ trong công nghiệp
vải bông sẽ đóng một vai trò trung tâm trong Cách mạng Công nghiệp và
biến đổi xã hội một cách cơ bản bằng đưa vào hệ thống nhà máy.
202 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Sau 1688, mặc dù về mặt nội địa đã nổi lên một sân chơi bằng phẳng, về
mặt quốc tế Quốc hội đã cố gắng làm nghiêng nó. Điều này đã là hiển nhiên
không chỉ từ Đạo luật Vải in hoa mà cả từ các Đạo luật Hàng hải, mà đạo luật
đầu tiên trong số đó được thông qua năm 1651, và chúng vẫn còn hiệu lực
với những sửa đổi trong hai trăm năm tiếp theo. Mục đích của các đạo luật
này đã là để tạo thuận lợi cho việc nước Anh độc quyền hóa thương mại quốc
tế – mặc dù một cách quyết định đấy đã là sự độc quyền hóa không phải bởi
nhà nước mà bởi khu vực tư nhân. Nguyên lý cơ bản đã là, [hàng hóa] thương
mại Anh phải được chở trên các tàu bè Anh. Các đạo luật này làm cho việc
các tàu nước ngoài chở hàng hóa từ bên ngoài châu Âu đến Anh và các thuộc
địa của Anh là bất hợp pháp, cũng bất hợp pháp tương tự đối với các tàu của
nước thứ ba để chở hàng hóa từ một nước châu Âu khác đến Anh. Lợi thế
này đối với các thương gia và các nhà chế tạo Anh đã làm tăng một cách tự
nhiên các khoản lợi nhuận của họ và có thể đã khuyến khích hơn nữa sự đổi
mới trong các hoạt động mới hết sức sinh lời này.
Vào năm 1760 sự kết hợp của tất cả các nhân tố này – các quyền tài sản
được cải thiện và mới, hạ tầng cơ sở được cải thiện, một chế độ tài khóa được
thay đổi, sự tiếp cận lớn hơn đến tài chính, và một sự bảo hộ hung hăng các
nhà buôn và các nhà chế tác – đã bắt đầu có một tác động. Sau thời điểm này,
đã có một sự nhảy vọt về số các đổi mới được cấp bằng sáng chế, và sự nở rộ
hoa của sự thay đổi công nghệ mà đã là tâm điểm của Cách mạng Công
nghiệp đã bắt đầu trở nên rõ rệt. Những đổi mới xảy ra trên nhiều lĩnh vực,
phản ánh môi trường thể chế đã được cải thiện. Một lĩnh vực cốt yếu đã là lực
năng lượng, nổi tiếng nhất đã là những biến đổi trong sử dụng động cơ hơi
nước mà là kết quả của các ý tưởng của James Watt trong các năm 1760.
Đột phá ban đầu của Watt đã là đưa vào một bình ngưng tụ tách biệt cho
hơi nước sao cho cylinder mà chứa piston có thể được giữ nóng liên tục, thay
cho việc phải được làm nóng lên và làm nguội đi. Sau đó ông đã phát triển
nhiều ý tưởng khác, kể cả các phương pháp hiệu quả hơn nhiều để biến đổi
chuyển động của động cơ hơi nước thành lực hữu ích, đặc biệt là hệ thống
bánh răng truyền động “mặt trời và các hành tinh” của ông. Trong tất cả các
lĩnh vực này những đổi mới công nghệ được xây dựng trên các công trình
trước của những người khác. Trong ngữ cảnh của máy hơi nước, việc này bao
ĐIỂM NGOẶT ● 203
gồm công trình trước của nhà sáng chế Anh Thomas Newcomen và cả của
Dionysius Papin, một nhà vật lý học và nhà sáng chế Pháp.
Câu chuyện về sáng chế của Papin là một thí dụ nữa về mối đe dọa của sự
phá hủy sáng tạo đã cản trở sự thay đổi công nghệ như thế nào dưới các thể
chế khai thác. Papin đã phát triển một thiết kế cho một “máy tiêu hóa hơi
nước” trong năm 1679, và trong năm 1690 ông đã mở rộng máy này thành
một động cơ có piston. Trong năm 1705, ông đã dùng động cơ thô sơ này để
xây dựng tàu hơi nước đầu tiên trên thế giới. Papin khi đó là giáo sư toán học
tại Đại học Marburg, ở bang Kessel của Đức. Ông đã quyết định châm hơi
nước cho chiếc tàu dọc theo sông Fulda đến sông Weser. Bất cứ tàu thuyền
nào đi tuyến này đều phải dừng ở thành phố Münden. Vào thời đó, giao thông
đường thủy trên các sông Fulda và Weser đã là độc quyền của một phường
hội chủ thuyền. Papin hẳn đã phải cảm thấy rằng có thể có rắc rối. Bạn và
người hướng dẫn của ông, nhà vật lý học Đức nổi tiếng Gottfried Leibnitz, đã
viết cho Tuyển hầu Kassel, thủ hiến bang, một kiến nghị rằng phải để cho
Papin được “… đi mà không bị quấy nhiễu …” qua Kassel. Thế nhưng kiến
nghị của Leibnitz đã bị khước từ và ông đã nhận được một câu trả lời cộc lốc
rằng “Các ủy viên hội đồng Cử tri đã thấy những trở ngại nghiêm trọng trong
cách công nhận kiến nghị trên, và, không đưa ra các lý do của họ, họ đã chỉ
thị cho tôi để thông báo với ngài về quyết định của họ, và kết quả là Ngài
Tuyển hầu đã không thừa nhận lời yêu cầu.” Không nao núng, Papin quyết
định dù sao đi nữa vẫn tiến hành chuyến đi. Khi tàu hơi nước của ông đến
Münden, phường hội chủ thuyền đầu tiên đã thử kiếm một thẩm phán địa
phương để tịch thu chiếc tàu, nhưng đã không thành công. Sau đó các chủ
thuyền đã tấn công tàu của Papin và đã đập tan chiếc thuyền và động cơ hơi
nước thành từng mảnh. Papin đã chết trong cảnh nghèo túng và được chôn
trong một nấm mồ không được đánh dấu. Trong nước Anh thời Tudor hay
Stuart, Papin đã có thể nhận được sự đối xử tương tự, nhưng tất cả đã thay
đổi sau 1688. Quả thực, Papin đã có ý định lái tàu của mình đến London
trước khi nó bị phá hủy.
Trong luyện kim, những đóng góp then chốt đã được đưa ra trong các năm
1780 bởi Henry Cort, người đã đưa ra các kỹ thuật mới để xử lý các tạp chất
trong sắt, cho phép sản xuất sắt được gia công có chất lượng tốt hơn nhiều.
204 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Việc này có tính quyết định cho việc chế tạo các bộ phận máy, đinh, và các
công cụ. Việc sản xuất lượng khổng lồ sắt được gia công sử dụng kỹ thuật
của Cort đã được tạo thuận lợi bởi những đổi mới của Abraham Darby và các
con ông, những người đã đi tiên phong trong sử dụng than để nung chảy sắt
bắt đầu vào năm 1709. Phương pháp này được nâng cao trong năm 1762 bởi
John Smeaton bằng cách thích nghi sức nước để vận hành các cylinder thổi
trong sản xuất than coke. Sau đấy, than củi đã biến khỏi việc sản xuất sắt,
được thay thế bằng than đá, mà đã rẻ hơn nhiều và sẵn có hơn nhiều.
Cho dù sự đổi mới hiển nhiên mang tính tích lũy, đã có sự tăng tốc rõ rệt
trong giữa thế kỷ thứ mười tám. Không có nơi nào có thể thấy rõ hơn trong
sản xuất hàng dệt. Hoạt động cơ bản nhất trong sản xuất hàng dệt là là xe sợi,
mà bao gồm việc lấy xơ thực vật hay động vật như bông và len, và xe chúng
lại với nhau để tạo thành sợi. Sợi này được dệt thành vải, thành hàng dệt. Một
trong những đổi mới vĩ đại của thời trung cổ đã là guồng xe sợi, mà đã thay
thế việc xe bằng tay. Sáng chế này đã xuất hiện ở châu Âu năm 1280, có lẽ
được truyền bá từ Trung Đông. Các phương pháp xe đã không thay đổi cho
đến thế kỷ thứ mười tám. Các đổi mới đáng kể bắt đầu trong năm 1738, khi
Lewis Paul đã lấy bằng sáng chế về phương pháp mới để xe sợi sử dụng các
con lăn thay thế bàn tay người để kéo xơ được xe. Tuy vậy, máy đã không
hoạt động tốt, và chính những đổi mới của Richard Arkwright và James
Hargreaves đã thực sự cách mạng hóa việc xe sợi.
Trong năm 1769 Arkwright, một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn
của Cách mạng Công nghiệp, ông đã lấy được bằng sáng chế về “khung
nước,” mà đã là một sự cải thiện khổng lồ so với máy của Lewis. Ông đã lập
một hãng với Jedediah Strutt và Samuel Need, những người đã là các nhà chế
tạo hàng dệt kim. Trong năm 1771 họ đã xây dựng một trong những nhà máy
đầu tiên của thế giới ở Cromford. Các máy đã được cấp năng lượng bởi nước,
nhưng Arkwright muộn hơn đã tiến hành bước chuyển quyết định sang năng
lượng hơi nước. Vào năm 1774 hãng của ông đã sử dụng sáu trăm công nhân,
và ông đã mở rộng một cách hùng hổ, cuối cùng đã dựng các nhà máy ở
Manschaster, Matlock, Bath, và New Lanark tại Scotland. Những đổi mới
của Arkwright đã được bổ sung bởi sáng chế của Hargreaves trong năm 1764
về máy kéo sợi cơ khí, mà đã được phát triển thêm bởi Samuel Crompton
ĐIỂM NGOẶT ● 205
thành “mule-máy kéo sợi,” và muộn hơn bởi Richard Roberts thành “máy
kéo sợi tự hoạt động.” Những tác động của các đổi mới này đã thật sự cách
mạng: vào đầu thế kỷ, đã cần 50.000 giờ đối với những người xe sợi bằng tay
để xe một trăm pound bông. Khung nước của Arkwright đã có thể làm việc
đó trong 300 giờ, và máy kéo sợi tự hoạt động trong 135 giờ.
Cùng với cơ giới hóa kéo sợi đến cơ giới hóa dệt. Một bước quan trọng
đầu tiên đã là sáng chế ra chiếc thoi bay bởi Jonh Kay trong năm 1733. Mặc
dù ban đầu nó đã chỉ làm tăng năng suất của các thợ dệt bằng tay, tác động
lâu dài nhất của nó đã là trong việc mở cách để cơ giới hóa sự dệt. Dựa trên
con thoi bay, Edmund Cartwright đã đưa ra khung cửi máy (power loom)
trong năm 1785, một bước đầu tiên trong một loạt những đổi mới mà dẫn đến
các máy thay thế những kỹ năng bằng tay trong việc dệt như chúng đã làm
trong kéo sợi.
Công nghiệp dệt Anh không chỉ đã là động lực đằng sau Cách mạng Công
nghiệp mà cũng đã cách mạng hóa nền kinh tế thế giới. Hàng xuất khẩu Anh,
dẫn đầu bởi hàng dệt bông, đã tăng gấp đôi giữa 1780 và 1800. Chính sự tăng
trưởng trong khu vực này đã kéo toàn bộ nền kinh tế lên phía trước. Sự kết
hợp của đổi mới công nghệ và đổi mới tổ chức đã cung cấp mô hình cho sự
tiến bộ kinh tế mà đã biến đổi các nền kinh tế của thế giới trở thành các nền
kinh tế giàu.
Những người mới với các ý tưởng mới đã là thiết yếu cho sự biến đổi này.
Hãy xem xét đổi mới về giao thông. Ở nước Anh đã có nhiều làn sóng của
những đổi mới như vậy: đầu tiên là các kênh, rồi đường sá, và cuối cùng là
đường sắt. Tại mỗi trong các làn sóng này các nhà đổi mới đã là những người
mới. Các kênh đã bắt đầu được phát triển ở Anh sau 1770, và vào năm 1810
chúng đã kết nối nhiều trong các vùng chế tạo quan trọng nhất. Khi Cách
mạng Công nghiệp mở ra, các kênh đã đóng một vai trò quan trọng trong làm
giảm các chi phí vận tải để luân chuyển các hàng hóa công nghiệp cồng kềnh
đã hoàn thành, như các mặt hàng dệt bông, và các đầu vào để tạo ra chúng,
đặc biệt là bông thô và than cho các máy hơi nước. Các nhà đổi mới ban đầu
trong xây dựng các kênh đã là những người như James Brindley, người đã
được Công tước xứ Bridgewater tuyển dụng để xây dựng Kênh Bridgewater,
mà đã kết thúc với việc kết nối thành phố công nghiệp then chốt Manchester
206 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
với cảng Liverpool. Sinh ra ở vùng nông thôn Derbyshire, Brindley vốn theo
nghề thợ máy xay. Danh tiếng của ông về việc tìm ra các giải pháp sáng tạo
cho các vấn đề kỹ thuật đã đến tai công tước. Ông đã không có kinh nghiệm
trước nào với các vấn đề giao thông, mà cũng đã đúng với các kỹ sư kênh vĩ
đại khác như Thomas Telford, người đã vào đời với tư cách một thợ xây đá,
hay Jonh Smeaton, một nhà chế tạo công cụ và kỹ sư.
Hệt như các kỹ sư kênh vĩ đại đã không có quan hệ trước nào với giao
thông, các kỹ sư đường bộ và đường sắt vĩ đại cũng không. John McAdam,
người đã sáng chế ra tarmac [phương pháp trải mặt đường bằng đá dăm trộn
chất kết dính như nhựa đường sau này] vào khoảng 1816, đã là con trai thứ
hai của một quý tộc nhỏ. Xe lửa hơi nước đầu tiên được xây dựng bởi
Richard Trevithick trong năm 1804. Bố Trevithick đã dính líu đến việc khai
mỏ ở Cornwall, và Richard đã tham gia cùng công việc kinh doanh khi tuổi
còn non, trở nên bị mê hoặc bởi máy hơi nước được dùng để bơm [nước]
khỏi mỏ. Đáng kể hơn đã là những đổi mới của George Stephenson, con trai
của cha mẹ mù chữ và nhà sáng chế của xe lửa “Tên lửa” nổi tiếng, người đã
bắt đầu làm việc như một thợ máy ở một mỏ than.
Những người mới cũng đã thúc đẩy ngành dệt bông cốt yếu. Một số trong
những người tiên phong của ngành mới này đã là những người trước đó đã
dính líu sâu trong sản xuất và buôn bán vải len. John Foster, chẳng hạn, đã sử
dụng bảy trăm thợ dệt khung cửi tay trong ngành len vào lúc ông chuyển
sang dệt bông và mở Nhà máy Black Dyke trong năm 1835. Nhưng những
người như Foster đã là thiểu số. Chỉ khoảng một phần năm của các nhà công
nghiệp hàng đầu vào thời ấy đã có dính líu trước đó đến bất cứ thứ gì giống
các hoạt động chế tạo. Điều này không gây ngạc nhiên. Một là, công nghiệp
bông đã phát triển ở các thị trấn mới ở miền bắc nước Anh. Các nhà máy đã
là một cách mới hoàn toàn để tổ chức sản xuất. Ngành len đã được tổ chức
theo một cách rất khác, bằng cách “đưa” vật liệu cho các cá nhân ở nhà của
họ, những người tự mình xe và dệt. Hầu hết những người trong ngành len vì
thế đã được trang bị tồi để chuyển sang bông, như Foster đã chuyển. Đã cần
đến những người mới để phát triển và sử dụng các công nghệ mới. Sự mở
rộng nhanh chóng của ngành dệt bông đã sát hại công nghiệp len – sự phá
hủy sáng tạo đang hoạt động.
ĐIỂM NGOẶT ● 207
Sự phá hủy sáng tạo tái phân bổ không đơn giản chỉ thu nhập và của cải,
mà cả quyền lực chính trị, như William Lee đã học được khi ông thấy các nhà
chức trách đã hết sức không dễ tiếp thu sáng chế của ông bởi vì họ đã sợ các
hệ quả chính trị của nó. Khi nền kinh tế công nghiệp đã mở rộng ở
Manchester và Birmingham, các chủ nhà máy mới và các nhóm trung lưu nổi
lên xung quanh họ đã bắt đầu phản đối sự tước quyền bầu cử của họ và các
chính sách của chính phủ chống lại các quyền lợi của họ. Ứng viên hàng đầu
của họ đã là các Luật Ngũ cốc, mà đã cấm nhập khẩu “ngũ cốc” – tất cả thóc
lúa và ngũ cốc, nhưng chủ yếu là lúa mì – nếu giá xuống quá thấp, như thế
đảm bảo rằng lợi nhuận của các địa chủ lớn được giữ ở mức cao. Chính sách
này đã rất tốt cho các địa chủ lớn những người sản xuất lúa mì, nhưng xấu
cho các nhà chế tạo, bởi vì họ phải trả lương cao hơn để bù cho giá bánh mì
cao.
Với công nhân được tập trung vào các nhà máy mới và các trung tâm công
nghiệp, đã trở nên dể để tổ chức và gây náo loạn. Vào các năm 1820, việc
không cho các nhà chế tạo và các trung tâm chế tác mới hưởng quyền chính
trị đã trở nên không biện hộ được. Vào ngày 16-8-1819, một cuộc meeting để
phản đối hệ thống chính trị và các chính sách của chính phủ đã được lên kế
hoạch tổ chức ở Quảng trường St. Peter, Manchester. Người tổ chức đã là
Joseph Johnson, một nhà sản xuất bàn chải địa phương và một trong những
người sáng lập tờ báo cấp tiến Manchester Observer. Các nhà tổ chức khác
đã bao gồm John Knight, nhà chế tạo bông và nhà cải cách, và John Thacker
Saxton, chủ bút của Manchester Obverver. Sáu mươi ngàn người phản đối đã
tụ tập, nhiều người đã mang các khẩu hiệu “Nói Không với Luật Ngũ cốc,”
“Quyền đi bầu Phổ quát,” và “Bỏ bằng Phiếu” (có nghĩa bỏ phiếu kín, giữ bí
mật, chứ không phải công khai như đã xảy ra năm 1819). Các nhà chức trách
đã rất lo lắng về cuộc meeting, và một lực lượng sáu trăm kỵ binh của Đoàn
Kỵ binh nhẹ Thứ mười lăm đã được tập họp. Khi các bài phát biểu bắt đầu,
một thẩm phán địa phương đã quyết định ban hành một lệnh bắt những người
phát biểu. Khi cảnh sát thử thi hành lệnh bắt, họ đã vấp phải sự chống đối của
đám đông, và cuộc đánh nhau nổ ra. Tại điểm này các kỵ binh tấn công đám
đông, Trong vài phút hỗn loạn, mười một người đã chết và có lẽ sáu trăm
người đã bị thương. Tờ Manchester Observer đã gọi nó là Vụ Tàn sát
Peterloo.
208 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Nhưng căn cứ vào những thay đổi về các thể chế kinh tế và chính trị, sự
đàn áp dài hạn đã không là một giải pháp ở nước Anh. Vụ Tàn sát Peterloo
vẫn là một sự cố cô lập. Tiếp sau cuộc náo loạn, các thể chế chính trị ở nước
Anh đã nhường chỗ cho áp lực, và sự đe dọa gây bất ổn của tình trạng rối ren
xã hội rộng hơn rất nhiều, đặc biệt sau cách mạng 1830 ở Pháp chống lại
Charles X, người đã thử khôi phục chính thể chuyên chế đã bị Cách mạng
Pháp 1789 phá hủy. Trong năm 1832 chính phủ đã thông qua Đạo luật Cải
cách Thứ nhất. Nó đã cho Birmingham, Leeds, Manchester, và Sheffield
quyền bầu cử, và đã mở rộng cơ sở bầu cử sao cho các nhà chế tạo có đại
diện trong Quốc hội. Sự chuyển đổi do hậu quả về quyền lực chính trị đã
chuyển dịch chính sách theo hướng ủng hộ các nhóm lợi ích mới được đại
diện này; trong năm 1848 họ đã tìm được cách bãi bỏ các Luật Ngũ Cốc bị
căm ghét, minh họa lại lần nữa rằng sự phá hủy sáng tạo đã có nghĩa là một
sự tái phân bổ không chỉ thu nhập, mà cả quyền lực chính trị nữa. Và một
cách tự nhiên, những thay đổi về phân bổ quyền lực chính trị theo thời gian
sẽ dẫn đến một sự phân bổ lại thêm nữa về thu nhập.
Chính là bản chất bao gồm của các thể chế Anh là những cái đã cho phép
quá trình này xảy ra. Những người chịu thiệt hại và sợ sự phá hủy sáng tạo đã
không còn có khả năng để chặn nó lại.
VÌ SAO Ở NƯỚC ANH?
Cách mạng Công nghiệp đã bắt đầu và đã tiến những bước dài ở nước Anh
bởi vì các thể chế kinh tế bao gồm độc nhất của nó. Các thể chế này lần lượt
lại được xây dựng trên nền móng được đặt bởi các thể chế chính trị bao gồm
do Cách mạng Vinh quang gây ra. Cách mạng Vinh quang đã củng cố và hợp
lý hóa các quyền tài sản, đã cải thiện các thị trường tài chính, đã làm xói mòn
các độc quyền do nhà nước ban cho trong thương mại quốc tế, và đã dỡ bỏ
các rào cản đối với sự mở rộng công nghiệp. Cách mạng Vinh quang đã làm
cho hệ thống chính trị mở và sẵn sàng đáp lại với các nhu cầu kinh tế và
những mong mỏi của xã hội. Các thể chế kinh tế bao gồm này đã cho những
người tài giỏi và có tầm nhìn, như James Watt, cơ hội và những khuyến khích
để phát triển tài nghệ và các ý tưởng của họ và ảnh hưởng đến hệ thống theo
ĐIỂM NGOẶT ● 209
những cách có lợi cho họ và cho quốc gia. Một cách tự nhiên, những người
này, một khi họ đã trở nên thành công, đã có cùng những thôi thúc như bất cứ
cá nhân nào khác. Họ đã muốn ngăn chặn những người khác khỏi tham gia
vào công việc kinh doanh của họ và cạnh tranh chống lại họ và đã sợ sự phá
hủy sáng tạo mà có thể loại họ ra khỏi việc hinh doanh, như trước kia họ đã
làm những người khác phá sản. Nhưng sau 1688 việc này đã trở nên khó hơn
để đạt được. Trong năm 1775 Richard Arkwright đã được cấp một bằng sáng
chế bao quát mà ông hy vọng trong tương lai sẽ cho ông một sự độc quyền
trong ngành kéo sợi bông đang mở rộng nhanh chóng. Ông đã không thể
khiến các tòa án thực thi nó.
Vì sao quá trình độc nhất này đã bắt đầu ở nước Anh và vì sao trong thế
kỷ thứ mười bảy? Vì sao nước Anh đã phát triển các thể chế chính trị đa
nguyên và đã thoát khỏi các thể chế khai thác? Như chúng ta đã thấy, những
diễn biến chính trị dẫn đến Cách mạng Vinh quang được định hình bởi nhiều
quá trình được kết nối với nhau. Trung tâm đã là sự xung đột chính trị giữa
chính thể chuyên chế và các địch thủ của nó. Kết quả của sự xung đột này đã
không chỉ chấm dứt các nỗ lực để tạo ra một chính thể chuyên chế được làm
mới và mạnh hơn ở nước Anh, mà cũng đã trao quyền cho những người
mong muốn thay đổi một cách cơ bản các thể chế của xã hội. Các đối thủ của
chính thể chuyên chế đã không đơn thuần muốn xây dựng một loại khác của
chính thể chuyên chế. Đấy đã không đơn thuần là Nhà Lancaster đánh bại
Nhà York trong Chiến tranh Hoa Hồng. Thay vào đó, Cách mạng Vinh quang
đã kéo theo sự nổi lên của một chế độ mới dựa trên hiến trị [constitutional
rule–sự cai trị bằng hệ thống pháp luật] và chủ nghĩa đa nguyên.
Kết quả này đã là một hệ quả của sự trôi dạt trong các thể chế Anh và cách
chúng tương tác với các bước ngoặt. Chúng ta đã thấy ở chương trước các thể
chế phong kiến đã được tạo ra như thế nào ở Tây Âu sau sự sụp đổ của Đế
chế Tây La Mã. Chủ nghĩa phong kiến đã lan khắp phần lớn châu Âu, ở miền
Tây và miền Đông. Nhưng như chương 4 đã cho thấy, Tây và Đông Âu đã
bắt đầu phân kỳ một cách căn bản sau Cái Chết Đen. Những khác biệt nhỏ
trong các thể chế chính trị và kinh tế đã có nghĩa rằng ở Tây Âu sự cân bằng
quyền lực đã dẫn đến sự cải thiện; trong khi ở Đông Âu đã dẫn đến sự sa đọa
thể chế. Nhưng đấy đã không phải là một con đường mà sẽ nhất thiết và một
210 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
cách không thể lay chuyển được dẫn đến các thể chế bao gồm. Nhiều sự đổi
hướng cốt yếu hơn còn phải được tiến hành trên đường đi. Mặc dù Magna
Carta đã thử thiết lập một số nền tảng thể chế cơ bản cho hiến trị, nhiều phần
khác của châu Âu, thậm chí Đông Âu, đã thấy những cuộc đấu tranh tương tự
với các văn kiện tương tự. Thế nhưng, sau Cái Chết Đen, Tây Âu đã trôi xa
đáng kể khỏi Đông Âu. Các văn kiện như Magna Carta đã bắt đầu có sự ăn
sâu hơn ở Tây Âu. Ở Đông Âu, chúng trở nên ít có ý nghĩa. Ở nước Anh,
ngay cả trước các cuộc xung đột của thế kỷ thứ mười bảy, chuẩn mực được
thiết lập đã là, nhà vua đã không thể thu thuế mới mà không có sự đồng ý của
Quốc hội. Cũng không kém quan trọng đã là sự trôi dạt chậm, từ từ của
quyền lực khỏi giới elite sang các công dân nói chung hơn, như được minh
họa bằng thí dụ bởi sự huy động chính trị của các cộng đồng nông thôn, được
thấy ở nước Anh với các thời khắc như Khởi nghĩa Nông dân năm 1381.
Sự trôi dạt này của các thể chế bây giờ đã tương tác với một bước ngoặt
khác do sự mở rộng ồ ạt của thương mại Đại Tây Dương gây ra. Như chúng
ta đã thấy ở chương 4, một cách quyết định mà theo đó điều này tác động đến
động học thể chế tương lai phụ thuộc vào liệu Quốc vương đã có thể hay
không thể độc quyền hóa sự buôn bán này. Tại nước Anh quyền lực lớn hơn
một chút của Quốc hội đã có nghĩa rằng các quốc vương Tudor hay Stuart đã
không thể làm vậy. Tình hình này đã tạo ra một tầng lớp mới của các nhà
buôn và các nhà kinh doanh, những người đã hùng hổ chống lại kế hoạch để
tạo ra chính thể chuyên chế ở nước Anh. Vào năm 1686 ở London, chẳng
hạn, đã có 702 nhà buôn xuất khẩu sang vùng Caribe và 1.283 nhà nhập
khẩu. Sang Bắc Mỹ đã có 691 nhà buôn xuất khẩu và 626 nhập khẩu. Họ đã
thuê những người coi kho, các thủy thủ, các thuyền trưởng, các công nhân
cảng, các thư ký – tất cả họ đại thể đều chia sẻ các quyền lợi của họ. Các
cảng đầy sinh lực khác, như Bristol, Liverpool, và Portsmouth, cũng tương tự
đầy các nhà buôn. Những người mới này đã muốn và đã đòi các thể chế kinh
tế khác, và khi họ trở nên giàu có hơn qua thương mại, họ trở nên hùng mạnh
hơn. Cùng các lực đó đã hoạt động ở Pháp, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha.
Nhưng ở đó các vua đã có khả năng hơn để kiểm soát thương mại và lợi
nhuận của nó. Loại nhóm người mới mà đã biến đổi nước Anh cũng đã nổi
lên ở các nước đó, nhưng họ đã nhỏ hơn và yếu hơn một cách đáng kể.
ĐIỂM NGOẶT ● 211
Khi Quốc hội Dài họp và Nội Chiến nổ ra năm 1642, các nhà buôn này đã
đứng về phe Quốc hội. Trong các năm 1670 họ đã dính líu sâu vào việc hình
thành Đảng Whig, chống lại chính thể chuyên chế Stuart, và năm 1688 họ đã
đóng vai trò then chốt trong việc hạ bệ James II. Như thế sự mở rộng các cơ
hội buôn bán do châu Mỹ biếu tặng, sự tham gia đông đảo của các thương gia
vào công việc buôn bán này và sự phát triển của các thuộc địa, và các khoản
tiền kếch xù mà họ kiếm được trong quá trình này, đã lật nghiêng cán cân
quyền lực trong cuộc đấu tranh giữa nền quân chủ và những người chống
chính thể chuyên chế.
Có lẽ cốt yếu nhất, sự nổi lên của, và sự trao quyền cho, các nhóm lợi ích
khác nhau – trải từ tầng lớp gentry, các nông dân thương mại mà đã nổi lên
trong thời kỳ Tudor, đến các loại khác nhau của các nhà chế tạo cho các nhà
buôn xuyên Đại Tây Dương – đã có nghĩa rằng liên minh chống chính thể
chuyên chế Sutart đã không chỉ mạnh mà cũng rộng. Liên minh này được
tăng cường thậm chí hơn nữa bởi sự hình thành Đảng Whig trong các năm
1670, mà đã cung cấp một tổ chức để đẩy mạnh các quyền lợi của nó. Sự trao
quyền cho nó đã làm trụ cột cho chủ nghĩa đa nguyên tiếp sau Cách mạng
Vinh quang. Nếu giả như tất cả những người chiến đấu chống lại nhà Stuart
đã có cùng quyền lợi và cùng bối cảnh, thì việc lật đổ nền quân chủ Stuart
chắc đã có nhiều khả năng [chỉ] là một sự tái diễn của Nhà Lancaster đối lại
Nhà York, đưa một nhóm lợi ích hẹp chọi lại một nhóm lợi ích hẹp khác, và
cuối cùng thay thế hay tái tạo cùng hay hình thức khác của các thể chế khai
thác. Một liên minh rộng có nghĩa rằng đã có những đòi hỏi lớn hơn cho việc
tạo ra các thể chế chính trị đa nguyên. Không có một loại nào đó của chủ
nghĩa đa nguyên, sẽ có một nguy cơ rằng một trong các nhóm lợi ích khác
nhau này sẽ chiếm đoạt quyền lực gây tổn hại cho phần còn lại. Sự thực rằng
Quốc hội sau 1688 đại diện cho một liên minh rộng như vậy đã là một nhân
tố quyết định trong việc khiến cho các đại biểu Quốc hội lắng nghe các kiến
nghị và khiếu nại, ngay cả khi chúng đến từ ngoài Quốc hội và thậm chí từ
những người không có quyền bỏ phiếu. Đấy đã là một nhân tố quyết định để
chặn các nỗ lực của một nhóm nhằm tạo ra một sự độc quyền gây tổn hại đến
phần còn lại, như nhóm lợi ích len đã thử trước Đạo luật Manchester.
212 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Cách mạng Vinh quang là một sự kiện trọng đại chính xác bởi vì nó đã
được lãnh đạo bởi một liên minh rộng đã bạo dạn hơn và đã được trao quyền
hơn cho liên minh mày, mà đã tìm được cách để tạo một chế độ lập hiến với
các giới hạn ràng buộc lên quyền lực của cả nhánh hành pháp và, cũng cốt
yếu ngang thế, lên bất cứ thành viên nào của nó. Thí dụ, chính các ràng buộc
hạn chế này đã ngăn các nhà chế tác len khỏi trở nên có khả năng nghiến nát
sự cạnh tranh tiềm năng từ các nhà chế tác bông và vải fustian (bông thô pha
lanh). Như thế liên minh rộng này đã là thiết yếu để dẫn đến một Quốc hội
mạnh sau 1688, nhưng nó cũng đã có nghĩa rằng có sự kiểm soát (checks)
bên trong Quốc hội chống lại bất cứ nhóm độc nhất nào trở nên quá mạnh và
lạm dụng quyền lực của nó. Nó đã là nhân tố cốt yếu trong sự nổi lên của các
thể chế chính trị đa nguyên. Sự trao quyền cho một liên minh rộng như vậy
cũng đã đóng một vai trò quan trọng trong tính bền bỉ và sự tăng cường của
các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm, như chúng ta sẽ thấy ở chương 11.
Thế nhưng chẳng cái nào trong các nhân tố này đã khiến cho một chế độ
đa nguyên thật sự chắc chắn xảy ra, và sự nổi lên của nó đã một phần là hậu
quả của con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử. Một liên minh mà
không quá khác đã có khả năng nổi lên như bên chiến thắng trong Nội Chiến
Anh chống lại nhà Stuart, còn liên minh tương tự đã chỉ dẫn đến chế độ độc
tài của Oliver Cromwell. Sức mạnh của liên minh này cũng đã không là cái
đảm bảo rằng chính thể chuyên chế bị đánh bại. James II đã có thể đánh bại
William xứ Orange. Con đường của sự thay đổi lớn về thể chế, như thường
lệ, cũng không ít tùy thuộc ngẫu nhiên hơn kết quả của các xung đột chính trị
khác. Điều này đã là thế cho dù con đường cụ thể của sự trôi dạt thể chế mà
tạo ra liên minh rộng rãi chống lại chính thể chuyên chế và bước ngoặt của
các cơ hội thương mại Đại Tây Dương đã sắp đặt trước các con bài chống lại
nhà Stuart. Trong trường hợp này, vì thế, sự tùy thuộc ngẫu nhiên và một liên
minh rộng đã là các nhân tố quyết định làm nòng cốt cho sự nổi lên của chủ
nghĩa đa nguyên và các thể chế bao gồm.
8.
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI:
CÁC RÀO CẢN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
KHÔNG CHO PHÉP IN
RONG NĂM 1445 tại thành phố Đức Mainz, Johannes Gutenberg đã tiết
lộ một đổi mới với các hệ quả sâu sắc cho lịch sử kinh tế tiếp sau: một
máy in dựa trên con chữ động (movable type). Cho đến lúc đó, các cuốn sách
hoặc được sao chép bằng tay bởi những người chép bản thảo, hay được in
mộc bản với các bản khắc gỗ để in từng trang. Sách đã ít và thưa thớt, và rất
đắt. Sau sáng chế của Gutenberg, tình hình đã bắt đầu thay đổi. Các sách đã
được in và đã trở nên dễ kiếm hơn. Không có sáng chế này, sự biết đọc biết
viết hàng loạt và giáo dục quần chúng đã là không thể.
Ở Tây Âu tầm quan trọng của máy in đã được nhận ra mau chóng. Trong
năm 1460 đã có máy in rồi ngang biên giới, ở Strasbourg, Pháp. Vào cuối các
năm 1460 công nghệ đã lan ra khắp Italy, với các máy in ở Rome và Venice,
không lâu sau ở Florence, Milan, và Turin. Vào năm 1476 William Caxton đã
lắp đặt một máy in ở London, và hai năm sau đã có một máy ở Oxford. Trong
cùng thời kỳ, nghành in đã lan khắp các Nước Thấp (Luxemburg, Bỉ, Hà
Lan) sang Tây Ban Nha, và thậm chí sang Đông Âu, với một máy in mở ở
Budapest năm 1473 và ở Cracow một năm sau.
Không phải tất cả mọi người đều thấy việc in như một đổi mới đáng mong
muốn. Ngay từ 1485, Sultan Ottoman Bayezid II đã ban một chỉ dụ rằng
những người Muslim bị tuyệt đối cấm in bằng tiếng Arab. Quy tắc này còn
được thực thi thêm nữa bởi Sultan Selim I trong năm 1515. Đã chỉ đến 1727
thì máy in đầu tiên mới được phép trên đất Ottoman. Sultan khi đó Ahmed III
T
214 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
đã ban hành một sắc lệnh cấp phép cho Ibrahim Müteferrika để lắp đặt một
máy in. Ngay cả bước đi muộn màng này đã bị bao vây bởi các ràng buộc
hạn chế. Mặc dù sắc lệnh đã lưu ý, “ngày may mắn kỹ thuật này của phương
Tây sẽ được bỏ mạng che mặt giống một cô dâu và sẽ không bị che dấu nữa,”
máy in của Müteferrika đã bị giám sát chặt chẽ. Sắc lệnh nói rõ:
để cho các sách không in các lỗi, các học giả tôn giáo thông minh,
được tôn trọng và xứng đáng, chuyên môn hóa về luật Islamic, pháp
quan xuất sắc của Instanbul, Mevlana Ishak, và pháp quan của
Seleniki, Mevlana Sahib, và pháp quan của Galata, Mevlana Asad,
cầu mong cho công trạng của họ được tăng lên, và từ các trật tự tôn
giáo vinh quang, rường cột của các học giả tôn giáo ngay thẳng, Đạo
trưởng (Sheykh) của Kasim Paşa Mevlevihane, Mevlana Musa, cầu
mong cho sự sáng suốt và hiểu biết của ngài được tăng lên, sẽ giám
sát việc đọc bản in thử.
Müteferrika đã được phép lắp đặt một máy in, nhưng bất cứ thứ gì ông in đều
phải được hiệu đính bởi một ban gồm ba học giả tôn giáo và pháp lý, các pháp
quan. Có thể sự khôn ngoan và hiểu biết của các pháp quan, giống như của bất cứ
ai khác, đã có thể tăng nhanh hơn nhiều giả như máy in đã sẵn có để dùng dễ dàng
hơn. Nhưng đã không phải thế, ngay cả sau khi Müteferrika đã được phép để lắp
đặt máy in của ông.
Không ngạc nhiên Müteferrika cuối cùng đã in ít sách, chỉ mười bảy cuốn giữa
năm 1729, khi máy in bắt đầu hoạt động, và 1743, khi ông ngừng làm việc. Gia
đình ông đã thử tiếp tục truyền thống, nhưng họ đã xoay xở để in chỉ được bảy
cuốn sách nữa cho đến lúc cuối cùng họ đã phải bỏ cuộc vào năm 1797. Bên
ngoài lõi của Đế chế Ottoman, ngoài Thổ Nhĩ Kỳ, ngành in còn đã tụt hậu xa hơn.
Thí dụ, ở Ai Cập, máy in đầu tiên được lắp đặt chỉ trong năm 1798, bởi những
người Pháp những người đã là phần của sự cố gắng bởi Napoleon Bonaparte để
chiếm nước này. Cho đến mãi quá nửa thứ hai của thế kỷ thứ mười chín, sản xuất
sách ở Đế chế Ottoman vẫn chủ yếu do những người chép sách thực hiện sao chép
bằng tay các sách đã có. Vào đầu thế kỷ thứ mười tám, được cho là đã có tám
mươi ngàn người chép tay như vậy hoạt động ở Istanbul.
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 215
Sự chống đối này đối với máy in đã có các hệ quả hiển nhiên cho sự biết đọc
biết viết, giáo dục, và thành công kinh tế. Trong năm 1800 đã có lẽ chỉ 2 đến 3
phần trăm công dân của Đế chế Ottoman biết đọc biết viết, so với 60 phần trăm
của đàn ông và 40 phần trăm cho đàn bà ở Anh. Tại Hà Lan và Đức, tỷ lệ biết đọc
biết viết còn cao hơn. Các vùng Ottoman đã tụt hậu rất xa ở đằng sau các nước Âu
châu đạt mức giáo dục thấp nhất, như Bồ Đào Nha, nơi chỉ có khoảng 20 phần
trăm người lớn biết đọc biết viết.
Căn cứ vào các thể chế Ottoman hết sức chuyên chế và khai thác, sự thù
nghịch của sultan đối với máy in là dễ hiểu. Sách truyền bá các ý tưởng và làm
cho rất khó để kiểm soát dân cư. Một số trong các ý tưởng này có thể là những
cách mới có giá trị để làm tăng sự tăng trưởng kinh tế, nhưng các ý tưởng khác có
thể có tính chất lật đổ và thách thức hiện trạng chính trị và xã hội. Sách cũng làm
xói mòn quyền lực của những người kiểm soát sự hiểu biết bằng lời nói, vì chúng
làm cho tri thức đó sẵn có dễ dàng hơn cho bất cứ ai biết đọc. Việc này đã đe dọa
làm xói mòn hiện trạng, nơi tri thức được kiểm soát bởi các elite. Các sultan
Ottoman và giới quyền uy tôn giáo đã sợ sự phá hủy sáng tạo mà có thể xảy ra do
sách. Giải pháp của họ đã là cấm in.
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP đã tạo ra một bước ngoặt mà đã tác động đến
hầu như mọi nước. Một số quốc gia, như Anh, không chỉ đã cho phép, mà đã
khuyến khích một cách tích cực thương mại, công nghiệp hóa, và tinh thần kinh
doanh khởi nghiệp, và đã phát triển nhanh. Nhiều quốc gia, như Đế chế Ottoman,
Trung Quốc, và các chế độ chuyên chế khác, đã tụt lại phía sau vì họ đã ngăn
chặn, hoặc nói nhẹ đi đã chẳng làm gì để khuyến khích sự mở rộng công nghiệp.
Các thể chế chính trị và kinh tế đã định hình các phản ứng đối với đổi mới công
nghệ, một lần nữa tạo ra hình mẫu quen thuộc về sự tương tác giữa các thể chế
hiện tồn và các bước ngoặt dẫn đến sự phân kỳ về các thể chế và kết quả kinh tế.
Đế chế Ottoman đã vẫn là chuyên chế cho đến khi nó sụp đổ vào cuối Chiến
tranh Thế giới lần thứ Nhất, và như thế nó đã có khả năng chống đối một cách
thành công hay cản trở các đổi mới như máy in và sự phá hủy sáng tạo mà sự đổi
mới đã có thể gây ra. Lý do của việc những thay đổi kinh tế đã xảy ra tại Anh lại
đã không xảy ra trong Đế chế Ottoman, là mối quan hệ tự nhiên giữa các thể chế
216 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
chính trị chuyên chế khai thác và các thể chế kinh tế khai thác. Chính thể chuyên
chế là sự cai trị không bị ràng buộc bởi luật hay nguyện vọng của những người
khác, mặc dù trên thực tế các nhà chuyên chế cai trị với sự với sự ủng hộ của một
nhóm nhỏ nào đó hay elite. Tại nước Nga thế kỷ thứ mười chín, chẳng hạn, các sa
hoàng đã là các nhà cai trị chuyên chế được ủng hộ bởi một giới quý tộc đại diện
cho khoảng 1 phần trăm toàn bộ dân cư. Nhóm hẹp này đã tổ chức các thể chế
chính trị để làm cho họ vĩnh viễn giữ được quyền lực. Đã không có Quốc hội hay
sự đại diện chính trị nào của các nhóm khác ở nước Nga cho đến 1905, khi sa
hoàng lập ra Duma, mặc dù ông đã nhanh chóng làm xói mòn một vài quyền hạn
mà ông đã ban cho nó. Không ngạc nhiên, các thể chế kinh tế đã là khai thác,
được tổ chức để làm cho sa hoàng và giới quý tộc càng giàu càng tốt. Cơ sở của
hệ thống này, như của nhiều hệ thống kinh tế khai thác, đã là một hệ thống cưỡng
bức và kiểm soát lao động đông đảo, dưới hình thức đặc biệt tàn ác của chế độ
nông nô Nga.
Chính thể chuyên chế đã không là loại duy nhất của thể chế chính trị ngăn cản
công nghiệp hóa. Mặc dù các chế độ chuyên chế đã không là đa nguyên và đã sợ
sự phá hủy sáng tạo, nhiều chế độ đã có các nhà nước tập trung, hay chí ít các nhà
nước đủ tập trung để áp đặt những sự cấm đoán đối với các đổi mới, như cấm máy
in. Ngay cả ngày nay, các nước như Afghanistan, Haiti, và Nepal có các nhà nước
quốc gia mà thiếu sự tập trung chính trị. Ở châu Phi hạ-Sahara tình hình còn tồi tệ
hơn. Như chúng ta đã lập luận trước đây, không có một nhà nước tập trung để
mang lại trật tự và thực thi các quy tắc và các quyền tài sản, các thể chế bao gồm
không thể nổi lên. Chúng ta sẽ thấy trong chương này rằng trong nhiều phần của
châu Phi hạ-Sahara (thí dụ Somalia và nam Sudan) một rào cản chính đối với
công nghiệp hóa đã là sự thiếu bất cứ hình thức nào của sự tập trung hóa chính trị.
Không có những điều kiện tiên quyết tự nhiên này, công nghiệp hóa không có cơ
hội nào để cất cánh.
Chính thể chuyên chế và sự thiếu tập trung chính trị hay sự tập trung chính trị
yếu là hai rào cản đối với sự mở rộng công nghiệp. Nhưng chúng cũng liên hệ với
nhau; cả hai được giữ tại vị trí bởi nỗi sợ phá hủy sáng tạo và bởi vì quá trình tập
trung hóa chính trị thường tạo ra chính thể chuyên chế. Sự kháng cự đối với sự tập
trung hóa chính trị được thúc đẩy bởi các lý do giống như sự kháng cự đối với các
thể chế chính trị bao gồm: sợ mất quyền lực chính trị, lần này, cho nhà nước tập
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 217
trung mới và những người kiểm soát nó. Chúng ta đã thấy ở chương trước, quá
trình tập trung hóa chính trị dưới thời Tudor ở nước Anh đã làm tăng thế nào các
đòi hỏi cho tiếng nói và sự đại diện bởi các giới elite địa phương khác nhau trong
các thể chế chính trị quốc gia như một cách để ngăn chặn sự mất quyền lực chính
trị này. Một Quốc hội mạnh hơn đã được tạo ra, cuối cùng đã làm cho sự nổi lên
của các thể chế chính trị bao gồm là có thể.
Nhưng trong nhiều trường hợp khác, đúng là điều ngược lại xảy ra, và quá
trình tập trung hóa chính trị cũng mở ra một thời đại của chính thể chuyên chế lớn
hơn. Điều này được minh họa bởi các nguồn gốc của chính thể chuyên chế Nga,
mà đã được Peter Đại Đế tạo dựng giữa 1682 và năm ông mất 1725. Peter đã xây
dựng một thủ đô mới ở Saint Peterburg, tước đoạt quyền lực từ giới quý tộc cũ,
nhà Boyar, để tạo ra một nhà nước quan liêu hiện đại và quân đội hiện đại. Ông
thậm chí đã giải tán Duma Boyar mà đã biến ông thành sa hoàng. Peter đã đưa ra
Bảng Cấp bậc, một hệ thống thứ bậc xã hội hoàn toàn mới mà bản chất của nó đã
là phục vụ sa hoàng. Ông cũng đã nắm quyền kiểm soát Giáo hội, hệt như Henry
VIII đã làm khi tập trung hóa nhà nước ở Anh. Với quá trình này của tập trung
hóa chính trị, Peter đã lấy đi quyền lực từ những người khác và chuyển hướng nó
về cho chính mình. Các cuộc cải cách quân sự của ông đã khiến cho đội quân
hoàng gia truyền thống, Streltsy, thành quân phiến loạn. Cuộc nổi loạn của họ
được tiếp nối bởi các cuộc khác, như những người Bashkir ở Trung Á và cuộc
Nổi loạn Bulavin. Chẳng cuộc nào thành công.
Mặc dù dự án tập trung hóa chính trị của Peter Đại Đế đã thành công và đã
thắng phe đối lập, các loại lực lượng mà đã phản đối sự tập trung hóa nhà nước,
như Streltsy, những người thấy quyền lực của họ bị thách thức, đã chiến thắng ở
nhiều phần của thế giới, và sự thiếu tập trung hóa nhà nước do nó gây ra đã có
nghĩa là sự tồn tại dai dẳng của một loại khác của các thể chế khai thác.
Trong chương này, chúng ta sẽ thấy trong bước ngoặt do Cách mạng Công
nghiệp tạo ra, nhiều quốc gia đã lỡ chuyến tàu thế nào và đã không tận dụng được
sự mở rộng công nghiệp ra sao. Hoặc họ đã có các thể chế chính trị chuyên chế và
các thể chế kinh tế khai thác, như ở Đế chế Ottoman, hay họ đã thiếu sự tập trung
hóa chính trị, như ở Somalia.
218 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
MỘT SỰ KHÁC BIỆT NHỎ MÀ LÀ QUAN TRỌNG
Chính thể chuyên chế đã sụp đổ ở nước Anh trong thế kỷ thứ mười bảy nhưng đã
trở nên mạnh hơn ở Tây Ban Nha. Cái tương đương ở Tây Ban Nha với Quốc hội
Anh, là Cortes, đã chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Tây Ban Nha được tạo dựng trong
năm 1492 với sự sáp nhập của các vương quốc Castile và Aragon, thông qua hôn
nhân của Nữ hoàng Isabella và Vua Ferdinand. Thời điểm đó đã trùng với sự kết
thúc của cuộc Chinh phục lại, một quá trình dài để đuổi những người Arab những
người đã chiếm đóng miền nam Tây Ban Nha, và đã xây dựng các thành phố lớn
Granada, Cordova, và Serville, từ thế kỷ thứ tám. Nhà nước Arab cuối cùng trên
Bán đảo Iberian, Granada, đã rơi vào tay Tây Ban Nha vào cùng thời gian
Christopher Columbus đến châu Mỹ và bắt đầu đòi các vùng đất này cho Nữ
hoàng Isabella và Vua Ferdinand, những người đã tài trợ chuyến đi của ông.
Sự sáp nhập các quốc vương Castile và Aragon và các cuộc hôn nhân và sự
thừa kế vương triều tiếp sau đã tạo ra một siêu nhà nước Âu châu. Isabella chết
năm 1504, con gái bà Joanna được phong làm nữ hoàng Castile. Joanna đã kết
hôn với Philip của Nhà Habsburg, con trai của hoàng đế Maximilian I của Đế chế
La Mã Thần thánh. Trong năm 1516, Charles con trai của Joanna và Philip, được
tôn lên làm vua Charles I của Castile và Aragon. Khi cha ông chết, Charles thừa
kế Hà Lan và Franche-Comté [một vùng gồm 4 tỉnh phía đông nước Pháp], mà
ông thêm vào các vùng lãnh thổ của mình ở Iberia và châu Mỹ. Trong năm 1519,
khi Maximilian I chết, Charles cũng thừa kế các lãnh thổ Hubsburg ở Đức và trở
thành Hoàng đế Charles V của Đế chế La Mã Thần thánh. Cái đã là một sự sáp
nhập của hai vương quốc Tây Ban Nha, đã trở thành một đế chế đa đại lục, và
Charles đã tiếp tục dự án tăng cường nhà nước chuyên chế mà Isabella và
Ferdinand đã khởi động.
Nỗ lực để xây dựng và củng cố chính thể chuyên chế ở Tây Ban Nha được sự
giúp đỡ khổng lồ bởi việc phát hiện ra các kim loại quý ở châu Mỹ. Bạc đã được
phát hiện ra rồi với số lượng lớn tại Guanajuato, ở Mexico, vào các năm 1520, và
không lâu sau ở Zacatecas, Mexico. Việc chinh phục Peru sau 1532 thậm chí đã
tạo ra nhiều của cải hơn cho nền quân chủ. Khoản này đến dưới dạng một khoản
chia phần, “một phần năm thuộc nhà vua”, trong mọi của cướp bóc được từ sự
chinh phục và cả từ các mỏ. Như chúng ta đã thấy ở chương 1, một núi bạc đã
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 219
được phát hiện ở Potosí vào các năm 1540, đổ nhiều của cải hơn vào kho bạc của
nhà vua Tây Ban Nha.
Vào thời gian sáp nhập Castile và Aragon, Tây Ban Nha đã là giữa các phần
thành công nhất về mặt kinh tế của châu Âu. Sau khi hệ thống chính trị chuyên
chế của nó đã được củng cố, nó đã bước vào sa sút tương đối và sau đó, sau năm
1600, vào sự sa sút tuyệt đối. Hầu như hành động đầu tiên của Isabella và
Ferdinand sau Tái Chinh phục đã là tước đoạt những người Do Thái. Khoảng hai
trăm ngàn người Do Thái ở Tây Ban Nha đã được cho bốn tháng để rời đi. Họ đã
phải bán tống bán tháo đất và các tài sản của họ với giá rẻ mạt và đã không được
phép mang một chút vàng hay bạc nào ra khỏi nước. Một thảm họa con người
tương tự đã được tiến hành chỉ hơn một trăm năm sau. Giữa 1609 và 1614, Philip
III đã trục xuất những người Morisco, các hậu duệ của các công dân của các nhà
nước Arab trước kia ở miền nam Tây Ban Nha. Hệt như với những người Do
Thái, những người Morisco đã phải ra đi với cái gì họ đã có thể mang và đã không
được phép mang bất cứ lượng vàng, bạc hay kim loại quý nào theo mình.
Các quyền tài sản đã không an toàn theo các chiều kích khác dưới sự cai trị
Habsburg ở Tây Ban Nha. Philip II, người nối ngôi cha mình, Charles V, vào năm
1556, đã không trả được các khoản nợ của mình trong năm 1557, và lần nữa trong
năm 1560, đã làm phá sản các gia đình Fugger và Welser kinh doanh ngân hàng.
Vai trò của các gia đình Đức kinh doanh ngân hàng sau đó được đảm nhiệm bởi
các gia đình người xứ Genoese kinh doanh ngân hàng, những người đến lượt lại
bị làm cho phá sản bởi những sự vỡ nợ Tây Ban Nha dưới triều đại của họ
Habsburg trong các năm 1575, 1596, 1607, 1627, 1647, 1652, 1660, và 1662.
Cũng cốt yếu đúng như sự bất ổn định của các quyền tài sản ở Tây Ban Nha
chuyên chế đã là tác động của chính thể chuyên chế lên các thể chế kinh tế của
thương mại và sự phát triển của đế chế thuộc địa Tây Ban Nha. Như chúng ta đã
thấy ở chương trước, thành công kinh tế của nước Anh đã dựa trên sự mở rộng
buôn bán nhanh chóng. Mặc dù, so với Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, nước Anh
đã là người đến sau với thương mại Đại Tây Dương, nó đã cho phép sự tham gia
có cơ sở tương đối rộng vào buôn bán và các cơ hội thuộc địa. Cái đã nhồi đầy
kho bạc của Quốc vương ở Tây Ban Nha đã làm giàu cho tầng lớp nhà buôn mới
nổi ở nước Anh. Chính tầng lớp nhà buôn này đã tạo thành cơ sở của tính năng
220 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
động kinh tế của nước Anh lúc ban đầu và đã trở thành bức tường thành của liên
minh chính trị chống chuyên chế.
Ở Tây Ban Nha các quá trình này, mà đã dẫn đến tiến bộ kinh tế và thay đổi
thể chế, đã không diễn ra. Sau khi châu Mỹ được khám phá ra, Isabella và
Ferdinand đã tổ chức thương mại giữa các thuộc địa mới của họ và Tây Ban Nha
thông qua một phường hội của các nhà buôn ở Serville. Cơ sở hẹp, được độc
quyền buôn bán này đã có nghĩa rằng không có tầng lớp rộng nào của các nhà
buôn đã có thể nổi lên qua các cơ hội buôn bán với các thuộc địa. Ngay cả thương
mại ở bên trong châu Mỹ cũng đã bị điều tiết một cách nặng nề. Thí dụ, một nhà
buôn ở một thuộc địa như Tây Ban Nha Mới, đại thể là Mexico hiện đại, đã không
thể buôn bán trực tiếp với bất cứ ai ở Grenada Mới, Colombia hiện đại. Những
hạn chế này lên thương mại ở bên trong Đế chế Tây Ban Nha đã làm giảm sự
thịnh vượng kinh tế của nó và, một cách gián tiếp, đã làm giảm các ích lợi tiềm
tàng mà Tây Ban Nha đã có thể có được qua buôn bán với đế chế khác, thịnh
vượng hơn. Tuy nhiên, chúng [các thể chế] đã là khai thác bởi vì chúng đã đảm
bảo rằng bạc và vàng tiếp tục chảy về Tây Ban Nha.
Các thể chế kinh tế khai thác của Tây Ban Nha đã là kết quả trực tiếp của sự
xây dựng chính thể chuyên chế và con đường khác, so với nước Anh, mà các thể
chế chính trị đã đi. Cả Vương quốc Castile lẫn Vương quốc Aragon đã đều có
Cortes của mình, một quốc hội đại diện cho các nhóm khác nhau, hay các
“estaste-đẳng cấp” khác nhau, của vương quốc. Như với Quốc hội Anh, Cortes xứ
Castile phải được triệu tập để chuẩn y các loại thuế mới. Tuy nhiên, Cortes ở
Castile và Aragon chủ yếu đã đại diện cho các thành phố lớn, hơn là các vùng cả
đô thị lẫn nông thôn, như Quốc hội Anh đã đại diện. Vào thế kỷ thứ mười lăm, nó
đã đại diện chỉ cho mười tám thành phố, mỗi thành phố cử hai đại biểu. Hệ quả là,
Cortes đã không đại diện cho một tập hợp của các nhóm rộng như Quốc hội Anh
đã đại diện, và nó đã chẳng bao giờ phát triển như một mối liên hệ của các nhóm
lợi ích đa dạng ganh đua để đặt các ràng buộc hạn chế lên chính thể chuyên chế.
Nó đã không thể làm luật, và thậm chí phạm vi của các quyền hạn của nó liên
quan đến đánh thuế đã bị hạn chế. Tất cả điều này đã làm cho dễ hơn đối với nền
quân chủ Tây Ban Nha để cho Cortes ra ngoài lề trong quá trình củng cố chính thể
chuyên chế riêng của nó. Ngay cả với số bạc đến từ châu Mỹ, Charles V và Philip
II đã đòi hỏi thu nhập thuế ngày càng tăng để chi cho một loạt các cuộc chiến
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 221
tranh tốn kém. Trong năm 1520 Charles V đã quyết định để trình ra Cortes đòi hỏi
tăng thuế. Các elite thành thị đã tận dụng thời điểm để đòi sự thay đổi rộng hơn
trong Cortes và quyền hạn của nó. Sự chống đối này đã trở nên mãnh liệt và mau
chóng trở thành cái được biết đến như cuộc Nổi loạn Comunero. Charles đã có
khả năng dẹp tan cuộc nổi loạn với quân lính hoàng gia. Suốt phần còn lại của thế
kỷ thứ mười sáu, tuy vậy, đã có một cuộc chiến đấu liên tục vì Quốc vương đã thử
cố giành cho được từ Cortes các quyền để thu các loại thuế mới và tăng các loại
thuế cũ mà nó đã có quyền. Mặc dù cuộc chiến đấu này đã lúc lên lúc xuống, cuối
cùng phần thắng đã thuộc về nền quân chủ. Sau 1664, Cortes đã không họp nữa
cho đến khi nó được tổ chức lại trong các cuộc xâm lấn của Napoleon gần 150
năm sau.
Ở nước Anh sự thất bại của chính thể chuyên chế đã dẫn không chỉ đến các thể
chế chính trị đa nguyên mà cũng đến sự phát triển thêm nữa của một nhà nước tập
trung hiệu quả hơn nhiều. Ở Tây Ban Nha điều ngược lại đã xảy ra khi chính thể
chuyên chế thắng lợi. Mặc dù nền quân chủ đã hoạn Cortes và đã dỡ bỏ bất cứ
ràng buộc hạn chế nào lên ứng xử của nó, nó đã ngày càng trở nên khó để thu
thuế, ngay cả khi nó đã thử bằng thương lượng trực tiếp với các thành phố. Trong
khi nhà nước Anh đã tạo ra một bộ máy thuế vụ hiện đại và hiệu quả, nhà nước
Tây Ban Nha đã lại di chuyển theo hướng ngược lại. Nền quân chủ đã không chỉ
thất bại để tạo ra các quyền tài sản an toàn cho các doanh nhân khởi nghiệp và đã
độc quyền hóa thương mại, mà nó cũng đã bán các chức vụ, thường biến chúng
thành các chức cha truyền con nối, ham mê sự thầu thuế, và thậm chí bán sự được
miễn xét xử.
Các hệ quả của các thể chế chính trị và kinh tế khai thác này ở Tây Ban Nha đã
có thể tiên đoán được. Trong thế kỷ thứ mười bảy, trong khi nước Anh đang di
chuyển theo hướng tăng trưởng thương mại và sau đó công nghiệp hóa nhanh
chóng, thì Tây Ban Nha sa theo hướng suy thoái kinh tế lan rộng. Vào đầu thế kỷ,
một trong năm người Tây Ban Nha đã sống ở các vùng đô thị. Vào cuối thế kỷ,
con số này đã giảm đi một nửa xuống còn một trong mười người, trong một quá
trình mà tương ứng với sự ngày càng nghèo đi của dân cư Tây Ban Nha. Thu nhập
Tây Ban Nha đã giảm sút, trong khi nước Anh dần trở nên giàu có.
Sự tồn tại dai dẳng của chính thể chuyên chế ở Tây Ban Nha, trong khi nó bị
trốc tận rễ ở nước Anh, là một thí dụ nữa về những khác biệt nhỏ là có ý nghĩa
222 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
trong các bước ngoặt. Những sự khác biệt nhỏ đã là về sức mạnh và bản chất của
các thể chế đại diện; bước ngoặt đã là sự khám phá ra châu Mỹ. Sự tương tác của
những thứ này đã đưa Tây Ban Nha lên một con đường thể chế rất khác với nước
Anh. Các thể chế kinh tế tương đối bao gồm mà đã nảy sinh ở nước Anh đã tạo ra
tính năng động kinh tế chưa từng thấy, lên đỉnh điểm trong Cách mạng Công
nghiệp, trong khi công nghiệp hóa đã không có cơ hội nào ở Tây Ban Nha. Vào
lúc công nghệ công nghiệp đã lan ra nhiều phần của thế giới, nền kinh tế Tây Ban
Nha đã suy sụp nhiều đến mức thậm chí đã không có nhu cầu đối với Quốc vương
hay các elite chủ sở hữu đất ở Tây Ban Nha để ngăn chặn công nghiệp hóa.
SỢ CÔNG NGHIỆP
Không có những thay đổi về các thể chế chính trị và quyền lực chính trị tương tự
như những thay đổi đã nổi lên ở Anh sau 1688, thì đã có ít cơ hội cho các nước
chuyên chế để hưởng lợi từ những đổi mới và những công nghệ mới của Cách
mạng Công nghiệp. Ở Tây Ban Nha, chẳng hạn, sự thiếu các quyền tài sản an toàn
và sự sa sút kinh tế phổ biến đã có nghĩa rằng người dân đơn giản đã không có
khuyến khích để tiến hành các khoản đầu tư và những sự hy sinh cần thiết. Ở Nga
và Áo-Hungary, đã không đơn giản là sự sao lãng và sự quản lý tồi của các elite
và sự trượt kinh tế quỷ quyệt vào dưới các thể chế khai thác là những cái đã cản
trở công nghiệp hóa; thay vào đó, các nhà cai trị đã tích cực ngăn chặn bất cứ nỗ
lực nào để đưa các công nghệ này và các khoản đầu tư cơ bản vào cơ sở hạ tầng
như đường sắt mà đã có thể hoạt động như các máng dẫn của chúng.
Vào thời gian của Cách mạng Công nghiệp, trong thế kỷ thứ mười tám và đầu
thế kỷ thứ mười chín, bản đồ chính trị của châu Âu đã rất khác với bản đồ chính
trị hiện nay. Đế chế La Mã Thần thánh, một chiếc chăn chắp vá của hơn bốn trăm
chính thể, mà đa số chúng cuối cùng sẽ hợp lại thành nước Đức, đã chiếm hầu hết
Trung Âu. Triều đại Habsgurg đã vẫn là một lực lượng chính trị chủ yếu, và đế
chế của nó, được biết đến như nhà Habsburg hay Đế chế Áo-Hungary, đã trải ra
trên một vùng mênh mông khoảng 250.000 dặm vuông, cho dù nó không còn bao
gồm Tây Ban Nha, sau khi nhà Bourbon đã tiếp quản ngai vàng Tây Ban Nha
trong năm 1700. Về mặt dân số nó đã là nhà nước lớn thứ ba ở châu Âu và đã
chiếm một phần bảy dân số châu Âu. Vào cuối thế kỷ thứ mười tám đất đai
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 223
Habsburg đã bao gồm, ở phía tây, phần ngày nay là Bỉ, khi đó là Hà Lan thuộc
Áo. Phần lớn nhất, tuy vậy, đã là khối đất đai liên tục xung quanh Áo và Hungary,
bao gồm Cộng hòa Czech, Slovakia về phía bắc, Slovenia, Croatia, và phần lớn
Italia và Serbia ở phía nam. Về phía đông nó đã bao gồm phần lớn của Rumani và
Ba Lan ngày nay.
Các nhà buôn ở các lãnh thổ Habsburg đã ít quan trọng hơn nhiều so với ở
Anh, và chế độ nông nô đã chiếm ưu thế tại các vùng đất ở Đông Âu. Như chúng
ta đã thấy ở chương 4, Ba Lan và Hungary đã ở trung tâm của Chế độ Nông nô
thứ Hai của Đông Âu. Nhà Habsburg, không giống nhà Stuart, đã thành công duy
trì sự cai trị chuyên chế mạnh. Francis I, người đã cai trị với tư cách hoàng đế
cuối cùng của Đế chế La Mã Thần thánh, giữa 1792 và 1806, và sau đó hoàng đế
Áo-Hungary cho đến khi ông chết năm 1835, đã là một nhà chuyên chế tột bực.
Ông đã không công nhận bất cứ hạn chế nào về quyền lực của mình và, trên hết,
ông đã muốn duy trì hiện trạng chính trị. Chiến lược cơ bản của ông đã là chống
đối sự thay đổi, bất cứ loại thay đổi nào. Trong năm 1821 ông đã làm rõ điều này
trong một bài phát biểu đặc trưng cho các nhà cai trị Habsburg, được trình bày
cho các giáo viên tại một trường học ở Laibach, khẳng định, “ta không cần những
người hầu, mà cần các công dân tốt, trung thực. Nhiệm vụ của các vị là dạy dỗ
những người trẻ thành các công dân như vậy. Ai phục vụ ta phải dạy cái ta ra lệnh
cho. Nếu bất cứ ai không thể làm được điều này, hay đến với những ý tưởng mới,
người đó có thể đi, hoặc ta sẽ đuổi.”
Nữ hoàng Maria Theresa, người đã trị vì giữa 1740 và 1780, đã thường xuyên
trả lời cho các gợi ý về làm thế nào để cải thiện hay thay đổi các thể chế bằng lời
nhận xét, “Hãy để mọi thứ như nó là.” Tuy nhiên, bà và con trai bà Joseph II,
người đã là hoàng đế giữa 1780 và 1790, đã chịu trách nhiệm về một nỗ lực để
xây dựng một nhà nước tập trung hùng mạnh hơn và một hệ thống hành chính
hiệu quả hơn. Thế nhưng họ đã làm việc này trong bối cảnh của một hệ thống
chính trị với không ràng buộc hạn chế nào lên các hành động của họ và với ít yếu
tố của chủ nghĩa đa nguyên. Đã không có quốc hội toàn quốc mà có thể đưa ra
ngay chỉ một chút kiểm soát lên quốc vương, chỉ có một hệ thống của các đẳng
cấp và các nghị viện địa phương, mà về mặt lịch sử đã có những quyền hạn nào
đó liên quan đến đánh thuế và tuyển mộ lính. Thậm chí đã có ít sự kiểm soát hơn
224 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
lên cái nhà Habsburg Áo-Hungary có thể làm so với các quốc vương Tây Ban
Nha, và quyền lực chính trị đã được tập trung hẹp.
Khi chính thể chuyên chế Habsburg được tăng cường trong thế kỷ thứ mười
tám, sức mạnh của tất cả các thể chế không-quân chủ đã bị yếu thêm. Khi một
phái đoàn công dân từ tỉnh Tyrol ở Áo đưa kiến nghị lên Francis cho một hiến
pháp, ông đã trả lời, “Được, các ngươi muốn có một hiến pháp! … Xem này, ta
không ngại cái đó. Ta sẽ cho các ngươi một hiến pháp nhưng các ngươi phải biết
rằng binh sĩ vâng lời ta, và ta sẽ không bảo các ngươi hai lần nếu ta cần tiền …
Trong mọi trường hợp ta khuyên các ngươi nên thận trọng với cái các ngươi sắp
nói.” Căn cứ vào câu trả lời này, các nhà lãnh đạo Tyrol đã trả lời, “Nếu bệ hạ
nghĩ như vậy, thì tốt hơn là không có hiến pháp nào cả,” mà Francis đáp lại, “Đó
cũng là ý của ta.”
Francis đã giải tán Hội đồng Nhà nước mà Maria Theresa đã sử dụng như một
diễn đàn cho việc tham vấn với các bộ trưởng của bà. Từ đó trở đi đã không có sự
tham vấn nào hay sự thảo luận nào về các quyết định của Quốc vương. Francis đã
tạo ra một nhà nước cảnh sát và đã kiểm duyệt một cách tàn nhẫn bất cứ thứ gì mà
đã có thể được coi như cấp tiến ôn hòa. Triết lý của ông về cai trị đã được mô tả
đặc trưng bởi Bá tước Hartig, một phụ tá lâu đời của ông, như “sự duy trì không
giảm sút quyền của quốc vương, và từ chối mọi đòi hỏi từ phía nhân dân cho một
sự tham gia vào quyền đó.” Ông đã được giúp đỡ trong tất cả chuyện này bởi
Hoàng thân von Metternich, được chỉ định làm bộ trưởng ngoại giao trong năm
1809. Quyền lực và ảnh hưởng của Metternich thực sự tồn tại lâu hơn quyền lực
và ảnh hưởng của Francis, và ông vẫn đã là bộ trưởng ngoại giao gần bốn mươi
năm.
Đứng ở trung tâm của các thể chế kinh tế Habsburg đã là trật tự phong kiến và
chế độ nông nô. Khi di chuyển sang phía đông bên trong đế chế, chủ nghĩa phong
kiến trở nên mãnh liệt hơn, một sự phản ánh về độ dốc phổ biến hơn trong các thể
chế kinh tế chúng ta đã thấy ở chương 4, khi di chuyển từ Tây sang Đông Âu.
Tính linh động lao động đã hết sức hạn chế, và sự di cư đã là bất hợp pháp. Khi
nhà từ thiện Anh Robert Owen thử thuyết phục chính phủ Áo để chấp nhận những
cải cách xã hội nào đó nhằm cải thiện hoàn cảnh của những người nghèo, một
trong các trợ lý của Metternich, Friedrich von Gentz, đã trả lời, “Chúng tôi không
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 225
hề mong muốn rằng các đám đông to lớn sẽ trở nên khá giả và độc lập … Khác đi
thì làm sao chúng tôi có thể cai trị họ?”
Thêm vào chế độ nông nô, mà đã ngăn chặn hoàn toàn sự nổi lên của một thị
trường lao động và xóa bỏ các khuyến khích hay các sáng kiến kinh tế từ quần
chúng dân cư nông thôn, chính thể chuyên chế Habsburg đã phát đạt nhờ các độc
quyền và những hạn chế khác về thương mại. Nền kinh tế đô thị bị áp đảo bởi các
phường hội, mà đã hạn chế sự tham gia vào các nghề. Cho đến 1775 đã có thuế
quan nội địa bên trong bản thân nước Áo, và ở Hungary cho đến năm 1784. Thuế
quan đã rất cao đối với hàng hóa nhập khẩu, với nhiều lệnh cấm rành mạch về các
hàng hóa nhập và xuất khẩu.
Sự kiềm chế các thị trường và sự tạo ra các thể chế kinh tế khai thác tất nhiên
là đặc trưng hoàn toàn của chính thể chuyên chế, nhưng Francis đã đi xa hơn. Đã
không đơn giản là các thể chế kinh tế khai thác đã xóa bỏ các khuyến khích cho
các cá nhân để đổi mới hay chấp nhận công nghệ mới. Chúng ta đã thấy ở chương
2, ở Vương quốc Kongo các nỗ lực để thúc đẩy việc sử dụng cày đã thất bại như
thế nào bởi vì người dân đã thiếu bất cứ khuyến khích nào, căn cứ vào bản chất
khai thác của các thể chế kinh tế. Nhà vua Kongo đã nhận ra rằng nếu ông có thể
khiến nhân dân sử dụng cày, thì năng suất nông nghiệp sẽ cao hơn, tạo ra nhiều
của cải hơn, mà ông đã có thể hưởng lợi từ đó. Đấy là một khuyến khích tiềm
năng cho tất cả các chính phủ, ngay cả cho các chính phủ chuyên chế. Vấn đề ở
Kongo đã là, nhân dân thì lại đã hiểu rằng bất cứ thứ gì họ sản xuất ra đều bị tịch
thu bởi một quốc vương chuyên chế, và vì thế họ đã không có khuyến khích nào
để đầu tư hay sử dụng công nghệ tốt hơn. Trong các vùng đất Habsburg, Francis
đã không khuyến khích các công dân của ông chấp nhận làm theo công nghệ tốt
hơn; ngược lại, ông thực sự chống lại nó, và đã ngăn chặn sự phổ biến các công
nghệ mà khác đi thì nhân dân đã có thể sẵn sàng chấp nhận với các thể chế kinh tế
hiện tồn.
Sự chống đối đổi mới đã được thể hiện theo hai cách. Thứ nhất, Francis I đã
chống sự phát triển công nghiệp. Công nghiệp dẫn đến các nhà máy, và các nhà
máy có thể tập trung những người lao động nghèo trong thành phố, đặc biệt ở thủ
đô Vienna. Những người lao động đó rồi có thể trở thành những người ủng hộ các
đối thủ của chính thể chuyên chế. Các chính sách của ông đã nhằm siết chặt các
elite truyền thống và hiện trạng chính trị và kinh tế vào đúng chỗ. Ông đã muốn
226 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
giữ xã hội chủ yếu là nông nghiệp. Cách tốt nhất để làm việc này, Francis tin, đã
là cản việc xây dựng các nhà máy ngay từ đầu. Việc này ông đã trực tiếp làm – thí
dụ, trong năm 1802, cấm việc tạo ra các nhà máy mới ở Vienna. Thay cho việc
khuyến khích nhập khẩu và sự chấp nhận dùng máy móc mới, ông đã cấm cho
đến tận 1811.
Thứ hai, ông đã chống lại việc xây dựng đường sắt, một trong những công
nghệ mới then chốt mà đã đến cùng Cách mạng Công nghiệp. Khi một kế hoạch
để xây dựng một đường sắt phía bắc được đệ trình lên Francis, ông đã trả lời,
“Không, không, ta không dính líu gì với nó, e rằng cách mạng có thể lẻn vào đất
nước này.”
Vì chính phủ đã không nhân nhượng cho việc xây dựng một đường sắt hơi
nước, đường sắt đầu tiên được xây dựng trong đế chế đã phải dùng các toa xe
ngựa kéo. Tuyến chạy giữa thành phố Linz, bên sông Danube, và thành phố
Budweise xứ Bohem, bên sông Moldau, đã được xây dựng với độ dốc và các góc,
mà đã có nghĩa rằng không thể để chuyển đổi sang đầu máy hơi nước. Cho nên nó
đã tiếp tục dùng sức ngựa cho đến các năm 1860. Tiềm năng cho sự phát triển
đường sắt trong đế chế đã được cảm nhận từ sớm bởi nhà ngân hàng Salomon
Rothschild, đại diện ở Vienna của gia đình lớn kinh doanh ngân hàng. Anh của
Salomon, Nathan, người đóng ở London, đã rất bị ấn tượng bởi động cơ “Tên
Lửa” của George Stephenson và tiềm năng cho đầu tàu hơi nước. Ông đã liên hệ
với em mình để khuyến khích anh ta tìm kiếm cơ hội để phát triển đường sắt ở
Áo, vì ông đã tin rằng gia đình có thể kiếm được lợi nhuận lớn bằng cách tài trợ
cho sự phát triển đường sắt. Nathan đã đồng ý, nhưng sơ đồ đã chẳng đi đến đâu,
bởi vì Hoàng đế Francis lại đơn giản đã nói không.
Sự phản đối công nghiệp và máy hơi nước đã xuất phát từ nỗi lo của Francis về
sự phá hủy sáng tạo mà đi cùng với sự phát triển của một nền kinh tế hiện đại.
Các ưu tiên chính của ông đã là đảm bảo sự ổn định của các thể chế khai thác mà
trên đó ông cai trị và bảo vệ các lợi thế của các elite truyền thống những người đã
ủng hộ ông. Không chỉ là, đã có ít để được lợi thêm từ công nghiệp hóa, mà có thể
làm xói mòn trật tự phong kiến bằng cách thu hút lao động từ nông thôn ra thành
thị, mà Francis cũng đã nhận ra sự đe dọa mà những thay đổi kinh tế lớn có thể
đặt ra cho quyền lực chính trị của ông. Như một kết quả, ông đã chặn công nghiệp
và tiến bộ kinh tế, nhốt đất nước trong tình trạng lạc hậu kinh tế, mà đã thể hiện
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 227
mình theo nhiều cách. Thí dụ, mãi đến 1883, khi 90 phần trăm của sản lượng sắt
thế giới đã được sản xuất bằng sử dụng than đá, thì hơn nửa sản lượng trong các
lãnh thổ Habsburg vẫn sử dụng than củi kém hiệu quả hơn nhiều. Tương tự, cho
đến tận Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, khi đế chế sụp đổ, việc dệt vải đã
chẳng bao giờ được cơ giới hóa hoàn toàn mà vẫn được tiến hành bằng tay.
Áo-Hungary đã không đơn độc trong nỗi sợ công nghiệp. Xa hơn ở phía đông,
Nga đã có một tập hợp chuyên chế ngang thế của các thể chế chính trị, được rèn
bởi Peter Đại Đế, như chúng ta đã thấy trước đây trong chương này. Giống Áo-
Hungary, các thể chế kinh tế của Nga đã hết sức khai thác, dựa trên chế độ nông
nô, giữ ít nhất một nửa dân cư gắn với đất. Các nông nô đã phải làm việc không
công ba ngày một tuần trên đất của chủ nô. Họ đã không thể di chuyển, họ đã
thiếu quyền tự do nghề nghiệp, và họ đã có thể bị bán tùy ý của chủ nô của họ và
chủ nô khác. Nhà triết học cấp tiến Peter Kropotkin, một trong các nhà sáng lập
của chủ nghĩa vô chính phủ, đã để lại sự mô tả sống động về cách chế độ nông nô
đã hoạt động dưới triều của Sa hoàng Nicolas I, người đã cai trị Nga từ 1825 đến
1855. Ông đã nhớ lại thời thơ ấu của mình
những câu chuyện về những người đàn ông và đàn bà bị lôi khỏi gia
đình và làng xóm của họ và bị bán, bị thua cờ bạc, hay bị đổi lấy một
cặp chó săn, bị đưa đi nơi hẻo lánh nào đó của nước Nga … về những
đứa trẻ bị giằng khỏi cha mẹ chúng và bị bán cho các ông chủ tàn ác
hay phóng đãng; về sự đánh bằng roi “trong chuồng ngựa,” mà xảy ra
hàng ngày với sự tàn ác không ai để ý tới; về một cô gái người đã tìm
thấy sự cứu rỗi duy nhất của cô trong việc để mình chết đuối; về một
người già tóc đã hoa râm vì đã phục vụ chủ mình từ lâu và cuối cùng
đã treo cổ mình dưới cửa sổ của ông chủ; và về các cuộc nổi loạn của
nông nô, mà đã bị đàn áp bởi các tướng của Nicholas I bằng cách
đánh đòn cho đến chết mỗi người thứ mười hay thứ năm bị nhấc ra
khỏi hàng, và bằng cách tàn phá làng mạc … Về sự nghèo khó mà tôi
đã thấy trong các chuyến đi của chúng tôi ở một số làng, đặc biệt ở
các làng thuộc về gia đình đế chế, không có lời nào là đủ để mô tả sự
khốn khổ cho các bạn đọc chưa từng thấy nó.
Chính xác như ở Áo-Hungary, chính thể chuyên chế đã không chỉ tạo ra một
tập hợp các thể chế kinh tế cản trở sự thịnh vượng của xã hội. Đã có một sự sợ
228 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
tương tự về sự phá hủy sáng tạo và một nỗi sợ công nghiệp và đường sắt. Tại tâm
điểm của chuyện này dưới thời triều Nicholas I đã là Bá tước Egor Kankrin,
người đã phục vụ với tư cách bộ trưởng tài chính giữa 1823 và 1844 và đã đóng
vai trò then chốt trong chống lại những thay đổi xã hội cần thiết cho sự thúc đẩy
thịnh vượng kinh tế.
Các chính sách của Kankrin đã nhắm tới việc củng cổ các trụ cột chính trị
truyển thống của chế độ, đặc biệt giới quý tộc sở hữu đất, và giữ cho xã hội là xã
hội nông thôn và nông nghiệp. Vào lúc trở thành bộ trưởng tài chính, Kankrin đã
nhanh chóng chống lại và đảo ngược một đề xuất bởi bộ trưởng tài chính trước,
Gurev, để phát triển một Ngân hàng Thương mại do Chính phủ sở hữu để cho
công nghiệp vay tiền. Thay vào đó, Kankrin đã mở lại Ngân hàng Cho vay Nhà
nước mà đã bị đóng cửa trong các cuộc Chiến tranh Napoleon. Ngân hàng này
được tạo ra ban đầu để cho các địa chủ lớn vay với lãi suất được trợ cấp, một
chính sách Kankrin chấp thuận. Các khoản vay đòi hỏi những người muốn vay
phải đưa các nông nô như “vật đảm bảo,” hay tài sản thế chấp, cho nên chỉ có các
địa chủ phong kiến mới có thể kiếm được các khoản vay như vậy. Để cấp tài
chính cho Ngân hàng Cho vay Nhà nước, Kankrin đã chuyển các tài sản từ Ngân
hàng Thương mại, giết hai con chim bằng một hòn đá: bây giờ có ít tiền để lại cho
công nghiệp.
Thái độ của Kankrin đã bị định hình một cách nhìn thấy trước bởi nỗi sợ rằng
sự thay đổi kinh tế sẽ kéo theo sự thay đổi chính trị, và các nỗi sợ của Sa hoàng
Nicholas cũng đã thế. Sự lên nắm quyền của Nichlas trong tháng Mười hai năm
1825 đã gần như bị hủy bởi một âm mưu đảo chính bởi các sĩ quan quân đội, cái
được gọi là những người Tháng Mười Hai, những người đã có một chương trình
cấp tiến về thay đổi xã hội. Nicholas đã viết cho Đại Công tước Mikhail: “Cách
mạng ở trước ngưỡng cửa nước Nga, nhưng tôi thề rằng nó sẽ không xâm nhập
vào đất nước này trong khi còn hơi thở trong thân thể tôi.”
Nicholas đã sợ những thay đổi xã hội mà việc tạo ra một nền kinh tế hiện đại
sẽ mang lại. Như ông đã diễn đạt trong một bài phát biểu ông đã nói cho một cuộc
gặp mặt của các nhà chế tạo tại một triển lãm công nghiệp ở Moscow:
cả nhà nước và các nhà chế tạo phải hướng sự chú ý vào một chủ đề,
mà không có nó thì chính các nhà máy sẽ trở thành một tai họa hơn là
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 229
một phước lành; đấy là sự cẩn trọng về những người lao động tăng lên
về số lượng hàng năm. Họ cần sự giám sát mạnh mẽ và gia trưởng về
đạo đức của họ; không có nó thì khối quần chúng này của nhân dân sẽ
dần dần bị đồi bại và cuối cùng sẽ biến thành giai cấp cũng cùng khổ
ngang như như nguy hiểm cho các ông chủ của họ.
Hệt như với Francis I, Nicholas đã sợ rằng sự phá hủy sáng tạo được tháo ra
bởi một nền kinh tế công nghiệp hiện đại sẽ làm xói mòn hiện trạng chính trị ở
Nga. Được Nicholas thúc giục, Kankrin đã đưa ra các bước cụ thể để làm chậm
tiềm năng cho công nghiệp. Ông đã cấm nhiều cuộc triển lãm công nghiệp, mà
trước đó đã được tổ chức định kỳ để giới thiệu công nghệ mới và tạo thuận lợi cho
việc thích nghi công nghệ.
Trong năm 1848 châu Âu bị rung chuyển bởi một loạt các cuộc cách mạng nổ
ra. Đáp lại, A. A, Zakrevskii, thống đốc quân sự của Moscow, người chịu trách
nhiệm duy trì trật tự công, đã viết cho Nicholas: “Để duy trì sự bình yên và thịnh
vượng, mà hiện thời chỉ Nga được hưởng, chính phủ không được cho phép sự tụ
tập của những người vô gia cư và những kẻ phóng đãng, những người sẽ dễ dàng
tham gia mọi phong trào, phá hoại sự bình yên xã hội và sự yên bình riêng.” Lời
khuyên của ông đã được đưa ra trước các bộ trưởng của Nicholas, và trong năm
1849 một luật mới đã được ban hành đặt ra những hạn chế nghiêm ngặt về số nhà
máy có thể được mở ở bất cứ phần nào của Moscow. Nó đặc biệt đã cấm mở bất
cứ xưởng kéo sợi bông và len mới nào và các xưởng đúc sắt. Các ngành khác, như
dệt và nhuộm, đã phải kiến nghị lên thống đốc quân sự nếu họ muốn mở các nhà
máy mới. Cuối cùng kéo sợi bông đã bị cấm một cách tường minh. Luật đã có ý
định ngừng bất cứ sự tập trung thêm nào của các công nhân có tiềm năng nổi loạn
trong thành phố.
Sự chống đối đường sắt đi cùng với sự chống đối công nghiệp, chính xác như ở
Áo-Hungary. Trước 1842 đã chỉ có một tuyến đường sắt ở Nga. Đấy là Đường sắt
Tsarskoe Selo, mà đã chạy mười bảy dặm từ Saint Peterburg đến các dinh thự đế
chế ở Tsarskoe Selo và Pavlosk. Hệt như Kankrin đã chống lại công nghiệp, ông
đã không thấy lý do nào để đẩy mạnh đường sắt, mà ông đã cho rằng sẽ mang lại
một sự linh động nguy hiểm về mặt xã hội, lưu ý rằng, “đường sắt không luôn
luôn là kết quả từ sự cần thiết tự nhiên, mà nhiều hơn là một đối tượng của nhu
230 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
cầu nhân tạo hay sự xa hoa. Chúng khuyến khích sự đi lại không cần thiết từ nơi
này sang nơi khác, mà hoàn toàn là điển hình của thời đại chúng ta.”
Kankrin đã bác bỏ rất nhiều cuộc bỏ thầu để xây dựng đường sắt, và chỉ đến
1851 mới có một tuyến được xây dựng nối Moscow và Saint Peterburg. Chính
sách của Kankrin được tiếp tục bởi Bá tước Kleinmichel, người được cử đứng đầu
cơ quan hành chính quản lý chính về Giao Thông và Công Thự. Tổ chức này đã
trở thành trọng tài chính của việc xây dựng đường sắt, và Kleinmichel đã sử dụng
nó như một cái bệ để làm nản lòng việc xây dựng chúng. Sau 1849 ông thậm chí
đã còn dùng quyền lực của mình để kiểm duyệt sự thảo luận về phát triển đường
sắt trên báo chí.
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 231
Bản đồ 13 cho thấy các hệ quả của logic này. Trong khi Vương quốc Anh và
hầu hết Tây bắc châu Âu đã chằng chịt đường sắt trong năm 1870, rất ít đã thâm
nhập vào lãnh thổ mênh mông của Nga. Chính sách chống đường sắt đã chỉ đảo
ngược sau khi Nga bị các lực lượng Anh, Pháp, và Ottoman đánh bại một cách
dứt khoát trong Chiến tranh Crime, 1853-1856, khi sự lạc hậu của mạng lưới giao
thông của nó đã được hiểu là cái gây khó khăn trở ngại cho an ninh của Nga.
Cũng đã có ít sự phát triển đường sắt ở Áo-Hungary, bên ngoài Áo và phần phía
Tây của đế chế, mặc dù các cuộc Cách mạng 1848 đã mang lại những thay đổi
cho các lãnh thổ này, đặc biệt là sự xóa bỏ chế độ nông nô.
KHÔNG TÀU BÈ NÀO ĐƯỢC PHÉP
Chính thể chuyên chế đã ngự trị không chỉ ở phần lớn châu Âu mà cả ở châu Á
nữa, và một cách tương tự đã ngăn cản sự công nghiệp hóa trong bước ngoặt do
Cách mạng Công nghiệp tạo ra. Các triều đại Minh và Thanh ở Trung Quốc và
chính thể chuyên chế của Đế chế Ottoman minh họa điều này. Dưới triều Tống,
giữa 960 và 1279, Trung Quốc đã dẫn đầu thế giới về nhiều đổi mới công nghệ.
Những người Trung Quốc đã sáng chế ra đồng hồ, la bàn, thuốc súng, giấy và tiền
giấy, đồ sứ, và lò nung thổi để chế tạo gang trước khi châu Âu đã sáng chế ra. Họ
đã phát triển một cách độc lập guồng xe sợi và sức nước ít nhiều cùng thời gian
mà những công nghệ này nổi lên ở đầu bên kia của đại lục Á-Âu. Kết quả là,
trong năm 1500 mức sống ở Trung Quốc ít nhất cũng cao như ở châu Âu. Trong
nhiều thế kỷ Trung Quốc cũng đã có một nhà nước tập trung với một bộ máy
công vụ được tuyển theo công trạng.
Thế nhưng Trung Quốc đã là chuyên chế, và sự tăng trưởng dưới triều Tống đã
là sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác. Đã không có sự đại diện chính trị
cho các nhóm khác với nền quân chủ trong xã hội, đã chẳng có gì giống với Quốc
hội hay Cortes cả. Các nhà buôn đã luôn luôn có địa vị bấp bênh ở Trung Quốc,
và những sáng chế vĩ đại của nhà Tống đã không được kích thích bởi những
khuyến khích thị trường mà đã được sinh ra dưới sự bảo trợ, thậm chí dưới các
mệnh lệnh của chính phủ. Ít trong số này được thương mại hóa. Sự nắm chặt của
nhà nước được siết chặt trong các triều Minh và Thanh mà đã tiếp sau nhà Tống.
Tại gốc rễ của tất cả việc này là logic thông thường của các thể chế khai thác.
232 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Như hầu hết các nhà cai trị đứng đầu các thể chế khai thác, các hoàng đế chuyên
chế của Trung Quốc đã chống sự thay đổi, tìm kiếm sự ổn định, và về bản chất sợ
sự phá hủy sáng tạo.
Điều này được minh họa tốt nhất bằng lịch sử của thương mại quốc tế. Như
chúng ta đã thấy việc phát hiện ra châu Mỹ và cách thương mại quốc tế được tổ
chức đã đóng một vai trò then chốt trong các xung đột chính trị và những thay đổi
thể chế của châu Âu hiện đại lúc ban đầu. Tại Trung Quốc, trong khi các nhà
buôn đã dính líu thông thường vào buôn bán trong nước, còn nhà nước đã độc
quyền buôn bán với nước ngoài. Khi nhà Minh lên nắm quyền năm 1368, Hoàng
đế Hồng Vũ người đã cai trị đầu tiên, trong ba mươi năm. Hồng Vũ đã lo rằng
thương mại quốc tế sẽ gây bất ổn chính trị và xã hội và ông đã cho phép thương
mại quốc tế xảy ra chỉ nếu nó được tổ chức bởi chính phủ và chỉ nếu nó dính dáng
đến triều cống, chứ không phải hoạt động thương mại. Hồng Vũ thậm chí đã hành
quyết hàng trăm người bị kết án thử biến các đợt công cán triều cống thành các vụ
kinh doanh thương mại. Giữa 1377 và 1397 không đợt công cán triều cống bằng
đường biển nào được cho phép. Ông đã cấm các cá nhân buôn bán với người nước
ngoài và đã không cho phép người Trung Quốc đi thuyền ra nước ngoài.
Trong năm 1402, Hoàng đế Vĩnh Lạc lên ngôi và đã khởi xướng một giai đoạn
nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc bằng cách khởi động ngoại thương do nhà
nước tài trợ trên quy mô lớn. Vĩnh Lạc đã tài trợ Đô đốc Trịnh Hòa để tiến hành
sáu đợt công cán khổng lồ đến Đông Nam và Nam Á, Arabia, và châu Phi. Những
người Trung Quốc đã biết về các địa điểm này từ một lịch sử lâu đời về các mối
quan hệ thương mại, nhưng đã chẳng có gì từng xảy ra trước đây với quy mô này.
Đoàn thuyền đầu tiên đã gồm 27.800 người và 62 thuyền kho báu lớn, được hộ
tống bởi 190 thuyền nhỏ hơn, kể cả các thuyền dành riêng cho việc chở nước
ngọt, các thuyền khác cho việc cung ứng, và các thuyền khác nữa cho binh lính.
Thế nhưng Hoàng đế Vĩnh Lạc đã tạm ngưng sau chuyến thứ sáu trong năm 1422.
Việc ngừng được biến thành lâu dài bởi người kế vị ông, Hồng Hi, người đã cai
trị từ 1424 đến 1425. Cái chết sớm của Hồng Hi đã đưa Hoàng đế Tuyên Đức lên
ngôi, người đầu tiên đã cho phép Trịnh Hòa một chuyến cuối cùng, trong năm
1433. Nhưng sau chuyến này, tất cả ngoại thương đã bị cấm. Vào năm 1436 việc
xây dựng tàu thuyền đi biển đã thậm chí bị coi là bất hợp pháp. Việc cấm ngoại
thương đã không được dỡ bỏ cho đến 1567.
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 233
Các sự kiện này, mặc dù chỉ là đỉnh nổi của tảng băng khai thác mà đã ngăn
chặn nhiều hoạt động kinh tế được cho là có tiềm năng gây bất ổn định, đã có một
tác động cơ bản lên sự phát triển kinh tế Trung Quốc. Đúng vào lúc khi thương
mại quốc tế và sự khám phá ra châu Mỹ đã làm biến đổi các thể chế của nước
Anh, Trung Quốc đã cô lập mình khỏi bước ngoặt này và quay theo hướng nội.
Việc quay hướng nội này đã không chấm dứt trong năm 1567. Triều đình nhà
Minh đã bị những người Jurchen, người Mãn châu bên trong châu Á, tràn ngập
chiếm, những người đã tạo ra triều đại nhà Thanh. Một thời kỳ bất ổn chính trị
gay gắt sau đó đã kéo theo. Những người Thanh đã tiến hành chiếm đoạt hàng
loạt bất động sản và tài sản. Trong các năm 1690, Đường Chân, một học giả
Trung Quốc đã về hưu, một nhà buôn thất bại, đã viết:
Hơn năm mươi năm đã trôi qua kể từ khi thành lập triều đại nhà
Thanh, và đế chế đã nghèo dần từng ngày. Các nông dân cơ cực, các
thợ thủ công cơ cực, các nhà buôn cơ cực, và các quan chức cũng cơ
cực. Ngũ cốc rẻ, thế nhưng khó để ăn no. Quần áo rẻ, thế nhưng khó
để che thân. Thuyền chất hàng hóa đi từ nơi họp chợ này đến nơi kia,
nhưng hàng phải bán lỗ. Các quan chức lúc rời vị trí của mình mới
phát hiện ra không có số tiền cần thiết nào để hỗ trợ gia đình họ. Quả
thực cả bốn nghề đều bị bần cùng hóa.
Trong năm 1661 hoàng đế Khang Hy đã ra lệnh rằng tất cả người dân sống ở
bờ biển từ Việt Nam đến Chiết Giang – về cơ bản toàn bộ bờ biển phía nam, một
thời là phần tích cực nhất về mặt thương mại của Trung Quốc – phải chuyển vào
bên trong đất liền mười bảy dặm. Bờ biển được tuần tra bởi binh lính để thực thi
biện pháp đó, và cho đến 1693 đã có lệnh cấm tàu bè ở mọi nơi trên bờ biển. Sự
cấm này đã được áp đặt định kỳ trong thế kỷ thứ mười tám, trên thực tế làm còi
cọc sự nổi lên của thương mại quốc tế của Trung Quốc. Mặc dù một số người đã
đầu tư, ít người đã sẵn sàng đầu tư khi hoàng đế có thể đột ngột thay đổi ý của
ông và cấm thương mại, làm cho các khoản đầu tư vào tàu thuyền, trang thiết bị,
và các quan hệ thương mại thành vô dụng hay thậm chí tồi hơn.
Lập luận của các nhà nước Minh và Thanh cho việc chống đối ngoại thương
bây giờ là quen thuộc: nỗi sợ sự phá hủy sáng tạo. Mục đích chủ yếu của các nhà
lãnh đạo là ổn định chính trị. Thương mại quốc tế đã có tiềm năng gây bất ổn định
vì các nhà buôn trở nên giàu có và mạnh bạo hơn, như họ đã thế ở nước Anh
234 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
trong thời kỳ mở rộng thương mại Đại Tây Dương. Đấy đã không chỉ là cái mà
các nhà cai trị đã tin trong các triều đại Minh và Thanh, mà cũng đã là thái độ của
các nhà cai trị của triều Tống, cho dù họ đã sẵn sàng tài trợ cho những đổi mới
công nghệ và cho phép quyền tự do thương mại lớn hơn, với điều kiện rằng điều
này dưới sự kiểm soát của họ. Tình hình trở nên tồi tệ hơn dưới các triều Minh và
Thanh vì sự kiểm soát của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế được siết chặt
và ngoại thương bị cấm. Chắc chắn đã có các thị trường ở Trung Quốc thời Minh
và thời Thanh, và chính phủ đã đánh thuế nền kinh tế nội địa khá nhẹ. Tuy vậy, nó
đã làm ít để hỗ trợ sự đổi mới sáng tạo, và nó đã đánh đổi sự phát triển buôn bán
hay sự thịnh vượng công nghiệp lấy sự ổn định chính trị. Hệ quả của tất cả sự
kiểm soát chuyên chế này đối với nền kinh tế đã là có thể tiên đoán được: nền
kinh tế Trung Quốc đã trì trệ suốt thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai
mươi, trong khi các nền kinh tế khác đang công nghiệp hóa. Vào lúc Mao dựng
lên chế độ cộng sản của ông năm 1949, Trung Quốc đã trở thành một trong những
nước nghèo nhất thế giới.
CHÍNH THỂ CHUYÊN CHẾ CỦA PRESTER JOHN
Chính thể chuyên chế với tư cách một tập hợp của các thể chế chính trị và các hệ
quả kinh tế nảy sinh từ nó đã không hạn chế ở châu Âu và châu Á. Nó đã hiện
diện ở châu Phi, chẳng hạn, với Vương quốc Kongo, như chúng ta đã thấy ở
chương 2. Một thí dụ thậm chí còn kéo dài hơn về chính thể chuyên chế Phi châu
là Ethiopia, hay Abyssinia, mà gốc rễ của nó chúng ta đã bắt gặp ở chương 6, khi
chúng ta thảo luận về sự nổi lên của chủ nghĩa phong kiến sau sự suy sụp của
Aksum. Chính thể chuyên chế Abyssinia thậm chí đã sống lâu hơn chính thể
chuyên chế Âu châu, bởi vì nó đã đối mặt với những thách thức rất khác trong các
bước ngoặt.
Sau khi vua Ezana xứ Aksum cải đạo sang Kitô giáo, những người Ethiopia
vẫn theo Kitô giáo, và vào thế kỷ thứ mười bốn họ đã trở thành tiêu điểm của
huyền thoại về nhà Vua Prester John. Prester John đã là một nhà vua theo Kitô
giáo người đã bị cắt rời khỏi châu Âu bởi sự trỗi dậy của Hồi giáo ở Trung Đông.
Ban đầu vương quốc của ông được cho là ở Ấn Độ. Tuy vậy, khi sự hiểu biết Âu
châu về Ấn Độ tăng lên, đã hóa ra là không phải vậy. Vua Ethiopia, vì ông theo
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 235
Kitô giáo, nên sau đó đã trở thành một mục tiêu tự nhiên cho huyền thoại này.
Các vua của Ethiopia thực ra đã cật lực thử tạo các liên minh với các quốc vương
Âu châu để chống lại các cuộc xâm lấn của người Arab, gửi các phái đoàn ngoại
giao đến châu Âu chí ít từ 1300 trở đi, thậm chí thuyết phục vua Bồ Đào Nha gửi
binh lính đến.
Những người lính này, cùng với các nhà ngoại giao, các giáo sĩ dòng Jesuit, và
các khách lữ hành muốn gặp Prester John, đã để lại nhiều tường thuật về Ethiopia.
Một số lý thú nhất từ quan điểm kinh tế học là các tường thuật của Francisco
Álvares, một cha tuyên úy đi cùng với một phái đoàn ngoại giao Bồ Đào Nha,
người đã ở Ethiopia từ 1520 đến 1527. Ngoài ra, có các tường thuật bởi giáo sĩ
dòng Jesuit Manoel de Almeida, người đã sống ở Ethiopia từ 1624, và bởi John
Bruce, một khách lữ hành người đã ở đó giữa 1768 và 1773. Các bài viết của
những người này cho một tường thuật phong phú về các thể chế chính trị và kinh
tế vào thời đó ở Ethiopia và không để lại nghi ngờ nào rằng Ethiopia đã là một
mẫu hoàn hảo của chính thể chuyên chế. Đã không có các thể chế đa nguyên
thuộc bất cứ loại nào, cũng đã chẳng có sự kiểm soát và ràng buộc lên quyền lực
của hoàng đế, người đòi quyền để cai trị trên cơ sở được cho là hậu duệ từ đức
Vua Solomon và Hoàng hậu Sheba nổi tiếng.
Hệ quả của chính thể chuyên chế đã là sự hết sức không an toàn của các quyền
tài sản bị dẫn dắt bởi chiến lược chính trị của hoàng đế. Bruce, chẳng hạn, đã lưu
ý rằng
tất cả đất đai đều của nhà vua; ngài cho ai đó ngài thích trong lúc vui,
và lấy lại khi ngài muốn. Và ngay khi ông chết toàn bộ đất đai trong
vương quốc thuộc Quốc vương tùy ý sử dụng; và không chỉ có thế,
với cái chết của chủ sở hữu hiện hành, các tài sản của người đó dẫu đã
được hưởng lâu đến đâu, đều trở về nhà vua, chứ không thuộc về con
trai cả.
Álvares đã cho rằng có nhiều “trái cây và sự trồng trọt” hơn rất nhiều “nếu
những người vĩ đại đã không đối xử tồi với nhân dân”. Tường thuật của Almeida
về xã hội đã hoạt động thế nào là rất nhất quán. Ông đã nhận xét:
236 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Hết sức thông thường đối với hoàng đế để trao đổi, thay đổi và lấy đi
đất mà mỗi người nắm giữ mỗi hai hay ba năm, đôi khi mỗi năm và
thậm chí nhiều lần trong một năm, điều đó không gây ra sự ngạc
nhiên nào. Thường một người cày ruộng, người khác gieo hạt và
người khác nữa thu hoạch. Vì thế chẳng ai chăm lo cho đất mà họ
được hưởng; thậm chí chẳng có ai trồng cây bởi vì anh ta biết rằng
người trồng hiếm khi hái quả. Đối với nhà vua, tuy vậy, là hữu ích
rằng họ phải hết sức lệ thuộc vào ông.
Những mô tả này gợi ý những sự giống nhau chính giữa các cấu trúc chính trị
và kinh tế của Ethiopia và cấu trúc của các chính thể chuyên chế Âu châu, mặc dù
chúng cũng làm rõ là, chính thể chuyên chế là gay gắt hơn ở Ethiopia, và các thể
chế kinh tế thậm chí còn khai thác hơn. Ngoài ra, như chúng ta đã nhấn mạnh
trong chương 6, Ethiopia đã không chịu cùng bước ngoặt mà đã giúp làm xói mòn
chế độ chuyên chế ở nước Anh. Nó đã bị cô lập khỏi nhiều quá trình mà đã định
hình thế giới hiện đại. Cho dù điều này có không phải vậy, cường độ của chính
thể chuyên chế của nó có lẽ đã dẫn chính thể chuyên chế củng cố thậm chí hơn
nữa. Thí dụ, như ở Tây Ban Nha, thương mại quốc tế ở Ethiopia, kể cả việc buôn
bán nô lệ béo bở, đã được quốc vương kiểm soát. Ethiopia đã không hoàn toàn cô
độc: những người Âu châu đã tìm kiếm Prester John, và nó đã phải chiến đấu
trong các cuộc chiến tranh chống lại các chính thể Islamic bao quanh. Tuy nhiên,
sử gia Edward Gibbon đã nhận xét với sự chính xác nào đó rằng “bị bao quanh từ
mọi phía bởi các kẻ thù tôn giáo của họ, những người Ethiopia đã ngủ gần một
ngàn năm, quên thế giới bởi những người mà họ đã quên.”
Khi sự thuộc địa hóa châu Phi của những người Âu châu bắt đầu trong thế kỷ
thứ mười chín, Ethiopia đã là một vương quốc độc lập dưới thời Ras (Công tước)
Kassa, người đã được phong làm Hoàng đế Tewodros II trong năm 1855.
Tewodros đã bắt đầu một công cuộc hiện đại hóa nhà nước, tạo ra bộ máy hành
chính quan liêu và tư pháp tập trung hơn, và một quân đội có khả năng kiểm soát
đất nước và có lẽ chiến đấu chống những người Âu châu. Ông đã đặt ra các thống
đốc quân sự, chịu trách nhiệm thu thuế và chuyển cho ông, phụ trách tất cả các
tỉnh. Các cuộc thương thuyết của ông với các cường quốc Âu châu đã khó khăn,
và trong lúc điên tiết ông đã tống giam lãnh sự Anh. Trong năm 1868 những
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 237
người Anh đã cử một lực lượng viễn chinh, mà đã cướp phá thủ đô của ông.
Tewodros đã tự vẫn.
Dẫu sao, chính phủ được xây dựng lại của Tewodros đã xoay xở để có được
một trong những thắng lợi lớn chống thực dân của thế kỷ thứ mười chín, chống lại
những người Italy. Trong năm 1889 ngai vàng được chuyển cho Menelik II, người
ngay lập tức phải đối mặt với sự quan tâm của Italy để lập một thuộc địa ở đó.
Năm 1885 thủ tướng Đức Bismarck đã triệu tập một hội nghị tại Berlin nơi các
cường quốc Âu châu đã ngấm ngầm dự tính “Tranh giành châu Phi” – tức là, họ
đã quyết định chia châu Phi như thế nào thành các lĩnh vực lợi ích khác nhau. Tại
hội nghị đó Italy đã đạt được các quyền của mình đối với các thuộc địa ở Eritrea,
dọc bờ biển Ethiopia và Somalia. Ethiopia, mặc dù đã không được đại diện tại hội
nghị, bằng cách nào đó đã tìm được cách để sống sót nguyên vẹn. Nhưng những
người Italy vẫn giữ các ý đồ, và trong năm 1896 họ tiến quân về phía nam từ
Eritrea. Sự đáp trả của Menelik đã giống như sự đáp trả của một nhà vua Âu châu
thời trung cổ; đông đã lập ra một quân đội bằng cách sai các quý tộc gọi những
người được vũ trang của họ nhập ngũ. Cách tiếp cận này đã không thể đưa một
quân đội ra chiến trường trong thời gian dài, nhưng đã có thể huy động một đội
quân khổng lồ lại với nhau trong thời gian ngắn. Thời gian ngắn này đã vừa đủ để
đánh bại những người Italy, mà mười lăm ngàn quân của họ bị áp đảo tràn ngập
bởi một trăm ngàn quân của Menelik trong Trận Adowa năm 1896. Đó đã là thất
bại quân sự nghiêm trọng nhất mà một nước tiền thuộc địa Phi châu đã có thể
giáng xuống một cường quốc Âu châu, và đã giữ được sự độc lập của Ethiopia
thêm bốn mươi năm nữa.
Hoàng đế cuối cùng của Ethiopia, Ras Tafari, được phong làm hoàng đế Haile
Selassie trong năm 1930. Haile Selassie đã cai trị cho đến khi ông bị lật đổ bởi
cuộc xâm chiếm lần thứ hai của Italy, mà bắt đầu năm 1935, nhưng ông đã quay
trở lại từ chốn lưu đày với sự giúp đỡ của người Anh trong năm 1941. Sau đó ông
đã cai trị cho đến khi bị lật đổ trong một cuộc đảo chính năm 1974 bởi Derg, “Ủy
ban”, một nhóm Marxist là các sĩ quan quân đội, những người sau đó đã tiếp tục
bần cùng hóa và tàn phá đất nước. Các thể chế kinh tế khai thác cơ bản của đế chế
Ethiopia chuyên chế, như gult (trang 178), và chủ nghĩa phong kiến được tạo ra
sau sự suy tàn của Aksum, đã kéo dài cho đến khi chúng bị xóa bỏ sau cách mạng
1974.
238 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Ngày nay Ethiopia là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Thu nhập của
một người Ethiopia trung bình bằng khoảng một phần bốn mươi thu nhập của một
công dân Anh trung bình. Hầu hết người dân sống ở nông thôn và thực hành nền
nông nghiệp đủ sống qua ngày. Họ thiếu nước sạch, điện, và sự tiếp cận đến
trường học hay chăm sóc sức khỏe thích hợp. Ước tính tuổi thọ là khoảng năm
mươi lăm tuổi và chỉ một phần ba người lớn biết đọc biết viết. Một sự so sánh
giữa Anh và Ethiopia bao quát sự bất bình đẳng thế giới. Lý do Ethiopia ở nơi nó
ở ngày nay là, không giống ở nước Anh, ở Ethiopia chính thể chuyên chế đã tồn
tại dai dẳng cho đến gần đây. Với chính thể chuyên chế, các thể chế kinh tế khai
thác và sự nghèo khó đến với quần chúng nhân dân Ethiopia, mặc dù tất nhiên các
hoàng đế và giới quý tộc đã hưởng lợi khổng lồ. Nhưng hệ lụy lâu dài nhất của
chính thể chuyên chế đã là, xã hội Ethiopia đã không tận dụng được những cơ hội
công nghiệp hóa trong thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi, và đấy là
nguyên nhân chính của sự nghèo xác nghèo xơ của các công dân của nó hôm nay.
NHỮNG ĐỨA CON CỦA SOMAALE
Các thể chế chính trị chuyên chế quanh thế giới đã cản trở công nghiệp hóa hoặc
một cách gián tiếp, theo cách chúng tổ chức các thể chế kinh tế, hoặc một cách
trực tiếp, như chúng ta đã thấy ở Áo-Hungary và Nga. Nhưng chính thể chuyên
chế đã không là vật cản trở duy nhất cho sự nổi lên của các thể chế kinh tế bao
gồm. Vào buổi ban đầu của thế kỷ thứ mười chín, nhiều phần của thế giới, đặc
biệt ở châu Phi, đã thiếu một nhà nước mà có thể cung cấp ngay cả mức tối thiểu
luật và trật tự, mà là điều kiện tiên quyết để có một nền kinh tế hiện đại. Đã không
có người tương đương của một Peter Đại Đế ở Nga bắt đầu quá trình tập trung
hóa chính trị và sau đó tạo dựng chính thể chuyên chế Nga, nói chi đến những
người tương đương của nhà Tudor ở nước Anh tập trung hóa nhà nước mà không
hoàn toàn phá hủy – hay, chính xác hơn, mà không hoàn toàn có khả năng phá
hủy – Quốc hội và các ràng buộc khác lên quyền lực của họ. Không có một mức
độ nào đó của sự tập trung chính trị, cho dù các elite của các chính thể Phi châu
này đã có muốn chào đón công nghiệp hóa với những cánh tay rộng mở, họ cũng
đã chẳng làm được mấy.
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 239
Somalia, nằm ở Sừng châu Phi, minh họa các tác động tàn phá ghê gớm của
việc thiếu sự tập trung hóa chính trị. Somalia đã bị cai trị về mặt lịch sử bởi
những người được tổ chức thành sáu họ thị tộc. Bốn họ thị tộc lớn nhất là, Dir,
Darod, Isaq, và Hawiye, tất cả đều truy nguyên tổ tiên của họ về một tổ tiên huyền
bí Samaale. Các họ thị tộc này có xuất xứ ở bắc Somalia và dần dần đã lan xuống
miền nam và sang miền đông, và ngay cả ngày nay chủ yếu là dân mục đồng,
những người di cư với các đàn dê, cừu, và lạc đà của họ. Ở miền nam, những
người Digil và Rahanweyn, định cư làm nông nghiệp, tạo thành hai họ thị tộc còn
lại. Các lãnh thổ của các họ thị tộc này được vẽ trên Bản đồ 12 (trang 177).
Những người Somali đồng nhất mình trước tiên với họ thị tộc của mình, nhưng
các họ thị tộc này là rất lớn và chứa nhiều nhóm con. Đầu tiên giữa các nhóm này
là các thị tộc mà truy dòng dõi của họ về một trong các họ thị tộc lớn hơn. Quan
trọng hơn là các nhóm bên trong các thị tộc được gọi là các nhóm trả-diya, mà
gồm có những người bà con họ hàng có quan hệ mật thiết những người trả và thu
diya, hay “tài sản máu-blood wealth,” sự đền bù đối với việc giết một thành viên
của họ. Các thị tộc Somali và các nhóm trả-diya về mặt lịch sử đã bị khóa chặt
vào xung đột hầu như liên miên vì các nguồn lực khan hiếm để tùy họ sử dụng,
đặc biệt là các nguồn nước và đất đồng cỏ cho súc vật của họ. Họ cũng liên tục
đột kích các bầy của các thị tộc láng giềng và các nhóm trả-diya. Mặc dù các thị
tộc có các lãnh đạo gọi là các sultan, và cả những người già, những người này
không có quyền lực thực sự. Quyền lực chính trị được phân tán rất rộng, với mỗi
người lớn Somali đều có khả năng có tiếng nói của mình về các quyết định mà có
thể tác động đến thị tộc hay nhóm. Điều này đạt được thông qua một hội đồng phi
hình thức bao gồm tất cả những người đàn ông trưởng thành. Đã không có luật
thành văn, không có cảnh sát, và không có hệ thống pháp lý để nói đến, trừ luật
Sharia được dùng như một khung khổ mà trong đó các luật phi chính thức được
nhúng vào. Các luật phi chính thức đối với một nhóm trả-diya được mã hóa trong
cái được gọi là heer (tộc ước), một bộ các nghĩa vụ, các quyền, và các trách
nhiệm được trình bày một cách rõ ràng mà nhóm đòi hỏi những người khác tuân
theo trong các tương tác của họ với nhóm. Với sự đến của sự cai trị thuộc địa, các
heer này bắt đầu được viết thành văn. Thí dụ, dòng dõi Hassan Ugaas đã tạo
thành một nhóm trả-diya của khoảng một ngàn năm trăm đàn ông và là một tiểu
thị tộc của họ thị tộc Dir ở Somaliland thuộc Anh. Ngày 8-3-1950, heer của họ
được nghi lại bởi ủy viên quận Anh, ba điều khoản đầu tiên của nó có nghĩa là
240 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
1. Khi một người đàn ông Hassan Ugaas bị giết bởi một nhóm bên
ngoài, thì hai mươi con lạc đà trong số tài sản máu (100) của anh
ta sẽ được bà con gần nhất của anh ta lấy và tám mươi con lạc đà
còn lại được chia giữa tất cả những người Hassan Ugaas.
2. Nếu một người đàn ông Hassan Ugaas bị một người ngoài làm bị
thương và thương tật của anh ta được đánh giá là ba mươi ba và
một phần ba con lạc đà, thì mười con được đưa cho anh ta và số
còn lại cho nhóm-jiffo của anh ta (nhóm con của nhóm trả-diya).
3. Tội giết người giữa các thành viên Hassan Ugaas phải chịu một
khoản đền bù ở mức ba mươi ba và một phần ba con lạc đà, được
trả chỉ cho bà con thân thiết nhất của người đã mất. Nếu thủ phạm
không có khả năng trả toàn bộ hay một phần, anh ta sẽ được dòng
dõi giúp đỡ.
Sự chú tâm mạnh của heer vào việc giết và làm bị thương phản ánh trạng thái
chiến tranh hầu như liên miên giữa các nhóm trả-diya và các thị tộc. Trung tâm
của việc này đã là tài sản máu và hận thù máu. Một tội chống lại một cá nhân cá
biệt là một tội chống lại cả nhóm trả-diya, và đòi hỏi phải đền bù tập thể, tài sản
máu. Nếu tài sản máu như vậy không được trả, nhóm trả-diya của kẻ đã giết
người đối mặt với sự trừng phạt tập thể của nạn nhân. Khi giao thông hiện đại đến
Somalia, tài sản máu được mở rộng ra cho những người bị chết hay bị thương
trong các tai nạn giao thông. Heer của Hassan Ugaas đã không chỉ dẫn chiếu đến
sự giết người; điều 6 đã là “nếu một người Hassan Ugaas lăng mạ người khác tại
một hội đồng Hassan Ugaas anh ta sẽ trả 150 shilling cho bên bị xúc phạm.”
Đầu năm 1955, các đàn của hai thị tộc, Habar Tol Ja’lo và Habar Yuunis, đang
ăn cỏ gần nhau ở vùng Domberelly. Một người từ thị tộc Yuunis đã bị thương sau
một cuộc tranh cãi với một thành viên của thị tộc Tol Ja’lo về chăn lạc đà. Thị tộc
Yuunis lập tức trừng phạt, tấn công thị tộc Tol Ja’lo và giết một người. Cái chết
này đã dẫn, theo luật tài sản máu, đến việc thị tộc Yunnis đề nghị đền bù cho thị
tộc Tol Ja’lo, mà đã được chấp nhận. Người Yuunis đã phải đích thân đưa tài sản
máu, như thường lệ bằng lạc đà. Trong lễ trao, một thành viên Tol Ja’lo đã giết
một thành viên Yuunis, nhầm anh ta với thành viên của nhóm trả-diya của kẻ giết
người. Việc này đã dẫn đến chiến tranh toàn lực, và trong vòng bốn mươi tám giờ
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 241
mười ba người Yuunis và hai mươi sáu người Tol Ja’lo đã bị giết. Chiến tranh kéo
dài thêm một năm nữa trước khi các già làng từ cả hai thị tộc, do chính quyền
thuộc địa Anh dàn hòa, đã tìm được cách môi giới một thương vụ (trao đổi tài sản
máu) mà thỏa mãn cả hai phía và được trả trong ba năm tiếp theo.
Việc trả tài sản máu đã xảy ra dưới cái bóng của sự đe dọa sức mạnh và sự hận
thù, và ngay cả khi nó được trả, nó đã không nhất thiết ngừng xung đột. Thường
xung đột lắng xuống và rồi lại bùng lên.
Quyền lực chính trị như thế được phân tán rộng trong xã hội Somali, hầu như
một cách đa nguyên. Nhưng không có quyền lực của một nhà nước tập trung để
thực thi trật tự, nói chi đến các quyền tài sản, thì việc này dẫn không đến các thể
chế bao gồm. Chẳng ai tôn trọng quyền hạn của người khác, và chẳng ai, kể cả
nhà nước thuộc địa Anh khi cuối cùng nó đã đến, đã có khả năng áp đặt trật tự. Sự
thiếu tập trung hóa chính trị đã làm cho là không thể đối với người Somali để
hưởng lợi từ Cách mạng Công nghiệp. Trong một bầu không khí như vậy là
không thể tưởng tượng nổi để đầu tư vào hay chấp nhận các công nghệ mới bắt
nguồn từ Anh, hay quả thực để tạo ra loại tổ chức cần thiết để làm vậy.
Hoạt động chính trị phức tạp của Somalia đã thậm chí có các hệ lụy tế nhị hơn
đối với tiến bộ kinh tế. Chúng ta đã nhắc tới ở trước một vài trong số các câu đố
công nghệ lớn của lịch sử châu Phi. Trước sự mở rộng của sự cai trị thuộc địa vào
cuối thế kỷ thứ mười chín, các xã hội Phi châu đã không sử dụng bánh xe trong
giao thông hay cày trong nông nghiệp, và ít xã hội có chữ viết. Ethiopia đã có như
chúng ta đã thấy. Những người Somali cũng đã có chữ viết, nhưng không giống
những người Ethiopia, họ đã không sử dụng nó. Chúng ta đã thấy rồi các trường
hợp thế này trong lịch sử Phi châu. Các xã hội Phi châu đã có thể không sử dụng
bánh xe hay cày, nhưng chắc chắn họ biết về chúng. Trong trường hợp của vương
quốc Kongo mà chúng ta đã thấy, đấy đã cơ bản là do sự thực rằng các thể chế
kinh tế đã không tạo ra các khuyến khích nào cho người dân để chấp nhận làm
theo các công nghệ này. Liệu cùng các vấn đề có thể nảy sinh với sự chấp nhận
chữ viết hay không?
Chúng ta có thể có được cảm nhận nào đó về điều này từ Vương quốc Taqali,
nằm ở tây bắc Somalia, ở Nuba Hills của nam Sudan. Vương quốc Taqali được
hình thành trong cuối thế kỷ thứ mười tám bởi một băng nhóm chiến binh đứng
242 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
đầu bởi một người gọi là Isma’il, và nó đã vẫn độc lập cho đến khi được hợp nhất
vào Đế chế Anh trong năm 1884. Các vua và nhân dân Taqali đã biết đến chữ viết
Arab, nhưng nó đã không được sử dụng – trừ bởi các vua, cho việc liên lạc bên
ngoài với các chính thể khác và thư từ ngoại giao. Đầu tiên tình hình này có vẻ rất
khó hiểu. Tường thuật truyền thống về nguồn gốc của chữ viết ở Mesopotamia là,
nó đã được phát triển bởi nhà nước để ghi thông tin, kiểm soát người dân, và thu
thuế. Chẳng phải nhà nước Taqali đã không quan tâm đến việc này?
Những vấn đề này được nghiên cứu bởi sử gia Janet Ewald vào cuối các năm
1970 khi bà đã thử tái dựng lịch sử của nhà nước Taqali. Một phần của câu
chuyện là, các công dân đã chống lại việc sử dụng chữ viết bởi vì họ đã sợ rằng
nó được dùng để kiểm soát các nguồn lực, như đất đai có giá trị, bằng cách cho
phép nhà nước đòi quyền sở hữu. Họ cũng đã sợ rằng nó sẽ dẫn đến sự đánh thuế
có hệ thống hơn. Triều đại mà Isma’il khởi động đã không quện lại thành một nhà
nước hùng mạnh. Cho dù ông đã có muốn, nhà nước đã không đủ mạnh để áp đặt
ý chí của nó lên trên những sự phản đối của các công dân. Nhưng đã có các nhân
tố khác, tế nhị hơn, đang tác động. Các elite khác nhau cũng chống đối sự tập
trung hóa chính trị, chẳng hạn, thích giao tiếp bằng lời hơn bằng văn bản với các
công dân, bởi vì việc này đã cho phép họ tự do định đoạt một cách tối đa. Khó có
thể rút lại hay từ chối các luật hay các mệnh lệnh thành văn và cũng khó để thay
đổi chúng; chúng tạo ra các điểm mốc chuẩn mà các elite cai trị có thể muốn đảo
ngược. Như thế cả những người bị trị lẫn những kẻ cai trị của Taqali đều không
thấy việc đưa chữ viết vào là có lợi cho họ. Kẻ bị trị đã sợ những người cai trị sẽ
dùng nó ra sao, và bản thân những người cai trị thấy sự thiếu chữ viết như sự giúp
đỡ cho sự nắm quyền lực khá bấp bênh của họ. Chính trị của Taqali đã là cái giữ
chữ viết không được đưa vào. Thế nhưng những người Somali thậm chí đã có ít
giới elite được xác định rõ, khi so với vương quốc Taqali, nên hoàn toàn có vẻ
hợp lý rằng cùng các lực đã kiềm chế việc họ sử dụng chữ viết và các công nghệ
cơ bản khác.
Trường hợp Somali cho thấy các hệ quả của sự thiếu tập trung hóa chính trị đối
với tăng trưởng kinh tế. Tài liệu lịch sử không ghi lại các trường hợp về các nỗ
lực để tạo ra sự tập trung hóa như vậy ở Somalia. Tuy nhiên, là rõ vì sao việc này
đã rất khó. Để tập trung hóa về mặt chính trị đã phải có nghĩa rằng thị tộc nào đó
phải chịu sự kiểm soát của các thị tộc khác. Nhưng họ đã từ chối bất cứ sự thống
KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 243
trị nào như vậy, và sự từ bỏ quyền lực của họ mà điều này đòi hỏi; sự cân bằng
sức mạnh quân sự trong xã hội cũng làm cho khó để tạo ra các thể chế tập trung
như vậy. Thực ra, rất có khả năng là bất cứ nhóm hay thị tộc nào thử tập trung
quyền lực sẽ không chỉ phải đối mặt với sự chống đối khốc liệt mà cũng sẽ mất
quyền lực và đặc quyền hiện tồn của nó. Như một hệ quả của sự thiếu tập trung
hóa chính trị và sự thiếu an toàn cơ bản của các quyền tài sản bị kéo theo, xã hội
Somali đã chẳng bao giờ tạo ra các khuyến khích để đầu tư vào các công nghệ
nâng cao năng suất. Khi quá trình công nghiệp hóa đã đang tiến triển ở các phần
khác của thế giới trong thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi, thì
những người Somali mang mối thù hận và tự lo liệu cho cuộc sống của họ, và sự
lạc hậu kinh tế của họ đã trở nên ăn sâu thêm.
SỰ LẠC HẬU KÉO DÀI
Cách mạng Công nghiệp đã tạo ra một bước ngoặt biến đổi cho toàn bộ thế giới
trong thế kỷ thứ mười chín và xa hơn: các xã hội, mà đã cho phép và đã tạo
khuyến khích cho các công dân của mình đầu tư vào các công nghệ mới, đã có thể
phát triển nhanh chóng. Nhưng nhiều xã hội quanh thế giới đã không làm được
thế – hay đã chọn một cách tường minh để không làm thế. Các quốc gia dưới ách
của các thể chế chính trị và kinh tế khai thác đã không tạo ra các khuyến khích
như vậy. Tây Ban Nha và Ethiopia cung cấp các thí dụ nơi sự kiểm soát chuyên
chế đối với các thể chế chính trị và các thể chế kinh tế khai thác bị kéo theo đã
bóp nghẹt các khuyến khích kinh tế trước xa buổi bình minh của thế kỷ thứ mười
chín. Kết quả đã giống nhau trong các chế độ chuyên chế khác – thí dụ, ở Áo-
Hungary, Nga, Đế chế Ottoman, và Trung Quốc, mặc dù trong các trường hợp
này các nhà cai trị, bởi vì nỗi sợ sự phá hủy sáng tạo, đã không chỉ sao lãng cổ vũ
tiến bộ kinh tế mà còn đưa ra các bước cụ thể để cản trở sự mở rộng công nghiệp
và việc đưa các công nghệ mới vào mà sẽ dẫn đến công nghiệp hóa.
Chính thể chuyên chế không phải là hình thức duy nhất của các thể chế chính
trị khai thác và đã không là nhân tố duy nhất ngăn công nghiệp hóa. Các thể chế
chính trị và kinh tế bao gồm cần đến mức độ nào đó của sự tập trung hóa chính trị
sao cho nhà nước có thể thực thi luật pháp và trật tự, ủng hộ các quyền tài sản, và
cổ vũ hoạt động kinh tế khi cần thiết bằng đầu tư vào các dịch vụ công. Thế
244 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
nhưng ngay cả hiện nay, nhiều quốc gia, như Afghanistan, Haiti, Nepal, và
Somalia, có các nhà nước mà không có khả năng duy trì trật tự thô sơ nhất, và các
khuyến khích kinh tế hầu như bị hủy hoại. Trường hợp của Somalia minh họa
bằng cách nào quá trình công nghiệp hóa cũng đã bỏ qua các xã hội như vậy. Sự
tập trung hóa chính trị bị chống lại vì cùng lý do mà các chế độ chuyên chế chống
lại sự thay đổi: nỗi sợ thường được đặt đúng chỗ rằng sự thay đổi sẽ phân bổ lại
quyền lực từ những người đang thống trị hôm nay sang các cá nhân và các nhóm
mới. Như thế, một chính thể chuyên chế cản các bước đi theo hướng chủ nghĩa đa
nguyên và sự thay đổi kinh tế, các elite truyền thống và các thị tộc thống trị các xã
hội mà không có nhà nước tập trung cũng làm vậy. Như một hệ quả, các xã hội
vẫn thiếu sự tập trung hóa như vậy trong các thế kỷ thứ mười tám và mười chín đã
đặc biệt bất lợi trong thời đại công nghiệp.
Trong khi nhiều thứ khác nhau của các thể chế khai thác trải từ chính thể
chuyên chế đến các nhà nước với ít tập trung hóa đã không tận dụng được lợi thế
của sự mở rộng công nghiệp, bước ngoặt của Cách mạng Công nghiệp đã có
những tác động rất khác trong các phần khác của thế giới. Như chúng ta sẽ thấy
trong chương 10, các xã hội mà đã có các bước theo hướng các thể chế bao gồm,
như Hoa Kỳ và Australia, và các xã hội nơi chính thể chuyên chế đã bị thách thức
nghiêm trọng hơn, như Pháp và Nhật Bản, đã tận dụng được các cơ hội kinh tế
mới này và đã bắt đầu một quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh. Như thế, hình
mẫu thông thường của sự tương tác giữa một bước ngoặt và những khác biệt thể
chế hiện tồn dẫn đến sự phân kỳ thêm nữa về thể chế chính trị và kinh tế đã diễn
ra lần nữa trong thế kỷ thứ mười chín, và lần này với một tiếng nổ thậm chí còn
lớn hơn và các tác động cơ bản hơn lên sự thịnh vượng và nghèo khó của các
quốc gia.
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
9.
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC
GIA VỊ VÀ TỘI DIỆT CHỦNG
UẦN ĐẢO MOLUCCA ở Indonesia hiện đại gồm ba nhóm đảo. Đầu thế kỷ
thứ mười bảy, bắc Molucca đã là chỗ ở cho ba vương quốc độc lập, các
vương quốc Tidore, Ternate, và Bacan. Giữa Molucca đã là xứ sở của vương quốc
đảo Ambon. Ở phía nam là các đảo Banda, một quần đảo nhỏ chưa được thống
nhất về mặt chính trị. Mặc dù có vẻ xa lạ đối với chúng ta hiện nay, quần đảo
Molucca khi đó đã là trung tâm đối với thương mại thế giới với tư cách là những
nhà sản xuất duy nhất các gia vị có giá trị đinh hương, mace (gia vị làm từ vỏ khô
của hạt nhục đậu khấu), và nutmeg (nhục đậu khấu). Trong các thứ này nutmeg và
mace chỉ trồng ở các đảo Banda. Dân cư của các đảo này đã sản xuất và xuất khẩu
các gia vị hiếm này để đổi lấy thực phẩm và các hàng hóa chế tác đến từ đảo Java,
từ trung tâm xuất nhập khẩu Melaka ở Bán đảo Malaysia, và từ Ấn Độ, Trung
Quốc, và Arabia.
Tiếp xúc đầu tiên mà các cư dân đã có với những người Âu châu đã là trong
thế kỷ thứ mười sáu, với các thủy thủ Bồ Đào Nha những người đến mua gia vị.
Trước đó gia vị đã phải chuyển qua Trung Đông, qua các con đường thương mại
bị Đế chế Ottoman kiểm soát. Những người Âu châu đã tìm kiếm một lối quanh
châu Phi hay qua Đại Tây Dương để có được sự tiếp cận trực tiếp đến các Đảo
Gia Vị và việc buôn bán gia vị. Thủy thủ Bồ Đào Nha Bartolemeu Dias đã đi
vòng quanh Mũi Hảo Vọng năm 1488, và Vasco de Gama đã tới Ấn Độ cùng
bằng con đường đó trong năm 1498. Bây giờ lần đầu tiên những người Âu châu
đã có con đường độc lập của họ đến các Đảo Gia Vị.
Những người Bồ Đào Nha đã ngay lập tức bắt đầu nhiệm vụ thử kiểm soát
buôn bán gia vị. Họ đã chiếm Melaka năm 1511. Nằm ở vị trí chiến lược bên phía
Q
246 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
tây của Bán đảo Malaysia, các nhà buôn từ khắp Đông Nam Á đã đến đây để bán
gia vị của họ cho các nhà buôn khác, các nhà buôn Ấn Độ, Trung Quốc, Arab,
những người sau đó chuyển chúng đi nơi khác, đến phương Tây. Như khách lữ
hành Bồ Đào Nha diễn đạt trong năm 1515: “Thương mại và sự buôn bán giữa
các quốc gia suốt cả ngàn hải lý ở mọi nơi đều phải đến Melaka … Bất kể ai là
chúa tể của Melaka người đó để tay lên cổ họng Venice.”
Với Melaka trong tay họ, những người Bồ Đào Nha đã thử một cách có hệ
thống để có được một sự độc quyền về buôn bán gia vị có giá trị. Họ đã thất bại.
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 247
Các đối thủ mà họ đối mặt đã không phải là không đáng kể. Giữa các thế kỷ
thứ mười bốn và mười sáu, đã có nhiều phát triển kinh tế ở Đông Nam Á dựa trên
buôn bán gia vị. Các thành-quốc như Aceh, Banten, Melaka, Makassar, Pengu, và
Brunei đã mở rộng nhanh chóng, sản xuất và xuất khẩu gia vị cùng với các sản
phẩm khác như gỗ cứng.
Các nhà nước này đã có các hình thức chính phủ chuyên chế giống như ở châu
Âu trong cùng thời kỳ. Sự phát triển của các thể chế chính trị đã được kích thích
bởi các quá trình tương tự, kể cả sự thay đổi công nghệ trong các phương pháp
chiến tranh và thương mại quốc tế. Các thể chế nhà nước đã trở nên tập trung hơn,
với một vị vua ở trung tâm đòi quyền lực tuyệt đối. Giống các nhà cai trị chuyên
chế ở châu Âu, các vị vua Đông Nam Á đã dựa nhiều vào thu nhập từ buôn bán,
cả tự mình tham gia buôn bán lẫn cấp độc quyền cho các elite địa phương và nước
ngoài. Như ở châu Âu chuyên chế, việc này đã tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nào
đó, nhưng đã là một tập hợp còn xa mới lý tưởng của các thể chế kinh tế cho sự
thịnh vượng kinh tế, với các rào cản tham gia đáng kể và nhất là các quyền tài sản
không an toàn. Nhưng quá trình thương mại hóa được tiến hành ngay cả khi người
Bồ Đào Nha đã thử thiết lập thế thống trị ở Ấn Độ Dương.
Sự hiện diện của những người Âu châu đã phình lên và đã có tác động lớn hơn
nhiều với sự đến của người Hà Lan. Những người Hà Lan đã mau chóng nhận ra
rằng sự độc quyền cung ứng các gia vị có giá trị của Molucca sẽ có lợi nhuận hơn
rất nhiều so với việc cạnh tranh với các nhà buôn địa phương hay Âu châu khác.
Trong năm 1600 họ đã thuyết phục nhà cai trị của Ambon để ký một thỏa thuận
độc quyền mà đã cho họ độc quyền về buôn bán đinh hương ở Ambon. Với việc
thành lập Công ty Đông Ấn Hà Lan trong năm 1602, những người Hà Lan thử
chiếm toàn bộ việc buôn bán gia vị và loại bỏ các đối thủ của họ, bằng đủ mọi
cách, đã có chiều hướng tốt lên cho những người Hà Lan và tồi đi cho Đông Nam
Á. Công ty Đông Ấn Hà Lan đã là công ty cổ phần Âu châu thứ hai, tiếp sau
Công ty Đông Ấn Anh, các cột mốc chính của sự phát triển công ty hiện đại, mà
rồi sau đó sẽ đóng một vai trò lớn trong tăng trưởng công nghiệp Âu châu. Nó
cũng đã là công ty thứ hai có quân đội riêng của mình và có sức mạnh để tiến
hành chiến tranh và thuộc địa hóa các vùng đất nước ngoài. Với sức mạnh quân
sự của công ty được sử dụng bây giờ, những người Hà Lan đã tiếp tục để loại tất
cả những kẻ xen ngang tiềm năng để thực thi thỏa ước của họ với nhà cai trị
248 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Ambon. Họ đã chiếm một pháo đài then chốt do những người Bồ Đào Nha giữ
trong năm 1605 và bằng vũ lực đã đuổi tất cả các nhà buôn khác. Sau đó họ đã
mở rộng lên bắc Molucca, buộc các nhà cai trị Tidore, Ternate, và Bacan thống
nhất rằng không đinh hương nào được trồng hay buôn bán trong các lãnh thổ của
họ. Thỏa ước mà họ áp đặt lên Ternate thậm chí đã cho phép những người Hà Lan
đến và phá hủy bất cứ cây đinh hương nào họ thấy ở đó.
Ambon đã được cai trị theo cách giống phần lớn châu Âu và châu Mỹ trong
thời đó. Các công dân Ambon đã cống nạp cho nhà cai trị và phải chịu làm việc
cưỡng bức. Những người Hà Lan đã tiếp quản và tăng cường các hệ thống này để
khai thác nhiều lao động và đinh hương hơn từ hòn đảo. Trước khi những người
Hà Lan đến, các đại gia đình đã nộp đồ cống bằng đinh hương cho các elite
Ambon. Những người Hà Lan bây giờ quy định rằng mỗi hộ gia đình gắn với đất
và phải trồng một số cây đinh hương nhất định. Các hộ gia đình cũng bắt buộc
phải lao động cưỡng bức cho những người Hà Lan.
Những người Hà Lan cũng đã nắm quyền kiểm soát các Đảo Banda, dự định
lần này để độc quyền mace và nutmeg. Nhưng các Đảo Banda đã được tổ chức rất
khác với Ambon. Chúng bao gồm nhiều thành-quốc tự trị nhỏ, và đã không có cấu
trúc thứ bậc xã hội hay cấu trúc chính trị. Các nhà nước nhỏ này, trong thực tế
không hơn các thị trấn nhỏ, được vận hành bởi các cuộc họp làng của các công
dân. Đã không có nhà chức trách trung ương người mà những người Hà Lan đã có
thể ép buộc ký một thỏa ước độc quyền và đã không có hệ thống cống nạp nào để
họ tiếp quản và chiếm toàn bộ cung nutmeg và mace. Đầu tiên điều này đã có
nghĩa rằng những người Hà Lan đã phải cạnh tranh với các nhà buôn Anh, Bồ
Đào Nha, Ấn Độ, và Trung Quốc, để mất gia vị cho các đối thủ cạnh tranh khi họ
đã không trả giá đủ cao. Các kế hoạch ban đầu về dựng lên một sự độc quyền về
mace và nutmeg đã bị tan vỡ, thống đốc Hà Lan của Batavia, Jan Pieterszoon
Coen, đã nghĩ ra một kế hoạch khác. Coen đã lập ra Batavia, trên đảo Java, như
thủ đô mới của Công ty Đông Ấn Hà Lan trong năm 1618. Trong năm 1621 ông
ta đã đi đến Banda với một đội tàu và tiến hành tàn sát hầu như toàn bộ dân cư
của các đảo, có lẽ khoảng mười lăm ngàn người. Tất cả các nhà lãnh đạo của họ
đã bị hành hình với những người còn lại, và chỉ để lại vài người còn sống, đủ để
duy trì know-how cần thiết cho sản xuất mace và nutmeg. Sau khi cuộc diệt chủng
này hoàn tất, rồi Coen đã tiếp tục tạo ra cấu trúc chính trị và kinh tế cần thiết cho
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 249
kế hoạch của ông ta: một xã hội đồn điền. Các hòn đảo được chia ra thành sáu
mươi tám mảnh, mà được trao cho sáu mươi tám người Hà Lan, hầu hết là những
người đã hay đang là nhân viên của Công ty Đông Ấn Hà Lan. Những chủ đồn
điền này được số ít những người Banda sống sót dạy làm thế nào để sản xuất gia
vị và đã có thể mua nô lệ từ Công ty Đông Ấn đến ở các đảo bây giờ trống không
để sản xuất gia vị, mà sẽ phải bán lại cho công ty với giá cố định.
Các thể chế khai thác được những người Hà Lan tạo ra ở các Đảo Gia Vị đã có
các kết quả mong muốn, mặc dù, ở Banda với cái giá của mười lăm ngàn sinh
mạng vô tội và việc thiết lập một tập các thể chế chính trị và kinh tế mà buộc các
đảo này không phát triển được. Vào cuối thế kỷ thứ mười bảy, những người Hà
Lan đã làm giảm cung của các gia vị này khoảng 60 phần trăm và giá nutmeg đã
tăng gấp đôi.
Những người Hà Lan đã mở rộng chiến lược được họ hoàn thiện ở Molucca ra
toàn vùng, với những hệ lụy sâu sắc cho các thể chế chính trị và kinh tế của phần
còn lại của Đông Nam Á. Sự mở rộng thương mại lâu đời của nhiều nhà nước
trong vùng, mà đã bắt đầu từ thế kỷ thứ mười bốn, đã bị đảo ngược. Ngay cả các
chính thể, mà đã không bị thuộc địa hóa trực tiếp và bị đè nát bởi Công ty Đông
Ấn Hà Lan, cũng đã quay sang hướng nội và từ bỏ thương mại. Sự thay đổi kinh
tế và chính trị vừa mới nảy sinh ở Đông Nam Á đã bị tạm dừng trên con đường
của nó.
Để tránh sự đe dọa của Công ty Đông Ấn Hà Lan, nhiều nhà nước đã từ bỏ sản
xuất các cây trồng cho xuất khẩu và ngừng hoạt động thương mại. Sự tự cấp tự
túc là an toàn hơn sự đối mặt với người Hà Lan. Trong năm 1620 nhà nước
Banten, trên đảo Java, đã đẵn những cây hồ tiêu của nó với hy vọng rằng việc này
sẽ khiến những người Hà Lan để cho nó yên. Khi một nhà buôn Hà Lan đến thăm
Maguindanao, ở nam Phillipines, trong năm 1686, người ta bảo ông, “Nutmeg và
đinh hương có thể mọc ở đây hệt như ở Malaku. Chúng không có ở đó bây giờ
bởi vì Rajna già đã phá sạch chúng trước khi ông chết. Ông đã sợ Công ty Hà Lan
sẽ đến để dánh nhau với họ về nó.” Điều mà một nhà buôn đã nghe được về nhà
cai trị Maguindanao trong năm 1699 cũng tương tự: “Ông đã cấm tiếp tục trồng
hồ tiêu để cho ông không thể bị dính líu vào chiến tranh dù với công ty [Hà Lan]
hay với kẻ thống trị khác.” Đã có sự thoái-đô thị hóa và thậm chí sự giảm dân số.
250 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Trong năm 1635 những người Miến Điện đã chuyển thủ đô của họ từ Pegu, ở gần
bờ biển, đến Ava, sâu vào trong đất liền trên Sông Irrawaddy.
Chúng ta không biết con đường phát triển của các nước Đông Nam Á đã là con
đường nào giả như không có sự xâm lược của Hà Lan. Họ có thể đã phát triển
nhãn mác chính thể chuyên chế của riêng họ, họ có thể vẫn ở trong cùng trạng
thái mà họ đã ở vào cuối thế kỷ thứ mười sáu, hay họ đã có thể tiếp tục sự thương
mại hóa của họ bằng cách dần dần chấp nhận các thể chế ngày càng bao gồm hơn.
Nhưng như ở Molucca, chủ nghĩa thuộc địa Hà Lan đã làm thay đổi cơ bản sự
phát triển kinh tế và chính trị của họ. Người dân ở Đông Nam Á đã ngừng buôn
bán, chuyển sang hướng nội, và trở nên chuyên chế hơn. Trong hai thế kỷ tiếp
theo, họ đã không ở trong vị thế nào để tận dụng lợi thế của những đổi mới mà sẽ
xuất hiện trong Cách mạng Công nghiệp. Và cuối cùng sự rút lui của họ khỏi
thương mại đã không cứu được họ khỏi những người Âu châu; vào cuối thế kỷ
thứ mười tám, gần như tất cả đã là phần của các đế chế thuộc địa Âu châu.
CHÚNG TA ĐÃ THẤY ở chương 7 sự mở rộng của châu Âu vào Đại Tây Dương
đã tiếp nhiên liệu ra sao cho sự nổi lên của các thể chế bao gồm ở Anh. Nhưng
như được minh họa bởi kinh nghiệm của Molucca dưới thời Hà Lan, sự mở rộng
này đã gieo các hạt chậm phát triển ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới bằng cách
áp đặt các thể chế khai thác, hay tăng cường thêm các thể chế khai thác hiện tồn.
Những việc này hoặc một cách trực tiếp hay một cách gián tiếp đã tiêu diệt hoạt
động thương mại và công nghiệp manh nha trên khắp thế giới hay chúng đã duy
trì mãi các thể chế ngăn chặn công nghiệp hóa. Như một kết quả, khi công nghiệp
hóa lan ra một số phần của thế giới, các nơi đã là bộ phận của các đế chế thuộc
địa Âu châu đã chẳng có cơ hội nào để hưởng lợi từ những công nghệ mới này.
THỂ CHẾ QUÁ THÔNG THƯỜNG
Ở Đông Nam Á, sự mở rộng của sức mạnh hải quân và thương mại Âu châu trong
thời kỳ đầu hiện đại đã tước mất một thời kỳ hứa hẹn về mở rộng kinh tế và thay
đổi thể chế. Trong cùng thời kỳ khi Công ty Đông Ấn Hà Lan mở rộng, một loại
buôn bán rất khác đang tăng cường ở châu Phi: buôn bán nô lệ.
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 251
Ở Hoa Kỳ, chế độ nô lệ miền nam đã thường được nhắc đến như “thể chế đặc
biệt.” Nhưng về mặt lịch sử, như học giả kinh điển vĩ đại Moses Findlay đã chỉ ra,
chế độ nô lệ chẳng hề đặc biệt chút nào, nó đã hiện diện hầu như trong mọi xã
hội. Nó đã, như chúng ta đã thấy ở trước, là căn bệnh địa phương ở La Mã cổ xưa
và ở châu Phi, một nguồn nô lệ lâu đời cho châu Âu, mặc dù không phải là nguồn
duy nhất.
Trong thời kỳ La Mã các nô lệ đến từ những người Slavic quanh Biển Đen, từ
Trung Đông, và cũng từ Bắc Âu. Nhưng vào năm 1400 những người Âu châu đã
chấm dứt bắt nhau làm nô lệ. Châu Phi, tuy vậy, như chúng ta đã thấy ở chương 6,
đã không trải qua sự chuyển đổi từ chế độ nô lệ sang chế độ nông nô như châu Âu
trung cổ đã chuyển. Trước đầu thời kỳ hiện đại, đã có sự buôn bán nô lệ sôi động
ở Đông Phi, và số đông nô lệ đã được vận chuyển ngang Sahara đến Bán đảo
Arabia. Hơn nữa, các quốc gia Tây Phi trung cổ lớn, Mali, Ghana, và Songhai đã
sử dụng nhiều nô lệ trong chính phủ, quân đội, và nông nghiệp, chấp nhận theo
các mô hình từ các quốc gia Hồi giáo Bắc Phi mà họ buôn bán với.
Sự phát triển của các thuộc địa đồn điền mía ở Caribe bắt đầu vào đầu thế kỷ
thứ mười bảy đã là cái dẫn đến một sự leo thang đầy kịch tính của sự buôn bán nô
lệ quốc tế và đến một sự gia tăng chưa từng có về tầm quan trọng của chế độ nô lệ
ở bên trong bản thân châu Phi. Trong thế kỷ thứ mười sáu, có lẽ khoảng 300.000
nô lệ đã được bán qua Đại Tây Dương. Họ đến chủ yếu từ Trung Phi, với sự dính
líu sâu của Kongo và những người Bồ Đào Nha đóng xa hơn về phía nam ở
Luanda, bây giờ là thủ đô của Angola. Trong thời gian này, buôn bán xuyên
Sahara vẫn đã lớn hơn, có lẽ với khoảng 550.000 người châu Phi chuyển lên
phương bắc làm nô lệ. Trong thế kỷ thứ mười bảy, tình hình đã đảo ngược.
Khoảng 1.350.000 người châu Phi đã được bán như nô lệ trong thương mại Đại
Tây Dương, đa số bây giờ được chuyển sang châu Mỹ. Con số liên quan đến buôn
bán xuyên Sahara đã không thay đổi một cách tương đối. Thế kỷ thứ mười tám đã
thấy một sự gia tăng đột ngột nữa, với khoảng 6.000.000 nô lệ được chuyển qua
Đại Tây Dương và có thể 700.000 qua Sahara. Cộng các số trong các thời kỳ và
các phần của châu Phi, hơn 10.000.000 người châu Phi đã bị chuyển ra khỏi châu
lục như các nô lệ.
Bản đồ 15 (trang sau) cho một cảm nhận nào đó về quy mô của buôn bán nô lệ.
Sử dụng các đường biên giới hiện đại, nó miêu tả sự ước lượng mức độ tích lũy
252 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
của tình trạng nô lệ giữa năm 1400 và 1900 như phần trăm của dân số trong năm
1400. Các màu thẫm hơn cho thấy tình trạng nô lệ mạnh hơn. Thí dụ, ở Angola,
Benin, Ghana, và Togo, tổng tích lũy của xuất khẩu nô lệ lớn hơn toàn bộ dân số
của nước đó trong năm 1400.
Sự xuất hiện đột ngột của những người Âu châu khắp vùng ven biển Tây và
Trung Phi hăm hở mua nô lệ không còn cách nào khác đã có một tác động biến
đổi lên các xã hội Phi châu. Hầu hết nô lệ, mà được chở sang châu Mỹ, đã là
những người bị bắt trong chiến tranh và rồi được chở ra ven biển. Sự tăng lên của
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 253
chiến tranh đã được thổi bùng bởi lượng nhập khẩu khổng lồ về súng và đạn
dược, mà những người Âu châu đổi lấy nô lệ. Vào năm 1730 khoảng 180.000
súng đã được nhập khẩu mỗi năm chỉ dọc theo duyên hải Tây Phi, và giữa 1750
và đầu thế kỷ mười tám, riêng những người Anh đã bán giữa 283.000 và 394.000
súng một năm. Giữa năm 1750 và 1807, người Anh đã bán một lượng đặc biệt
22.000 tấn thuốc súng, khiến cho trung bình là 384.000 kg một năm, cùng với
91.000 kg chì mỗi năm. Xa hơn xuống phía nam, việc buôn bán cũng sôi động
như thế. Bên bờ Loango, bắc Vương quốc Kongo, những người Âu châu đã bán
50.000 súng mỗi năm.
Tất cả các cuộc chiến tranh và xung đột này đã không chỉ gây ra những thiệt
hại to lớn về sinh mệnh và sự đau khổ con người mà cũng khởi động một con
đường đặc biệt của sự phát triển thể chế ở châu Phi. Trước đầu thời kỳ hiện đại,
các xã hội Phi châu đã ít tập trung về mặt chính trị hơn các xã hội Á-Âu. Hầu hết
các chính thể đã có quy mô nhỏ, với các thủ lĩnh bộ lạc và có lẽ các ông vua kiểm
soát đất và các nguồn lực. Nhiều xã hội, như chúng ta đã thấy ở Somalia, đã
không hề có cấu trúc quyền lực chính trị có thứ bậc nào cả. Sự buôn bán nô lệ đã
khởi động hai quá trình chính trị có hại. Thứ nhất, nhiều chính thể ban đầu đã trở
nên chuyên chế hơn, được tổ chức xung quanh một mục đích duy nhất: nô lệ hóa
và bán những người khác cho bọn buôn nô lệ Âu châu. Thứ hai, như một hệ quả
nhưng, nghịch lý thay, đối nghịch với quá trình thứ nhất, việc đánh nhau và bắt
nhau làm nô lệ cuối cùng đã phá hủy bất cứ trật tự và quyền lực nhà nước hợp
pháp nào đã tồn tại ở châu Phi hạ-Sahara. Trừ chiến tranh ra, các nô lệ cũng đã bị
bắt cóc và bắt bởi các cuộc đột kích cướp bóc nhỏ. Luật cũng đã trở thành một
công cụ của sự nô dịch hóa. Bất luận phạm tội gì, hình phạt đã là bắt làm nô lệ.
Nhà buôn Anh Francis Moore đã quan sát các hậu quả của tình trạng này dọc bờ
biển Senegambia ở Tây Phi năm trong các năm 1730:
Kể từ khi việc buôn bán nô lệ này được sử dụng, mọi sự trừng phạt bị
biến thành sự nô lệ; có một lợi thế về những sự kết tội như vậy, chúng
làm căng đối với các tội phạm rất khắc nghiệt, nhằm được lợi từ việc
bán phạm nhân. Không chỉ tội giết người, trộm cắp và tội ngoại tình
bị trừng phát bằng cách bán kẻ phạm tội làm nô lệ, mà mọi vụ lặt vặt
cũng bị trừng phạt theo cùng cách.
254 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Các thể chế, ngay cả các thể chế tôn giáo, đã trở nên đồi bại bởi mong muốn để
bắt và bán các nô lệ. Một thí dụ là bậc thánh nổi tiếng tại Archukwa, ở đông
Nigeria. Bậc thánh được tin một cách rộng rãi rằng ngài nói thay một một vị thần
quan trọng trong vùng được kính trọng bởi các nhóm sắc tộc chính ở địa phương,
những người ljaw, lbibio và lgbo. Người ta đã tiếp cận bậc thánh để giải quyết các
tranh chấp và xét xử những bất đồng. Các nguyên đơn, những người đi đến
Archukwa để gặp bậc thánh, đã phải từ thị trấn xuống một hẻm núi của Sông
Cross, nơi bậc thánh ở trong một hang cao, mà mặt trước hang được xếp bằng các
sọ người. Các giáo sĩ của bậc thánh, liên minh với những kẻ buôn nô lệ và các nhà
buôn Aro, sẽ thực thi quyết định của bậc thánh. Thường việc này dính líu đến họ
bị bậc thánh “nuốt”, mà thực ra đã có nghĩa rằng một khi họ đã qua hang, họ bị
dẫn xuống Sông Cross và xuống các tàu của những người Âu châu đang đợi. Quá
trình này, mà trong đó mọi luật và tập quán bị bóp méo và bị vi phạm để bắt các
nô lệ và nhiều nô lệ hơn, đã có các tác động tàn phá ghê gớm lên sự tập trung hóa
chính trị, mặc dù tại một số nơi nó đã dẫn đến sự nổi lên của các nhà nước hùng
mạnh mà raison d’être (lý do tồn tại) chủ yếu của nó đã là cướp bóc và bắt làm nô
lệ. Bản thân Vương quốc Kongo có lẽ đã là nhà nước Phi châu đầu tiên trải
nghiệm một sự biến hóa thành một nhà nước nô lệ hóa, cho đến khi nó bị phá hủy
bởi nội chiến. Các nhà nước nô lệ hóa khác nảy sinh một cách nổi bật ở Tây Phi
và đã bao gồm Oyo ở Nigeria, Dahomey ở Benin, và sau đó Asante ở Ghana.
Sự mở rộng của nhà nước Oyo giữa thế kỷ thứ mười bảy, chẳng hạn, đã liên
quan trực tiếp đến sự gia tăng của xuất khẩu nô lệ ở miền duyên hải. Sức mạnh
của nhà nước đã là kết quả của một cuộc cách mạng quân sự mà đã dính líu đến
nhập khẩu ngựa từ phương bắc và sự hình thành của một đội kỵ binh hùng mạnh
mà đã có thể sát hại các quân đội đối lập. Khi nhà nước Oyo bành trướng về phía
nam theo hướng bờ biển, nó đã nghiền nát các chính thể ở giữa và đã bán nhiều
cư dân của chúng làm nô lệ. Trong giai đoạn giữa 1690 và 1740, Oyo đã xác lập
độc quyền của nó ở bên trong cái được biết đến như Duyên hải Nô lệ. Được ước
lượng là 80 đến 90 phần trăm nô lệ được bán trên miền duyên hải đã là kết quả
của những cuộc chinh phục này. Một mối liên hệ đầy kịch tính tương tự giữa
chiến tranh và cung ứng nô lệ đã đến từ miền tây xa hơn trong thế kỷ thứ mười
tám, trên Duyên hải Vàng, vùng là Ghana hiện nay. Sau năm 1700 nhà nước
Asante đã bành trướng từ nội địa, phần lớn theo cùng cách như nhà nước Oyo đã
bành trướng trước đó. Trong nửa đầu thế kỷ thứ mười tám, sự bành trướng này đã
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 255
kích động cái gọi là các cuộc chiến tranh Akan, khi Asante lần lượt đánh bại hết
nhà nước độc lập này đến nhà nước khác. Nhà nước cuối cùng, Gyaman, đã bị
chinh phục năm 1747. Phần lớn trong số 375.000 nô lệ được xuất khẩu từ Duyên
hải Vàng đã là những người bị bắt trong các cuộc chiến này.
Có lẽ tác động rõ rệt nhất của sự khai thác ồ ạt sức người này đã mang tính
nhân khẩu học. Khó để biết với bất cứ sự chắc chắn nào về dân số của châu Phi đã
là bao nhiêu trước giai đoạn hiện đại, nhưng các học giả đã đưa ra các ước lượng
có vẻ hợp lý khác nhau về tác động của buôn bán nô lệ lên dân số. Sử gia Patrick
Maning ước lượng rằng dân số của các vùng của Tây và Trung-Tây châu Phi mà
đã cung ứng nô lệ cho xuất khẩu đã là khoảng hai mươi hai đến hai mươi lăm
triệu người trong đầu thế kỷ thứ mười tám. Với giả thiết bảo thủ rằng trong thế kỷ
thứ mười tám và đầu thế kỷ thứ mười chín các vùng này đã có tỷ lệ tăng dân số
khoảng một nửa phần trăm một năm mà không có buôn bán nô lệ, Maning đã ước
lượng rằng dân số của vùng này trong năm 1850 đã phải ít nhất là bốn mươi sáu
đến năm mươi ba triệu. Trên thực tế, dân số đã là khoảng một nửa của con số này.
Sự chênh lệch rất lớn này đã không chỉ là về khoảng tám triệu người đã được
xuất khẩu làm nô lệ từ khu vực này giữa 1700 và 1850, mà hàng triệu người có
khả năng đã bị giết bởi chiến tranh nội bộ liên miên nhằm bắt nô lệ. Tình trạng nô
lệ và buôn bán nô lệ ở châu Phi đã gây hỗn loạn thêm các cấu trúc gia đình và hôn
nhân và cũng đã có thể làm giảm khả năng sinh sản.
Bắt đầu trong cuối thế kỷ thứ mười tám, một phong trào mạnh mẽ đòi bãi bỏ
sự buôn bán nô lệ bắt đầu lấy được đà ở Anh, dẫn đầu bởi nhân vật có sức thuyết
phục quần chúng lớn William Wilberforce. Sau những thất bại lặp đi lặp lại,
những người đòi xóa bỏ đã thuyết phục được Quốc hội thông qua một dự luật làm
cho buôn bán nô lệ trở nên bất hợp pháp. Hoa Kỳ đã đi theo với biện pháp tương
tự trong năm tiếp theo. Tuy vậy, chính phủ Anh đã đi xa hơn: nó đã tìm cách tích
cực để thực thi biện pháp này bằng đóng hạm đội đặc biệt ở Đại Tây Dương để
diệt trừ sự buôn bán nô lệ. Mặc dù đã cần thời gian để cho biện pháp này thực sự
hữu hiệu, và mãi cho đến 1834 thì bản thân tình trạng nô lệ mới bị bãi bỏ hết trên
đế chế Anh, những ngày của sự buôn bán nô lệ qua Đại Tây Dương, mà là phần
lớn của toàn bộ việc buôn bán nô lệ, đã điểm.
256 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Mặc dù sự chấm dứt của nạn buôn bán nô lệ sau 1807 đã làm giảm cầu bên
ngoài đối với các nô lệ từ châu Phi, việc này đã không có nghĩa rằng tác động của
tình trạng nô lệ lên các xã hội và các thể chế Phi châu tan biến đi một cách như
ma thuật. Nhiều nhà nước Phi châu đã được tổ chức xung quanh việc nô lệ hóa, và
việc nước Anh chấm dứt sự buôn bán nô lệ đã không làm thay đổi thực tế này.
Hơn nữa, tình trạng nô lệ đã trở nên phổ biến hơn nhiều ở bên trong bản thân châu
Phi. Những nhân tố này cuối cùng đã định hình sự phát triển của châu Phi không
chỉ trước mà cả sau 1807 nữa.
Khi xứ sở nô lệ tiến đến “thương mại hợp pháp,” một cụm từ được đặt ra cho
việc xuất khẩu các mặt hàng mới không gắn với buôn bán nô lệ từ châu Phi. Các
mặt hàng này bao gồm dầu cọ, nhân, lạc, ngà voi, cao su, và gum Arabic (nhựa
cây acacia). Khi thu nhập Âu châu và Bắc Mỹ tăng lên với sự mở rộng của Cách
mạng Công nghiệp, cầu về nhiều mặt hàng nhiệt đới này đã tăng đột ngột. Hệt
như các xã hội Phi châu đã năng nổ tận dụng những cơ hội do buôn bán nô lệ tạo
ra, họ đã cũng làm thế với thương mại hợp pháp. Nhưng họ đã làm như vậy trong
một bối cảnh đặc biệt, bối cảnh mà trong đó tình cảnh nô lệ là một cách sống
nhưng cầu bên ngoài đối với các nô lệ đã đột ngột cạn kiệt. Tất cả những nô lệ
này bây giờ làm gì khi không thể bán họ cho những người Âu châu? Câu trả lời đã
đơn giản: đã có thể đưa họ vào làm việc sinh lời, dưới sự cưỡng bức, ở châu Phi,
tạo ra các món mới của thương mại hợp pháp.
Một trong những thí dụ được ghi lại kỹ làm tư liệu đã là ở Asante, ở Ghana
hiện đại. Trước năm 1807, Đế chế Asante đã dính líu sâu vào việc bắt và xuất
khẩu nô lệ, mang họ xuống bờ biển để bán tại các lâu đài bán nô lệ lớn ở Cape
Coast và Elmina. Sau 1807, với sự lựa chọn này bị đóng lại, elite chính trị Asante
đã tổ chức lại nền kinh tế của họ. Thế nhưng việc bắt làm nô lệ và tình trạng nô lệ
đã không chấm dứt. Đúng hơn, các nô lệ được định cư ở các đồn điền lớn, ban
đầu xung quanh thủ đô Kumase, nhưng muôn hơn đã lan ra khắp đế chế (tương
ứng với hầu hết nội địa Ghana). Họ được sử dụng trong sản xuất vàng và quả
hạch kola để xuất khẩu, nhưng cũng nuôi trồng số lượng lớn thực phẩm và đã
được sử dụng nhiều như những người mang vác, vì Asante đã không sử dụng giao
thông có bánh xe. Xa hơn về phía đông, những sự thích nghi tương tự đã xảy ra.
Thí dụ, ở Dahomay nhà vua đã có các đồn điền cọ dầu lớn gần các cảng biển
Whydah và Porto Novo, tất cả đều dựa vào lao động nô lệ.
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 257
Cho nên việc bãi bỏ buôn bán nô lệ, thay cho việc khiến cho tình trạng nô lệ ở
châu Phi teo đi, thì đơn giản lại đã dẫn đến sự tái triển khai các nô lệ, những
người bây giờ được dùng ở bên trong châu Phi hơn là ở châu Mỹ. Hơn nữa, nhiều
thể chế chính trị, mà sự buôn bán nô lệ đã gây ra trong hai thế kỷ trước, đã không
thay đổi và các hình mẫu ứng xử vẫn còn dai dẳng. Thí dụ, ở Nigeria trong các
năm 1820 và 1830 Vương quốc Oyo một thời vĩ đại đã bị sụp đổ. Nó đã bị làm
cho xói mòn bởi các cuộc nội chiến và sự nổi lên của các thành-quốc Yoruba, như
Illorin và Ibadan, mà đã dính dáng trực tiếp đến buôn bán nô lệ, ở phía nam của
nó. Trong các năm 1830, thủ đô của Oyo bị cướp phá, và sau đó các thành phố
Yoruba đã tranh giành quyền lực với Dahomey vì sự thống trị khu vực. Chúng đã
chiến đấu một loạt các cuộc chiến tranh hầu như liên tục trong nửa đầu của thế kỷ,
mà đã gây ra cung nô lệ rất lớn. Cùng với việc này đã xảy ra các vòng bình
thường của sự bắt cóc và sự xử phạt bởi các bậc thần và sự cướp bóc quy mô nhỏ.
Sự bắt cóc đã là vấn đề đến mức ở một số phần của Nigeria các bậc cha mẹ đã
không dám để con mình chơi ở bên ngoài vì sợ chúng bị bắt và bị bán làm nô lệ.
Như một kết quả, tình trạng nô lệ, thay cho co lại, có vẻ đã mở rộng ở châu Phi
suốt thế kỷ thứ mười chín. Mặc dù khó kiếm được các số liệu chính xác, nhiều
tường thuật được viết bởi các khách lữ hành và các nhà buôn trong thời gian này
gợi ý rằng trong các vương quốc Tây Phi Ansante và Dahomey và trong các
thành-quốc Yoruba hơn nửa dân số đã là nô lệ. Có số liệu chính xác hơn từ các hồ
sơ thuộc địa Pháp ban đầu cho tây Sudan, một dải lớn của miền tây châu Phi, trải
từ Senegal, qua Mali và Burkina Faso, đến Niger và Chad. Tại vùng này 30 phần
trăm dân số đã bị bắt làm nô lệ trong năm 1900.
Hệt như với sự nổi lên của thương mại hợp pháp, sự đến của thuộc địa hóa sau
cuộc Tranh giành châu Phi đã không phá hủy tình trạng nô lệ ở châu Phi. Mặc dù
phần lớn sự thâm nhập Âu châu vào châu Phi đã được biện minh với lý do rằng
phải đấu tranh chống và xóa bỏ tình trạng nô lệ, thực tế đã là khác. Trong hầu hết
các phần của châu Phi thuộc địa, tình trạng nô lệ đã tiếp tục đáng kể vào thế kỷ
thứ hai mươi. Ở Sierra Leone, chẳng hạn, chỉ đến 1928 thì tình trạng nô lệ cuối
cùng mới bị xóa bỏ, cho dù thủ đô Freetown với cái tên Thành phố Tự do ban đầu
được thành lập vào cuối thế kỷ thứ mười tám như nơi trú của các nô lệ được hồi
hương từ châu Mỹ về. Sau đó nó đã trở thành một căn cứ quan trọng cho hạm đội
chống nô lệ của Anh và một xứ sở mới cho các nô lệ được giải phóng từ các tàu
chở nô lệ bị hải quân Anh bắt giữ. Ngay cả với biểu tượng này, tình trạng nô lệ
258 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
vẫn còn kéo dài ở Sierra Leone trong 130 năm. Liberia, ngay nam Sierra Leone,
cũng thế đã được thành lập cho các nô lệ Mỹ được giải phóng trong các năm
1840. Thế nhưng ở đó, cũng thế, tình trạng nô lệ đã kéo dài vào thế kỷ thứ hai
mươi, mãi đến tận các năm 1960, đã được ước lượng rằng một phần tư của lực
lượng lao động đã bị cưỡng bức, sống và làm việc dưới các điều kiện gần với tình
trạng nô lệ. Căn cứ vào các thể chế kinh tế và chính trị khai thác dựa trên buôn
bán nô lệ, công nghiệp hóa đã không lan ra châu Phi hạ-Sahara, mà đã trì trệ hay
thậm chí đã trải qua sự chậm phát triển kinh tế khi các phần khác của thế giới
đang biến đổi nền kinh tế của họ.
TẠO RA MỘT NỀN KINH TẾ KÉP
Hệ thuyết “nền kinh tế kép” (“dual economy” paradigm), ban đầu được Sir Athur
Lewis đề xuất năm 1955, vẫn định hình cách mà hầu hết các nhà khoa học xã hội
nghĩ về các vấn đề kinh tế của các nước kém-phát triển. Theo Lewis, nhiều nền
kinh tế kém-phát triển hay chậm-phát triển có một cấu trúc kép và được chia
thành một khu vực hiện đại và một khu vực truyền thống. Khu vực hiện đại,
tương ứng với phần phát triển hơn của nền kinh tế, gắn liền với cuộc sống đô thị,
công nghiệp hiện đại, và việc sử dụng các công nghệ tiên tiến. Khu vực truyền
thống gắn với cuộc sống nông thôn, nông nghiệp, và các thể chế và công nghệ
“lạc hậu”. Các thể chế nông nghiệp lạc hậu bao gồm sở hữu chung về đất, mà ngụ
ý rằng thiếu quyền sở hữu tư nhân về đất. Lao động được sử dụng không hiệu quả
trong khu vực truyền thống đến mức, theo Lewis, nó đã có thể được phân bổ lại
sang khu vực hiện đại mà không làm giảm lượng mà khu vực nông thôn có thể tạo
ra. Đối với các thế hệ của các nhà kinh tế học phát triển, dựa trên những thấu hiểu
của Lewis, “vấn đề phát triển” đã có nghĩa rằng chuyển người dân và các nguồn
lực khỏi khu vực truyền thống, khỏi nông nghiệp và nông thôn, sang khu vực hiện
đại, công nghiệp và các đô thị. Năm 1979 Lewis đã được giải Nobel vì công trình
của ông về phát triển kinh tế.
Lewis và các nhà kinh tế học phát triển dựa trên công trình của ông đã chắc
chắn đúng trong nhận diện các nền kinh tế kép. Nam Phi đã là một trong các thí
dụ rõ nhất, tách thành một khu vực truyền thống lạc hậu và nghèo nàn và một khu
vực hiện đại sôi động và thịnh vượng. Ngay cả ngày nay nền kinh tế kép do Lewis
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 259
nhận diện vẫn ở khắp nơi tại Nam Phi. Một trong những cách đầy kịch tính nhất
để nhận thấy điều này là bằng cách đi ngang ranh giới giữa bang KwaZulu-Natal,
Natal trước kia, và bang Transkei. Đường ranh giới chạy theo con Sông Lớn Kei.
Bên phía đông con sông, ở Natal, dọc bờ biển, là các bất động sản giàu có nhìn ra
bãi biển trên dải rộng bãi biển đầy cát đẹp lộng lẫy. Nội địa được phủ bằng các
đồn điền mía xanh tươi tốt. Đường sá thật đẹp; toàn bộ vùng sặc mùi thịnh vượng.
Ngang qua sông, cứ như là một thời khác và một nước khác. Cả vùng bị tàn phá
trên quy mô lớn. Đất không được phủ màu xanh, mà là màu nâu và rừng bị tàn
phá nặng. Thay cho các căn nhà hiện đại giàu sang với nước máy, phòng vệ sinh,
và tất cả các tiện nghi hiện đại, người dân sống trong các lều tạm bợ và nấu nướng
ở ngoài trời. Cuộc sống chắc chắn là truyền thống, rất xa với sự tồn tại hiện đại ở
bên phía đông của dòng sông. Đến bây giờ bạn sẽ không ngạc nhiên rằng những
sự khác biệt này liên kết với những sự khác biệt lớn về các thể chế kinh tế giữa
hai bên của con sông.
Bên phía đông, ở Natal, chúng ta có các quyền tài sản tư nhân, có các hệ thống
pháp luật hoạt động, có các thị trường, nền nông nghiệp thương mại và công
nghiệp. Bên phía tây, những người Transkei đã có sở hữu chung về đất và các thủ
lĩnh truyền thống có quyền vô hạn cho đến tận gần đây. Nhìn theo lăng kính lý
thuyết của Lewis về nền kinh tế kép, sự tương phản giữa Transkei và Natal minh
họa các vấn đề của sự phát triển Phi châu. Thực ra, chúng ta có thể đi xa hơn, và
lưu ý rằng, về mặt lịch sử, tất cả châu Phi đã giống Transkei, nghèo nàn với các
thể chế kinh tế tiền hiện đại, công nghệ lạc hậu, và sự cai trị bởi các thủ lĩnh.
Theo phối cảnh này, thì, sự phát triển kinh tế đơn giản là về đảm bảo rằng
Transkei cuối cùng chuyển thành Natal.
Phối cảnh này có nhiều sự thật về phần nó, nhưng nó bỏ sót toàn bộ logic về
nền kinh tế kép sinh ra như thế nào và mối quan hệ của nó với nền kinh tế hiện
đại. Sự lạc hậu của Transkei không phải đơn giản là một tàn dư lịch sử của sự lạc
hậu tự nhiên của châu Phi. Nền kinh tế kép giữa Transkei và Natal thực sự là khá
gần đây, và chẳng hề tự nhiên chút nào. Nó đã được tạo ra bởi các elite Nam Phi
da trắng nhằm tạo ra một kho dự trữ lao động rẻ mạt cho các doanh nghiệp của họ
và để làm giảm sự cạnh tranh từ những người Phi châu da đen. Nền kinh tế kép là
một thí dụ khác về sự chậm phát triển được tạo ra, chứ không phải về sự chậm
260 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
phát triển như nó đã nổi lên và kéo dài dai dẳng một cách tự nhiên trong hàng thế
kỷ.
Nam Phi và Botswana, như chúng ta sẽ thấy muộn hơn, đã tránh được hầu hết
những tác động có hại của sự buôn bán nô lệ và những cuộc chiến tranh do nó gây
ra. Sự tương tác lớn đầu tiên của Nam Phi với những người Âu châu đã xảy ra khi
Công ty Đông Ấn Hà Lan thành lập một cơ sở tại Vịnh Table, bây giờ là cảng
Cape Town, năm 1652. Vào thời này bờ tây của Nam Phi đã được định cư thưa
thớt, hầu hết bởi những người săn bắt hái lượm được gọi là những người
Khoikhoi. Xa sang phía đông, ở nơi bây giờ là Ciskei và Transkei, đã có các xã
hội Phi châu cư trú đông đúc chuyên môn hóa về nông nghiệp. Ban đầu họ đã
không tương tác mạnh với thuộc địa mới của những người Hà Lan, họ cũng đã
chẳng dính líu đến sự nô lệ hóa. Bờ biển Nam Phi đã xa các thị trường nô lệ, và
các cư dân Ciskei và Transkei, được biết đến như những người Xhosa, đã ở đủ xa
trong nội địa để không thu hút sự chú ý của bất cứ ai. Như một hệ quả, các xã hội
này đã không cảm thấy tác động chính của nhiều trào lưu có hại đã giáng xuống
Tây và Trung Phi.
Sự cô lập của các địa điểm này đã thay đổi trong thế kỷ thứ mười chín. Đối với
những người Âu châu đã có cái gì đó rất hấp dẫn về khí hậu và môi trường bệnh
tật của Nam Phi. Không giống Tây Phi, chẳng hạn, Nam Phi có khí hậu ôn hòa mà
không có các bệnh nhiệt đới như bệnh sốt rét và bệnh sốt vàng mà đã biến nhiều
phần của châu Phi thành “nghĩa địa của người da trắng” và đã cản trở những
người Âu châu định cư hay thậm chí dựng lên các đơn vị đóng thường xuyên ở
tiền đồn. Nam Phi đã là viễn cảnh tốt hơn nhiều cho sự định cư Âu châu. Sự bành
trướng Âu châu vào trong nội địa đã bắt đầu không lâu sau khi những người Anh
tiếp quản Cape Town từ những người Hà Lan trong các cuộc Chiến tranh
Napoleon. Việc này đã đẩy nhanh một loạt cuộc chiến tranh Xhosa vì vùng biên
cương định cư đã mở rộng sâu vào nội địa. Sự thâm nhập vào nội địa Nam Phi đã
tăng lên trong năm 1835, khi những người Âu châu thuộc dòng dõi Hà Lan,
những người được biết đến như các Afrikaner hay các Boer, đã bắt đầu cuộc di cư
hàng loạt nổi tiếng của họ được biết đến như cuộc Di cư Lớn (Great Trek) khỏi
những người Anh kiểm soát miền duyên hải và vùng Cape Town. Các Afrikaner
sau đó đã thành lập hai nhà nước độc lập trong nội địa châu Phi, Nhà nước
Orange Freee và Transvaal.
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 261
Giai đoạn tiếp theo của sự phát triển của Nam Phi đến với sự khám phá ra
những khu mỏ kim cương khổng lồ ở Kimberly năm 1867 và những mỏ giàu vàng
tại Johannesburg năm 1886. Sự giàu có khoáng sản khổng lồ này trong nội địa đã
ngay lập tức thuyết phục những người Anh để mở rộng sự kiểm soát của họ ra
toàn Nam Phi. Sự kháng cự của Nhà nước Orange Free và Transvaal đã dẫn đến
các cuộc Chiến tranh Boer nổi tiếng trong các năm 1880–1881 và 1899–1902. Sau
sự thất bại bất ngờ ban đầu, những người Anh đã tìm được cách sáp nhập các nhà
nước Afrikaner với Tỉnh Cape và Natal, để tạo ra Liên Hiệp Nam Phi trong năm
1910. Vượt quá sự đánh nhau giữa những người Afrikaner và những người Anh,
sự phát triển của nền kinh tế khai mỏ và sự mở rộng của sự định cư Âu châu đã có
những hệ lụy khác đối với sự phát triển của vùng này. Nổi bật nhất, chúng đã tạo
ra cầu đối với thực phẩm và các sản phẩm nông nghiệp khác và đã tạo ra các cơ
hội kinh tế mới cho những người Phi châu bản địa trong cả nông nghiệp và
thương mại.
Những người Xhosa, ở Ciskei và Transkei, đã nhanh chóng phản ứng lại với
những cơ hội kinh tế này, như sử gia Colin Bundy đã ghi chép lại. Ngay từ 1832,
thậm chí trước sự hưng thịnh bột phát về khai mỏ, một nhà truyền giáo Moravian
ở Transkei đã quan sát thấy sự năng động kinh tế mới trong các vùng này và đã
nhắc đến cầu từ những người Phi châu đối với những hàng hóa tiêu dùng mới mà
sự mở rộng của những người Âu châu đã bắt đầu bộc lộ ra cho họ. Ông đã viết,
“Để có được các đồ vật này, họ tìm cách … để kiếm tiền bằng bàn tay lao động
của họ, và mua quần áo, các chiếc mai, cày, xe ngựa và các mặt hàng hữu ích
khác.”
Sự mô tả của ủy viên ủy ban dân sự, John Hemming, về cuộc viếng thăm của
ông đến Fingoland ở Ciskei trong năm 1876 cũng tiết lộ ngang thế. Ông viết rằng
ông đã
bị ấn tượng với sự tiến bộ rất lớn do những người Fingoe tạo ra trong
vài năm … Bất cứ đâu, mà tôi đi, tôi đã thấy các lều chắc chắn và các
nhà ở bằng gạch và bằng đá. Trong nhiều trường hợp, các nhà gạch
chắc nịch đã được dựng lên … và các cây ăn quả đã được trồng; bất
cứ nơi nào sẵn có một dòng nước nó đã được dẫn ra và đất được canh
tác trong chừng mực mà nó có thể được tưới; các sườn đồi và thậm
chí các đỉnh núi đã được canh tác ở nơi đã có thể mang cày đến. Quy
262 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
mô đất được cày ải đã làm tôi ngạc nhiên; Tôi đã không thấy một
vùng lớn như vậy của đất được canh tác trong nhiều năm.
Vì trong các phần khác của châu Phi hạ-Sahara, việc sử dụng cày đã là mới
trong nông nghiệp, nhưng khi cho trước cơ hội, các nông dân Phi châu đã có vẻ
rất sẵn sàng để chấp nhận và làm theo công nghệ. Họ cũng đã sẵn sàng đầu tư vào
xe ngựa và các công trình thủy lợi.
Khi nền kinh tế nông nghiệp phát triển, các thể chế bộ lạc cứng nhắc đã bắt
đầu bị thay thế. Có rất nhiều bằng chứng rằng những thay đổi về các quyền tài sản
đối với đất đã xảy ra. Năm 1879 quan tòa tại Umzimkulu của Đông Griqualand, ở
Transkei, đã lưu ý đến “mong muốn ngày càng tăng về phía những người bản địa
để trở thành các chủ sở hữu đất – họ đã mua 38.000 mẫu.” Ba năm sau đông đã
ghi nhận rằng khoảng tám ngàn nông dân Phi châu ở trong quận đã mua và đã bắt
đầu làm việc trên chín mươi ngàn mẫu đất.
Châu Phi chắc chắn đã không gần một cuộc Cách mạng Công nghiệp, nhưng
sự thay đổi thực đã đang xảy ra. Tài sản tư nhân về đất đã làm yếu các thủ lĩnh và
đã cho phép những người mới mua đất và làm giàu, cái gì đó đã không thể tưởng
tượng nổi chỉ vài thập kỷ trước đó. Điều này cũng minh họa việc làm suy yếu
nhanh chóng đến thế nào của các thể chế khai thác và các hệ thống kiểm soát
chuyên chế có thể dẫn đến sự năng động kinh tế mới tìm thấy. Một trong những
câu chuyện thành công đã là Stephen Sonjica ở Ciskei, một nông dân tự tay gây
dựng cơ đồ từ cảnh nghèo. Trong một bài diễn văn năm 1911, Sonjica nhận thấy
thế nào khi lần đầu tiên anh bày tỏ với bố mình mong muốn của anh để mua đất,
bố anh đã đáp lại: “Mua đất ư? Làm sao con có thể muốn mua đất? Con không
biết rằng tất cả đất là của Chúa và ngài trao nó chỉ cho các thủ lĩnh?” Phản ứng
của cha Sonjica đã có thể hiểu được. Nhưng Sonjica đã không chùn bước. Anh đã
có một việc làm trong Thành phố của Vua William và đã ghi chép:
Tôi đã láu cá mở một tài khoản riêng ở ngân hàng mà tôi đã chuyển
vào đó một phần tiết kiệm của mình … Việc này đã xảy ra chỉ đến khi
tôi đã tiết kiệm được tám mươi bảng … [Tôi đã mua] một cặp bò với
những cái ách, dụng cụ, cày và những thứ còn lại của phụ tùng nông
nghiệp linh tinh … Bây giờ tôi đã mua một trang trại nhỏ … Tôi
không thể giới thiệu quá mạnh [việc trồng trọt] như một nghề đối với
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 263
đồng bào mình … Họ, tuy vậy, phải làm theo các phương pháp làm ra
lợi nhuận.
Một mẩu bằng chứng lạ thường trụ đỡ cho sự năng động kinh tế và sự thịnh
vượng của các nông dân Phi châu trong thời kỳ này được tiết lộ trong một bức thư
gửi năm 1869 bởi một nhà truyền giáo Methodist, W. J. Davis. Viết cho nước
Anh, ông ghi nhận với niềm vui rằng ông đã thu được bốn mươi sáu bảng tiền mặt
“cho Quỹ Cứu tế Bông Lancashire.” Trong thời kỳ này các nông dân Phi châu
phát đạt đã quyên tiền cứu tế cho các công nhân dệt nghèo ở Anh!
Sự năng động kinh tế mới này, không ngạc nhiên, đã không làm vừa lòng các
thủ lĩnh truyền thống, những người, theo hình mẫu mà bây giờ là quen thuộc với
chúng ta, đã thấy việc này làm xói mòn sự giàu có và quyền lực của họ. Trong
năm 1879 Matthew Blyth, quan tòa chính của Transkei, đã nhận xét rằng đã có sự
chống đối việc đo đạc đất sao cho nó có thể được chia thành các tài sản tư. Ông đã
ghi lại rằng “một số thủ lĩnh … đã phản đối, nhưng hầu hết người dân đã hài
lòng … các thủ lĩnh thấy rằng việc cấp các quyền sở hữu cá thể sẽ phá hủy ảnh
hưởng của họ giữa các tộc trưởng.”
Các thủ lĩnh cũng đã chống lại những sự cải thiện được tiến hành trên đất, như
đào các mương thủy lợi hay xây dựng hàng rào. Họ đã nhận ra rằng những sự cải
thiện này chỉ là một bước dạo đầu cho các quyền tài sản cá nhân đối với đất, sự
bắt đầu của sự kết thúc đối với họ. Các nhà quan sát Âu châu thậm chí đã lưu ý
rằng các thủ lĩnh và các bậc quyền uy truyền thống, như các thầy lang phù thủy,
đã thử ngăn cấm tất cả “những cách Âu châu,” mà bao gồm các cây trồng mới,
các công cụ như cày, và các món thương mại. Nhưng sự hội nhập của Ciskei và
Transkei vào nhà nước thuộc địa Anh đã làm suy yếu quyền lực của các thủ lĩnh
và các bậc quyền uy truyền thống, và sự phản kháng của họ sẽ không đủ để chặn
sự năng động kinh tế mới ở Nam Phi. Ở Fingoland trong năm 1884, một nhà quan
sát Âu châu đã lưu ý rằng người dân đã
chuyển lòng trung thành của họ cho chúng ta. Các thủ lĩnh của họ đã
biến thành một loại chủ đất có quyền sở hữu … mà không có quyền
lực chính trị. Không còn sợ sự ghen tị của thủ lĩnh hay của vũ khí chết
người … thầy lang phù thủy, mà giáng xuống chủ sở hữu gia súc giàu
có, cố vấn có tài, sự đưa vào các tục lệ mới, người làm nông nghiệp
264 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
khéo tay, đã biến tất cả họ thành mức đồng đều của sự xoàng xĩnh –
không còn sợ hãi điều này nữa, thành viên thị tộc Fingo … là một
người tiến bộ. Vẫn còn là một nông dân chủ trang trại … anh ta sở
hữu các xe bò và những chiếc cày; anh ta mở các rãnh nước để tưới;
anh ta là chủ của một đàn cừu.
Ngay cả một chút các thể chế bao gồm và sự xói mòn quyền lực của các thủ
lĩnh và những hạn chế của họ đã là đủ để khởi động một đợt bột phát kinh tế Phi
châu đầy sinh khí. Chao ôi, nó đã thật ngắn ngủi. Giữa 1890 và 1913 nó đi đến
một sự kết thúc đột ngột và đảo ngược. Trong thời kỳ này hai lực đã hoạt động để
phá hủy sự thịnh vượng thôn quê và sự năng động mà những người Phi châu đã
tạo ra trong năm mươi năm trước. Thứ nhất đã là sự phản đối của các nông dân
Âu châu những người đã cạnh tranh với những người Phi châu. Những nông dân
Phi châu thành công đã kéo giá cây trồng xuống mà những người Âu châu cũng
sản xuất. Sự đáp lại của những người Âu châu đã là hất cẳng những người Phi
châu ra khỏi việc kinh doanh. Lực thứ hai thậm chí còn nham hiểm hơn. Những
người Âu châu đã muốn một lực lượng lao động rẻ mạt để sử dụng vào nền kinh
tế khai mỏ đang nảy nở, và họ đã có thể đảm bảo cung lao động rẻ này chỉ bằng
cách bần cùng hóa những người Phi châu. Họ đã làm việc này một cách có
phương pháp trong nhiều thập niên tiếp theo.
Lời khai làm chứng năm 1897 của George Albu, chủ tịch Hội Mỏ, được trình
bày cho một Ủy ban Điều tra, mô tả một cách mạnh mẽ logic của việc bần cùng
hóa những người Phi châu để có được lao động rẻ mạt. Ông ta đã giải thích bằng
cách nào ông ta đã kiến nghị làm rẻ sức lao động bằng “đơn giản nói cho lũ trẻ
rằng lương của họ bị giảm xuống.” Lời chứng của ông ta diễn ra như sau:
Ủy ban: Giả sử các kaffir [người Phi châu da đen] bỏ về kraal [chỗ
quây gia súc] của họ? Ông có ủng hộ việc yêu cầu Chính phủ để ép
buộc lao động?
Albu: Chắc chắn … tôi muốn biến nó thành bắt buộc … Vì sao một
người da đen lại được phép không làm gì? Tôi nghĩ một kaffir phải bị
buộc làm việc để kiếm sống.
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 265
Ủy ban: Nếu một người có thể sống mà không làm việc, làm sao ông
có thể buộc anh ta làm việc?
Albu: Đánh thuế anh ta, rồi …
Ủy ban: Rồi ông sẽ không cho phép kaffir nắm giữ đất ở trong nước,
nhưng hắn phải làm việc cho người da trắng để làm giàu cho anh ta?
Albu: Hắn phải làm phần việc của hắn để giúp láng giềng của hắn.
Cả hai mục tiêu về loại bỏ sự cạnh tranh với các nông dân da trắng và phát
triển một lực lượng lao động lương thấp đã đồng thời được thực hiện bởi Bộ Luật
Đất Bản địa năm 1913. Bộ luật, tiên liệu trước quan niệm của Lewis về nền kinh
tế kép, đã chia Nam Phi thành hai phần, một phần hiện đại thịnh vượng và một
phần truyền thống nghèo. Trừ việc sự thịnh vượng và nghèo khó thực ra sẽ được
tạo ra bởi bản thân bộ luật. Nó tuyên bố rằng 87 phần trăm đất được giao cho
những người Âu châu, những người đại diện cho khoảng 20 phần trăm dân số.
Phần 13 phần trăm còn lại được giao cho những người Phi châu. Tất nhiên, Bộ
luật Đất đai đã có nhiều tiền đề từ trước bởi vì dần dần những người Âu châu đã
hạn chế những người Phi châu trong các miếng đất nhỏ hơn và nhỏ hơn. Nhưng
chính Bộ luật 1913 đã là cái thể chế hóa một cách dứt khoát tình trạng và đã dựng
vũ đài cho sự hình thành của chế độ Apartheid Nam Phi, với thiểu số da trắng có
cả các quyền chính trị và kinh tế và đa số da đen bị loại trừ khỏi cả hai. Bộ luật đã
quy định rằng nhiều vùng đất, bao gồm Transkei và Ciskei, trở thành “các Xứ sở
Phi châu.” Muộn hơn những vùng này trở thành cái được biết đến như các
Bantustan, một phần khác của nghệ thuật hùng biện của chế độ Apartheid ở Nam
Phi, vì nó cho rằng những người Phi châu của miền Nam châu Phi đã không là
những người dân bản xứ của vùng này mà là hậu duệ của những người Bantu đã
di cư từ Đông Nigeria sang khoảng một ngàn năm trước. Họ như thế đã không có
nhiều hơn – và tất nhiên, trên thực tế, có ít hơn – quyền đối với đất so với những
người định cư Âu châu.
Bản đồ 16 (trang sau) cho thấy số lượng đất đáng làm trò cười đã được giao
cho những người Phi châu theo Đạo luật Đất đai 1913 và đạo luật kế vị nó năm
1936. Nó cũng ghi lại thông tin từ 1970 về mức độ của sự phân bổ đất tương tự
266 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
mà đã xảy ra trong việc xây dựng một nền kinh tế kép khác nữa ở Zimbabwe, mà
chúng ta sẽ thảo luận ở chương 13.
Pháp luật 1913 cũng đã bao gồm các điều khoản dự trù để chặn những người
lĩnh canh và những người chiếm đất da đen khỏi việc canh tác trên đất do người
da trắng sở hữu trong bất cứ tư cách nào khác với tư cách tá điền làm thuê. Như
bộ trưởng về các vấn đề địa phương đã giải thích, “Tác động của bộ luật đã là
ngừng, trong tương lai, mọi giao dịch dính líu đến bất cứ thứ gì theo bản chất của
một sự chung phần giữa những người Âu châu và những người bản địa liên quan
đến đất hay thành quả của đất. Tất các các hợp đồng mới với những người bản địa
phải là các hợp đồng dịch vụ. Miễn là có một hợp đồng thành thật thuộc bản chất
này thì không có gì ngăn cản một người chủ trả một người bản địa bằng hiện vật,
hay bằng đặc ân canh tác một miếng đất được xác định … Nhưng người bản địa
không thể trả ông chủ bất cứ thứ gì cho quyền của anh ta để chiếm đất.”
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 267
Đối với các nhà kinh tế học phát triển, những người đã thăm Nam Phi trong
các năm 1950 và 1960, khi môn học lý thuyết hình thành và các ý tưởng của
Arthur Lewis đang truyền bá, sự tương phản giữa các Xứ sở và nền kinh tế Âu
châu da trắng hiện đại thịnh vượng đã dường như là chính xác cái mà lý thuyết
nền kinh tế kép nói về. Phần Âu châu của nền kinh tế đã là đô thị và được giáo
dục, và đã sử dụng công nghệ hiện đại. Các Xứ sở đã nghèo, nông thôn, và lạc
hậu; lao động ở đó đã rất không sinh lợi; người dân không được giáo dục. Nó đã
có vẻ là bản chất của châu Phi lạc hậu muôn thủa.
Trừ chuyện nền kinh tế kép đã không phải là tự nhiên hay không thể tránh
khỏi. Nó đã được tạo ra bởi chủ nghĩa thuộc địa Âu châu. Đúng vậy, các Xứ sở đã
nghèo và lạc hậu về mặt công nghệ, và người dân đã không được giáo dục. Nhưng
tất cả điều này là một kết quả của chính sách của chính phủ, mà đã hủy diệt bằng
vũ lực lao động Phi châu để sử dụng trong các mỏ và đất do người Âu châu kiểm
soát. Sau 1913 rất đông người Phi châu đã bị đuổi khỏi đất của họ, mà đã được
tiếp quản bởi những người da trắng, và bị dồn chật ních vào các Xứ sở, mà đã là
quá nhỏ đối với họ để kiếm sống một cách độc lập từ đó. Như được dự tính, vì
thế, họ sẽ buộc phải kiếm sinh kế trong nền kinh tế da trắng, cung ứng lao động
của họ một cách rẻ mạt. Khi các khuyến khích kinh tế của họ đã sụp đổ, sự tiến bộ
mà xảy ra trong năm mươi năm trước tất cả đã bị đảo ngược. Người dân bỏ cày
của mình và đã trở lại canh tác với cuốc – tức là, nếu họ có canh tác chút nào.
Thường xuyên hơn họ chỉ sẵn có như lao động rẻ mạt, mà các Xứ sở đã được cấu
trúc để đảm bảo.
Đã không chỉ là các khuyến khích kinh tế bị há hủy. Những sự thay đổi chính
trị mà bắt đầu xảy ra cũng đã đi theo chiều ngược lại. Quyền lực của các thủ lĩnh
và những kẻ cai trị truyền thống, mà trước đây trong suy tàn, thì được củng cố,
bởi vì phần của dự án để tạo ra một lực lượng lao động rẻ mạt đã là xóa bỏ quyền
sở hữu tư nhân về đất. Cho nên sự kiểm soát của các thủ lĩnh đối với đất đã được
tái khẳng định. Các biện pháp này đã đạt đỉnh điểm của chúng trong năm 1951,
khi chính phủ thông qua Đạo luật Nhà chức trách Bantu. Ngay từ năm 1940, G.
Findlay đã chỉ ra đúng vấn đề:
Đất phát canh bộ lạc là một đảm bảo rằng đất sẽ chẳng bao giờ được
khai thác một cách thích hợp và sẽ chẳng bao giờ thực sự thuộc về
những người bản xứ. Lao động rẻ mạt phải có chỗ gây giống rẻ mạt,
268 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
và như thế nó được cung cấp cho những người Phi châu với phí tổn
của riêng của họ.
Sự tước quyền sở hữu của các nông dân Phi châu đã dẫn đến sự bần cùng hóa
hàng loạt của họ. Nó đã tạo ra không chỉ các nền tảng thể chế của một nền kinh tế
lạc hậu, mà đã tạo ra những người nghèo để cung ứng cho nó.
Bằng chứng sẵn có chứng minh sự đảo ngược về mức sống trong các Xứ Sở
sau Luật Đất đai Bản xứ năm 1913. Transkei và Ciskei đã lâm vào sự sa sút kinh
tế kéo dài. Các hồ sơ việc làm từ các công ty khai mỏ vàng được thu thập bởi sử
gia Francis Wilson cho thấy rằng sự sa sút này đã phổ biến trong toàn bộ nền kinh
tế Nam Phi. Tiếp sau Bộ luật Đất đai Bản xứ và các quy định luật khác, lương của
các thợ mỏ đã rớt 30 phần trăm giữa 1911 và 1921. Trong năm 1961, bất chấp sự
tăng trưởng đều đặn tương đối trong nền kinh tế Nam Phi, các mức lương này đã
vẫn thấp hơn 12 phần trăm so với lương trong năm 1911. Không có gì ngạc nhiên
rằng trong giai đoạn này Nam Phi đã trở thành nước bất bình đẳng nhất trên thế
giới.
Nhưng ngay cả trong những hoàn cảnh này, chẳng phải những người Phi châu
da đen đã có thể làm ăn thịnh vượng trong nền kinh tế Âu châu hiện đại, đã khởi
động một doanh nghiệp, hay đã trở nên có giáo dục và bắt đầu một sự nghiệp?
Chính phủ đã đảm bảo chắc chắn rằng những việc này không thể xảy ra. Không
người Phi châu nào được phép sở hữu tài sản hay bắt đầu một doanh nghiệp trong
phần Âu châu của nền kinh tế – chiếm 87 phần trăm đất đai. Chế độ Apartheid
cũng đã nhận ra rằng những người Phi châu có giáo dục đã cạnh tranh với những
người da trắng hơn là cung cấp lao động rẻ mạt cho các mỏ và nền nông nghiệp
do người da trắng sở hữu. Ngay từ năm 1904 một hệ thống đặt chỗ làm việc cho
những người Âu châu đã được đưa ra trong nền kinh tế khai mỏ. Không người Phi
châu nào được phép làm một người đứng máy hỗn hống, một người xét nghiệm,
một người cai mỏ lộ thiên, một thợ rèn, một người làm nồi hơi, một người sửa
ống lót sau cùng, một người làm khuôn ống lót, một người thợ nề … và danh sách
tiếp tục và tiếp tục, cho đến tận thợ máy gia công gỗ. Bằng một cú duy nhất,
những người Phi châu bị cấm làm bất cứ công việc có kỹ năng nào trong khu vực
khai mỏ. Đấy đã là sự hiện thân đầu tiên của “vạch màu” nổi tiếng, một trong
nhiều sáng chế phân biệt chủng tộc của chế độ Nam Phi. Vạch màu đã được mở
rộng ra toàn bộ nền kinh tế trong năm 1926, và đã kéo dài cho đến các năm 1980.
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 269
Không ngạc nhiên là những người Phi châu da đen đã không được giáo dục; nhà
nước Nam Phi không chỉ đã loại bỏ khả năng của những người Phi châu để hưởng
lợi về mặt kinh tế từ sự giáo dục mà cũng đã từ chối đầu tư vào các trường học da
đen và làm nản lòng sự giáo dục người da đen. Chính sách này đã đạt đỉnh điểm
của nó trong các năm 1950, khi, dưới sự lãnh đạo của Hendrik Verwoerd, một
trong những kiến trúc sư của chế độ Apartheid mà đã kéo dài đến 1994, chính phủ
đã thông qua Đạo luật Giáo dục Bantu. Triết lý của đạo luật này đã được giải
thích rõ ràng một cách toạc móng heo bởi bản thân Verwoerd trong một bài phát
biểu năm 1954:
Người Bantu phải được hướng dẫn để phục vụ cộng đồng riêng của
anh ta trong mọi khía cạnh. Không có chỗ nào cho anh ta trong cộng
đồng người Âu châu trên mức các hình thức nhất định của lao
động … Vì lý do đó không có ích gì đối với anh ta để nhận được một
sự đào tạo mà như mục tiêu của nó có sự hấp thu vào cộng đồng
người Âu châu trong khi anh ta không thể và sẽ không được hấp thu
vào đó.
Một cách tự nhiên, loại nền kinh tế kép được phát biểu rõ ràng trong bài nói
chuyện của Verwoerd là khá khác với lý thuyết nền kinh tế kép của Lewis. Ở
Nam Phi nền kinh tế kép đã không phải là một kết quả không thể tránh khỏi của
quá trình phát triển. Nó được tạo ra bởi nhà nước. Ở Nam Phi đã không có sự dịch
chuyển trơn tru nào của những người nghèo từ khu vực lạc hậu sang khu vực hiện
đại khi nền kinh tế tiến triển. Ngược lại, sự thành công của khu vực hiện đại đã
dựa vào sự tồn tại của khu vực lạc hậu, mà đã cho phép các ông chủ da trắng kiếm
được lợi nhuận khổng lồ bằng trả những đồng lương rất thấp cho các công nhân
da đen không có kỹ năng. Ở Nam Phi đã không có một quá trình của những công
nhân không có kỹ năng từ khu vực truyền thống dần dần trở nên được đào tạo và
có kỹ năng, như cách tiếp cận của Lewis đã dự tính. Thực ra, các công nhân da
đen đã được giữ không có kỹ năng một cách có chủ ý và đã bị cản trở khỏi các
nghề nghiệp có kỹ năng cao, sao cho các công nhân da trắng có kỹ năng không
phải đối mặt với sự cạnh tranh và có thể hưởng lương cao. Ở Nam Phi những
người Phi châu da đen quả thực đã bị “sập bẫy” trong nền kinh tế truyền thống, ở
các Xứ sở. Nhưng đấy đã không là vấn đề phát triển mà sự tăng trưởng có thể tạo
ra cái thiện. Các Xứ sở đã là cái cho phép sự phát triển của nền kinh tế da trắng.
270 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Cũng không có sự ngạc nhiên nào rằng loại phát triển kinh tế mà Nam Phi da
trắng đạt được cuối cùng đã bị hạn chế, do dựa vào các thể chế khai thác mà
những người da trắng đã xây dựng lên để bóc lột những người da đen. Những
người da trắng Nam Phi đã có các quyền tài sản, họ đã đầu tư vào giáo dục, và họ
đã có thể khai thác vàng và kim cương và bán chúng rất có lời trên thị trường thế
giới. Nhưng hơn 80 phần trăm của dân số Nam Phi đã bị đẩy ra bên lề và bị loại
trừ khỏi tuyệt đại đa số các hoạt động kinh tế đáng mong mỏi. Những người da
đen đã không thể sử dụng tài năng của họ; họ đã không thể trở thành các công
nhân có kỹ năng, các nhà kinh doanh, các doanh nhân khởi nghiệp, các kỹ sư, hay
các nhà khoa học. Các thể chế kinh tế đã là khai thác; những người da trắng trở
nên giàu bằng bòn rút từ những người da đen. Quả thực, những người Nam Phi da
trắng đã chia sẻ mức sống của những người ở các nước Tây Âu, trong khi những
người Nam Phi da đen hầu như đã không giàu hơn những người ở phần còn lại
của châu Phi hạ-Sahara. Sự tăng trưởng kinh tế này không có sự phá hủy sáng tạo,
mà từ đó chỉ có những người da trắng được hưởng lợi, đã tiếp tục chừng nào các
khoản thu từ vàng và kim cương đã còn tăng. Vào các năm 1970, tuy vậy, nền
kinh tế đã ngừng tăng.
Và lại sẽ không có ngạc nhiên gì rằng tập hợp này của các thể chế kinh tế khai
thác đã được xây dựng trên nền tảng được sắp đặt bởi một tập của các thể chế
chính trị hết sức khai thác. Trước khi bị lật đổ trong năm 1994, hệ thống chính trị
Nam Phi đã trao mọi quyền lực cho những người da trắng, những người đã là
những người duy nhất được phép bỏ phiếu bầu và ứng cử vào chức vụ. Những
người da trắng đã áp đảo lực lượng cảnh sát, quân đội, và tất cả các tổ chức chính
trị. Các thể chế này đã được cấu trúc dưới sự thống trị quân sự bởi những người
định cư da trắng. Vào thời gian thành lập Liên hiệp Nam Phi năm 1910, các chính
thể Afrikaner của Nhà nước Orange Free và Transvaal đã có các đặc quyền chủng
tộc tường minh, ngăn cản những người da đen hoàn toàn khỏi sự tham gia chính
trị. Natal và Khu Cape đã cho phép những người da đen bỏ phiếu nếu họ đã có đủ
tài sản, mà một cách điển hình họ đã không có. Hiện trạng của Natal và Khu Cape
đã được giữ trong năm 1910, nhưng vào các năm 1930, những người da đen đã bị
tước quyền bầu cử một cách tường minh ở mọi nơi tại Nam Phi.
Nền kinh tế kép của Nam Phi đã có đi đến một kết thúc trong năm 1994.
Nhưng không phải bởi vì các lý do mà Sir Arthur Lewis đã bàn lý luận về. Đã
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 271
không phải là sự diễn tiến tự nhiên của sự phát triển kinh tế đã chấm dứt vạch
màu và các Xứ sở. Những người Nam Phi da đen đã phản đối và đã đứng lên
chống lại chế độ mà đã không công nhận các quyền cơ bản của họ và đã không
chia sẻ các lợi ích của sự tăng trưởng kinh tế với họ. Sau cuộc khởi nghĩa Soweto
năm 1976, những cuộc phản kháng đã trở nên có tổ chức hơn và mạnh hơn, cuối
cùng đã lật đổ nhà nước Apartheid. Chính sự trao quyền của những người da đen,
những người đã tìm được cách để tổ chức và đứng lên, là cái cuối cùng đã chấm
dứt nền kinh tế kép của Nam Phi theo cùng cách mà lực lượng chính trị của những
người da trắng Nam Phi đã tạo ra nó trước hết.
SỰ PHÁT TRIỂN BỊ ĐẢO NGƯỢC
Sự bất bình đẳng thế giới ngày nay tồn tại bởi vì trong các thế kỷ thứ mười chín
và hai mươi một số quốc gia đã có khả năng tận dụng lợi thế của Cách mạng
Công nghiệp và các công nghệ và các phương pháp tổ chức mà nó mang lại, trong
khi các quốc gia khác đã không có khả năng làm vậy. Sự thay đổi công nghệ chỉ
là một động cơ của sự thịnh vượng, nhưng nó có lẽ là động cơ quyết định nhất.
Các nước mà đã không tận dụng được lợi thế của các công nghệ mới cũng đã
chẳng hưởng lợi được từ các động cơ khác của sự thịnh vượng. Như chúng ta đã
cho thấy trong chương này và chương trước, sự thất bại này đã là do các thể chế
khai thác, hoặc như một hệ quả của sự tồn tại dai dẳng của các chế độ chuyên chế
của họ hay bởi vì chúng thiếu các nhà nước tập trung. Nhưng chương này cũng
cho thấy rằng trong nhiều trường hợp các thể chế khai thác, mà đã là nòng cốt của
sự nghèo khó của các quốc gia này, đã được áp đặt, hay nói nhẹ đi đã được củng
cố, bởi chính cùng quá trình mà đã tiếp nhiên liệu cho sự tăng trưởng Âu châu: sự
bành trướng thương mại và thuộc địa Âu châu. Trên thực tế, tính sinh lời của các
đế chế thuộc địa Âu châu đã thường dựa vào sự phá hủy các chính thể độc lập và
các nền kinh tế bản địa quanh thế giới, hay dựa vào sự tạo ra các thể chế khai thác
một cách thực chất từ cơ sở lên, như ở các đảo Caribe, nơi, tiếp theo sự sụp đổ
hầu như hoàn toàn của các dân cư bản địa, những người Âu châu đã nhập khẩu
các nô lệ Phi châu và dựng lên các hệ thống đồn điền.
Chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết các quỹ đạo nào của các thành-quốc độc lập
như các thành quốc ở các Đảo Banda, ở Aceh, hay ở Burma (Myanmar) đã có thể
272 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
là giả như không có sự can thiệp Âu châu. Họ có thể đã có Cách mạng Vinh
quang bản địa riêng của họ, hay đã chuyển một cách chậm đến các thể chế chính
trị và kinh tế bao gồm hơn dựa trên thương mại gia tăng về các gia vị và các hàng
hóa có giá trị khác. Nhưng khả năng này đã bị loại bỏ bởi sự mở rộng của Công ty
Đông Ấn Hà Lan. Công ty đã tiệt trừ bất cứ hy vọng nào của sự phát triển bản địa
ở các Đảo Banda bằng việc thực hiện sự diệt chủng của nó. Mối đe dọa của nó
cũng đã làm cho các thành-quốc ở nhiều phần khác của Đông Nam Á rút lui khỏi
thương mại.
Câu chuyện của một trong những nền văn minh cổ xưa nhất ở châu Á, Ấn Độ,
là tương tự, mặc dù sự đảo ngược phát triển đã không do người Hà Lan mà do
người Anh gây ra. Ấn Độ đã là nhà sản xuất và xuất khẩu hàng dệt lớn nhất thế
giới trong thế kỷ thứ mười tám. Vải in hoa và vải muslin Ấn Độ đã tràn ngập các
thị trường Âu châu và đã được buôn bán khắp châu Á và thậm chí miền đông
châu Phi. Đại lý chính mà đã mang chúng đến các Đảo Anh đã là Công ty Đông
Ấn Anh. Được thành lập năm 1600, hai năm trước phiên bản Hà Lan, Công ty
Đông Ấn Anh đã sử dụng thế kỷ thứ mười bảy để thử thiết lập một độc quyền về
các hàng xuất khẩu có giá trị từ Ấn Độ. Nó đã phải cạnh tranh với những người
Bồ Đào Nha, những người đã có cơ sở ở Goa, Chittagong, và Bombay, và những
người Pháp với các cơ sở ở Pondicherry, Chvàernagore, Yanam, và Karaikal.
Cách mạng Vinh quang đã còn tồi tệ hơn cho Công ty Đông Ấn, như chúng ta đã
thấy trong chương 7. Sự độc quyền của Công ty Đông Ấn đã được các vua Stuart
ban cho và đã bị thách thức ngay lập tức sau 1688, và thậm chí bị bãi bỏ trong
hơn một thập kỷ. Sự mất quyền lực đã là đáng kể, như chúng ta đã thấy ở trước
(trang 199-200), bởi vì các nhà sản xuất hàng dệt ở Anh đã có khả năng xui khiến
Quốc hội cấm nhập khẩu vải in hoa, món hàng sinh lợi nhất của Công ty Đông
Ấn. Trong thế kỷ thứ mười tám, dưới sự lãnh đạo của Robert Clive, Công ty Đông
Ấn đã thay đổi chiến lược và đã bắt đầu phát triển một đế chế thuộc địa. Vào lúc
đó, Ấn Độ đã bị tách thành nhiều chính thể cạnh tranh, mặc dù trên danh nghĩa
nhiều chính thể đã vẫn dưới sự kiểm soát của hoàng đế Mughal ở Delhi. Công ty
Đông Ấn đầu tiên đã mở rộng ở Bengal bên miền đông, đánh bại các cường quốc
địa phương tại các trận Plassey năm 1757 và Buxar năm 1764. Công ty Đông Ấn
đã cướp bóc của cải địa phương và đã tiếp quản, và có lẽ thậm chí đã tăng cường,
các thể chế đánh thuế khai thác của các nhà cai trị Mughal của Ấn Độ. Sự mở
rộng này đã trùng với sự co lại ồ ạt của ngành dệt Ấn Độ, vì, rốt cuộc, đã không
SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 273
còn thị trường cho các mặt hàng này ở Anh. Sự co lại đã đi cùng với thoái-đô thị
hóa và sự nghèo khó gia tăng. Nó đã khởi xướng một giai đoạn dài của sự phát
triển bị đảo ngược ở Ấn Độ. Chẳng bao lâu sau, thay cho sản xuất hàng dệt,
những người Ấn Độ đã mua chúng từ Anh và trồng thuốc phiện cho Công ty
Đông Ấn để bán ở Trung Quốc.
Sự buôn bán nô lệ qua Đại Tây Dương đã lặp lại cùng hình mẫu ở châu Phi,
cho dù bắt đầu từ những điều kiện ít phát triển hơn ở Đông Nam Á và Ấn Độ.
Nhiều nhà nước Phi châu đã biến thành các bộ máy chiến tranh có mục đích bắt
và bán các nô lệ cho những người Âu châu. Khi xung đột giữa các chính thể và
các nhà nước khác nhau đã biến thành chiến tranh liên tục, các thể chế nhà nước,
mà trong nhiều trường hợp đã chưa đạt nhiều sự tập trung hóa chính trị trong bất
cứ tình huống nào, đã đổ nát trong các phần lớn của châu Phi, mở đường cho các
thể chế khai thác dai dẳng và các nhà nước thất bại ngày nay mà chúng ta sẽ
nghiên cứu muộn hơn. Trong vài phần của châu Phi mà đã tránh được sự buôn
bán nô lệ, như Nam Phi, những người Âu châu đã áp đặt một tập hợp khác của
các thể chế, lần này được thiết kế để tạo ra một nguồn lao động rẻ mạt cho các mỏ
và các trang trại của họ. Nhà nước Nam Phi đã tạo ra một nền kinh tế kép, ngăn
80 phần trăm dân cư khỏi việc tham gia vào các nghề có kỹ năng, canh tác thương
mại, và tinh thần kinh doanh. Tất cả điều này không chỉ giải thích vì sao công
nghiệp hóa đã bỏ qua các phần lớn của thế giới mà cũng bao gọn như thế nào sự
phát triển kinh tế đôi khi có thể dựa vào, và thậm chí tạo ra, sự chậm phát triển ở
phần khác nào đó của nền kinh tế nội địa hay thế giới.
10.
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG
VINH DỰ GIỮA NHỮNG KẺ CẮP
ƯỚC ANH THẾ KỶ THỨ MƯỜI TÁM – hay thỏa đáng hơn, Vương quốc
Anh sau sự hợp nhất 1708 của Anh, xứ Wales và Scotland – đã có một giải
pháp đơn giản để xử lý các phạm nhân: xa mặt cách lòng, hay chí ít khỏi rắc rối.
Họ đã đày nhiều [phạm nhân] đến các thuộc địa hình phạt trong đế chế. Trước
Chiến tranh Độc lập, các phạm nhân đã bị kết án, các tù nhân, chủ yếu đã được
gửi sang các thuộc địa Mỹ. Sau 1783, Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ độc lập đã không
còn hoan nghênh các tù nhân Anh, và các nhà chức trách Anh đã phải tìm xứ sở
khác cho họ. Đầu tiên họ đã nghĩ đến Tây Phi. Nhưng khí hậu, với các bệnh địa
phương như sốt rét và sốt vàng, mà những người Âu châu đã không có sự miễn
dịch nào chống lại chúng, đã gây chết người đến mức các nhà chức trách đã quyết
định rằng là không thể chấp nhận được để gửi ngay cả các tù nhân đến “nghĩa địa
của người da trắng.” Sự lựa chọn tiếp theo của họ đã là Australia. Vùng bờ biển
phía đông của nó đã được khám phá bởi nhà đi biển vĩ đại Thuyền trưởng James
Cook. Ngày 29 tháng Tư năm 1770, Cook đã cập bến ở một vịnh nhỏ tuyệt vời,
mà ông đã gọi là Vịnh Botany (Thực vật học) để tỏ lòng tôn vinh các loài phong
phú được tìm thấy ở đó bởi các nhà tự nhiên học đi cùng với ông. Đấy đã có vẻ là
một địa điểm lý tưởng cho các quan chức chính phủ Anh. Khí hậu ôn hòa, và chỗ
này đã xa con mắt và xa tâm trí (xa mặt cách lòng) ở mức có thể tưởng tượng
được.
Một đội gồm mười một chiếc tàu nhồi đầy các tù nhân đã trên đường đến Vịnh
Botany trong tháng Giêng năm 1788 dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Arthur
Phillip. Vào ngày 26 tháng Giêng, bây giờ được kỷ niệm như Ngày Australia, họ
đã dựng trại ở Vũng Sydney, trái tim của thành phố Sydney hiện đại. Họ đã gọi
N
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 275
thuộc địa mới là New South Wales. Trên boong một trong những chiếc tàu, chiếc
Alexander, do Duncan Sinclair làm thuyền trưởng, đã có một cặp vợ chồng tù
nhân, Henry và Susannah Cable. Susannah đã được xác minh và tuyên bố có tội
ăn trộm và ban đầu đã bị tuyên án tử hình. Bản án này muộn hơn được giảm
xuống mười bốn năm và đày đi các thuộc địa Mỹ. Kế hoạch đó đã thất bại với sự
độc lập của Hoa Kỳ. Trong lúc ấy, ở Nhà tù Norwich Castle, Susannah đã gặp và
phải lòng Henry, một bạn tù. Trong năm 1787 cô bị chọn để đày sang thuộc địa tù
mới ở Australia với đội tàu đầu tiên hướng về phía đó. Nhưng Henry đã không.
Vào thời gian này Susannah và Henry đã có một con trai nhỏ, cũng được gọi là
Henry. Quyết định này đã có nghĩa là gia đình bị ly tán. Susannah đã được chuyển
đến một chiếc tàu tù thả neo trên sông Thames, nhưng tin tức đã lộ ra về sự kiện
gây đau đớn khổ sở này và đã đến tai một người nhân đức, Lady Cadogan. Lady
Cadogan đã tổ chức một chiến dịch thành công để đoàn tụ gia đình nhà Cable.
Bây giờ cả hai được chở cùng với Henry nhỏ sang Australia. Lady Cadogan cũng
đã thu được £20 để mua hàng hóa cho họ, mà họ sẽ nhận ở Australia. Họ đã đi
trên chiếc Alexander, nhưng khi họ đến Vịnh Botany, kiện hàng đã biến mất, hay
chí ít đó là cái Thuyền trưởng Sinclair đã xác nhận.
Nhà Cable đã có thể làm gì? Không nhiều, theo luật Anh. Cho dù trong năm
1787, Anh đã có các thể chế chính trị và kinh tế bao gồm, tính bao gồm này đã
không mở rộng ra cho các tù nhân, những người hầu như đã chẳng có quyền gì.
Họ đã không thể sở hữu tài sản. Họ chắc chắn đã không thể kiện bất kỳ ai ở tòa
án. Thực ra, họ thậm chí đã không thể cung cấp bằng chứng ở tòa án. Sinclair đã
biết điều này và có lẽ đã lấy cắp kiện hàng. Mặc dù ông đã chẳng bao giờ thừa
nhận việc đó, ông đã có khoác lác rằng ông không thể bị nhà Cable kiện. Ông đã
đúng theo luật Anh. Và ở Anh toàn bộ vụ việc đã kết thúc ở đó. Nhưng không
phải ở Australia. Một trát đã được phát ra cho David Collins, luật sư công tố
(judge advocate) ở đó, như sau:
Xét rằng Henry Cable và vợ ông ta, những người định cư mới của nơi
này, trước khi họ rời nước Anh đã có một kiện hàng nào đó được
chuyển bằng tàu Alexander chở Thuyền trưởng Duncan Sinclair, gồm
có quần áo và nhiều đồ khác thích hợp cho tình hình hiện tại của họ,
mà đã được gom góp và mua với phí tổn của nhiều cá nhân có lòng từ
thiện cho việc sử dụng của Henry Cable được nhắc tới ở trên, vợ và
276 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
con ông. Nhiều đơn đã được làm ra cho mục đích rõ ràng để nhận
được kiện hàng được nói tới ở trên từ Thuyền trưởng tàu Alexander
bây giờ đang nằm tại cảng này, và rằng không có kết quả (ngoại trừ)
một phần nhỏ của kiện hàng được nói tới đó chứa vài cuốn sách, phần
còn lại và phần dư, mà có giá trị đáng kể hơn vẫn còn ở trên tàu
Alexander được nhắc tới ở trên, Thuyền trưởng của nó, có vẻ rất cẩu
thả trong việc không khiến cho cùng thứ đó được giao cho các chủ
tương ứng của nó như đã nói ở trên.
Henry và Susannah, vì cả hai đều không biết đọc biết viết, đã không thể ký trát
và chỉ đánh “dấu chéo” của họ ở dưới cùng. Các từ “những người định cư mới của
nơi này” muộn hơn đã bị gạch đi, nhưng đã hết sức quan trọng. Một người nào đó
đã lường trước rằng nếu Henry Cable và vợ ông được mô tả như các tù nhân, thì
vụ việc sẽ không có hy vọng gì được tiến hành. Thay vào đó người nào đó đã tìm
ra ý tưởng gọi họ là những người định cư mới. Đấy có lẽ đã là hơi quá nhiều đối
với Quan tòa Collins để chấp nhận, và rất có thể ông đã gạch các từ này đi. Nhưng
trát đã có kết quả. Collins đã không bác vụ việc, và đã triệu tập phiên tòa, với một
bội thẩm đoàn hoàn toàn gồm những người lính. Sinclair được triệu ra trước tòa.
Mặc dù Collins đã ít nhiệt tình về vụ việc, và bội thẩm đoàn đã gồm những người
được cử đến Australia để canh giữ các tù nhân như vợ chồng Cable, nhà Cable đã
thắng. Sinclair đã tranh cãi không thừa nhận toàn bộ vụ việc với lý do rằng vợ
chồng Cable đã là các tội phạm. Nhưng lời tuyên án đã có giá trị, và ông ta đã
phải trả mười lăm bảng.
Để đi đến phán quyết này Quan tòa Collins đã không áp dụng luật Anh; ông đã
bỏ qua nó. Đây là vụ kiện dân sự đầu tiên được xét xử ở Australia. Vụ hình sự đầu
tiên có thể đã tỏ ra kỳ quái ngang thế đối với các vụ ở Anh. Một tù nhân đã được
xác minh và tuyên là có tội ăn cắp bánh mỳ của một tù nhân khác, mà đã đáng giá
hai xu (pence). Vào thời đó, một vụ như vậy không phải đến tòa án, vì các tù nhân
đã không được phép sở hữu bất cứ thứ gì. Australia đã không phải là Anh, và luật
của nó sẽ không hệt như luật Anh. Và chẳng bao lâu Australia khác với Anh về
luật hình sự và dân sự cũng như về một loạt các thể chế kinh tế và chính trị.
Thuộc địa tù New South Wales ban đầu gồm các tù nhân và những người canh
giữ họ, phần lớn là lính. Đã có ít “người định cư tự do” ở Australia cho đến các
năm 1820, và việc đày tù nhân, dù đã ngừng ở New South Wales trong năm 1840,
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 277
đã tiếp tục cho đến 1868 ở Tây Australia. Các tù nhân đã phải thực hiện “công
việc ép buộc,” về bản chất chỉ là một cái tên khác cho lao động cưỡng bức, và
những người canh giữ đã có ý định kiếm tiền từ việc đó. Ban đầu các tù nhân đã
không có tiền công. Họ chỉ được nhận thức ăn đổi lại lao động họ đã thực hiện.
Những người canh đã giữ sản phẩm họ sản xuất ra. Nhưng hệ thống này, giống
các hệ thống mà Công ty Virginia đã thử nghiệm ở Jamestown, đã không hoạt
động rất tốt, bởi vì các tù nhân đã không có những khuyến khích để làm việc
siêng năng hay làm công việc tốt. Họ đã bị quất bằng roi hay bị đày đi Đảo
Norfolk, lãnh thổ chỉ có mười ba dặm vuông nằm cách Australia hơn một ngàn
dặm về phía phía đông trong Thái Bình Dương. Nhưng vì cả việc đày đi lẫn việc
đánh bằng roi đã không có kết quả, lựa chọn khả dĩ khác đã là tạo cho họ các
khuyến khích. Đấy đã không phải là một ý tưởng tự nhiên đối với những người
lính và những người canh giữ. Tù nhân là tù nhân, và họ đã không được cho là để
bán lao động của họ hay sở hữu tài sản. Nhưng ở Australia đã không có ai khác để
làm việc. Tất nhiên đã có những người Aboriginal, có lẽ đông đến một triệu vào
thời thành lập New South Wales. Nhưng họ đã ở rải rác khắp một lục địa mênh
mông, và mật độ của họ ở New South Wales đã không đủ cho việc tạo ra một nền
kinh tế dựa trên sự bóc lột họ. Đã không có lựa chọn Mỹ Latin nào ở Australia.
Những người canh giữ như thế đã lao vào một con đường mà cuối cùng dẫn đến
các thể chế mà thậm chí còn bao gồm hơn các thể chế ở bên Anh. Các tù nhân
được giao một số nhiệm vụ để làm, và nếu họ có thời gian thêm, họ đã có thể làm
cho chính mình và bán cái họ sản xuất ra.
Những người canh giữ cũng được hưởng lợi từ quyền tự do kinh tế mới của
các tù nhân. Sản xuất đã tăng lên, và những người canh giữ đã dựng lên các độc
quyền để bán hàng hóa cho các tù nhân. Món hàng béo bở nhất trong số này đã là
rượu rum. New South Wales vào lúc đó, giống hệt các thuộc địa Anh khác, đã
được vận hành bởi một thống đốc, do chính phủ Anh chỉ định. Năm 1806 Vương
quốc Anh đã chỉ định William Bligh, người mà mười bảy năm trước, năm 1789,
đã là thuyền trưởng của tàu H.M.S. Bounty, trong cuộc “Nổi loạn trên tàu Bounty”
nổi tiếng. Bligh đã là một người giữ kỷ luật nghiêm ngặt, một nét có lẽ đã chịu
trách nhiệm phần lớn về cuộc nổi loạn. Cung cách của ông đã không thay đổi, và
ngay lập tức ông đã thách thức các nhà độc quyền rum. Việc này đã dẫn đến một
cuộc nổi loạn khác, lần này của các nhà độc quyền, đứng đầu bởi một cựu quân
nhân, John Macarthur. Các sự kiện, mà được biết đến như cuộc Phiến loạn Rum,
278 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
lần nữa lại đã dẫn Bligh bị những kẻ phiến loạn chế ngự, lần này trên mặt đất chứ
không phải trên tàu Bounty. Macarthur đã sai nhốt Bligh lại. Các nhà chức trách
Anh sau đó đã cử nhiều lính đến để giải quyết vụ nổi loạn. Macarthur đã bị bắt và
bị đày về Anh. Nhưng không bao lâu sau ông được thả, và ông đã quay lại
Australia để đóng một vai trò lớn trong cả chính trị lẫn kinh tế của thuộc địa.
Gốc rễ của cuộc Phiến loạn Rum đã là kinh tế. Chiến lược trao cho các tù nhân
các khuyến khích đã làm ra rất nhiều tiền cho những người như Macarthur, người
đã đến Australia như một người lính trong nhóm tàu thứ hai cập bến năm 1790.
Năm 1796 ông giải ngũ rời quân đội để tập trung vào kinh doanh. Vào thời đó ông
đã có con cừu đầu tiên của mình, và đã nhận ra rằng có thể kiếm được rất nhiều
tiền trong chăn nuôi cừu và xuất khẩu len. Bên trong nội địa từ Sydney là dãy núi
Blue Mountains, mà cuối cùng đã được băng qua trong năm 1813, để lộ ra những
dải mênh mông đồng cỏ thoáng rộng ở sườn bên kia. Đã là thiên đường của cừu.
Macarthur chẳng bao lâu đã là người giàu nhất Australia, và ông và các ông trùm
cừu bạn ông đã được biết đến như những Kẻ Chiếm Đất (Squatter), vì đất mà trên
đó họ cho cừu ăn cỏ đã không phải là đất của họ. Nó là đất do chính phủ Anh sở
hữu. Nhưng lúc đầu đấy đã là một chi tiết nhỏ. Những Kẻ Chiếm Đất đã là giới
elite của Australia, hay, thỏa đáng hơn, Chế độ Chiếm đất (Squattocracy).
Ngay cả với một Chế độ Chiếm đất, New South Wales đã không giống chút
nào với các chế độ chuyên chế của Đông Âu hay của các thuộc địa Nam Mỹ. Đã
không có các nông nô như ở Áo-Hungary và Nga, và không có đông dân bản địa
để bóc lột như ở Mexico và Peru. Thay vào đó, New South Wales đã giống
Jamestown, Virginia, theo nhiều cách: giới elite cuối cùng đã thấy hợp với lợi ích
của họ để tạo ra các thể chế kinh tế mang tính bao gồm hơn đáng kể so với các thể
chế ở Áo-Hungary, Nga, Mexico, và Peru.
Các tù nhân đã là lực lượng lao động duy nhất, và cách duy nhất đến khuyến
khích họ đã là trả lương cho họ đối với công việc họ làm. Không bao lâu sau các
tù nhân đã được phép trở thành các doanh nhân khởi nghiệp và thuê các tù nhân
khác. Đáng chú ý hơn, thậm chí họ đã được trao đất sau khi mãn hạn tù, và tất cả
các quyền của họ đã được phục hồi. Một vài trong số họ đã trở nên giàu có, ngay
cả Henry Cable mù chữ nữa. Vào năm 1798 ông đã sở hữu một khách sạn được
gọi là Ramping Horse, và ông cũng đã có một cửa hàng. Ông đã mua một chiếc
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 279
tàu và lao vào buôn da chó biển. Vào năm 1809 ông đã sở hữu ít nhất chín trang
trại rộng khoảng 470 mẫu và cả nhiều cửa hàng và nhà ở Sydney.
Xung đột tiếp theo ở New South Wales đã là giữa elite và phần còn lại của xã
hội, gồm có các tù nhân, các cựu tù nhân, và gia đình họ. Elite, dẫn đầu bởi những
người canh giữ trước kia và các binh lính như Macarthur, kể cả một số người định
cư tự do những người đã bị hấp dẫn đến thuộc địa bởi vì sự hưng thịnh bột phát
trong ngành len. Hầu hết tài sản đã vẫn ở trong tay elite, và các cựu tù nhân và các
hậu duệ của họ đã muốn chấm dứt sự lưu đày, muốn cơ hội được xử bởi một bội
thẩm đoàn của những người cùng địa vị như họ, và sự tiếp cận đến đất miễn phí.
Elite đã chẳng muốn thứ nào trong các thứ này. Mối quan tâm chính của họ là xác
lập chứng thư pháp lý về quyền sở hữu đối với đất mà họ đã chiếm. Tình hình lại
đã giống với các sự kiện mà đã diễn ra ở Bắc Mỹ hơn hai thế kỷ trước. Như chúng
ta đã thấy ở chương 1, thắng lợi của những người hầu được mang từ nước ngoài
vào chống lại Công ty Virginia đã được kế tiếp bởi các cuộc đấu tranh ở
Maryland và Carolina. Ở New South Wales, các vai của Lord Baltimore và Sir
Anthony Ashley-Cooper đã được đóng bởi Macarthur và những Kẻ Chiếm Đất.
Chính phủ Anh lần nữa đã lại ở bên elite, mặc dù họ cũng đã sợ rằng một ngày
nào đó Macarthur và những Kẻ Chiếm Đất có thể bị cám dỗ để tuyên bố độc lập.
Chính phủ Anh đã cử John Bigge đến thuộc địa vào năm 1819 để đứng đầu
một ủy ban điều tra về những sự phát triển ở đó. Bigge đã bị sốc bởi các quyền
mà các tù nhân được hưởng và đã ngạc nhiên bởi bản chất bao gồm căn bản của
các thể chế kinh tế của thuộc địa tù này. Ông đã kiến nghị một sự xem xét lại triệt
để: các tù nhân không thể sở hữu đất, không ai được phép trả lương cho các tù
nhân nữa, sự xá tội đã phải hạn chế, không được cấp đất cho các cựu tù nhân, và
sự trừng phạt phải khắc nghiệt hơn nhiều. Bigge đã coi những Kẻ Chiếm Đất như
tầng lớp quý tộc tự nhiên của Australia và đã hình dung một xã hội chuyên quyền
do họ thống trị. Điều này đã không xảy ra.
Trong lúc Bigge đã thử vặn lại đồng hồ, các cựu tù nhân và con trai và con gái
họ đã đòi hỏi nhiều quyền hơn. Quan trọng nhất, họ đã nhận ra, lại hệt như ở Hoa
Kỳ, rằng để củng cố các quyền kinh tế và chính trị của họ một cách đầy đủ họ cần
đến các thể chế chính trị mà sẽ bao hàm họ trong quá trình ra quyết định. Họ đã
đòi hỏi các cuộc bầu cử mà trong đó họ có thể tham gia như những người ngang
280 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
hàng và các thể chế đại diện và các hội đồng mà trong đó họ có thể giữ các chức
vụ.
Các cựu tù nhân và các con trai và con gái của họ đã được lãnh đạo bởi nhà
văn sôi nổi, nhà thám hiểm, và nhà báo William Wentworth. Wentworth đã là một
trong các nhà lãnh đạo của đoàn thám hiểm vượt qua núi Blue Mountains, mà đã
mở ra các đồng cỏ mênh mông cho những Kẻ Chiếm Đất; một thị trấn trên các núi
này vẫn được đặt tên ông. Sự thương cảm của ông đã dành cho các tù nhân, có lẽ
bởi vì cha ông, người đã bị tố cáo cướp đường và đã chấp nhận sự lưu đày sang
Australia để tránh sự xét xử và sự kết án có thể xảy ra. Vào lúc này, Wentworth
đã là một người ủng hộ mạnh mẽ các thể chế chính trị bao gồm hơn, một quốc hội
được bầu, sự xét xử bởi bội thẩm đoàn đối với các cựu tù nhân và gia đình của họ,
và một sự chấm dứt lưu đày sang New South Wales. Ông đã bắt đầu một tờ báo,
tờ Australian, mà từ đó trở đi hướng dẫn cuộc tấn công lên các thể chế chính trị
hiện tồn. Macarthur đã không thích Wentworth và chắc chắn đã không thích cái
ông đòi. Ông đã xem xét kỹ một danh sách những người ủng hộ Wentworth, mô
tả đặc điểm họ như sau:
đã bị kết án treo cổ từ khi hắn đến đây
bị đánh đòn lặp đi lặp lại ở đằng sau xe bò
một người Do Thái London
chủ quán Do Thái mới bị tước giấy phép gần đây
người bán đấu giá bị đày vì buôn bán nô lệ
thường bị đánh đòn ở đây
con trai của hai tù nhân
một kẻ lừa đảo – bị nợ nần chồng chất
một người Mỹ phiêu lưu
một luật sư với tính cách không ra gì
một kẻ lạ vừa thất bại ở đây trong một tiệm âm nhạc
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 281
người lấy con gái của hai tù nhân
người lấy một tù nhân mà trước đây là một cô gái đánh trống
tambourine.
Sự phản đối mãnh liệt của Macarthur và những Kẻ Chiếm Đất, tuy vậy, đã
không thể chặn trào lưu ở Australia. Việc đòi các thể chế đại diện đã mạnh mẽ và
đã không thể bị dập tắt. Cho đến 1823 thống đốc đã ít nhiều tự mình cai trị New
South Wales. Trong năm đó các quyền hạn của ông ta đã bị hạn chế bởi việc tạo
ra một hội đồng do chính phủ Anh chỉ định. Ban đầu những người được chỉ định
đã từ những Kẻ Chiếm Đất và elite không-tù nhân, Macarthur là giữa trong số họ,
nhưng điều này đã không thể kéo dài. Năm 1831 thống đốc Richard Bourke đã
chịu khuất phục trước áp lực và lần đầu tiên đã cho phép các cựu tù nhân ngồi
trong bội thẩm đoàn. Các cựu tù nhân và thực ra nhiều người định cư tự do cũng
đã muốn ngừng việc đày các tù nhân từ Anh, bởi vì nó đã tạo ra sự cạnh tranh
trong thị trường lao động và đã đẩy lương xuống. Những Kẻ Chiếm Đất đã thích
lương thấp, nhưng họ đã thua. Trong năm 1840 việc đày sang New South Wales
đã ngừng, và trong năm 1842 một hội đồng lập pháp đã được tạo ra với hai-phần-
ba các thành viên của nó được bầu (số còn lại được chỉ định). Các cựu tù nhân đã
có thể tranh cử vào chức vụ và bỏ phiếu nếu họ có đủ tài sản, và nhiều người đã
có.
Vào các năm 1850, Australia đã đưa ra quyền đi bầu cho người da trắng trưởng
thành. Các đòi hỏi của các công dân, các cựu tù nhân và gia đình của họ, bây giờ
đã vượt xa mức mà William Wentworth đầu tiên đã hình dung. Thực ra, vào lúc
này đông đã ở phía của những người bảo thủ khăng khăng về một Hội đồng Lập
pháp không được bầu. Nhưng hoàn toàn giống Macarthur trước đó, Wentworth đã
không có khả năng để ngừng trào lưu tiến đến các thể chế chính trị bao gồm hơn.
Trong năm 1856 bang Victoria, mà đã được cắt ra từ New South Wales năm
1851, và bang Tasmania đã trở thành các nơi đầu tiên trên thế giới để đưa việc bỏ
phiếu kín bí mật hiệu quả trong các đợt bầu cử, mà đã chặn việc mua phiếu và ép
buộc. Ngày nay chúng ta vẫn gọi phương pháp chuẩn để đạt sự bí mật trong bỏ
phiếu ở các cuộc bầu cử là bỏ phiếu Australian.
Hoàn cảnh ban đầu ở Sydney, New South Wales, đã rất giống hoàn cảnh ở
Jamestown, Virginia, 181 năm trước, mặc dù những người định cư ở Jamestown
282 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
phần lớn đã là những người lao động được đưa từ nước ngoài đến, hơn là các tù
nhân. Trong cả hai trường hợp hoàn cảnh ban đầu đã không cho phép việc tạo ra
các thể chế thuộc địa khai thác. Cả hai đều đã không có dân cư bản xứ đông đúc
để bóc lột, đã không có sự tiếp cận dễ dàng đến các kim loại quý như vàng hay
bạc, hay đất và cây trồng mà đã có thể làm cho các đồn điền nô lệ có thể tồn tại về
mặt kinh tế. Việc buôn bán nô lệ vẫn còn sống động trong các năm 1780, và New
South Wales đã có thể tràn đầy nô lệ giả như nó đã sinh lời. Nó đã không. Cả
Công ty Virginia và những người lính và các nhà định cư tự do những người chạy
đến New South Wales đã chịu khuất phục trước những áp lực, từ từ tạo ra các thể
chế kinh tế bao gồm mà đã phát triển cùng với các thể chế chính trị bao gồm. Việc
này đã xảy ra thậm chí với ít đấu tranh hơn ở New South Wales so với ở Virginia,
và các mưu toan tiếp sau để đảo ngược xu hướng này đã thất bại.
AUSTRALIA, GIỐNG HOA KỲ, đã trải qua một con đường khác đến các thể
chế bao gồm so với con đường Anh đã đi. Cùng các cuộc cách mạng mà đã làm
rung chuyển nước Anh trong Nội Chiến và sau đó Cách mạng Vinh quang đã
không cần đến ở Hoa Kỳ hay Australia bởi vì chính các hoàn cảnh rất khác mà
trong đó các nước này dựa vào – mặc dù điều này tất nhiên không có nghĩa rằng
các thể chế bao gồm đã được thiết lập mà không có xung đột nào, và, trong quá
trình, Hoa Kỳ đã phải lật đổ chủ nghĩa thuộc địa Anh. Ở nước Anh đã có một lịch
sử dài về sự cai trị chuyên chế mà đã bám sâu và đã cần đến một cuộc cách mạng
để xóa bỏ nó. Ở Hoa Kỳ và Australia, đã không có thứ như vậy. Mặc dù Lord
Baltimore ở Maryland và John Macarthur ở New South Wales đã có thể mong
mỏi một vai trò như vậy, họ đã không thể thiết lập một sự kìm kẹp đủ mạnh lên xã
hội để cho các kế hoạch của họ ra quả. Các thể chế bao gồm được thiết lập ở Hoa
Kỳ và Australia đã có nghĩa rằng Cách mạng Công nghiệp lan nhanh chóng đến
các miền đất này và chúng bắt đầu trở nên giàu. Con đường mà các nước này đi
đã được các thuộc địa như Canada và New Zealand noi theo.
Đã vẫn có những con đường khác đến các thể chế bao gồm. Các phần lớn của
Tây Âu đã đi một con đường thứ ba đến các thể chế bao gồm dưới sự thúc đẩy
của Cách mạng Pháp, mà đã lật đổ chính thể chuyên chế ở Pháp và rồi đã gây ra
một chuỗi các xung đột giữa các quốc gia mà đã truyền bá cải cách thể chế ngang
qua phần lớn Tây Âu. Hệ quả kinh tế của những cải cách này đã là sự nổi lên của
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 283
các thể chế kinh tế bao gồm ở hầu hết Tây Âu, Cách mạng Công nghiệp, và tăng
trưởng kinh tế.
PHÁ VỠ CÁC RÀO CẢN:
CÁCH MẠNG PHÁP
Trong ba thế kỷ trước năm 1789, Pháp đã được cai trị bởi một nền quân chủ
chuyên chế. Xã hội Pháp đã được chia thành ba mảng, thành cái được gọi là các
đẳng cấp (estate). Các nhà quý tộc (giới quý tộc) tạo thành Đẳng Cấp Thứ Nhất,
giới tăng lữ Đẳng Cấp Thứ Hai, và tất cả những người khác Đẳng Cấp Thứ Ba.
Các đẳng cấp khác nhau đã phải chịu các luật khác nhau, và hai đẳng cấp đầu tiên
đã có các quyền mà phần còn lại của dân cư đã không có. Giới quý tộc và tăng lữ
đã không đóng thuế, trong khi các công dân đã phải đóng nhiều loại thuế khác
nhau, như chúng ta có thể kỳ vọng từ một chế độ mang tính khai thác trên quy mô
lớn. Thực ra, đã không chỉ Giáo hội được miễn thuế, mà nó cũng đã sở hữu các
dải lớn đất đai và đã có thể áp đặt các loại thuế riêng của nó lên các nông dân.
Quốc vương, giới quý tộc, và giới tăng lữ đã hưởng thụ lối sống xa hoa, trong khi
phần lớn Đẳng Cấp Thứ Ba sống trong sự nghèo nàn kinh khủng. Các luật khác
nhau không chỉ đã đảm bảo một vị thế kinh tế hết sức thuận lợi cho giới quý tộc
và tăng lữ, mà nó cũng trao cho họ quyền lực chính trị.
Đời sống trong các thành phố Pháp thế kỷ thứ mười tám đã khắc nghiệt và có
hại cho sức khỏe. Sự sản xuất đã bị điều tiết bởi các phường hội hùng mạnh, mà
đã tạo ra thu nhập tốt cho các thành viên của chúng nhưng đã ngăn cản những
người khác tham gia vào các nghề này hay khởi động các doanh nghiệp mới. Cái
gọi là ancien régime (chế độ cũ) đã tự kiêu hãnh về tính liên tục và ổn định của
nó. Sự tham gia của các doanh nhân khởi nghiệp và các cá nhân tài giỏi vào các
nghề mới sẽ tạo ra sự bất ổn định và đã không được dung thứ. Nếu cuộc sống
trong các thành phố đã là khắc nghiệt, cuộc sống ở các làng có lẽ đã còn tồi hơn.
Như chúng ta đã thấy, vào thời gian này hình thức cực đoan nhất của chế độ nông
nô, mà gắn chặt người dân vào đất và buộc họ phải làm việc và trả thuế cho các
chúa phong kiến, đã suy tàn lâu ở nước Pháp. Tuy nhiên, đã có những hạn chế về
284 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
tính di động và trạng thái quá nhiều thuế mà các nông dân Pháp đã phải trả cho
quốc vương, giới quý tộc, và Giáo hội.
Tương phản với bối cảnh này, Cách mạng Pháp đã là một việc cấp tiến. Ngày 4
tháng Tám năm 1789, Quốc hội Lập hiến đã thay đổi hoàn toàn các luật của Pháp
bằng kiến nghị một hiến pháp mới. Điều thứ nhất nói rõ:
Quốc hội bằng cách này xóa bỏ hoàn toàn hệ thống phong kiến. Nó ra
sắc lệnh rằng, giữa các quyền và thuế hiện tồn, cả phong kiến và địa
tô, tất cả những thứ hình thành trong hay tượng trưng cho thân phận
nông nô thực hay cá nhân sẽ bị xóa bỏ mà không có sự bồi thường
nào.
Rồi điều thứ chín của nó tiếp tục:
Các đặc quyền về tiền tài, cá nhân hay thực tế, trong nộp thuế bị xóa
bỏ vĩnh viễn. Thuế sẽ được thu từ tất cả các công dân, và từ mọi tài
sản, theo cùng cách và trong cùng hình thức. Các kế hoạch sẽ được
xem xét mà theo đó các loại thuế sẽ được trả một cách tỷ lệ bởi tất cả
mọi người, ngay cả cho sáu tháng cuối cùng của năm này.
Như thế, trong một cú đột kích, Cách mạng Pháp đã xóa bỏ hệ thống phong
kiến và mọi giao ước và thuế mà nó đã đòi hỏi, và nó đã bãi bỏ toàn bộ những sự
miễn thuế của giới quý tộc và tăng lữ. Nhưng có lẽ cái đã là cấp tiến nhất, thậm
chí không thể tưởng tượng nổi vào thời ấy, đã là điều thứ mười một, mà nói rõ:
Tất cả mọi công dân, không phân biệt dòng dõi, đều có quyền đối với
bất cứ chức vụ hay chức tước cao nào, bất luận tu sĩ, dân sự, hay quân
sự; và không nghề nào sẽ ngụ ý bất cứ sự xúc phạm nào.
Như thế bây giờ đã có sự bình đẳng trước pháp luật cho tất cả mọi người,
không chỉ trong đời sống hàng ngày và trong kinh doanh, mà cả trong chính trị.
Những cải cách của cách mạng đã tiếp tục sau ngày 4 tháng Tám. Rồi sau đó nó
đã bãi bỏ quyền của Giáo hội để thu các loại thuế đặc biệt và biến giới tăng lữ
thành các viên chức nhà nước. Cùng với việc xóa bỏ các vai trò chính trị và xã hội
cứng nhắc, các rào cản cơ bản chống lại các hoạt động kinh tế đã bị nghiền nát.
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 285
Các phường hội và mọi hạn chế nghề nghiệp đã bị hủy bỏ, tạo ra một sân chơi
bằng phẳng hơn trong các thành phố.
Những cải cách này đã là bước đầu tiên theo hướng chấm dứt thế lực của các
quốc vương Pháp chuyên chế. Nhiều thập niên bất ổn định và chiến tranh đã tiếp
theo các tuyên bố ngày 4 tháng Tám. Nhưng một bước không thể đảo ngược đã
được lấy đi khỏi chính thể chuyên chế và các thể chế khai thác và hướng tới các
thể chế chính trị và kinh tế bao gồm. Những thay đổi này được tiếp theo bởi
những cải cách khác trong nền kinh tế và trong chính trị, cuối cùng lên đến đỉnh
điểm trong nền Cộng hòa Thứ ba vào năm 1870, mà đã mang đến cho nước Pháp
loại hệ thống nghị viện mà Cách mạng Vinh quang đã khởi động ở nước Anh.
Cách mạng Pháp đã tạo ra nhiều bạo lực, sự đau khổ, sự bất ổn định, và chiến
tranh. Tuy nhiên, nhờ nó, mà nước Pháp đã không bị sập bẫy với các thể chế khai
thác ngăn cản tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng, như các chế độ chuyên chế của
Đông Âu như Áo-Hungary và Nga.
Làm thế nào mà nền quân chủ Pháp chuyên chế đã đến bờ vực của cách mạng
1789? Rốt cuộc, chúng ta đã thấy nhiều chế độ chuyên chế đã có khả năng sống
sót trong các thời kỳ dài, ngay cả giữa sự trì trệ kinh tế và chấn động xã hội. Như
với hầu hết các trường hợp của các cuộc cách mạng và những thay đổi triệt để, nó
đã là một sự hợp lưu của các nhân tố mở đường đến Cách mạng Pháp, và các
nhân tố này đã quan hệ mật thiết với sự thực rằng Anh đang công nghiệp hóa
nhanh chóng. Và tất nhiên con đường đã là, như thường lệ, tùy thuộc ngẫu nhiên,
vì nhiều mưu toan của nền quân chủ để ổn định hóa chế độ đã thất bại và cách
mạng đã hóa ra thành công hơn trong thay đổi các thể chế ở Pháp và ở các nơi
khác ở châu Âu so với mức nhiều người đã có thể hình dung trong năm 1789.
Nhiều luật và đặc quyền ở Pháp đã là các tàn dư của thời trung cổ. Chúng
không chỉ đã ưu ái cho các Đẳng Cấp Thứ nhất và Thứ hai tương đối so với đa số
dân cư mà cũng đã trao cho họ các đặc quyền vis-à-vis (so với) Quốc vương.
Louis XIV, Vua Mặt trời, đã cai trị Pháp trong năm mươi tư năm, giữa 1661 đến
lúc ông chết năm 1715, mặc dù ông thực sự đã lên ngôi trong năm 1643, vào lúc
năm tuổi. Ông đã củng cố quyền lực của nền quân chủ, đẩy mạnh quá trình hướng
tới chính thể chuyên chế lớn hơn mà đã bắt đầu hàng thế kỷ trước. Nhiều quốc
vương thường đã tham vấn cái gọi là Hội Đồng Nhân Sĩ, gồm các quý tộc chủ
chốt do Quốc vương chọn lọc. Mặc dù phần lớn mang tính tham vấn, Hội Đồng
286 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
đã vẫn hoạt động như một ràng buộc nhẹ lên quyền lực của quốc vương. Vì lý do
này, Louis XIV đã cai trị mà không triệu tập Hội Đồng. Dưới triều ông, Pháp đã
đạt sự tăng trưởng kinh tế nào đó – thí dụ, qua tham gia vào thương mại Đại Tây
Dương và thuộc địa. Bộ trưởng tài chính có tài của Louis, Jean-Baptiste Colbert,
cũng đã trông coi việc phát triển công nghiệp do chính phủ tài trợ và do chính phủ
kiểm soát, một loại của sự tăng trưởng khai thác. Lượng hạn chế này của sự tăng
trưởng đã làm lợi hầu như chỉ riêng cho các Đẳng Cấp Thứ Nhất và Thứ Hai.
Louis XIV cũng đã muốn hợp lý hóa hệ thống thuế của Pháp, bởi vì nhà nước
thường đã có các vấn đề về cấp tài chính cho các cuộc chiến tranh thường xuyên
của nó, quân đội thường trực lớn của nó, và đoàn tùy tùng, sự tiêu thụ, và các lâu
đài xa hoa của riêng nhà Vua. Sự bất lực để đánh thuế ngay cả giới quý tộc nhỏ
đặt các giới hạn nghiêm ngặt lên các khoản thu của nó.
Mặc dù đã có một chút tăng trưởng kinh tế, vào thời Louis XVI lên nắm quyền
trong năm 1774, tuy nhiên đã có những thay đổi lớn trong xã hội. Hơn nữa, các
vấn đề tài khóa trước đây đã biến thành một khủng hoảng tài khóa, và Chiến tranh
Bảy Năm với Anh giữa 1756 và 1763, trong đó Pháp đã mất Canada, đã đặc biệt
tốn kém. Nhiều nhân vật quan trọng đã thử cân bằng ngân sách hoàng gia bằng
cách tái cấu trúc nợ và tăng các loại thuế; giữa họ đã có Anne-Robert-Jacques
Turgot, một trong những nhà kinh tế học nổi tiếng nhất thời đó; Jacques Necker,
người cũng đóng một vai trò quan trọng sau cách mạng; và Charles Alexandre de
Calonne. Nhưng đã chẳng ai thành công. Calonne, như phần của chiến lược của
ông, đã thuyết phục Louis XVI để triệu tập Hội Đồng Nhân Sĩ. Nhà vua và các cố
vấn của ông đã kỳ vọng Hội Đồng ủng hộ các cải cách của ông hầu như theo cùng
cách như Charles I đã kỳ vọng Quốc hội Anh để đơn giản đồng ý chi trả cho một
quân đội để đánh những người Scottish khi ông triệu tập nó năm 1640. Hội đồng
đã đi một bước bất ngờ và đã ra sắc lệnh rằng chỉ có một cơ quan đại diện,
Estates-General, đã có thể ủng hộ các cải cách như vậy.
Estates-General đã là một cơ quan rất khác với Hội Đồng Nhân Sĩ. Trong khi
tổ chức sau bao gồm giới quý tộc và phần lớn được chọn bởi Quốc vương từ các
quý tộc lớn, thì tổ chức trước đã bao gồm các đại diện của cả ba đẳng cấp. Nó đã
được triệu tập lần cuối cùng trong năm 1614. Khi Estates-General tụ tập năm
1789 ở Versailles, đã trở nên rõ ràng là, không thể đạt được thỏa thuận nào cả. Đã
có những sự khác biệt không thể hòa giải được, vì Estate (Đẳng Cấp) Thứ Ba đã
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 287
coi đây như cơ hội của nó để tăng quyền lực chính trị của mình và đã muốn có
nhiều phiếu bầu hơn trong Estates-General, mà giới quý tộc và tăng lữ đã kiên
quyết phản đối. Cuộc họp kết thúc ngày 5 tháng Năm, 1789, mà không có nghị
quyết nào, trừ quyết định để triệu tập một cơ quan hùng mạnh hơn, Quốc hội, làm
sâu sắc cuộc khủng hoảng chính trị. Estate Thứ Ba, nhất là các nhà buôn, các nhà
kinh doanh, các nhà chuyên môn, và các thợ thủ công, những người đều đã có
những đòi hỏi để có quyền lực lớn hơn, đã thấy những diễn tiến này như là bằng
chứng của quyền lực ngày càng tăng của họ. Trong Quốc hội, vì thế họ đã đòi
thậm chí nhiều tiếng nói hơn trong những cách tiến hành và nhiều quyền hơn nói
chung. Sự ủng hộ của họ trên đường phố khắp đất nước bởi các công dân được
làm cho bạo dạn bởi những diễn biến này đã dẫn đến việc tổ chức lại Quốc hội
như Quốc hội Lập hiến ngày 9 tháng Bảy.
Trong thời gian đó, tâm trạng trong nước, và đặc biệt ở Paris, đã trở nên cấp
tiến hơn. Đáp lại, các giới bảo thủ xung quanh Louis XVI đã thuyết phục ông sa
thải Necker, bộ trưởng tài chính theo đường lối cải cách. Việc này đã dẫn đến sự
cấp tiến hóa hơn trên đường phố. Kết quả đã là sự kiện nổi tiếng đột chiếm
Bastille ngày 14 tháng Bảy, 1789. Từ thời điểm này trở đi, cách mạng đã bắt đầu
dữ dội. Necker đã được phục hồi chức, và nhà cách mạng Marquis de Lafayette
được cử phụ trách Vệ binh Quốc gia Paris.
Thậm chí đáng chú ý hơn việc đột chiếm Bastille đã là sự năng động của Quốc
hội Lập hiến, mà ngày 4 tháng Tám, 1789, với sự tự tin mới được tìn thấy của nó,
đã thông qua hiến pháp mới, xóa bỏ chủ nghĩa phong kiến và các đặc quyền đặc
biệt của các Estate thứ Nhất và thứ Hai. Nhưng sự cấp tiến hóa này đã dẫn đến sự
bè phái hóa ở bên trong Quốc hội, vì đã có nhiều quan điểm xung đột nhau về
hình thù mà xã hội nên có. Bước đầu tiên đã là sự hình thành của các hội (club)
địa phương, đáng chú ý nhất là Hội Jacobin [Club] cấp tiến, mà muộn hơn nắm
quyền kiểm soát cuộc cách mạng. Đồng thời, các quý tộc chạy trốn khỏi đất nước
với số lượng lớn – cái gọi là émigrés (những người di tản). Nhiều người đã cũng
cổ vũ nhà vua để tuyệt giao với Quốc hội và hành động, hoặc tự mình hay với sự
giúp đỡ của các cường quốc nước ngoài, như Áo, đất nước quê hương của Hoàng
hậu Marie Antoinette và nơi hầu hết émigrés đã trốn sang. Vì nhiều người trên
đường phố đã bắt đầu thấy một mối đe dọa sắp xảy ra chống lại các thành quả
cách mạng trong hai năm qua, sự cấp tiến hóa đã lấy được nhịp độ. Quốc hội Lập
288 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Hiến đã thông qua phiên bản cuối cùng của hiến pháp ngày 29 tháng Chín, 1791,
biến Pháp thành một nền quân chủ lập hiến, với sự bình đẳng về các quyền cho tất
cả những người đàn ông, không có các nghĩa vụ hay thuế phong kiến, và chấm
dứt mọi hạn chế buôn bán được áp đặt bởi các phường hội. Pháp đã vẫn là một
nền quân chủ, nhưng nhà vua bây giờ đã có ít vai trò và, thực ra, không có ngay
cả quyền tự do của mình.
Nhưng sự năng động của cách mạng sau đó đã bị thay đổi một cách không thể
đảo ngược bởi cuộc chiến tranh nổ ra năm 1792 giữa Pháp và “liên minh đầu
tiên,” do Áo dẫn đầu. Chiến tranh đã làm tăng quyết tâm và chủ nghĩa cấp tiến
của các nhà cách mạng và của quần chúng (cái gọi là sans-culottes, mà được dịch
ra như “không có quần ống túm ở đầu gối,” bởi vì họ đã không thể có đủ khả năng
mặc kiểu quần đang mốt khi đó). Kết quả của quá trình này đã là giai đoạn được
biết đến như Khủng bố, dưới sự chỉ huy của phe Jacobin do Robespierre và Saint-
Just lãnh đạo, được tháo tung ra sau việc hành quyết Louis XVI và Marie
Antoinette. Nó đã dẫn đến các vụ hành quyết không chỉ nhiều nhà quý tộc và
phản cách mạng mà cả nhiều nhân vật chủ chốt của cách mạng, kể cả các cựu lãnh
tụ được lòng dân Brissot, Danton, và Desmoulins.
Nhưng Khủng bố đã chẳng mấy chốc vượt khỏi vòng kiểm soát và cuối cùng
đã đi đến kết thúc vào tháng Bảy năm 1794 với việc tử hình các lãnh tụ của chính
nó, kể cả Robespierre và Saint-Just. Tiếp theo đã là một thời kỳ ổn định tương
đối, đầu tiên dưới thời của Hội đồng Đốc chính (Directory) hơi kém hiệu quả,
giữa 1795 và 1799, và sau đó với quyền lực được tập trung hơn dưới dạng một
Chế độ tổng tài (Consulate) ba người, gồm có Ducos, Sieyès, và Napoleon
Bonaparte. Ngay dưới thời Hội đồng Đốc chính, vị tướng trẻ Napoleon Bonaparte
đã trở nên nổi tiếng rồi vì các thành công quân sự của ông, và ảnh hưởng của ông
đã chỉ tăng lên sau 1799. Chế độ tổng tài chẳng bao lâu sau đã biến thành sự cai
trị cá nhân của Napoleon.
Các năm giữa 1799 và sự kết thúc của triều đại Napoleon, 1815, đã chứng kiến
một chuỗi chiến thắng quân sự vĩ đại cho nước Pháp, kể cả chiến thắng tại
Austerlitz, Jena-Auerstadt, và Wagram, bắt châu Âu lục địa quỳ gối. Chúng cũng
đã cho phép Napoleon áp đặt ý chí của mình, các cuộc cải cách của mình, và bộ
luật của mình ngang một vùng lãnh thổ rộng lớn. Sự sụp đổ của Napoleon sau thất
bại cuối cùng của ông năm 1815 cũng mang lại một thời kỳ cắt giảm, các quyền
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 289
chính trị bị hạn chế hơn, và sự khôi phục của nền quân chủ Pháp dưới thời Louis
XVII. Nhưng tất cả những thứ này đã đơn thuần chỉ làm chậm sự nổi lên cuối
cùng của các thể chế chính trị bao gồm.
Các lực được tháo ra bởi cách mạng 1789 đã chấm dứt chính thể chuyên chế
Pháp và một cách không thể tránh khỏi, cho dù chậm chạp, đã dẫn đến sự nổi lên
của các thể chế bao gồm. Pháp, và các phần của châu Âu nơi các cuộc cải cách
cách mạng đã được xuất khẩu sang, sẽ tham gia vào quá trình công nghiệp hóa
đang tiến triển trong thế kỷ thứ mười chín.
XUẤT KHẨU CÁCH MẠNG
Trước Cách mạng Pháp năm 1789, đã có những hạn chế nghiêm ngặt đối với
những người Do thái khắp châu Âu. Ở thành phố Đức Frankfurt, chẳng hạn, cuộc
sống của họ đã bị điều tiết bởi các lệnh được trình bày trong một quy chế từ thời
Trung Cổ. Đã không thể có nhiều hơn năm trăm gia đình Do Thái ở Frankfurt, và
tất cả họ đã phải sống trong một khu nhỏ được xây tường bao quanh của thành
phố, Judengasse, ghetto (khu riêng cho người) Do Thái. Họ đã không thể rời
ghetto vào ban đêm, vào các ngày Chủ nhật, hay trong bất cứ ngày hội Christian
nào. Judengasse đã bị cản trở một cách không thể tin được. Nó dài một phần tư
dặm nhưng không rộng hơn mười hai bộ (3,66 m) và ở một số nơi rộng ít hơn
mười bộ. Những người Do Thái sống dưới sự đàn áp và quy định liên miên. Mỗi
năm, nhiều nhất hai gia đình được nhận vào ghetto, và nhiều nhất mười hai cặp
Do Thái có thể được kết hôn, và chỉ nếu cả hai đã trên tuổi hai mươi lăm. Những
người Do Thái đã không thể canh tác chăn nuôi; họ cũng đã không thể buôn bán
về vũ khí, gia vị, rượu, hay ngũ cốc. Cho đến 1726 họ đã phải mang các dấu hiệu
đặc biệt, hai vòng tròn vàng đồng tâm cho những người đàn ông và một mạng che
mặt có sọc cho phụ nữ. Tất cả những người Do Thái đã phải đóng thuế thân đặc
biệt.
Khi Cách mạng Pháp nổ ra, một nhà kinh doanh trẻ thành công, Mayer
Amschel Rothschild, đã sống tại Judengasse ở Frankfurt. Vào đầu các năm 1780,
Rothschild đã xác lập mình như một thương nhân hàng đầu về tiền đúc, kim loại,
và đồ cổ ở Frankfurt. Nhưng giống tất cả những người Do Thái trong thành phố,
290 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
ông đã không thể mở một doanh nghiệp bên ngoài ghetto hay thậm chí sống ở
ngoài ghetto.
Tất cả điều này sắp thay đổi chẳng bao lâu nữa. Năm 1791 Quốc hội Pháp đã
giải phóng dân Do Thái Pháp. Các đội quân Pháp chiếm đóng Rhineland (vùng
sông Rhine) và đã giải phóng những người Do Thái ở miền Tây nước Đức. Ở
Frankfurt tác động của chúng đột ngột hơn và có lẽ hơi không chủ tâm. Năm 1796
những người Pháp đã oanh tạc Frankfurt, phá hủy một nửa Judengasse trong quá
trình đó. Khoảng hai ngàn người Do Thái đã bị bỏ vô gia cư và đã phải chuyển ra
ngoài ghetto. Nhà Rothschild đã ở trong số những người này. Một khi đã ở bên
ngoài ghetto, và bây giờ được giải thoát khỏi vô số các quy chế ngăn cản họ khỏi
tinh thần kinh doanh khởi nghiệp, họ đã có thể chớp lấy những cơ hội kinh doanh
mới. Điều này bao gồm cả một hợp đồng cung ứng ngũ cốc cho quân đội Áo, việc
mà trước đây họ đã không thể được phép làm.
Vào cuối thập kỷ, Rothschild đã là một trong những người Do Thái giàu nhất
Frankfurt và đã là một nhà kinh doanh có uy tín lâu rồi. Sự giải phóng toàn bộ đã
còn phải đợi đến 1811; nó cuối cùng đã được thực hiện bởi Karl von Dalberg,
người đã được phong là Đại Công tước Frankfurt trong việc tổ chức lại nước Đức
năm 1806 của Napoleon. Mayer Amschel đã bảo con trai mình, “Con bây giờ là
một công dân.”
Những sự kiện như vậy đã không chấm dứt cuộc chiến đấu vì sự giải phóng
người Do Thái, vì đã có những sự đảo ngược sau đó, đặc biệt tại Hội nghị Vienna
năm 1815, mà đã thành hình sự dàn xếp chính trị hậu-Napoleonic. Nhưng đã
không có chuyện quay lại ghetto đối với nhà Rothschild. Mayer Amschel và con
trai ông chẳng bao lâu sau đã có ngân hàng lớn nhất châu Âu thế kỷ thứ mười
chín, với các chi nhánh ở Frankfurt, London, Paris, Naples, và Vienna.
Đây đã không là một sự kiện cô lập. Đầu tiên các Đội quân Cách mạng Pháp
và rồi Napoleon đã xâm chiếm các phần lớn của châu Âu lục địa, và trong hầu
như tất cả các vùng mà họ xâm chiếm, các thể chế hiện tồn đã là các tàn dư của
thời trung cổ, trao quyền cho các vua, các hoàng tử, và giới quý tộc và hạn chế
thương mại cả ở các thành phố và ở vùng nông thôn. Chế độ nông nô và chủ
nghĩa phong kiến đã quan trọng ở nhiều vùng này hơn ở bản thân nước Pháp rất
nhiều. Ở Đông Âu, kể cả Phổ và phần Hungary của Áo-Hungary, các nông nô đã
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 291
bị gắn với đất. Ở phương Tây hình thái nghiêm ngặt này của chế độ nông nô đã
biến mất rồi, nhưng các nông dân đã nợ các chúa phong kiến nhiều loại phí lãnh
chúa, thuế, và các nghĩa vụ lao động. Thí dụ, ở chính thể Nassau-Usingen, các
nông dân đã phải chịu 230 loại đóng góp, thuế, và dịch vụ khác nhau. Thuế đã bao
gồm cả một loại mà phải trả sau khi một súc vật bị giết thịt, được gọi là thuế sát
sinh (blood tithe); đã cũng có thuế ong và thuế sáp ong. Nếu một tài sản được
mua hay bán, phải đóng phí cho chúa. Các phường hội điều tiết mọi loại hoạt
động kinh tế ở các thành phố đã cũng mạnh hơn một cách điển hình ở các nơi này
hơn là ở Pháp. Ở các thành phố Cologne và Aachen miền tây nước Đức, việc chấp
nhận các máy kéo sợi và dệt đã bị các phường hội ngăn chặn. Nhiều thành phố, từ
Berne ở Thụy Sĩ đến Florence ở Italy, đã bị vài gia đình kiểm soát.
Các lãnh tụ của Cách mạng Pháp và, sau đó, Napoleon đã xuất khẩu cách mạng
sang các vùng đất này, tiêu diệt chính thể chuyên chế, chấm dứt các quan hệ đất
đai phong kiến, xóa bỏ các phường hội, và áp đặt sự bình đẳng trước luật – quan
niệm quan trọng nhất về pháp trị, mà chúng ta sẽ thảo luận kỹ hơn nhiều ở
chương tiếp theo. Cách mạng Pháp như thế đã chuẩn bị không chỉ nước Pháp mà
phần lớn của phần còn lại của châu Âu cho các thể chế bao gồm và sự tăng trưởng
kinh tế mà những thể chế này khích lệ.
292 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Như chúng ta đã thấy, hoảng sợ bởi những diễn biến ở Pháp, nhiều cường quốc
Âu châu đã tổ chức xung quanh Áo năm 1792 để tấn công Pháp, bề ngoài là để
giải thoát Vua Louis XVI, nhưng trên thực tế là để nghiền nát Cách mạng Pháp.
Sự kỳ vọng đã là, các đội quân thay thế tạm thời được cách mạng đưa ra chiến
trường sẽ mau chóng tan rã. Nhưng sau vài thất bại ban đầu, các đội quân của
Cộng hòa Pháp mới đã chiến thắng trong một cuộc chiến tranh tự vệ lúc ban đầu.
Đã có những vấn đề tổ chức quan trọng phải khắc phục. Nhưng Pháp đã đi trước
các nước khác về một đổi mới chủ yếu: chế độ cưỡng bách tòng quân hàng loạt.
Được đưa ra trong tháng Tám 1793, chế độ cưỡng bách tòng quân hàng loạt đã
cho phép những người Pháp đưa ra chiến trường các đội quân lớn và tạo một lợi
thế quân sự sắp đạt ưu thế tối cao ngay cả trước khi tài năng quân sự nổi tiếng của
Napoleon xuất hiện.
Thành công quân sự ban đầu đã khuyến khích ban lãnh đạo của nền Cộng hòa
để mở rộng biên giới của Pháp, với một con mắt hướng tới việc tạo ra một vùng
đệm hữu hiệu giữa nền cộng hòa mới và các quốc vương thù địch của Phổ và Áo.
Những người Pháp nhanh chóng chiếm Hà lan thuộc Áo và các Tỉnh Hợp nhất, về
cơ bản là Bỉ và Hà Lan ngày nay. Những người Pháp cũng đã tiếp quản phần lớn
của Thụy Sĩ hiện đại ngày nay. Ở cả ba nơi, những người Pháp đã có sự kiểm soát
mạnh mẽ suốt các năm 1790.
Đức ban đầu đã bị tranh giành một cách nóng bỏng. Nhưng vào 1795, những
người Pháp đã có sự kiểm soát vững vàng trên vùng Rhineland, phần phía tây của
nước Đức nằm bên bờ trái của Sông Rhine. Những người Phổ đã buộc phải thừa
nhận sự thực này dưới Hiệp ước Basel. Giữa 1795 và 1802, những người Pháp đã
giữ Rhineland, nhưng không giữ bất cứ phần nào khác của Đức. Trong năm 1802
Rhineland đã chính thức hợp nhất vào Pháp.
Italy đã vẫn là trung tâm chính của chiến tranh trong nửa thứ hai của các năm
1790, với những người Áo như các địch thủ. Savoy bị sáp nhập vào Pháp năm
1792, và đã dẫn đến một sự bế tắc cho đến cuộc xâm lấn của Napoleon vào tháng
Tư 1796. Trong chiến dịch lớn trên đại lục đầu tiên của mình, vào đầu năm 1797,
Napoleon đã chinh phục hầu như toàn bộ Bắc Italy, trừ Venice, mà đã bị những
người Áo chiếm. Hiệp ước Campo Formio, được ký với những người Áo trong
tháng Mười 1797, đã chấm dứt Chiến tranh của Liên Minh Thứ nhất và đã công
nhận nhiều nền cộng hòa do Pháp kiểm soát ở Bắc Italy. Tuy vậy, những người
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 293
Pháp đã tiếp tục để mở rộng sự kiểm soát của họ trên Italy ngay cả sau hiệp ước
này, xâm chiếm Các Lãnh địa Giáo hoàng (Papal State) và thiết lập Cộng hòa
Roman tháng Ba 1798. Tháng Giêng 1799, Naples bị chinh phục và Cộng hòa
Parthenopean được tạo ra. Với sự ngoại lệ của Venice, mà vẫn thuộc Áo, những
người Pháp bây giờ đã kiểm soát toàn bộ bán đảo Italy hoặc một cách trực tiếp,
như trong trường hợp của Savoy, hay thông qua các quốc gia chư hầu, như các
nền cộng hòa Cisalpine, Ligurian, Roman, và Parthenopean.
Đã có thêm sự tới lui trong Chiến tranh Liên Minh Thứ Hai, giữa 1798 và
1801, nhưng cuộc này đã chấm dứt với người Pháp về cơ bản vẫn giữ sự kiểm
soát. Các đội quân Cách mạng Pháp mau chóng đã bắt đầu thực hiện một quá
trình cải cách triệt để trong các vùng mà họ đã chinh phục, xóa bỏ các vết tích còn
lại của chế độ nông nô và các quan hệ đất đai phong kiến và áp đặt sự bình đẳng
trước luật. Giới tăng lữ bị tước mất địa vị đặc biệt và quyền lực, và các phường
hội ở các vùng đô thị bị tiệt trừ hay nói nhẹ đi là bị làm yếu đi rất nhiều. Việc này
đã xảy ra ở Hà Lan thuộc Áo ngay sau cuộc xâm lấn của Pháp năm 1795 và ở các
Tỉnh Hợp nhất, nơi người Pháp đã lập ra Cộng hòa Batavia, với các thể chế chính
trị rất giống các thể chế ở Pháp. Ở Thụy Sỹ tình hình đã tương tự, và các phường
hội cũng như các chúa phong kiến và Giáo Hội đã bị đánh bại, các đặc quyền
phong kiến bị xóa bỏ, và các phường hội bị bãi bỏ và sung công.
Cái đã được bắt đầu bởi các Đội quân Cách mạng Pháp đã được tiếp tục, dưới
hình thức này hay hình thức khác, bởi Napoleon. Napoleon đầu tiên và trên hết đã
quan tâm đến việc xác lập sự kiểm soát chặt chẽ trên các lãnh thổ ông đã chinh
phục. Việc này đôi khi đã dính líu đến việc dàn xếp một thỏa thuận với các elite
địa phương hay đặt gia đình và các đồng minh của ông phụ trách, như trong thời
gian kiểm soát ngắn Tây Ban Nha và Ba Lan. Nhưng Napoleon cũng đã có một
mong muốn chân thật để tiếp tục và làm sâu sắc các cuộc cải cách của cách mạng.
Quan trọng nhất, ông đã hệ thống hóa luật La Mã và các tư tưởng về bình đẳng
trước luật vào một hệ thống pháp luật mà được biết đến như Bộ Luật [Code]
Napoleon. Napoleon đã coi bộ luật này như di sản lớn nhất của ông và đã muốn
áp đặt nó ở mọi lãnh thổ ông kiểm soát.
Tất nhiên, những cải cách được áp đặt bởi Cách mạng Pháp và Napoleon đã
không phải là không thể bị đảo ngược. Ở một số nơi, như ở Hanover, Đức, các
elite cũ đã được phục hồi không lâu sau sự sụp đổ của Napoleon và phần lớn cái
294 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
những người Pháp đạt được đã bị mất vĩnh viễn. Nhưng ở nhiều nơi khác, chủ
nghĩa phong kiến, các phường hội, và giới quý tộc đã bị triệt phá vĩnh viễn hay đã
bị làm yếu đi. Thí dụ, ngay cả sau khi người Pháp bỏ đi, trong nhiều trường hợp
Code Napoleon vẫn còn hiệu lực.
Xét cho cùng, các đội quân Pháp đã gây ra nhiều đau khổ ở châu Âu, nhưng
chúng cũng đã làm thay đổi triệt để tình hình (địa hình địa thế). Trong phần lớn
châu Âu đã biến mất các quan hệ phong kiến; quyền lực của các phường hội; sự
kiểm soát chuyên chế của các quốc vương và các hoàng thân; sự kìm kẹp của giới
tăng lữ đối với quyền lực kinh tế, xã hội, và chính trị; và nền tảng của ancien
régime (chế độ cũ), mà đối xử với những người khác nhau theo cách không ngang
bằng dựa trên địa vị dòng dõi của họ. Những thay đổi này đã tạo ra loại của các
thể chế kinh tế bao gồm mà sau đó cho phép công nghiệp hóa bén rễ ở những nơi
này. Vào giữa thế kỷ thứ mười chín, công nghiệp hóa đã tiến triển nhanh trong
hầu hết các nơi mà người Pháp kiểm soát, trong khi những nơi như Áo-Hungary
và Nga, mà người Pháp đã không chinh phục, hay Ba Lan và Tây Ban Nha, nơi
ảnh hưởng Pháp đã là tạm thời và hạn chế, nhìn chung đã vẫn trì trệ.
TÌM KIẾM TÍNH HIỆN ĐẠI
Vào mùa thu 1867, Ōkubo Toshimichi, một cận thần hàng đầu của lãnh địa phong
kiến Satsuma, Nhật bản, đã đi từ thủ đô Edo, Tokyo bây giờ, đến thành phố khu
vực Yamaguchi. Ngày 14 tháng Mười ông đã gặp các lãnh đạo của lãnh địa
Chōshū. Ông đã có một kiến nghị đơn giản: họ phải kết hợp lực lượng, hành quân
về Edo, và lật đổ shogun, nhà cai trị Nhật Bản. Vào lúc này Ōkubo Toshimichi đã
thuyết phục được các lãnh đạo của các lãnh địa Tosa và Aki rồi. Một khi các lãnh
đạo của Chōshū hùng mạnh đồng ý, một Liên minh Satcho bí mật hình thành.
Trong năm 1868 Nhật Bản đã là một nước chậm phát triển về mặt kinh tế mà
đã bị kiểm soát từ 1600 bởi gia đình Tokugawa, mà kẻ cai trị của nó đã lấy tước
hiệu shogun (người chỉ huy) trong năm 1603. Hoàng đế Nhật Bản đã bị cho ra
ngoài lề và chỉ đảm đương vai trò nghi thức thuần túy. Các sogun Tokugawa đã là
các thành viên vượt trội của một tầng lớp chúa phong kiến những người đã cai trị
và thu thuế các lãnh địa riêng của họ, giữa chúng là Satsuma, được cai trị bởi gia
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 295
đình Shimazu. Các lãnh chúa này, cùng với các tùy tùng quân sự của họ, các
samurai nổi tiếng, đã vận hành một xã hội mà tương tự như xã hội Âu châu trung
cổ, với các loại nghề nghiêm ngặt, những hạn chế thương mại, và các suất thuế
cao đối với nông dân. Shogun đã cai trì từ Edo, nơi ông ta độc quyền và kiểm soát
ngoại thương và đã cấm những người nước ngoài khỏi đất nước. Các thể chế
chính trị và kinh tế đã là khai thác, và Nhật Bản đã nghèo.
Nhưng sự thống trị của shogun đã không hoàn toàn. Ngay cả khi nhà
Tokugawa đã tiếp quản đất nước năm 1600, họ đã không thể kiểm soát mọi người.
Ở miền nam, lãnh địa Satsuma đã vẫn khá tự trị và thậm chí đã được phép buôn
bán với thế giới bên ngoài một cách độc lập qua các Đảo Ryūkyū. Chính là ở thủ
đô Satsuma, Kagoshima, nơi Ōkubo Toshimichi đã sinh ra năm 1830. Với tư cách
là con trai một samurai, ông cũng đã trở thành một samurai. Tài năng của ông đã
được phát hiện ra từ sớm bởi Shimazu Nariakira, lãnh chúa của Satsuma, người
đã nhanh chóng cất nhắc ông trong bộ máy quan liêu. Vào lúc đó, Shimazu
Nariakira đã đề ra rồi một kế hoạch dùng quân lính Satsuma để lật đổ shogun.
Ông đã muốn mở rộng buôn bán với châu Á và châu Âu, xóa bỏ các thể chế kinh
tế phong kiến cũ kỹ, và xây dựng một nhà nước hiện đại ở Nhật Bản. Kế hoạch
mới sinh của ông đã bị kết liễu sớm bởi cái chết của ông năm 1858. Người kế vị
ông, Shimazu Hisamitsu, đã thận trọng hơn, chí ít lúc ban đầu.
Ōkubo Toshimichi bây giờ đã ngày càng được thuyết phục rằng Nhật Bản cần
lật đổ chế độ shogun phong kiến, và cuối cùng ông đã thuyết phục được Shimazu
Hisamitsu. Để tập hợp sự ủng hộ cho sự nghiệp của họ, họ đã gói ghém nó trong
sự phẫn uất cao độ vì việc đẩy hoàng đế ra ngoài lề. Thỏa ước Ōkubo Toshimichi
đã ký rồi với lãnh địa Tosa khẳng định rằng “một nước không có hai quốc vương,
một nhà không có hai chủ; chính phủ ủy thác cho một nhà cai trị.” Nhưng ý định
thực sự đã không đơn giản để khôi phục lại quyền lực cho hoàng đế mà để thay
đổi hoàn toàn các thể chế kinh tế và chính trị. Về phía Tosa, một trong những
người ký thỏa ước đã là Sakamoto Ryūma. Khi Satsuma và Chōshū đã huy động
quân đội của họ, Sakamoto Ryūma đã trình shogun một kế hoạch tám điểm, thúc
giục ông từ chức để tránh nội chiến. Kế hoạch đã là cấp tiến, và mặc dù điều 1
tuyên bố rằng “quyền lực chính trị của đất nước phải được trả lại cho Triều Đình
Hoàng đế, và mọi sắc lệnh được ban hành bởi Triều Đình,” nó đã bao gồm nhiều
hơn chỉ sự khôi phục hoàng đế rất nhiều. Các điều 2, 3, 4, và 5 tuyên bố:
296 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
2. Hai cơ quan lập pháp, Thượng viện và Hạ viện, phải được thiết lập, và mọi
biện pháp của chính phủ phải được quyết định trên cơ sở ý kiến chung.
3. Những người có năng lực giữa các lãnh chúa, các quý tộc và nhân dân nói
chung phải được dùng như các ủy viên hội đồng, và các chức vụ truyền thống của
quá khứ mà đã mất mục đích của chúng phải bị bãi bỏ.
4. Công việc đối ngoại phải được thực hiện theo các quy chế thích hợp được
soạn ra trên cơ sở ý kiến chung.
5. Luật pháp và các quy định của các thời trước phải được xếp sang một bên và
một bộ luật mới và phù hợp phải được chọn.
Shogun Yoshinobu đã đồng ý từ chức, và vào ngày 3 tháng Giêng, 1868, Minh
Trị Duy Tân (Meiji Restoration) đã được tuyên bố; Hoàng đế Kōmei và, một
tháng sau, sau khi Kōmei chết, con trai ông Meiji đã được phục hồi quyền lực.
Mặc dù các lực lượng Satsuma và Chōshū bây giờ đã chiếm Edo và thủ đô đế chế
Kyōto, họ đã sợ nhà Tokugawas sẽ thử lấy lại quyền lực và tái lập chế độ shogun.
Ōkubo Toshimichi đã muốn nhà Tokugawas bị nghiền nát vĩnh viễn. Ông đã
thuyết phục hoàng đế bãi bỏ lãnh địa Tokugawa và sung công đất của họ. Ngày
27 tháng Giêng cựu shogun Yoshinobu đã tấn công các lực lượng Satsuma và
Chōshū, và nội chiến đã nổ ra; nó đã diễn ra ác liệt cho đến mùa hè, khi cuối cùng
nhà Tokugawa bị đánh bại.
Tiếp sau Minh Trị Duy Tân đã có một quá trình cải cách biến đổi ở Nhật Bản.
Năm 1869 chế độ phong kiến bị bãi bỏ, và ba trăm thái ấp đã đầu hàng chính phủ
và biến thành các quận, dưới sự kiểm soát của một thủ hiến được chỉ định. Thu
thuế được tập trung hóa, và một nhà nước quan liêu hiện đại đã thay thế nhà nước
phong kiến cũ. Năm 1869 sự bình đẳng trước luật của mọi tầng lớp xã hội được
đưa ra, và các hạn chế về di cư nội địa và thương mại bị bãi bỏ. Tầng lớp samurai
được bãi bỏ, mặc dù đã phải đàn áp một số cuộc nổi loạn. Các quyền sở hữu tư
nhân về đất đai được đưa ra, và người dân đã được quyền tự do để tham gia và
thực hành bất cứ nghề gì. Nhà nước đã trở nên dính líu sâu vào việc xây dựng cơ
sở hạ tầng. Trái ngược với thái độ của các chế độ chuyên chế đối với đường sắt,
trong năm 1869 chế độ Nhật Bản đã thiết lập tuyến tàu thủy hơi nước giữa Tokyo
và Osaka và đã xây dựng tuyến đường sắt đầu tiên giữa Tokyo và Yokohama. Nó
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 297
cũng đã bắt đầu phát triển công nghiệp chế tác, và Ōkubo Toshimichi, với tư cách
bộ trưởng tài chính, đã trông coi phần đầu của một nỗ lực được phối hợp của công
nghiệp hóa. Lãnh chúa của lãnh địa Satsuma đã là một nhà lãnh đạo trong việc
này, xây dựng các nhà máy cho gốm, súng đại bác, và sợi bông và nhập khẩu máy
móc của Anh để tạo ra xưởng kéo sợi bông hiện đại đầu tiên ở Nhật Bản trong
năm 1861. Ông cũng đã xây dựng hai xưởng đóng tàu hiện đại. Vào năm 1890
Nhật Bản đã là nước Á châu đầu tiên chấp nhận một hiến pháp thành văn, và nó
đã tạo ra một nền quân chủ lập hiến với một quốc hội, Diet, được bầu và một
ngành tư pháp độc lập. Những thay đổi này đã là các nhân tố quyết định cho phép
Nhật Bản trở thành người hưởng lợi đầu tiên từ Cách mạng Công nghiệp ở châu
Á.
GIỮA THẾ KỶ THỨ MƯỜI CHÍN cả Trung Quốc và Nhật Bản đã là các quốc
gia nghèo, tiều tụy dưới các chế độ chuyên chế. Chế độ chuyên chế ở Trung Quốc
đã tỏ vẻ nghi ngờ sự thay đổi trong hàng thế kỷ. Mặc dù đã có nhiều sự giống
nhau giữa Trung Quốc và Nhật Bản – chế độ shogun Tokugawa cũng đã cấm
ngoại thương trong thế kỷ thứ mười bảy, như các hoàng đế Trung Quốc đã cấm
trước đó, và đã chống đối sự thay đổi kinh tế và chính trị – cũng đã có những khác
biệt chính trị đáng chú ý. Trung Quốc đã là một đế chế quan liêu tập trung được
cai trị bởi một hoàng đế chuyên chế. Hoàng đế chắc chắn đã đối mặt với các ràng
buộc lên quyền lực của ông ta, mà ràng buộc quan trọng nhất trong số đó đã là sự
đe dọa nổi loạn. Trong thời kỳ từ 1850 đến 1864, toàn bộ miền nam Trung Quốc
đã bị tàn phá bởi Nổi loạn Thái Bình, trong đó hàng triệu người đã chết hoặc
trong xung đột hay qua chết đói hàng loạt. Nhưng sự đối lập với hoàng đế đã
không được thể chế hóa.
Cấu trúc của các thể chế chính trị Nhật Bản đã là khác. Chế độ shogun đã dẹp
hoàng đế sang bên lề, nhưng như chúng ta đã thấy, quyền lực của nhà Tokugawa
đã không phải là tuyệt đối, và các lãnh địa như lãnh địa Satsumas đã duy trì sự
độc lập, thậm chí cả khả năng để tiến hành buôn bán với nước ngoài nhân danh
chính họ.
Như với Pháp, một hệ quả quan trọng của Cách mạng Công nghiệp Anh đối
với Trung Quốc và Nhật Bản đã là tính dễ bị tổn thương quân sự. Trung Quốc đã
298 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
bị sỉ nhục bởi sức mạnh hải quân Anh trong Chiến tranh Thuốc Phiện Đầu tiên,
giữa 1839 và 1842, và cùng mối đe dọa đã trở nên đáng tiếc quá thực tế đối với
người Nhật khi các tàu chiến Hoa Kỳ, do Commodore Matthew Perry chỉ huy, đã
vào Vịnh Edo trong năm 1853. Thực tế rằng sự lạc hậu kinh tế đã tạo ra sự lạc
hậu quân sự đã là một phần của sự thúc đẩy ở đằng sau kế hoạch của Shimazu
Nariakira để lật đổ chế độ shogun và khởi động những thay đổi mà cuối cùng đã
dẫn đến Minh Trị Duy Tân. Các lãnh đạo của lãnh địa Satsuma đã nhận ra rằng sự
tăng trưởng kinh tế – có lẽ thậm chí sự sống sót Nhật Bản – đã có thể đạt được chỉ
bằng những cải cách thể chế, nhưng shogun đã chống đối việc này bởi vì quyền
lực của ông ta đã gắn với tập hiện tồn của các thể chế. Để đòi hỏi các cuộc cải
cách, shogun đã phải bị đánh đổ, và ông đã bị. Tình hình đã tương tự ở Trung
Quốc, nhưng các thể chế chính trị ban đầu khác biệt đã làm cho việc lật đổ hoàng
đế khó hơn nhiều, việc này đã xảy ra chỉ trong năm 1911. Thay cho cải cách các
thể chế, người Trung Quốc đã thử cân sức với người Anh về mặt quân sự bằng
cách nhập khẩu vũ khí hiện đại. Những người Nhật đã xây dựng công nghiệp vũ
khí của riêng họ.
Như một hệ quả của những khác biệt ban đầu này, mỗi nước đã đáp lại một
cách khác nhau đối với những thách thức của thế kỷ thứ mười chín, và Nhật Bản
và Trung Quốc đã phân kỳ một cách đầy kịch tính khi đối mặt với bước ngoặt do
Cách mạng Công nghiệp tạo ra. Trong khi các thể chế Nhật Bản đã được biến đổi
và nền kinh tế đã bước lên con đường tăng trưởng nhanh, thì ở Trung Quốc các
lực thúc đẩy sự thay đổi thể chế đã không đủ mạnh, và các thể chế khai thác đã
tồn tại dai dẳng phần lớn không giảm sút cho đến khi chúng đổi sang hướng tồi tệ
với cách mạng cộng sản của Mao trong năm 1949.
GỐC RỄ CỦA SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG THẾ GIỚI
Chương này và ba chương trước đã kể câu chuyện về các thể chế kinh tế và chính
trị bao gồm đã nổi lên như thế nào ở nước Anh để làm cho Cách mạng Công
nghiệp là có thể, và vì sao một số nước nào đó đã được lợi từ Cách mạng Công
nghiệp và đã bước lên con đường tăng trưởng, trong khi các nước khác đã không
hay, thực ra, đã kiên quyết từ chối việc cho phép thậm chí sự bắt đầu công nghiệp
hóa. Liệu một nước đã có bắt đầu công nghiệp hóa hay không phần lớn đã là một
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 299
chức năng của các thể chế của nó. Hoa Kỳ, mà đã trải qua một sự biến đổi giống
như Cách mạng Vinh quang Anh, đã phát triển rồi kiểu riêng của mình về các thể
chế chính trị và kinh tế bao gồm vào cuối thế kỷ thứ mười tám. Nó như thế trở
thành quốc gia đầu tiên để lợi dụng các công nghệ mới đến từ các Đảo Anh, và
chẳng bao lâu sau vượt qua Anh và trở thành người mở đường của công nghiệp
hóa và thay đổi công nghệ. Australia đã đi theo một con đường tương tự đến các
thể chế bao gồm, cho dù hơi muộn hơn và hơi ít được chú ý. Các công dân của nó,
hệt như các công dân ở Anh và Hoa Kỳ, đã phải chiến đấu để có được các thể chế
bao gồm. Một khi các thể chế này ở đúng vị trí, Australia đã có thể khởi đầu quá
trình riêng của mình về tăng trưởng kinh tế. Australia và Hoa Kỳ đã có thể công
nghiệp hóa và phát triển nhanh bởi vì các thể chế tương đối bao gồm của họ đã
không ngăn chặn các công nghệ mới, sự đổi mới, hay sự phá hủy sáng tạo.
Không phải vậy ở hầu hết các thuộc địa Âu châu khác. Sự năng động của họ là
hoàn toàn ngược với sự năng động ở Australia và Hoa Kỳ. Thiếu cư dân bản địa
hay tài nguyên để khai thác đã làm cho chủ nghĩa thuộc địa ở Australia và Hoa Kỳ
là một loại vấn đề rất khác, cho dù các công dân của chúng đã phải chiến đấu gian
khổ cho các quyền chính trị của họ và các thể chế bao gồm. Ở Molucca như ở
nhiều nơi khác những người Âu châu đã thuộc địa hóa ở châu Á, ở vùng Caribe,
và Nam Mỹ, các công dân đã có ít cơ hội thắng trong một cuộc chiến đấu như
vậy. Ở những nơi này, các nhà thuộc địa Âu châu đã áp đặt một kiểu hoàn toàn
mới của các thể chế khai thác, hay đã tiếp quản bất cứ các thể chế khai thác nào
mà họ tìm thấy, nhằm có khả năng để khai thác các tài nguyên có giá trị, trải từ
gia vị, mía đường đến bạc và vàng. Trong nhiều nơi này, họ đã khởi động một tập
những thay đổi thể chế mà đã làm cho việc nổi lên của các thể chế bao gồm là rất
ít có khả năng. Tại một số trong các nơi này họ đã tiệt trừ một cách tường minh
bất cứ ngành công nghiệp đang đâm chồi nào hay các thể chế kinh tế bao gồm nào
đã tồn tại. Hầu hết các nơi này không ở trong trạng thái để được lợi từ sự công
nghiệp hóa trong thế kỷ thứ mười chín hay thậm chí trong thế kỷ thứ hai mươi.
Sự năng động trong phần còn lại của châu Âu đã cũng hoàn toàn khác với sự
năng động ở Australia và Hoa Kỳ. Khi Cách mạng Công nghiệp ở Anh lấy tốc độ
vào cuối thế kỷ thứ mười tám, thì hầu hết các nước Âu châu đã bị cai trị bởi các
chế độ chuyên chế, được kiểm soát bởi các quốc vương và bởi các giới quý tộc
mà nguồn thu nhập chính của họ đã là từ sự chiếm hữu đất đai hay từ các đặc
300 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
quyền mà họ được hưởng nhờ các rào cản tham gia hết sức cao. Sự phá hủy sáng
tạo mà được gây ra bởi quá trình công nghiệp hóa làm xói mòn các khoản lợi
nhuận thương mại của các nhà lãnh đạo và lấy đi nguồn lực và lao động khỏi đất
đai của họ. Các giới quý tộc cũng là những kẻ thua từ công nghiệp hóa. Quan
trọng hơn, họ cũng là những kẻ thua chính trị, vì quá trình công nghiệp hóa không
nghi ngờ gì sẽ tạo ra bất ổn định và các thách thức chính trị đối với sự độc quyền
của họ về quyền lực chính trị.
Nhưng những sự chuyển đổi thể chế ở Anh và Cách mạng Công nghiệp đã tạo
ra các cơ hội và những thách thức mới cho các nhà nước Âu châu. Mặc dù đã có
chính thể chuyên chế ở Tây Âu, khu vực này cũng đã chia sẻ nhiều sự trôi dạt thể
chế mà đã tác động đến Anh trong thiên niên kỷ trước. Nhưng tình hình đã rất
khác ở Đông Âu, Đế chế Ottoman, và Trung Quốc. Những sự khác biệt này đã là
quan trọng cho việc phổ biến công nghiệp hóa. Hệt như Cái Chết Đen hay sự nổi
lên của thương mại Đại Tây Dương, bước ngoặt do công nghiệp hóa tạo ra đã làm
sâu sắc thêm sự xung đột từng luôn hiện diện về các thể chế ở nhiều quốc gia Âu
châu. Một nhân tố chủ yếu đã là Cách mạng Pháp năm 1789. Sự chấm dứt chính
thể chuyên chế ở Pháp đã mở đường cho các thể chế bao gồm, và những người
Pháp cuối cùng đã bước lên con đường công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế
nhanh. Cách mạng Pháp thực ra đã làm nhiều hơn thế. Nó đã xuất khẩu các thể
chế của mình bằng cách xâm chiếm và cải cách bằng vũ lực các thể chế khai thác
của nhiều nước láng giềng. Nó như thế đã mở đường cho công nghiệp hóa không
chỉ ở Pháp, mà ở Bỉ, Hà Lan, Thụy Sĩ, và các phần của Đức và Italy. Xa hơn sang
phía đông sự phản ứng đã giống với phản ứng sau Cái Chết Đen, khi, thay cho
sụp đổ, chế độ phong kiến đã được tăng cường. Áo-Hungary, Nga, và Đế chế
Ottoman đã tụt hậu thậm chí thêm về kinh tế, nhưng các nền quân chủ chuyên chế
của họ đã tìm được cách để tồn tại cho đến Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất.
Ở nơi khác trên thế giới, chính thể chuyên chế đã có sức bật như ở Đông Âu.
Điều này đã đặc biệt đúng ở Trung Quốc, nơi sự chuyển tiếp Minh-Thanh đã dẫn
đến một nhà nước cam kết xây dựng một xã hội nông nghiệp ổn định và thù địch
với thương mại quốc tế. Nhưng cũng đã có những sự khác biệt thể chế mà đã là
quan trọng ở châu Á. Nếu Trung Quốc đã phản ứng lại với Cách mạng Công
nghiệp như Đông Âu đã phản ứng, thì Nhật Bản đã phả ứng theo cùng cách như
Tây Âu. Hệt như ở Pháp, nó đã cần đến một cuộc cách mạng để thay đổi hệ thống,
SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 301
lần này là cuộc cách mạng được lãnh đạo bởi các lãnh chúa phản đạo của các lãnh
địa Satsuma, Chōshū, Tosa, và Aki. Các lãnh chúa này đã lật đổ shogun, tạo ra
Minh Trị Duy Tân, và đã chuyển Nhật Bản lên con đường cải cách thể chế và
tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta cũng đã thấy rằng chính thể chuyên chế đã có sức bật ở Ethiopia cô
lập. Ở nơi khác trên lục địa, chính cùng lực của thương mại quốc tế mà đã giúp
biến đổi các thể chế Anh trong thế kỷ thứ mười bảy, lại đã siết chặt các phần lớn
của miền tây và trung châu Phi vào các thể chế hết sức khai thác thông qua buôn
bán nô lệ. Việc này đã phá hủy các xã hội ở một số nơi và đã dẫn đến việc tạo ra
các nhà nước nô dịch khai thác ở một số nơi khác. Động học thể chế mà chúng ta
mô tả cuối cùng đã xác định những nước nào tận dụng được lợi thế của các cơ hội
hiện diện trong thế kỷ thứ mười chín trở đi và những nước nào đã không làm như
vậy. Gốc rễ của sự bất bình đẳng thế giới mà chúng ta quan sát thấy ngày nay có
thể thấy trong sự phân kỳ này. Với vài ngoại lệ, các nước giàu ngày nay là các
nước đã bước chân vào quá trình công nghiệp hóa và thay đổi công nghiệp bắt
đầu trong thế kỷ thứ mười chín, và các nước nghèo là các nước đã không làm vậy.
11.
VÒNG THIỆN
BỘ LUẬT ĐEN
ÂU ĐÀI WINDSOR, nằm đúng tây London, là một trong những dinh thự
hoàng gia lớn của nước Anh. Đầu thế kỷ thứ mười tám, lâu đài đã được bao
quanh bởi một rừng lớn, đầy nai, mặc đù cảnh này chẳng còn mấy ngày nay. Một
trong những người gác rừng trong năm 1722, Baptist Nunn, đã bị kẹt vào một
xung đột hung tợn. Ngày 27 tháng Sáu, ông đã ghi chép,
Những kẻ mặt đen đến vào ban đêm đã bắn về phí tôi 3 lần 2 viên đạn
vào cửa sổ phòng tôi và [tôi] đã đồng ý trả chúng 5 guinea tại
Crowthorne vào ngày 30.
Một mục khác trong nhật ký của Nunn ghi, “Một sự ngạc nhiên mới. Đã xuất
hiện một người được cải trang với một thông điệp phá hoại.”
Ai đã là những “Kẻ Mặt Đen [Black]” bí ẩn này gây ra những đe dọa, bắn vào
phía Nunn, và đòi tiền? Các Black đã là các nhóm các đàn ông địa phương những
người đã bôi đen mặt mình để che giấu diện mạo của họ vào ban đêm. Chúng đã
xuất hiện rộng ngang miền nam nước Anh trong thời kỳ này, giết và làm tàn tật
nai và các thú vật khác, đốt các đống rơm và các kho thóc, và phá hoại hàng rào
và các hồ cá. Theo bề ngoài đã là tình trạng vô luật pháp hoàn toàn, nhưng không
phải. Việc săn (săn trộm) bất hợp pháp nai ở các vùng đất sở hữu bởi nhà vua và
các thành viên khác của giới quý tộc đã xảy ra từ lâu. Trong các năm 1640, trong
Nội Chiến, toàn bộ số nai ở Lâu đài Windsor đã bị giết. Sau sự Khôi phục năm
1660, khi Charles II lên ngôi, nai đã được nuôi lại ở công viên. Nhưng các Black
đã không chỉ săn trộm nai để ăn; chúng cũng đã cố tình phá hoại. Vì mục đích gì?
L
VÒNG THIỆN ● 303
Một khối xây dựng (building block) cốt yếu của Cách mạng Vinh quang năm
1688 đã là bản chất đa nguyên của các lợi ích được đại diện trong Quốc hội.
Chẳng ai trong giới các nhà buôn, nhà công nghiệp, quý tộc nhỏ, hay quý tộc đã
liên minh với William xứ Orange và sau đó với các quốc vương Hanoverian,
người đã kế vị Nữ hoàng Anne năm 1714, đã đủ mạnh để áp đặt ý chí của họ một
cách đơn phương.
Các nỗ lực để phôi phục nền quân chủ Stuart đã tiếp tục suốt phần lớn thế kỷ
thứ mười tám. Sau cái chết của James II năm 1701, con trai ông, James Francis
Edward Stuart, “Người Đòi [kế vị] Già,” đã được công nhận là người thừa kế hợp
pháp ngôi Vua Anh bởi Pháp, Tây Ban Nha, giáo hoàng, và những người ủng hộ
nền quân chủ Stuart ở nước Anh và Scotland, những người được gọi là các
Jacobite. Năm 1708 Người Đòi Già đã thử lấy lại ngai vàng với sự giúp đỡ của
binh lính Pháp, nhưng đã không thành công. Trong các thập niên tiếp sau đã có
nhiều cuộc nổi loạn Jacobite, kể cả các cuộc lớn trong các năm 1715 và 1719.
Trong các năm 1745–46, con trai của Người Đòi Già, Charles Edward Stuart,
“Người Đòi Trẻ,” đã thử chiếm lại ngai vàng, nhưng các lực lượng của ông đã bị
quân đội Anh đánh bại.
Đảng chính trị Whig, mà như chúng ta đã thấy (trang 210-211), được thành lập
trong các năm 1670 để đại diện cho các lợi ích buôn bán và kinh tế mới, đã là tổ
chức chính ở đằng sau Cách mạng Vinh quang, và các đảng viên Whig đã chi
phối Quốc hội từ 1714 đến 1760. Một khi đã nắm quyền lực, họ đã thử sử dụng vị
trí mới kiếm được của mình để (săn) làm hại các quyền của những người khác, để
cũng có miếng bánh của mình để ăn. Họ đã chẳng khác các vua Stuart, nhưng
quyền lực của họ đã còn xa mới tuyệt đối. Nó đã bị ràng buộc cả bởi các nhóm
cạnh tranh ở Quốc hội, đặc biệt Đảng Tory mà đã được thành lập để đối lại Đảng
Whig, lẫn bởi chính các thể chế mà họ đã chiến đấu để đưa vào nhằm củng cố
Quốc hội và ngăn chặn sự nổi lên của chính thể chuyên chế mới và sự quay lại
của nhà Stuart. Bản chất đa nguyên của xã hội mà đã nổi lên từ Cách mạng Vinh
quang cũng đã có nghĩa rằng dân cư nói chung, ngay cả những người không có sự
đại diện chính thức trong Quốc hội, đã được trao quyền, và “sự bôi đen mặt-
blacking” đã chính xác là một phản ứng bởi người dân thường đối với cảm nhận
rằng các đảng viên Whig đã lợi dụng địa vị của họ.
304 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Vụ của William Cadogan, một tướng thành công trong Chiến tranh Kế vị Tây
Ban Nha giữa 1701 và 1714 và trong đàn áp các cuộc nổi loạn Jacobite, minh họa
loại xâm phạm các quyền của người dân thường bởi các đảng viên Whig mà đã
dẫn đến sự bôi đen mặt. George I đã phong Cadogan làm một nam tước năm 1716
và rồi một bá tước năm 1718. Ông cũng đã là một thành viên có ảnh hưởng của
Hội đồng Nhiếp chính Thượng Thẩm (Regency Council of Lords Justices), mà
chủ trì công việc chính của nhà nước, và ông đã phục vụ với tư cách quyền tổng
chỉ huy. Ông đã mua một bất động sản lớn khoảng một ngàn mẫu (acre) tại
Caversham, khoảng hai mươi dặm phía tây Windsor. Ở đó ông đã xây một tòa nhà
lớn và các vườn trang trí công phu và đã sắp đặt một vườn nai 240-mẫu. Thế
nhưng tài sản này đã được củng cố bằng việc vi phạm các quyền của những người
ở xung quanh. Người dân bị đuổi, và các quyền truyền thống của họ để chăn súc
vật và thu gom than bùn và củi đã bị hủy bỏ. Cadogan đã đối mặt với sự phẫn nộ
của Những Kẻ Mặt Đen. Ngày 1 tháng Giêng, 1722, và lần nữa trong tháng Bảy,
vườn nai đã bị tấn công bất ngờ bởi những Kẻ Mặt Đen (Black) cưỡi ngựa và có
vũ trang. Cuộc tấn công đầu tiên giết chết mười sáu con nai. Bá tước Cadogan đã
không đơn độc. Bất động sản của nhiều địa chủ có tiếng và các chính trị gia cũng
đã bị các Black tấn công.
Chính phủ của đảng Whig đã không để cho việc này yên. Tháng Năm 1723,
Quốc hội đã thông qua Đạo luật Đen (Black Act), đã tạo ra năm mươi tội mới đặc
biệt mà đã có thể bị trừng phạt bằng treo cổ. Đạo luật Đen đã quy là tội không chỉ
việc mang vũ khí mà cả việc bôi đen mặt. Luật thực ra không lâu sau đã được sửa
để khiến cho tội bôi đen mặt có thể bị trừng phạt bằng treo cổ. Các elite Whig đã
bắt đầu thực thi luật với sự khoái trá. Baptist Nunn đã tổ chức một mạng lưới
những người cung cấp thông tin (kẻ chỉ điểm) ở Rừng Windsor để nhận dạng các
Black. Không lâu sau nhiều người đã bị bắt. Sự chuyển tiếp từ việc bắt giữ đến
việc treo cổ là chuyện không rắc rối. Rốt cuộc, Đạo luật Đen đã được ban hành
rồi, các đảng viên Whig đã chịu trách nhiệm về Quốc hội, Quốc hội đã chịu trách
nhiệm về đất nước, và các Black đã hành động ngược trực tiếp với các lợi ích của
một số đảng viên Whig hùng mạnh. Thậm chí Sir Robert Walpole, bộ trưởng, rồi
thủ tướng – và giống Cadogan, một thành viên khác của Hội đồng Nhiếp chính
Thượng Thẩm – đã dính líu vào. Ông đã có lợi ích trong Vườn Richmond ở tây
nam London, mà đã được Charles I tạo ra từ đất công. Vườn này cũng đã vi phạm
các quyền truyền thống của các cư dân địa phương để chăn súc vật của họ, để săn
VÒNG THIỆN ● 305
thỏ rừng và thỏ, và kiếm củi. Nhưng việc chấm dứt các quyền này có vẻ đã được
thi hành khá lỏng lẻo, và việc cho súc vật ăn cỏ và săn thú đã vẫn tiếp tục, cho đến
khi Walpole đã dàn xếp để con ông trở thành người bảo vệ vườn. Vào lúc này,
vườn đã bị đóng, một bức tường mới được dựng lên, và các bẫy người được lắp
đặt. Walpole đã thích săn nai, và ông đã có một nhà nghỉ được xây cho bản thân
mình tại Houghton, bên trong vườn. Sự hận thù của các Black địa phương mau
chóng được châm ngòi.
Ngày 10 tháng Mười Một, 1724, một cư dân địa phương ở bên ngoài vườn,
John Huntridge, đã bị buộc tội giúp đỡ những kẻ đánh cắp nai và xúi bẩy các
Black quen biết, cả hai tội có thể bị trừng phạt bằng treo cổ. Việc khởi tố
Huntridge đã đến từ trên đỉnh, được khởi xướng bởi Hội đồng Nhiếp chính
Thượng Thẩm, mà Walpole và Cadogan đã chi phối. Walpole đã đi xa đến mức
đích thân ông đã lôi ra bằng chứng về sự phạm tội của Huntridge từ một người
cung cấp thông tin, Richard Blackburn. Sự kết tội phải đã là một kết luận bỏ túi
được định trước, nhưng đã không thế. Sau một phiên xử kéo dài tám hay chín
tiếng đồng hồ, bội thẩm đoàn đã xác minh và tuyên bố Huntridge vô tội, một phần
vì lý do thủ tục, vì đã có những sự không theo quy tắc với cách chứng cứ được thu
thập.
Không phải tất cả các Black hay những người có cảm tình với họ đã may mắn
như Huntridge. Mặc dù một số người khác cũng đã được tha bổng hay đã được
giảm hình phạt, nhiều người đã bị treo cổ hay bị đày sang thuộc địa tù được chọn
khi đó, Bắc Mỹ; luật thực ra đã lưu lại trên sách luật cho đến khi nó bị hủy bỏ
năm 1824. Thế nhưng chiến thắng của Huntridge là đáng chú ý. Bội thẩm đoàn
hẳn đã đồng cảm với Walpole. Nhưng đây không còn là thế kỷ thứ mười bảy nữa,
nơi Tòa Phòng Ngôi Sao (Court of Star Chamber) đơn thuần theo ý muốn của các
quốc vương Stuart và hoạt động như một công cụ đàn áp công khai chống lại các
đối thủ của họ, và nơi các vua đã có thể loại bỏ các thẩm phán mà các quyết định
của họ đã không được vua thích. Bây giờ các đảng viên Whig cũng đã phải tuân
theo pháp trị (rule of law), nguyên lý rằng luật không được áp dụng một cách
chọn lọc hay một cách tùy tiện và rằng không ai ở trên pháp luật.
306 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
CÁC SỰ KIỆN bao quanh Bộ Luật Đen cho thấy rằng Cách mạng Vinh quang đã
tạo ra pháp trị, và rằng quan niệm này đã mạnh hơn ở Anh và Vương quốc Anh,
các elite đã bị ràng buộc bởi nó hơn nhiều mức bản thân họ hình dung. Nhất là,
pháp trị (rule of law) không phải cùng một thứ như cai trị bằng pháp luật (rule by
law). Cho dù các đảng viên Whig đã có thể thông qua một luật hà khắc, đàn áp tàn
bạo để dập tắt các trở lực từ người dân thường, họ đã phải đấu tranh với các ràng
buộc thêm bởi vì pháp trị. Luật của họ đã vi phạm các quyền, mà Cách mạng
Vinh quang và những thay đổi về các thể chế chính trị, mà tất yếu xảy ra từ nó, đã
xác lập rồi, cho tất cả mọi người bằng cách phá bỏ các quyền “thiêng liêng” của
các vua và các đặc quyền của các elite. Pháp trị sau đó đã ngụ ý rằng cả các elite
lẫn không-elite như nhau đều chống lại sự thi hành nó.
Pháp trị là một khái niệm rất lạ khi bạn nghĩ về nó trong viễn cảnh lịch sử. Vì
sao luật phải được áp dụng ngang nhau cho tất cả mọi người? Nếu nhà vua và giới
quý tộc có quyền lực chính trị và phần còn lại không có, thật tự nhiên rằng bất cứ
gì là trò chơi ngay thẳng đối với vua và giới quý tộc phải bị cấm và có thể bị
trừng phạt đối với những người còn lại. Thực vậy, pháp trị là không thể tưởng
tượng nổi dưới các thể chế chính trị chuyên chế. Nó là một tác phẩm của các thể
chế chính trị đa nguyên và của các liên minh rộng rãi ủng hộ chủ nghĩa đa nguyên
như vậy. Nó đáng xem xét nhất khi nhiều cá nhân và nhóm có một tiếng nói trong
các quyết định, và quyền lực chính trị để có một chỗ ngồi quanh bàn, mà ý tưởng
rằng họ phải được đối xử một cách công bằng bắt đầu có nghĩa. Vào đầu thế kỷ
thứ mười tám, Anh đã trở nên khá đa nguyên, và các elite của đảng Whig nhận ra
rằng, vì đã được trân trọng lưu giữ trong quan niệm về pháp trị, luật và các thể
chế sẽ ràng buộc cả họ nữa.
Nhưng vì sao các đảng viên Whigs và các nghị sĩ lại tuân thủ những sự kiềm
chế như vậy? Vì sao họ đã không dùng quyền kiểm soát của mình đối với Quốc
hội và nhà nước để áp đặt việc thi hành không thỏa hiệp Bộ Luật Đen và lật đổ
các tòa án khi các quyết định không đi theo cách họ thích? Câu trả lời tiết lộ nhiều
về bản chất của Cách mạng Vinh quang – mối liên kết giữa chủ nghĩa đa nguyên
và pháp trị, và động học của các vòng thiện (virtuous circle). Như chúng ta đã
thấy ở chương 7, Cách mạng Vinh quang đã không phải là sự lật đổ của một giới
elite bởi một giới khác, mà là một cuộc cách mạng chống lại chính thể chuyên chế
bởi một liên minh rộng bao gồm giới quý tộc nhỏ (gentry), các nhà buôn, và các
VÒNG THIỆN ● 307
nhà chế tác cũng như các nhóm của các đảng viên các đảng Whig và Tory. Sự nổi
lên của các thể chế chính trị đa nguyên đã là một hệ quả của cuộc cách mạng này.
Pháp trị cũng đã nổi lên như một sản phẩm phụ của quá trình này. Với nhiều bên
ngồi cạnh bàn chia sẻ quyền lực, đã là tự nhiên để có các luật và các ràng buộc áp
dụng cho tất cả họ, để không một bên nào bắt đầu tích lũy quá nhiều quyền lực và
cuối cùng làm xói mòn chính các nền tảng của chủ nghĩa đa nguyên. Như thế
quan niệm rằng có các giới hạn và các ràng buộc lên những người cai trị, bản chất
của pháp trị, đã là phần của logic của chủ nghĩa đa nguyên được sinh ra bởi liên
minh rộng rãi mà đã tạo thành phe đối lập với chính thể chuyên chế Stuart.
Dưới ánh sáng này, không ngạc nhiên rằng nguyên lý của pháp trị, kết đôi với
quan niệm rằng các vua không có các quyền thiêng liêng nào, đã thực sự là một lý
lẽ chủ chốt chống lại chính thể chuyên chế Stuart. Như sử gia Anh E. P.
Thompson diễn đạt, trong cuộc đấu tranh chống các vua Stuart:
các nỗ lực phi thường đã được tiến hành … để phóng chiếu hình ảnh
của một giai cấp cai trị mà bản thân nó đã buộc phải tuân thủ pháp trị,
và mà tính hợp pháp chính đáng của họ đã dựa trên sự bình đẳng và
tính phổ quát của các hình thức pháp lý đó. Và những người cai trị,
theo ý nghĩa nghiêm túc, bất luận muốn hay không muốn, đã là các tù
nhân của rhetoric (từ chương) của chính họ; họ đã chơi các trò chơi
quyền lực theo các quy tắc mà hợp với họ, nhưng họ đã không thể phá
vỡ các quy tắc đó hoặc toàn bộ trò chơi bị vứt bỏ.
Vứt bỏ trò chơi sẽ làm hệ thống mất ổn định và mở đường cho chính thể
chuyên chế bởi một tập con của liên minh rộng rãi hay thậm chí chịu rủi ro của sự
quay lại của nhà Stuart. Theo cách nói của Thompson, cái đã ngăn chặn Quốc hội
khỏi tạo ra một chính thể chuyên chế mới đã là
lấy luật đi, và đặc quyền hoàng gia … có thể ồ ạt quay lại với các tài
sản và cuộc sống của họ.
Hơn nữa,
đã vốn có trong chính bản chất của môi trường mà họ [các quý tộc,
các nhà buôn, vân vân chiến đấu với Quốc vương] đã lựa chọn cho sự
tự-bảo vệ của chính họ rằng nó đã không thể được dành cho việc sử
308 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
dụng độc quyền của giai cấp riêng của họ. Luật, trong các hình thức
và truyền thống của nó, đã đưa đến các nguyên lý bình đẳng và phổ
quát mà … đã phải được mở rộng ra mọi loại và mọi địa vị của những
đàn ông.
Một khi đã ở đúng vị trí, quan niệm về pháp trị không chỉ giữ không để cho
chính thể chuyên chế lại gần mà cũng đã tạo ra một loại vòng thiện: nếu luật áp
dụng một cách bình đẳng cho tất cả mọi người, thì không cá nhân hay nhóm nào,
không ngay cả Cadogan hay Walpole, đã có thể leo lên trên luật, và những người
dân thường bị buộc tội xâm phạm tài sản tư nhân vẫn đã có quyền đối với một sự
xét xử công bằng.
CHÚNG TA ĐÃ THẤY các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm nổi lên thế nào.
Nhưng vì sao chúng tồn tại dai dẳng theo thời gian? Lịch sử của Bộ Luật Đen và
các giới hạn cho việc thi hành nó minh họa vòng thiện, một quá trình mạnh mẽ
của phản hồi dương mà duy trì các thể chế này đối mặt với các mưu toan làm xói
mòn chúng và, thực ra, khởi động các lực dẫn đến tính bao gồm lớn hơn. Logic
của các vòng thiện xuất phát một phần từ sự thực rằng các thể chế bao gồm dựa
trên các ràng buộc đối với việc sử dụng quyền lực và đối với sự phân chia mang
tính đa nguyên của quyền lực chính trị trong xã hội, được lưu giữ một cách linh
thiêng trong pháp trị. Khả năng của một tập con để áp đặt ý chí của mình lên
những người khác mà không có ràng buộc nào, cho dù những người khác là các
công dân bình thường, như Huntridge, đe dọa chính sự cân bằng này. Nếu giả như
nó tạm thời bị đình chỉ trong trường hợp các nông dân phản đối chống lại các elite
xâm phạm đất công chung của họ, cái gì đảm bảo rằng nó không bị đình chỉ nữa?
Và thời gian tiếp theo nó bị đình chỉ, cái gì sẽ ngăn Quốc vương và giới quý tộc
khỏi lấy lại cái mà các nhà buôn, các nhà kinh doanh, và giới quý tộc nhỏ đã
giành được trong nửa thế kỷ ở giữa? Thực ra, thời gian tiếp theo nó bị đình chỉ, có
lẽ toàn bộ dự án của chủ nghĩa đa nguyên bị sụp đổ, bởi vì một tập hẹp của các lợi
ích có thể chiếm quyền kiểm soát với sự tổn hại của liên minh rộng. Hệ thống
chính trị không thể chịu rủi ro này. Nhưng điều này đã làm cho chủ nghĩa đa
nguyên, và pháp trị mà nó ngụ ý, thành các nét đặc trưng bền bỉ của các thể chế
chính trị Anh. Và chúng ta sẽ thấy rằng một khi chủ nghĩa đa nguyên và pháp trị
VÒNG THIỆN ● 309
đã được xác lập, sẽ có đòi hỏi cho thậm chí chủ nghĩa đa nguyên lớn hơn và sự
tham gia lớn hơn vào quá trình chính trị.
Vòng thiện nảy sinh không chỉ từ logic vốn có của chủ nghĩa đa nguyên và
pháp trị, mà cũng bởi vì các thể chế chính trị bao gồm có xu hướng ủng hộ các thể
chế kinh tế bao gồm. Việc này rồi dẫn đến một sự phân phối thu nhập bình đẳng
hơn, trao quyền cho một mảng rộng của xã hội và làm cho sân chơi chính trị còn
bằng phẳng hơn. Điều này hạn chế cái một người có thể đạt được bằng cách
chiếm đoạt quyền lực chính trị và làm giảm các khuyến khích để tái tạo các thể
chế chính trị khai thác. Các nhân tố này đã quan trọng trong sự nổi lên của các thể
chế chính trị dân chủ thực sự ở vương quốc Anh.
Chủ nghĩa đa nguyên cũng tạo ra một hệ thống mở hơn và cho phép các
phương tiện truyền thông (media) độc lập hưng thịnh, làm cho dễ hơn đối với các
nhóm quan tâm đến sự tiếp tục của các thể chế bao gồm để biết và tổ chức chống
lại các mối đe dọa đối với các thể chế này. Là hết sức quan trọng rằng nhà nước
Anh đã ngừng kiểm duyệt báo chí sau năm 1688. Báo chí đã đóng một vai trò
quan trọng tương tự trong trao quyền cho nhân dân nói chung và trong sự tiếp tục
vòng thiện của sự phát triển thể chế ở Hoa Kỳ, như chúng ta sẽ thấy trong chương
này.
Trong khi vòng thiện tạo ra một xu hướng cho các thể chế bao gồm tồn tại bền
bỉ, nó chẳng là không thể tránh khỏi cũng không phải không thể bị đảo ngược. Cả
ở vương quốc Anh và ở Hoa Kỳ, các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm đã phải
chịu nhiều thách thức. Năm 1745 Người Đòi Trẻ đã đi suốt đến tận Derby, chỉ
cách London một trăm dặm, với một đội quân để thủ tiêu các thể chế chính trị đã
được rèn đúc trong Cách mạng Vinh quang. Nhưng ông đã bị đánh bại. Quan
trọng hơn các thách thức từ bên ngoài, đã là các thách thức tiềm tàng từ bên trong
mà có thể cũng đã dẫn đến việc tháo rời các thể chế bao gồm. Như chúng ta đã
thấy trong bối cảnh của cuộc Tàn sát Peterloo (trang 207) ở Manchester năm
1819, và như chúng ta sẽ thấy chi tiết hơn tiếp sau, các elite chính trị Anh đã nghĩ
đến việc sử dụng sự đàn áp để tránh phải mở thêm hệ thống chính trị, nhưng họ đã
rút lui khỏi bờ vực. Tương tự, các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm ở Hoa Kỳ
đã đối mặt với các thách thức nghiêm trọng, mà đã có thể tưởng tượng được là
thành công, nhưng đã không. Và tất nhiên đã không phải được quyết định trước
rằng các thách thức này phải bị thất bại. Nó là nhờ không chỉ vòng thiện mà cũng
310 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
nhờ sự nhận ra con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử mà các thể chế bao
gồm Anh và Hoa Kỳ đã sống sót và trở nên mạnh hơn theo thời gian.
SỰ TIẾN TRIỂN CHẬM CHẠP CỦA DÂN CHỦ
Sự phản ứng với Bộ Luật Đen đã cho người dân Anh bình thường thấy rằng họ đã
có nhiều quyền hơn họ đã nhận ra trước kia. Họ đã có thể bảo vệ các quyền truyền
thống và các lợi ích kinh tế của mình trong các tòa án và trong Quốc hội thông
qua việc sử dụng các kiến nghị và vận động hành lang. Nhưng chủ nghĩa đa
nguyên này đã vẫn chưa mang lại một nền dân chủ hiệu quả. Hầu hết những
người đàn ông đã không thể bầu cử; những người đàn bà cũng không; và đã có
nhiều sự bất bình đẳng trong những cấu trúc dân chủ hiện hành. Tất cả điều này
đã phải thay đổi. Vòng thiện của các thể chế bao gồm không chỉ bảo tồn cái đã đạt
được rồi mà cũng mở cửa cho sự bao gồm lớn hơn. Cơ may đã chống lại elite Anh
của thế kỷ thứ mười tám duy trì sự kìm kẹp của họ lên quyền lực chính trị mà
không có các thách thức nghiêm trọng. Giới elite này đã lên nắm quyền bằng
thách thức quyền thiêng liêng của các vua và mở cửa cho sự tham gia của nhân
dân vào chính trị, nhưng rồi họ đã trao quyền này chỉ cho một thiểu số nhỏ. Chỉ
còn là vấn đề thời gian cho đến khi ngày càng nhiều người dân đòi hỏi quyền
tham gia vào các quá trình chính trị. Và trong các năm dẫn tới 1831, họ đã được.
Ba thập niên đầu tiên của thế kỷ thứ mười chín đã chứng kiến sự náo động xã
hội gia tăng ở Anh, hầu hết đáp lại những bất bình đẳng kinh tế gia tăng và những
đòi hỏi từ quần chúng bị tước quyền bầu cử đòi sự đại diện chính trị lớn hơn. Các
cuộc nổi loạn Luddite trong các năm 1811–1816, nơi các công nhân đã đấu tranh
chống lại việc đưa các công nghệ mới vào mà họ tin sẽ làm giảm lương của họ, đã
được kế tiếp bởi các cuộc nổi loạn đòi các quyền chính trị một cách tường minh,
các cuộc Nổi loạn Spa Fields năm 1816 ở London và vụ Thảm sát Peterloo năm
1819 ở Manchester. Trong các cuộc Nổi loạn Swing năm 1830, những người lao
động nông nghiệp đã phản đối chống lại mức sống giảm sút cũng như việc đưa
công nghệ mới vào. Trong lúc đó, ở Paris, Cách mạng tháng Bảy 1830 đã nổ ra.
Sự đồng thuận giữa các elite đã bắt đầu được hình thành rằng sự bất mãn đang lên
đến điểm sôi, và cách duy nhất để tháo ngòi nổ náo loạn xã hội, và đẩy lui một
VÒNG THIỆN ● 311
cuộc cách mạng, đã là bằng cách thỏa mãn các đòi hỏi của quần chúng và tiến
hành cải cách quốc hội.
Sau đó đã không ngạc nhiên rằng cuộc bầu cử 1831 đã hầu như là về một vấn
đề duy nhất: cải cách chính trị. Các đảng viên đảng Whig, gần một trăm năm sau
Sir Robert Walpole, đã sẵn sàng đáp lại hơn rất nhiều đối với những mong muốn
của những người dân thường và đã mở cuộc vận động mở rộng các quyền bầu cử.
Nhưng việc này đã chỉ có ý định cho một sự tăng nhỏ về cử tri. Phổ thông đầu
phiếu, cho dù chỉ cho đàn ông, đã không có trên chương trình nghị sự. Các đảng
viên đảng Whig đã thắng cuộc bầu cử, và lãnh tụ của họ, Earl Grey, trở thành thủ
tướng. Earl Grey đã không cấp tiến – còn xa mới vậy. Ông và các đảng viên đảng
Whig đã thúc đẩy cải cách không phải bởi vì họ đã nghĩ một quyền bầu cử rộng
hơn là công bằng hơn hay bởi vì họ đã muốn chia sẻ quyền lực. Dân chủ Anh đã
không được giới elite ban cho. Nó chủ yếu được nắm lấy bởi quần chúng, những
người đã được trao quyền bởi các quá trình chính trị xảy ra ở nước Anh và phần
còn lại của Vương quốc Anh trong vài thế kỷ qua. Họ đã trở nên bạo dạn hơn bởi
những thay đổi về bản chất của các thể chế chính trị do Cách mạng Vinh quang
tháo ra. Các cuộc cải cách đã được công nhận bởi vì giới elite đã nghĩ rằng cải
cách đã là cách duy nhất để đảm bảo sự tiếp tục cai trị của họ, dẫu cho dưới một
hình thức bị bớt đi một chút. Earl Grey, trong bài phát biểu nổi tiếng của ông với
Quốc hội ủng hộ cải cách chính trị, đã nói điều này rất rõ:
Không có ai kiên quyết chống lại các Quốc hội từng năm, quyền bầu
cử phổ quát và phổ thông đầu phiếu, nhiều hơn tôi. Mục tiêu của tôi
không phải là để ủng hộ, mà là để chấm dứt những hy vọng và các dự
án như vậy … Nguyên lý cải cách của tôi là, để ngăn chặn sự tất yếu
của cách mạng … cải cách để duy trì và không phải để lật đổ.
Nhân dân đã không chỉ muốn bỏ phiếu vì bản thân sự bỏ phiếu mà đã muốn có
một chỗ ngồi quanh chiếc bàn để có thể bảo vệ các lợi ích của họ. Điều này đã
được hiểu kỹ bởi phong trào Chartist, mà đã lãnh đạo phong trào đòi quyền bầu
cử phổ quát sau 1838, lấy tên phong trào từ sự chấp nhận và đòi thực hiện
Charter, Hiến Chương của Nhân dân (People’s Charter), được đặt tên để gợi lại
một sự tương tự với Magna Carta. J. R. Stephens, một chartist, đã diễn đạt rõ vì
sao quyền bầu cử phổ quát, và phiếu bầu cho tất cả công dân, đã là then chốt đối
với nhân dân:
312 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Vấn đề quyền bầu cử phổ quát … là một vấn đề dao và nĩa, là vấn đề
bánh mỳ và phó mát … bằng quyền bầu cử phổ quát ý tôi muốn nói
rằng tất cả mọi người đàn ông làm việc trên đồng ruộng có một quyền
đối với một chiếc áo choàng tử tế trên lưng mình, một chiếc mũ tốt
trên đầu mình, một cái mái tươm tất để che nhà của mình, một bữa ăn
tối ngon trên bàn của mình.
Stephens đã hiểu kỹ rằng quyền bầu cử phổ quát đã là cách lâu bền nhất để trao
quyền cho nhân dân Anh thêm nữa và đảm bảo một chiếc áo choàng, một cái mũ,
một mái nhà, và một bữa ăn tử tế cho người lao động.
Cuối cùng, Earl Grey đã thành công cả trong bảo đảm việc thông qua Bộ Luật
Cải cách Thứ Nhất và trong tháo ngòi nổ của các trào lưu cách mạng mà không
phải đi bất cứ bước dài lớn nào theo hướng quyền bầu cử phổ quát của quần
chúng. Những cải cách 1832 đã khiêm tốn, chỉ tăng gấp đôi quyền bỏ phiếu từ 8
phần trăm lên khoảng 16 phần trăm của số dân đàn ông (từ khoảng 2 đến 4 phần
trăm của toàn bộ dân số). Họ cũng đã thoát khỏi các thành phố tối nát và đã trao
sự đại diện độc lập cho các thành phố công nghiệp mới như Manchester, Leeds,
và Sheffield. Nhưng việc này vẫn để lại nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Vì thế
chẳng bao lâu sau đã có những đòi hỏi thêm về các quyền bầu cử lớn hơn và đã có
náo loạn xã hội thêm nữa. Để đáp lại, cải cách thêm sẽ kế tiếp.
Vì sao các elite Anh đã chịu nhượng bộ các đòi hỏi? Vì sao Earl Grey đã cảm
thấy rằng cải cách một phần – quả thực một phần rất nhỏ – đã là cách duy nhất để
duy trì hệ thống? Vì sao họ đã phải chịu đựng cái xấu ít hơn trong hai cái xấu, cải
cách và cách mạng, hơn là duy trì quyền lực của họ mà không có bất cứ cải cách
nào? Chẳng phải họ đã có thể làm đúng cái mà các nhà chinh phục Tây Ban Nha
đã làm ở Nam Mỹ, cái các quốc vương Áo-Hungary và Nga đã có thể làm trong
nhiều thập niên tiếp theo khi những đòi hỏi cải cách đã đến các vùng đất đó, và
cái bản thân những người Anh đã làm ở vùng Caribe và ở Ấn Độ: sử dụng vũ lực
để dẹp những đòi hỏi? Câu trả lời cho câu hỏi này đến từ vòng thiện. Những thay
đổi kinh tế và chính trị mà đã xảy ra rồi ở vương quốc Anh đã làm cho việc sử
dụng vũ lực để đàn áp các đòi hỏi này cả là không hấp dẫn đối với elite và ngày
càng không khả thi. Như E. P. Thompson đã viết:
VÒNG THIỆN ● 313
Khi các cuộc đấu tranh của các năm 1790–1832 đã báo hiệu rằng sự
cân bằng này đã thay đổi, các nhà cai trị của nước Anh đã đối mặt với
các lựa chọn khả dĩ gây hoảng sợ. Họ đã có thể hoặc bỏ qua pháp trị,
phá hủy các kết cấu hợp hiến tinh vi của họ, hủy bỏ rhetoric (từ
chương) của chính họ và cai trị bằng vũ lực; hoặc họ chịu phục tùng
các quy tắc của chính họ và từ bỏ quyền lãnh đạo của họ … họ đã đi
các bước tập tễnh theo hướng thứ nhất. Nhưng cuối cùng, thay cho
việc làm tan self-image (hình tượng về, sự tự nhận thức về bản thân
mình) của chính họ và từ chối 150 năm của tính hợp hiến, họ đã đầu
hàng luật pháp.
Diễn đạt theo cách khác, cùng các lực mà đã làm cho elite Anh không muốn
giật đổ tòa lâu đài pháp trị trong thời Đạo Luật Đen cũng đã làm cho họ lảng xa
sự đàn áp và cai trị bằng vũ lực, mà sẽ lại gây rủi ro cho sự ổn định của toàn bộ hệ
thống. Nếu sự làm xói mòn luật pháp trong sự cố thử thực thi Bộ Luật Đen đã có
thể làm yếu hệ thống mà các nhà buôn, các nhà kinh doanh, và tầng lớp quý tộc
nhỏ đã xây dựng trong Cách mạng Vinh quang, thì việc dựng lên một chế độ độc
tài đàn áp trong năm 1832 có thể đã làm xói mòn nó hoàn toàn. Thực ra, những
người tổ chức các cuộc phản đối đòi cải cách quốc hội đã biết kỹ về tầm quan
trọng của pháp trị và tính tượng trưng của nó đối với các thể chế chính trị Anh
trong thời kỳ này. Họ đã sử dụng lối tu từ của nó để làm cho điểm này được hiểu
thật rõ. Một trong những tổ chức đầu tiên tìm kiếm cải cách quốc hội đã được gọi
là Hampden Club, theo tên của thành viên Quốc hội người đầu tiên chống lại
Charles I về thuế tiền tàu thủy, một sự kiện quyết định dẫn đến cuộc khởi nghĩa
lớn đầu tiên chống lại chính thể chuyên chế Stuart, như chúng ta đã thấy ở chương
7.
Cũng đã có sự phản hồi dương năng động giữa các thể chế kinh tế và chính trị
bao gồm làm cho một tiến trình hành động như vậy là hấp dẫn. Các thể chế kinh
tế bao gồm đã dẫn đến sự phát triển của các thị trường bao gồm, đem lại một sự
phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, sự khuyến khích lớn hơn để có được giáo dục và
các kỹ năng, và thúc đẩy những đổi mới về công nghệ. Tất cả các lực này đã hoạt
động ở Anh vào năm 1831. Kiểm soát chặt chẽ những đòi hỏi của nhân dân và
làm một cú chống lại các thể chế chính trị bao gồm cũng sẽ phá hủy những lợi ích
314 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
này, và các elite phản đối sự dân chủ hóa lớn hơn và tính bao gồm lớn hơn có thể
thấy mình giữa những người mất gia tài từ sự phá hủy này.
Một khía cạnh khác nữa của sự phản hồi dương này là, dưới các thể chế kinh tế
và chính trị bao gồm, quyền lực kiểm soát đã trở nên ít tập trung hơn. Ở Áo-
Hungary và ở Nga, như chúng ta đã thấy ở chương 8, các quốc vương và giới quý
tộc đã có nhiều để mất do công nghiệp hóa và cải cách. Ngược lại, ở Anh vào đầu
thế kỷ thứ mười chín, nhờ sự phát triển của các thể chế kinh tế bao gồm, cái bị đe
dọa đã ít hơn nhiều: đã không có nông nô, tương đối ít sự ép buộc trong thị trường
lao động, và ít các độc quyền được bảo vệ bằng các rào cản tham gia. Bám lấy
quyền lực như thế đã là ít có giá trị đối với elite Anh.
Logic của vòng thiện cũng đã có nghĩa rằng các bước đàn áp như vậy có thể
ngày càng không khả thi, lại bởi vì phản hồi dương giữa các thể chế kinh tế và
chính trị bao gồm. Các thể chế kinh tế bao gồm dẫn đến một sự phân bổ bình
đẳng hơn của các nguồn lực so với các thể chế khai thác. Vì thế, chúng trao quyền
cho công dân nói chung và như thế tạo ra một sân chơi ngang bằng hơn, ngay cả
khi phải đấu tranh vì quyền lực. Việc này làm cho khó hơn đối với một giới elite
nhỏ để đè bẹp nhân dân hơn là nhượng bộ các đòi hỏi của họ, hay chí ít một số
trong các đòi hỏi ấy. Các thể chế bao gồm của Anh đã cũng gây ra Cách mạng
Công nghiệp rồi, và Anh đã được đô thị hóa ở mức cao. Sử dụng đàn áp chống lại
một nhóm người đô thị, tập trung, và được tổ chức một phần và được trao quyền
là khó hơn rất nhiều so với việc đàn áp nông dân hay các nông nô lệ thuộc.
Vòng thiện như thế đã mang lại cho Anh Bộ Luật Cải cách Thứ Nhất năm
1832. Nhưng đấy đã chỉ là bước đầu. Vẫn còn một con đường dài để đi đến dân
chủ thực sự, bởi vì trong năm 1832 elite đã chỉ đưa ra cái họ nghĩ là họ phải và
không hơn. Vấn đề cải cách quốc hội đã được tiếp tục bởi phong trào Chartist, mà
Hiến chương của Nhân dân năm 1838 đã bao gồm các điều
Một lá phiếu cho mỗi người đàn ông có tuổi từ hai mươi mốt, có đầu
óc lành mạnh và không đang chịu hình phạt vì phạm tội.
Sự bỏ phiếu kín. – Để bảo vệ người bỏ phiếu trong thi hành việc bỏ
phiếu của mình.
VÒNG THIỆN ● 315
Không có điều kiện tài sản nào cho các thành viên Quốc hội – như thế
cho phép các cử tri bầu người họ chọn vào quốc hội, bất luận
người ấy giàu hay nghèo.
Trả công cho các thành viên quốc hội, như thế cho phép một thương
gia lương thiện, một người lao động, hay cá nhân khác, để phục vụ
một khu vực bầu cử, khi phải bỏ công việc của mình để chăm lo
cho các lợi ích của Đất nước.
Các khu vực bầu cử bằng nhau, đảm bảo cùng số lượng đại diện cho
cùng số người bỏ phiếu, thay cho việc cho phép các khu vực bầu
cử nhỏ làm mất tác dụng của các lá phiếu của các khu vực bầu cử
lớn.
Quốc hội từng năm, như thế đưa ra sự kiểm soát có hiệu lực nhất đối
với sự mua chuộc và sự đe dọa, vì mặc dù một khu vực bầu cử có
thể bị mua chuộc một lần trong bảy năm (thậm chí với phiếu bầu),
không tiền nào có thể mua chuộc một khu vực bầu cử (dưới hệ
thống quyền bầu cử phổ quát) trong mỗi mười hai tháng tiếp sau;
và vì các thành viên, khi được bầu chỉ cho một năm, sẽ không có
khả năng để coi thường và phản bội các cử tri của mình như bây
giờ.
Bằng “phiếu bầu,” họ đã hiểu là bỏ phiếu kín bí mật và chấm dứt bỏ phiếu ngỏ,
mà đã tạo thuận lợi cho việc mua chuộc phiếu bầu và sự ép buộc những người bỏ
phiếu.
Phong trào Chartist đã tổ chức một loạt các cuộc biểu tình quần chúng, và suốt
thời kỳ này Quốc hội đã liên tục thảo luận khả năng cho những cải cách thêm.
Mặc dù phong trào Chartist đã tan rã sau 1848, nó được kế tiếp bởi Liên Minh Cải
Cách Quốc gia (National Reform Union), được thành lập năm 1864, và Liên Đoàn
Cải Cách (Reform League), được thành lập năm 1865. Tháng Bảy 1866, các cuộc
nổi loạn lớn ủng hộ cải cách ở Hyde Park đã đưa cải cách lên đỉnh chương trình
nghị sự chính trị một lần nữa. Áp lực này đã sinh lời dưới dạng Đạo Luật Cải
Cách Thứ Hai năm 1867, trong đó toàn bộ cử tri đã tăng gấp đôi và những người
bỏ phiếu giai cấp lao động đã trở thành đa số trong tất cả các khu vực bầu cử đô
316 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
thị. Không lâu sau đó bỏ phiếu kín bí mật đã được đưa ra và các bước được tiến
hành để loại bỏ các tập quán bầu cử thối nát như “thết đãi” (về bản chất là mua
phiếu bầu trong trao đổi mà người đi bầu nhận được một sự thết đãi, thường là
tiền, thức ăn, hay rượu). Toàn bộ cử tri lại tăng gấp đôi lần nữa bởi Bộ Luật Cải
Cách Thứ Ba năm 1884, khi 60 phần trăm đàn ông trưởng thành đã có quyền bầu
cử. Tiếp theo Chiến tranh Thế giới lần Thứ Nhất, Bộ luật Đại diện của Nhân dân
năm 1918 đã trao quyền bầu cử cho tất cả đàn ông trên tuổi hai mươi mốt, và
những người đàn bà trên tuổi ba mươi là người đóng thuế hay kết hôn với người
đóng thuế. Cuối cùng, tất cả các phụ nữ cũng đã nhận được quyền bầu cử theo
cùng điều kiện như đàn ông trong năm 1928. Các biện pháp của năm 1918 đã
được thương lượng trong chiến tranh và đã phản ánh một quid pro quo (sự đền
đáp lại) giữa chính phủ và các giai cấp lao động, những người đã cần đến để
chiến đấu và sản xuất đạn được. Chính phủ có thể cũng đã lưu ý về chủ nghĩa cấp
tiến của Cách mạng Nga.
Song song với sự phát triển từ từ của các thể chế chính trị bao gồm hơn đã là
một phong trào hướng đến các thể chế kinh tế còn bao gồm hơn nữa. Một hệ quả
lớn của Đạo luật Cải cách thứ Nhất đã là bãi bỏ Luật Ngô năm 1846. Như chúng
ta đã thấy ở chương 7, Luật Ngô đã cấm nhập khẩu thóc lúa và ngũ cốc, giữ giá
của chúng cao và bảo đảm các khoản lợi nhuận béo bở cho các địa chủ lớn. Các
nghị sĩ mới từ Manchester và Birmingham đã muốn ngô rẻ và và lương thấp. Họ
đã thắng, và các nhóm lợi ích sở hữu đất đã bị một thất bại lớn.
Những sự thay đổi về toàn bộ cử tri và các chiều kích khác của các thể chế
chính trị xảy ra trong tiến trình của thế kỷ thứ mười chín đã được tiếp theo bởi
những cải cách thêm. Năm 1871 thủ tướng Gladstone, người theo đảng Tự do
(Liberal), đã mở nền công vụ cho sự xem xét công chúng, biến nó thành chế độ tài
năng đắc dụng (meritocracy), và như thế tiếp tục quá trình tập trung hóa chính trị
và xây dựng các thể chế nhà nước mà đã bắt đầu trong thời kỳ Tudor. Các chính
phủ Liberal và Tory trong thời kỳ này đã đưa ra một lượng đáng kể pháp luật về
thị trường lao động. Thí dụ các Bộ Luật Người chủ và Người hầu (Masters và
Servants Acts), mà đã cho phép những người sử dụng lao động sử dụng luật để
làm giảm tính di động của những người lao động của họ, đã bị bãi bỏ, làm thay
đổi bản chất của các mối quan hệ lao động có lợi cho người lao động. Trong giai
đoạn 1906–1914, Đảng Tự do (Liberal Party), dưới sự lãnh đạo của H. H. Asquith
VÒNG THIỆN ● 317
và David Lloyd George, đã bắt đầu sử dụng nhà nước để cung cấp nhiều dịch vụ
công hơn, kể cả bảo hiểm y tế và thất nghiệp, lương hưu do chính phủ trả, lương
tối thiểu, và cam kết đối với việc đánh thuế tái phân phối. Như một kết quả của
những thay đổi tài khóa này, các khoản thuế với tư cách là một phần của sản
phẩm quốc gia đã tăng hơn gấp đôi trong ba thập niên cuối cùng của thế kỷ thứ
mười chín, và sau đó lại tăng gấp đôi trong ba thập niên đầu của thế kỷ thứ hai
mươi. Hệ thống thuế cũng đã trở nên “lũy tiến” hơn, sao cho những người giàu có
hơn chịu gánh nặng thuế nặng hơn.
Trong lúc đó, hệ thống giáo dục, mà trước kia chủ yếu cho elite, được vận
hành bởi các giáo phái, hay đòi hỏi người nghèo trả học phí, đã được biến thành
dễ tiếp cận hơn cho nhân dân; Luật Giáo dục năm 1870 đã giao cho chính phủ
cung ứng một cách có hệ thống sự giáo dục phổ quát lần đầu tiên. Giáo dục đã trở
nên miễn phí năm 1891. Tuổi rời nhà trường (school-leaving age) được quy định
ở tuổi mười một trong năm 1893. Năm 1899 nó được tăng lên mười hai, và các
điều khoản đặc biệt cho con cái các gia đình neo đơn đã được đưa ra. Như một kết
quả của những thay đổi này, tỷ lệ của trẻ mười tuổi nhập học, mà đã ở mức đáng
thất vọng 40 phần trăm trong năm 1870, đã tăng lên 100 phần trăm năm 1900.
Cuối cùng, Bộ Luật Giáo dục năm 1902 đã dẫn đến một sự mở rộng lớn về các
nguồn lực cho các trường học và việc đưa vào các trường grammar school (trung
học phổ thông), mà sau đó đã trở thành nền tảng của giáo dục trung học ở Anh.
Thực ra, thí dụ Anh, một minh họa về vòng thiện của các thể chế bao gồm,
cung cấp một thí dụ về một “vòng thiện từ từ.” Những sự thay đổi chính trị một
cách không thể nhầm lẫn đã hướng tới các thể chế chính trị bao gồm hơn và đã là
kết quả của những đòi hỏi từ nhân dân được trao quyền. Nhưng chúng đã cũng từ
từ từng bước một. Mỗi thập niên một bước nữa, đôi khi nhỏ hơn, đôi khi lớn hơn,
đã được tiến hành hướng tới dân chủ. Đã có xung đột về mỗi bước, và kết quả của
mỗi bước đã tùy thuộc ngẫu nhiên. Nhưng vòng thiện đã tạo ra các lực mà đã làm
giảm tiền đánh cược dính líu đến việc bám lấy quyền lực. Nó cũng đã thúc đẩy
pháp trị, làm cho khó hơn để sử dụng vũ lực chống lại những người đòi hỏi cái mà
bản thân các elite đã đòi hỏi từ các vua Stuart. Đã trở nên ít có khả năng rằng sự
xung đột này sẽ biến thành một cuộc cách mạng dốc toàn lực và có khả năng hơn
rằng nó được giải quyết ủng hộ cho tính bao gồm lớn hơn. Có một đức hạnh tuyệt
vời trong loại thay đổi từ từ này. Đối với elite nó ít đe dọa hơn sự lật đổ toàn bộ
318 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
hệ thống. Mỗi bước là nhỏ, và có lý để nhượng bộ một đòi hỏi nhỏ, hơn là tạo ra
một sự thử thách lớn. Điều này giải thích một phần làm sao Luật Ngô bị bãi bỏ
mà không có xung đột nghiêm trọng hơn. Vào năm 1846 các địa chủ đã không
còn có thể kiểm soát việc lập pháp trong Quốc hội. Đấy đã là một kết quả của Bộ
Luật Cải cách thứ Nhất. Tuy vậy, nếu giả như trong năm 1832 sự mở rộng toàn bộ
cử tri, việc cải cách các thành phố thối nát, và việc bãi bỏ Luật Ngô tất cả đã đều
trên bàn nghị sự, thì các địa chủ đã đưa ra sự chống cự nhiều hơn nhiều. Sự thực
rằng đầu tiên đã có những cải cách chính trị hạn chế và rằng sự bãi bỏ Luật Ngô
chỉ nằm trên chương trình nghị sự muộn hơn, đã tháo ngòi nổ xung đột.
Sự thay đổi từ từ cũng đã chặn việc liều mạng lao vào các vùng lãnh thổ chưa
được khám phá. Một sự lật đổ dữ dội hệ thống có nghĩa là cái gì đó hoàn toàn mới
phải được xây dựng để thế chỗ cho cái bị thủ tiêu. Đấy đã là trường hợp của Cách
mạng Pháp, khi thử nghiệm đầu tiên với dân chủ đã dẫn đến Khủng bố và sau đó
quay lại nền quân chủ hai lần trước khi cuối cùng dẫn đến nền Cộng hòa Pháp
Thứ Ba vào năm 1870. Nó đã là trường hợp của Cách mạng Nga, nơi các mong
mỏi của nhiều người cho một hệ thống công bằng hơn hệ thống của Đế chế Nga,
đã dẫn đến một chế độ độc tài độc đảng mà đã hung bạo, khát máu, và đồi bại hơn
chế độ nó đã thay thế rất nhiều. Cải cách từ từ đã là khó trong các xã hội này
chính xác bởi vì chúng thiếu chủ nghĩa đa nguyên và đã hết sức khai thác. Chính
chủ nghĩa đa nguyên nổi lên từ Cách mạng Vinh quang, và pháp trị mà nó đưa
vào, đã là cái làm cho sự thay đổi từ từ là khả thi, và đáng mong muốn, ở Anh.
Nhà bình luận Anh bảo thủ Edmund Burke, người kiên định chống Cách mạng
Pháp, đã viết trong năm 1790, “Với sự thận trọng vô hạn rằng bất cứ ai nên liều
mạng phá đổ một tòa lâu đài, mà đã đáp ứng cho các mục đích chung của xã hội
theo bất cứ mức độ có thể chịu được nào từ bao đời nay, hay dựng lại nó lên mà
không có các mô hình và các hình mẫu về tính hữu dụng đã được chứng minh
trước mắt mình.” Burke đã sai về bức tranh lớn. Cách mạng Pháp đã thay thế tòa
lâu đài thối nát và đã mở đường cho các thể chế bao gồm không chỉ ở Pháp, mà
khắp phần lớn Tây Âu. Nhưng sự thận trọng của Burke đã không phải hoàn toàn
không chính xác. Quá trình từ từ của cải cách chính trị Anh, mà đã bắt đầu trong
năm 1688 và đã lấy được nhịp ba thập niên sau cái chết của Burke, đã có hiệu quả
hơn bởi vì bản chất từ từ của nó đã làm cho nó hùng mạnh hơn, khó hơn để kháng
cự, và cuối cùng lâu bền hơn.
VÒNG THIỆN ● 319
LÀM VỠ TAN CÁC TRUST
Các thể chế bao gồm ở Hoa Kỳ đã có gốc rễ của chúng trong các cuộc đấu tranh ở
Virginia, Maryland, và Carolinas trong thời kỳ thuộc địa (trang 19-28). Các thể
chế này đã được tăng cường bởi Hiến Pháp Hoa Kỳ, với hệ thống các ràng buộc
của nó và sự tách rời của các quyền lực. Nhưng Hiến pháp đã không đánh dấu sự
chấm dứt sự phát triển các thể chế bao gồm. Hệt như ở Anh, các thể chế này đã
được tăng cường bởi một quá trình phản hồi dương, dựa trên vòng thiện.
Vào giữa thế kỷ thứ mười chín, tất cả các đàn ông da trắng đã có thể bầu cử ở
Hoa Kỳ, mặc dù các phụ nữ và những người da đen đã không. Các thể chế kinh tế
đã trở nên bao gồm hơn – thí dụ, với sự thông qua của Bộ Luật Trang Ấp
(Homestead Act) trong năm 1862 (trang 37), mà đã làm cho đất biên cương sẵn
có cho các nhà định cư tiềm năng, hơn là phân bổ các vùng đất này cho các elite
chính trị. Nhưng hệt như ở Anh, các thách thức đối với các thể chế bao gồm đã
chẳng bao giờ hoàn toàn vắng mặt. Sự kết thúc của Nội Chiến Hoa Kỳ đã khởi
xướng một đợt tăng tốc tăng trưởng kinh tế ở miền Bắc. Khi đường sắt, công
nghiệp, và thương mại mở rộng, một vài người đã kiếm được số tiền lớn kếch xù.
Được làm cho bạo dạn bởi thành công kinh tế của họ, những người này và các
công ty của họ đã trở nên ngày càng vô lương tâm. Họ đã được gọi là các Robber
Baron (Trùm Kẻ Cướp) bởi vì các tập quán kinh doanh cứng cỏi của họ đã nhắm
đến củng cố các độc quyền và ngăn trở bất cứ đối thủ cạnh tranh tiềm năng nào
tham gia vào thị trường hay tiến hành kinh doanh trên quan hệ bình đẳng. Một
trong những kẻ khét tiếng nhất của những người này đã là Cornelius Vanderbilt,
người đã nhận xét một cách nổi tiếng, “Tôi quan tâm gì đến Luật pháp? Tôi không
có quyền lực ư?”
Một người khác đã là John D. Rockefeller, người đã khởi xướng Công ty
Standard Oil năm 1870. Ông đã nhanh chóng loại trừ các đối thủ ở Cleveland và
đã thử độc quyền hóa giao thông và và bán lẻ dầu và các sản phẩm dầu. Vào năm
1882 đông đã tạo ra một độc quyền đồ sộ – theo ngôn ngữ ngày đó, một trust. Vào
năm 1890 Standard Oil đã kiểm soát 88 phần trăm dầu tinh chế chảy ở Hoa Kỳ,
và Rockefeller đã trở thành tỷ phú đầu tiên trên thế giới trong năm 1916. Các
320 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
tranh biếm họa đương thời vẽ Standard Oil như một con bạch tuộc quấn các vòi
không chỉ quanh công nghiệp dầu mà cả Capitol Hill, tòa nhà Quốc hội, nữa.
Hầu như cũng khét tiếng thế đã là John Pierpont Morgan, người sáng lập tổ
hợp độc quyền (conglomerate) ngân hàng J.P. Morgan, mà muộn hơn, sau nhiều
cuộc sáp nhập trong hàng thập niên, cuối cùng đã trở thành JPMorgan Chase.
Cùng với Andrew Carnegie, Morgan đã thành lập Công ty Thép Hoa Kỳ (U.S.
Steel Company) năm 1901, công ty đầu tiên với giá trị thị trường hóa hơn 1 tỷ $
và đã là công ty thép lớn nhất thế giới, bỏ xa các công ty khác. Trong các năm
1890, các trust lớn đã bắt đầu nổi lên gần như ở mọi khu vực của nền kinh tế, và
nhiều trong số chúng kiểm soát hơn 70 phần trăm thị trường trong khu vực của
chúng. Các trust này gồm tên của nhiều gia đình, như Du Pont, Eastman Kodak,
và International Harvester. Về mặt lịch sử, Hoa Kỳ, chí ít miền bắc và trung tây
Hoa Kỳ, đã có các thị trường tương đối cạnh tranh và đã quân bình hơn các phần
khác của đất nước, đặc biệt là Miền Nam. Nhưng trong thời kỳ này, sự cạnh tranh
nhường đường cho độc quyền, và sự bất bình đẳng của cải tăng lên nhanh chóng.
Hệ thống chính trị đa nguyên của Hoa Kỳ đã trao quyền rồi cho một mảng
rộng của xã hội mà đã có thể đứng lên chống lại những sự xâm phạm như vậy.
Các nạn nhân của các tập quán của các Trùm Ăn Cướp, hay những người phản
đối sự chế ngự vô lương tâm của ngành của họ, đã bắt đầu tổ chức để chống lại
chúng. Họ đã lập ra phong trào Dân túy và rồi sau đó phong trào Tiến bộ.
Phong trào Dân túy đã nổi lên từ một khủng hoảng nông nghiệp kéo dài, mà đã
làm khổ sở vùng Trung Tây từ cuối các năm 1860 trở đi. Nghiệp Đoàn Nông Dân
(National Grange of the Order of Patrons of Husbandry), được biết đến như các
Granger, đã được thành lập năm 1867 và đã bắt đầu huy động các nông dân chống
lại các tập quán kinh doanh không công bằng và phân biệt. Trong năm 1873 và
1874, các Granger đã có được sự kiểm soát mười một cơ quan lập pháp bang
miền trung tây, và sự bất mãn nông thôn đã lên đỉnh điểm trong sự hình thành
Đảng Nhân Dân năm 1892, mà đã thu được 8,5 phần trăm phiếu bầu phổ thông
trong bầu cử tổng thống năm 1892. Trong hai lần bầu cử tiếp theo, những người
Dân Túy đã đứng vào hàng ngũ đằng sau hai phong trào Dân chủ không thành
công bởi William Jennings Bryan, người đã biến nhiều vấn đề thành của chính
ông. Sự phản đối ở cơ sở đối với sự mở rộng của các trust bây giờ đã được tổ
VÒNG THIỆN ● 321
chức để thử chống lại ảnh hưởng mà Rockefeller và các Trùm Kẻ Cướp khác sử
dụng lên chính trị quốc gia.
Các phong trào chính trị chầm chậm đã bắt đầu có một tác động lên thái độ
chính trị và rồi lên lập pháp, đặc biệt liên quan đến vai trò của nhà nước trong
điều tiết độc quyền. Luật quan trọng đầu tiên đã là Đạo Luật Thương mại giữa các
bang năm 1887, mà đã tạo ra Ủy ban Thương mại Giữa các Bang và đã khởi
xướng sự phát triển của quy chế điều tiết liên bang của Bộ Luật Sherman, mà vẫn
là một phần chủ yếu của điều tiết chống trust của Hoa Kỳ, trở thành cơ sở cho các
cuộc tấn công các trust của các Trùm Kẻ Cướp. Hành động chủ yếu chống lại các
trust đã đến sau bầu cử các tổng thống cam kết với cải cách và với giới hạn quyền
lực của các Trùm Kẻ Cướp: Theodore Roosevelt, 1901–1909; William Taft,
1909–1913; và Woodrow Wilson, 1913–1921.
Một lực lượng chính trị chủ chốt đứng đằng sau quy chế chống trust và bước đi
để áp đặt quy chế liên bang về công nghiệp đã lại là phiếu bầu của nông dân. Các
nỗ lực ban đầu bởi các bang riêng lẻ trong các năm 1870 để điều tiết đường sắt đã
đến từ các tổ chức nông dân. Thực vậy, gần như tất cả năm mươi chín kiến nghị
mà liên quan đến các trust được gửi cho Quốc hội trước khi ban hành Đạo luật
Sherman đã đến từ các bang nông nghiệp và đã bắt nguồn từ các tổ chức như Liên
hiệp Nông dân, Liên minh Nông dân, Hội Lợi ích Hỗ tương của Nông dân, và Các
nhà Bảo trợ Chăn nuôi. Các nông dân đã tìm thấy một lợi ích tập thể trong chống
lại các tập quán độc quyền của công nghiệp.
Từ tro tàn của những người Dân túy, những người đã suy sụp nghiêm trọng sau
khi dùng ảnh hưởng của mình để ủng hộ những người [thuộc đảng] Dân chủ, đã
đến những người Tiến bộ, một phong trào cải cách không đồng nhất quan tâm đến
cùng nhiều vấn đề như thế. Phong trào Tiến bộ ban đầu đã quện lại xung quanh
nhân vật Teddy Roosevelt, người đã là phó tổng thống của William McKinley và
đã đảm đương chức tổng thống tiếp sau vụ ám sát McKinley năm 1901. Trước khi
lên nắm chức tầm quốc gia, Roosevelt đã là một thống đốc không nhượng bộ của
New York và đã làm việc siêng năng để loại bỏ tham nhũng chính trị và “guồng
máy chính trị.” Trong thông điệp đầu tiên của ông cho Quốc hội, Roosevelt đã
chuyển sự chú ý của mình đến các trust. Ông đã cho rằng sự thịnh vượng của Hoa
Kỳ dựa trên nền kinh tế thị trường và tài khéo léo của các nhà kinh doanh, nhưng
đồng thời,
322 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
có những cái xấu thực và trầm trọng … và một … sự tin chắc rộng
rãi trong đầu của nhân dân Mỹ rằng các công ty lớn được biết đến như
các trust theo một số đặc tính và xu hướng của chúng là có hại cho
phúc lợi chung. Điều này xuất hiện không từ tinh thần ghen tỵ hay
không độ lượng nào, cũng chẳng từ sự thiếu tự hào về các thành quả
vĩ đại mà đã đặt đất nước này lên đầu các quốc gia chiến đấu giành ưu
thế thương mại. Nó không dựa vào một sự thiếu đánh giá thông minh
về sự tất yếu phải thỏa mãn các điều kiện đang thay đổi và đã thay đổi
của thương mại với các phương pháp mới, nó cũng chẳng dựa vào sự
không hiểu biết về sự thực rằng sự kết hợp vốn trong nỗ lực để đạt
được các thứ lớn lao là cần thiết khi sự tiến bộ của thế giới đòi hỏi
rằng các thứ lớn lao phải được làm. Nó dựa trên sự tin chắc chân
thành rằng sự kết hợp và sự tập trung phải, không bị cấm, nhưng được
giám sát và được kiểm soát bên trong các giới hạn hợp lý; và theo
đánh giá của tôi sự tin chắc này là đúng.
Ông tiếp tục: “Cũng phải là mục đích của những người tìm kiếm sự cải thiện
xã hội để giải thoát thế giới kinh doanh khỏi các tội ác xảo trá như để giải thoát
toàn bộ nhà nước khỏi các tội ác vũ lực.” Kết luận của ông đã là
vì lợi ích của toàn bộ nhân dân, quốc gia cũng phải nắm lấy quyền lực
giám sát và điều tiết tất cả các công ty tiến hành kinh doanh giữa các
bang, mà không can thiệp vào quyền lực của các bang trong bản thân
vấn đề này. Điều này đặc biệt đúng nơi công ty nhận được một phần
của cải của nó từ sự tồn tại của yếu tố hay xu hướng độc quyền nào đó
trong việc kinh doanh của nó.
Roosevelt đã kiến nghị Quốc hội thiết lập một cơ quan liên bang với quyền lực
để điều tra các vụ của các công ty lớn và rằng, nếu cần thiết, một sự tu chính Hiến
pháp có thể được sử dụng để tạo ra một cơ quan như vậy. Vào năm 1902
Roosevelt đã sử dụng Đạo luật Sherman để phá vỡ Công ty Chứng khoán Miền
Bắc (Northern Securities Company), đụng chạm đến các lợi ích của J.P. Morgan,
và sau đó các vụ tố tụng được đưa ra chống lại Du Pont, Công ty Thuốc lá Mỹ, và
công ty Standard Oil. Roosevelt đã củng cố Đạo luật Thương mại giữa các Bang
với Đạo luật Hepburn năm 1906, mà đã làm tăng quyền lực của Ủy Ban Thương
mại giữa các Bang, đặc biệt cho phép nó thanh tra các tài khoản của đường sắt và
VÒNG THIỆN ● 323
mở rộng quyền hạn của nó sang các lĩnh vực mới. Người kế vị Roosevelt,
William Taft, đã khởi tố các trust thậm chí còn siêng năng hơn, điểm cao của
công việc này đã là phá vỡ Công ty Standard Oil trong năm 1911. Taft cũng đã đề
xuất những cải cách quan trọng khác, như đưa ra thuế thu nhập liên bang, mà đã
đến với sự phê chuẩn Tu chính [Hiến pháp] lần thứ Mười sáu trong năm 1913.
Thời cực thịnh của những cải cách Tiến bộ đến với việc bầu Woodrow Wilson
năm 1912. Wilson đã lưu ý trong cuốn sách năm 1913 của ông, cuốn The New
Freedom (Quyền tự do mới), “Nếu độc quyền tồn tại dai dẳng, độc quyền sẽ luôn
luôn ở cương vị chỉ huy chính phủ. Tôi không kỳ vọng để thấy độc quyền tự kiềm
chế. Nếu có những người ở đất nước này đủ lớn để sở hữu chính phủ Hoa Kỳ, họ
sẽ sở hữu nó.”
Wilson đã làm việc để thông qua Đạo luật Clayton Chống Trust năm 1914,
củng cố Đạo luật Sherman, và ông đã lập ra Ủy ban Thương mại Liên bang
(Federal Trade Commission), mà đã thi hành Đạo luật Clayton. Ngoài ra, dưới sự
thúc đẩy của sự điều tra của Ủy ban Pujo, do nghị sĩ Louisiana là Arsene Pujo
lãnh đạo, về “trust tiền tệ,” sự mở rộng độc quyền vào ngành tài chính, Wilson đã
đề nghị tăng điều tiết khu vực tài chính. Trong năm 1913 ông đã thành lập Ban
Thống đốc Hệ thống Dự trữ Liên bang (Federal Reserve Board), mà sẽ điều tiết
các hoạt động độc quyền trong khu vực tài chính.
Sự nổi lên của các Trùm Kẻ Cướp và các trust độc quyền của họ vào cuối thế
kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi nhấn mạnh rằng, như chúng ta đã
nhấn mạnh rồi ở chương 3, sự hiện diện của các thị trường bản thân nó không là
một bảo đảm của các thể chế bao gồm. Các thị trường có thể bị chế ngự bởi vài
hãng, đặt ra giá cắt cổ và chặn sự tham gia của các đối thủ hiệu quả hơn và các
công nghệ mới. Các thị trường, để mặc cho chúng tự xoay xở, có thể ngừng là bao
gồm, ngày càng trở nên bị thống trị bởi kẻ hùng mạnh về kinh tế và chính trị. Các
thể chế kinh tế bao gồm đòi hỏi không chỉ các thị trường, mà đòi hỏi các thị
trường bao gồm mà tạo ra sân chơi bằng phẳng và các cơ hội kinh tế cho đa số
nhân dân. Độc quyền tràn lan, được ủng hộ bởi quyền lực chính trị của elite, mâu
thuẫn với điều này. Nhưng phản ứng với các trust độc quyền cũng minh họa rằng
khi các thể chế chính trị là bao gồm, chúng tạo ra một lực bù chống những sự
chuyển động ra xa các thị trường bao gồm. Đấy là vòng thiện đang hoạt động.
Các thể chế kinh tế bao gồm cung cấp các nền tảng mà trên đó các thể chế chính
324 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
trị bao gồm có thể đơm hoa, trong khi các thể chế chính trị bao gồm hạn chế
những sự đi trệch khỏi các thể chế kinh tế bao gồm. Phá tan trust ở Hoa Kỳ,
ngược lại với cái chúng ta đã thấy ở Mexico (trang 38-40), minh họa khía cạnh
này của vòng thiện. Trong khi không có cơ quan chính trị nào ở Mexico hạn chế
độc quyền của Carlos Slim, các Đạo luật Sherman và Clayton đã được dùng lặp đi
lặp lại ở Hoa Kỳ trong thế kỷ qua để hạn chế các trust, các độc quyền, và các
cartel, và để bảo đảm rằng các thị trường vẫn là các thị trường bao gồm.
Kinh nghiệm Hoa Kỳ trong nửa đầu của thế kỷ thứ hai mươi cũng nhấn mạnh
vai trò quan trọng của báo chí tự do trong trao quyền cho các mảng rộng của xã
hội và như thế trong vòng thiện. Năm 1906 Roosevelt đã tạo ra từ muckraker
(người cào phân, kẻ hay bới móc), dựa trên một nhân vật văn học, người với cái
cào phân trong Pilgrim’s Progress (Tiến bộ của người Hành hương) của Bunyan,
để mô tả cái ông coi như nghề báo xâm nhập. Từ này đã bám vào và tượng trưng
hóa các nhà báo những người đã xâm nhập, nhưng cũng có kết quả, phơi bày
những sự thái quá của các Trùm Kẻ Cướp cũng như sự thối nát trong hoạt động
chính trị địa phương và liên bang. Có lẽ người hay bới móc nổi tiếng nhất đã là
Ida Tarbell, mà cuốn sách năm 1904 của bà, cuốn History of the Standard Oil
Company (Lịch sử của Công ty Standard Oil), đã đóng một vai trò then chốt trong
làm thay đổi dư luận chống lại Rockefeller và các lợi ích kinh doanh của ông, lên
đến đỉnh điểm trong phá vỡ Standard Oil năm 1911. Một muckraker chủ chốt
khác đã là luật sư và tác giả Louis Brandeis, người muộn hơn đã được Tổng thống
Wilson bổ nhiệm làm thẩm phán Tòa án Tối cao. Brandeis đã phác họa một loạt
các vụ bê bối tài chính trong cuốn sách của mình, cuốn Other People’s Money
and How Bankers Use It (Tiền của những Người khác và các Chủ Ngân hàng Sử
dụng Nó Ra sao), và đã có ảnh hưởng lớn đến Ủy ban Pujo. Ông trùm báo chí
William Randolph Hearst cũng đã đóng một vai trò nổi bật như người hay bới
móc. Việc ông cho đăng từng kỳ trong tạp chí The Cosmopolitan của ông trong
năm 1906 các bài báo của David Graham Phillips, được gọi là “Sự Làm Phản của
Thượng viện – The Treason of the Senate,” đã khích động phong trào để đưa ra
việc bầu trực tiếp Thượng viện, một cải cách Tiến bộ chủ chốt khác nữa mà đã
xảy ra với sự ban hành Tu chính thứ Mười Bảy của Hiến pháp Hoa Kỳ trong năm
1913.
VÒNG THIỆN ● 325
Các muckraker đã đóng một vai trò chủ yếu trong xui khiến các chính trị gia
hành động chống lại các trust. Các Trùm Kẻ Cướp đã căm thù các muckraker,
nhưng các thể chế chính trị của Hoa Kỳ đã làm cho là không thể đối với họ để tiệt
trừ và bịt miệng những người hay bới móc. Các thể chế chính trị bao gồm cho
phép một nền báo chí tự do phát đạt, và một nền báo chí tự do, đến lượt, lại làm
cho có nhiều khả năng hơn rằng các đe dọa chống lại các thể chế kinh tế và chính
trị bao gồm sẽ được biết đến một cách rộng rãi và bị kháng cự. Ngược lại, quyền
tự do [báo chí] như vậy là không thể dưới các thể chế chính trị khai thác, dưới
chính thể chuyên chế, hay dưới chế độ độc tài, mà giúp các chế độ khai thác để
ngăn ngừa trước hết sự hình thành của phe đối lập nghiêm túc. Thông tin mà báo
chí tự do cung cấp đã rõ ràng là quyết định trong nửa đầu của thế kỷ thứ hai mươi
ở Hoa Kỳ. Không có thông tin này, công chúng Hoa Kỳ đã không biết mức độ
thật của quyền lực và sự lạm dụng của các Trùm Kẻ Cướp và đã không thể được
huy động để chống lại các trust của họ.
CHỌN NGƯỜI VÀO TÒA ÁN
Franklin D. Roosevelt, ứng viên của Đảng Dân chủ và em con chú của Teddy
Roosevelt, đã được bầu làm tổng thống năm 1932 giữa cuộc Đại Suy thoái. Ông
đã lên nắm quyền với một sự ủy thác của nhân dân để thực hiện một tập các chính
sách đầy tham vọng để chiến đấu với Đại Suy thoái. Vào thời điểm lễ nhậm chức
của ông đầu năm 1933, một phần tư lực lượng lao động đã thất nhiệp, với nhiều
người bị ném vào cảnh nghèo khổ. Sản xuất công nghiệp đã sụt hơn một nửa kể từ
Suy thoái nổ ra năm 1929, và đầu tư đã sụp đổ. Các chính sách mà Roosevelt kiến
nghị để chống lại tình trạng này đã được biết đến chung như New Deal (Chính
sách Kinh tế Mới). Roosevelt đã có một chiến thắng vững chắc, với 57 phần trăm
phiếu bầu phổ thông, Đảng Dân chủ đã có đa số ở cả Hạ viện và Thượng viện, đủ
để thông qua luật pháp New Deal. Tuy vậy, một số luật đã nêu ra các vấn đề hiến
pháp và đã kết thúc ở Tòa án Tối cao, nơi sự ủy thác cử tri của Roosevelt đã rất ít
có tác dụng.
Một trong các trụ cột chính của New Deal đã là Đạo luật Khôi phục Công
nghiệp Quốc gia. Chương I đã tập trung vào khôi phục công nghiệp. Tổng thống
Roosevelt và nhóm của ông đã tin rằng kiềm chế cạnh tranh công nghiệp, trao cho
326 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
công nhân các quyền lớn hơn để thành lập các nghiệp đoàn, và điều tiết các tiêu
chuẩn làm việc đã là cốt yếu đối với sự cố gắng phục hồi. Chương II đã thiết lập
Public Works Administration (Cơ quan quản lý các Công trình Công cộng), mà
các dự án hạ tầng cơ sở gồm các cột mốc như ga xe lửa Đường Thứ Ba Mươi ở
Philadelphia, cầu Triborough, Đập Grand Coulee, và Đường Overseas nối Key
West, Florida, với đất liền. Tổng thống Roosevelt đã ký dự luật thành luật ngày
16 tháng Sáu, 1933, và Đạo luật Khôi phục Công nghiệp Quốc gia đã được đưa
vào hoạt động. Tuy vậy, ngay lập tức nó đã đối mặt với các thách thức ở các tòa
án. Ngày 27 tháng Năm, 1935, Tòa án Tối cao đã nhất trí quyết định rằng Chương
I của đạo luật đã vi hiến. Phán quyết của họ đã lưu ý một cách trang nghiêm,
“Những điều kiện đặc biệt có thể cần đến những cách điều trị đặc biệt.
Nhưng … các điều kiện đặc biệt không tạo ra hay mở rộng quyền lực thuộc hiến
pháp.”
Trước khi quyết định của Tòa được ghi nhận, Roosevelt đã bước một bước tiếp
theo của chương trình nghị sự của ông và đã ký Đạo luật Trợ cấp Xã hội (Social
Security Act), mà đã đưa nhà nước phúc lợi hiện đại vào Hoa Kỳ: lương hưu khi
về hưu, trợ cấp thất nghiệp, giúp đỡ các gia đình có con phụ thuộc, và một số
chăm sóc sức khỏe và trợ cấp tàn tật. Ông cũng đã ký Đạo luật Quan hệ Lao động
Quốc gia (National Labor Relations Act), mà đã củng cố thêm các quyền của
những người lao động để tổ chức các nghiệp đoàn, tham gia thương lượng tập thể,
và tiến hành đình công chống lại những người sử dụng lao động của họ. Các biện
pháp này cũng đã đối mặt với các thách thức ở Tòa án Tối cao. Khi những thứ này
đang đi qua ngành tư pháp, Roosevelt đã được bầu lại trong năm 1936 với một sự
ủy thác mạnh mẽ, nhận được 61 phần trăm phiếu bầu phổ thông.
Với sự yêu mến của nhân dân lên cao kỷ lục, Roosevelt đã không có ý định để
cho Tòa án Tối cao làm trật bánh xe nhiều hơn trong chương trình nghị sự chính
sách của ông. Ông đã trình bày các kế hoạch của ông tại một trong các Buổi nói
chuyện với nhân dân (Fireside Chat) thường lệ của ông, mà đã được truyền thanh
trực tiếp trên radio ngày 9 tháng Ba, 1937. Ông đã bắt đầu bằng cách chỉ ra rằng
trong nhiệm kỳ đầu của ông, các chính sách rất cần đã chỉ vượt qua Tòa án Tối
cao một chút ít. Ông tiếp tục:
Làm tôi nhớ lại buổi tối đó trong tháng Ba, bốn năm trước, khi tôi
trình bày báo cáo radio đầu tiên của tôi cho bạn. Khi đó chúng ta đang
VÒNG THIỆN ● 327
ở giữa cuộc khủng hoảng lớn về ngân hàng. Không lâu sau đó, với sự
ủy quyền của Quốc hội, chúng ta đã yêu cầu quốc gia giao toàn bộ số
vàng của nó được tư nhân nắm giữ, dollar lấy dollar, cho chính phủ
Hoa Kỳ. Sự phục hồi hôm nay chứng minh chính sách đã đúng thế
nào. Nhưng khi, gần hai năm muộn hơn, trước Tòa án Tối cao tính
hợp hiến của nó đã được xác nhận chỉ bởi năm-trên-bốn phiếu. Sự
thay đổi của một phiếu đã có thể quăng tất cả công việc của quốc gia
vĩ đại này vào sự hỗn loạn vô vọng. Quả vậy, bốn thẩm phán đã quyết
định rằng quyền dưới một hợp đồng tư để khai thác một cân thịt đã
thiêng liêng hơn các mục tiêu chính của Hiến pháp để thiết lập một
quốc gia lâu dài.
Hiển nhiên, điều này không được để lại bị rủi ro. Roosevelt tiếp tục:
Thứ năm trước tôi đã mô tả hình thức Mỹ của chính phủ như một bộ
tam mã được cung cấp bởi Hiến pháp cho nhân dân Mỹ sao cho ruộng
của họ có thể được cày. Ba con ngựa, tất nhiên, là ba nhánh của chính
phủ – Quốc hội, hành pháp, và các tòa án. Hai trong ba con ngựa,
Quốc hội và hành pháp, đang đồng tâm kéo ngày nay; con thứ ba thì
không.
Roosevelt sau đó đã chỉ ra rằng Hiến pháp Hoa Kỳ đã thực sự không trao cho
Tòa án Tối cao quyền để thách thức tính hợp hiến của luật pháp, nhưng nó đã
nhận vai trò này cho mình trong năm 1803. Lúc đó, Thẩm phán Bushrod
Washington đã quy định rằng Tòa án Tối cao phải “giả định ủng hộ cho tính hợp
lệ [của một luật] cho đến khi sự vi phạm Hiến pháp của nó được chứng minh một
cách không còn nghi ngờ gì nữa.” Roosevelt sau đó đã buộc tội:
Trong bốn năm qua quy tắc lành mạnh về trao cho các đạo luật lợi thế
tồn nghi hợp lý đã bị vứt đi. Tòa án đã hành động không với tư cách
một cơ quan tư pháp, mà như một cơ quan hoạch định chính sách.
Roosevelt cho rằng ông đã có sự ủy thác cử tri để thay đổi tình trạng này và
rằng “sau khi cân nhắc về cải cách gì để kiến nghị, phương pháp duy nhất mà hợp
hiến một cách rõ ràng … đã là tiếp máu mới vào tất cả các tòa án của chúng ta.”
Ông cũng đã lập luận rằng các thẩm phán Tòa án Tối cao đã phải làm việc quá
328 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
sức, và tải công việc đã đúng là quá nhiều đối với các thẩm phán cao tuổi – mà
tình cờ là những người đánh trượt việc làm luật của ông. Rồi ông kiến nghị rằng
tất cả các thẩm phán phải đối mặt với sự nghỉ hưu bắt buộc ở tuổi bảy mươi và
rằng ông phải được phép chỉ định đến sáu thẩm phán mới. Kế hoạch này, mà
Roosevelt đã đệ trình như Dự luật Tổ chức lại ngành Tư pháp, sẽ là đủ để loại bỏ
các thẩm phán mà đã được bổ nhiệm trước đây bởi các chính quyền bảo thủ hơn
và những người đã phản đối New Deal tích cực nhất.
Mặc dù Roosevelt đã thử một cách khéo léo để có được sự ủng hộ dân chúng
cho các biện pháp, các cuộc thăm dò dư luận đã gợi ý rằng chỉ khoảng 40 phần
trăm dân cư đã ủng hộ kế hoạch. Louis Brandeis bây giờ đã là một thẩm phán Tòa
án Tối cao. Mặc dù Brandeis đã có cảm tình với nhiều luật của Roosevelt, ông đã
phát biểu chống lại các mưu toan của Tổng thống để làm xói mòn quyền lực của
Tòa án Tối cao và những sự viện lý của ông rằng các thẩm phán đã làm việc quá
sức. Đảng Dân chủ của Roosevelt đã có đa số lớn ở cả hai viện của Quốc hội.
Nhưng Hạ nghị Viện ít nhiều đã từ chối giải quyết dự luật của Roosevelt.
Roosevelt sau đó đã thử với Thượng viện. Dự luật được giửi cho Ủy ban Tư pháp
của Thượng viện, mà sau đó đã tổ chức các cuộc họp hết sức bất hòa, thu hút
những ý kiến khác nhau về dự luật. Cuối cùng họ đã gửi nó lại đến phòng họp
Thượng viện với một báo cáo tiêu cực, cho rằng dự luật đã là một “sự từ bỏ không
cần thiết, vô ích và hoàn toàn nguy hiểm của nguyên lý hiến pháp … mà không có
tiền lệ hay sự biện minh.” Thượng viện đã bỏ phiếu 70 trên 20 để gửi nó lại cho
ủy ban để soạn lại. Tất các các yếu tố “chọn người vào tòa án” đã bị tước hết.
Roosevelt đã không có khả năng để loại bỏ các ràng buộc đặt lên quyền lực của
ông bởi Tòa án Tối cao. Cho dù quyền lực của Roosevelt vẫn bị ràng buộc, đã có
những thỏa hiệp, và các Đạo luật Trợ cấp Xã hội và Quan hệ Lao động Quốc gia
cả hai đã được Tòa tuyên là hợp hiến.
Quan trọng hơn số phận của hai đạo luật này đã là bài học chung từ tình tiết
này. Các thể chế chính trị bao gồm không chỉ ngăn chặn các sự trệch lớn khỏi các
thể chế kinh tế bao gồm, mà chúng cũng cưỡng lại các mưu toan để làm xói mòn
sự tiếp tục riêng của chính chúng. Đã là lợi ích trực tiếp của Hạ viện và Thượng
viện Dân chủ để chọn người cho tòa án và bảo đảm rằng tất cả luật pháp New
Deal sống sót. Nhưng theo cùng cách mà các elite Anh vào đầu thế kỷ thứ mười
tám đã hiểu rằng đình chỉ pháp trị sẽ gây nguy hiểm cho các lợi ích mà họ đã giật
VÒNG THIỆN ● 329
được từ nền quân chủ, các hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ đã hiểu rằng nếu Tổng
thống đã có thể làm xói mòn tính độc lập của ngành tư pháp, thì điều này sẽ làm
xói mòn cân bằng quyền lực trong hệ thống mà đã bảo vệ họ khỏi Tổng thống và
đã bảo đảm tính liên tục của các thể chế chính trị đa nguyên.
Có lẽ Roosevelt có thể đã quyết định tiếp theo rằng nhận được đa số lập pháp
đã cần quá nhiều thỏa hiệp và thời gian và rằng thay vào đó ông đã có thể cai trị
bằng sắc lệnh, hoàn toàn làm xói mòn chủ nghĩa đa nguyên và hệ thống chính trị
Hoa Kỳ. Quốc hội chắc chắn đã không thông qua điều này, nhưng khi đó
Roosevelt đã có thể kêu gọi quốc gia, khẳng định rằng Quốc hội đang cản trở các
biện pháp để chiến đấu với Suy thoái. Ông đã có thể sử dụng cảnh sát để đóng cửa
Quốc hội. Nghe có vẻ cường điệu khó tin? Đấy chính xác là cái đã xảy ra ở Peru
và Venezuela trong các năm 1990. Các Tổng thống Fujimori và Chávez đã kêu
gọi sự ủy thác của dân chúng cho họ để đóng cửa các quốc hội không hợp tác và
sau đó đã viết lại các Hiến pháp của họ để củng cố một cách mạnh mẽ quyền lực
của Tổng thống. Sự lo sợ về độ dốc-trơn tuột này bởi những người chia sẻ quyền
lực dưới các thể chế chính trị đa nguyên chính xác là cái đã chặn Walpole khỏi
việc sửa các tòa án Anh trong các năm 1720, và nó là cái đã chặn Quốc hội Hoa
Kỳ khỏi việc ủng hộ kế hoạch chọn người vào tòa án của Roosevelt. Roosevelt đã
đụng độ với sức mạnh của các vòng thiện.
Nhưng logic này không luôn luôn diễn ra, đặc biệt trong các xã hội mà có thể
có một vài đặc tính bao gồm nhưng là khai thác một cách rộng rãi. Chúng ta đã
thấy rồi động học này ở Rome và Venice. Một minh họa khác nữa đến từ việc so
sánh mưu toan thất bại của Roosevelt để chọn người vào Tòa án với các nỗ lực
tương tự ở Argentina, nơi một cách cốt yếu cùng các cuộc đấu tranh đã xảy ra
trong bối cảnh của các thể chế kinh tế và chính trị khai thác chiếm ưu thế.
Hiến pháp năm 1853 của Argentina đã tạo ra một Tòa án Tối cao với các
nhiệm vụ tương tự như các trách nhiệm của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Một quyết
định năm 1887 đã cho phép tòa án Argentine đảm nhiệm cùng vai trò như của Tòa
án Tối cao Hoa Kỳ trong quyết định liệu các luật cụ thể có hợp hiến hay không.
Về lý thuyết, Tòa án Tối cao đã có thể phát triển như một trong những yếu tố
quan trọng của các thể chế chính trị bao gồm ở Argentina, nhưng phần còn lại của
hệ thống chính trị và kinh tế đã vẫn hết sức khai thác, và đã không có sự trao
quyền cho các mảng rộng của xã hội cũng đã chẳng có chủ nghĩa đa nguyên ở
330 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
Argentina. Như ở Hoa Kỳ, vai trò hiến định của Tòa án Tối cao cũng có thể bị
thách thức ở Argentina. Năm 1946 Juan Domingo Perón đã được bầu một cách
dân chủ làm Tổng thống Argentina. Perón đã là một cựu đại tá và đầu tiên đã nổi
bật toàn quốc sau một cuộc đảo chính quân sự năm 1943, mà đã chỉ định ông ta
làm bộ trưởng lao động. Trong vị trí này, ông đã xây dựng liên minh chính trị với
các nghiệp đoàn và phong trào lao động, mà sẽ là cốt yếu cho nỗ lực của ông để
làm Tổng thống.
Không lâu sau thắng lợi của Perón, những người ủng hộ ông trong Hạ Viện
(Chamber of Deputies) đã kiến nghị luận tội bốn trong năm thành viên của Tòa
án. Sự buộc tội nhắm chống Tòa án đã là nhiều. Một cớ buộc tội đã dính líu đến
việc họ chấp nhận một cách vi hiến tính hợp pháp của hai chế độ quân sự năm
1930 và 1943 – đã là khá mỉa mai, vì Perón đã đóng một vai trò then chốt trong
cuộc đảo chính sau. Các lý do khác đã tập trung vào luật pháp mà tòa án đã đánh
đổ, hệt như tòa án Hoa Kỳ đã làm. Đặc biệt, ngay trước việc bầu Perón làm Tổng
thống, Tòa đã đưa ra một quyết định rằng hội đồng quan hệ lao động quốc gia
mới của Perón đã là vi hiến. Hệt như Roosevelt đã phê phán nặng nề Tòa án Tối
cao trong chiến dịch bầu lại của ông năm 1936, Perón đã làm hệt thế trong chiến
dịch của ông năm 1946. Chín tháng sau khi khởi động quá trình luận tội, Hạ viện
đã kết tội ba thẩm phán, thẩm phán thứ tư đã từ chức rồi. Thượng viện đã chấp
thuận đề nghị. Perón sau đó đã bổ nhiệm bốn thẩm phán mới. Việc làm xói mòn
Tòa án rõ ràng đã có tác động giải thoát Perón khỏi các ràng buộc chính trị. Bây
giờ ông đã có thể sử dụng quyền lực không bị kiềm chế, vẫn như các chế độ quân
sự ở Argentina đã sử dụng trước và sau nhiệm kỳ tổng thống của ông. Các thẩm
phán mới được bổ nhiệm của ông, chẳng hạn, đã phán quyết là hợp hiến sự kết tội
Ricardo Balbín, lãnh tụ của đảng đối lập chính đối với Perón, Đảng Cấp Tiến, vì
đã không tôn trọng Perón. Perón trên thực tế đã cai trị như một tên độc tài.
Vì Perón đã thành công chọn người cho Tòa án, đã trở thành chuẩn ở
Argentina cho bất cứ Tổng thống mới nào để chọn các thẩm phán Tòa án Tối cao
riêng của mình. Cho nên một thể chế chính trị mà đã có thể thực hiện một số ràng
buộc lên quyền lực của nhánh hành pháp đã mất hết. Chế độ Perón đã bị loại khỏi
quyền lực bởi một cuộc đảo chính khác trong năm 1955, và đã tiếp theo bởi một
chuỗi dài của những sự chuyển tiếp giữa sự cai trị quân sự và dân sự. Cả các chế
độ quân sự và dân sự mới đã chọn các thẩm phán riêng của mình. Nhưng chọn các
VÒNG THIỆN ● 331
thẩm phán Tòa án Tối cao ở Argentina đã không là một hoạt động được giới hạn
cho những sự chuyển tiếp giữa sự cai trị quân sự và dân sự. Trong năm 1990
Argentina cuối cùng đã trải qua một sự chuyển tiếp giữa các chính phủ được bầu
một cách dân chủ – một chính phủ dân chủ tiếp sau bởi chính phủ dân chủ khác.
Thế nhưng, vào thời gian này các chính phủ dân chủ đã không ứng xử khác mấy
với các chính phủ quân sự khi đến việc của Tòa án Tối cao. Tổng thống mới nhậm
chức đã là Carlos Saúl Menem của Đảng Perónist. Các thẩm phán Tòa án Tối cao
đương nhiệm đã được bổ nhiệm sau sự chuyển tiếp sang nền dân chủ năm 1983
bởi Tổng thống Đảng Cấp Tiến Raúl Alfonsín. Vì đấy là một sự chuyển tiếp dân
chủ, đã chẳng có lý do gì cho Menem để bổ nhiệm tòa án riêng của mình. Nhưng
trong thời gian dẫn đến bầu cử, Menem đã để lộ bản chất của ông rồi. Ông ta đã
liên tục, mặc dù không thành công, thử khuyến khích (hay thậm chí đe dọa) các
thành viên của tòa để họ từ chức. Ông đã chào một cách nổi tiếng cho Thẩm phán
Carlos Fayt một chức đại sứ. Nhưng ông đã bị quở trách, và Fayt đã đáp lại bằng
gửi cho ông một bản của cuốn sách Law and Ethics (Luật và Đạo đức học), với
một ghi chú đề tặng “Cẩn thận tôi đã viết cuốn này”. Không nao núng, trong vòng
ba tháng từ khi nhậm chức, Menem đã gửi một dự luật đến Hạ viện kiến nghi mở
rộng Tòa án từ năm lên chín thành viên. Một lý lẽ hệt như Roosevelt đã dùng năm
1937: tòa đã làm việc quá sức. Luật đã nhanh chóng đi qua Thượng viện và Hạ
viện, và việc này đã cho phép Menem bổ nhiệm bốn thẩm phán mới. Ông đã có đa
số của mình.
Thắng lợi của Menem chống lại Tòa án Tối cao đã khởi động một loại động
học độ dốc-trơn tuột mà chúng ta đã nhắc tới ở trước. Bước tiếp theo của ông đã
là viết lại Hiến pháp loại bỏ giới hạn nhiệm kỳ để ông có thể ứng cử Tổng thống
lần nữa. Sau khi được bầu lại, Menem đã đề nghị viết lại Hiến pháp lần nữa,
nhưng đã bị chặn không phải bởi các thể chế chính trị Argentina mà bởi các phe
cánh bên trong Đảng Perónist của chính ông, những người đã chiến đấu chống lại
sự thống trị cá nhân của ông.
Từ khi độc lập, Argentina đã chịu hầu hết các vấn đề thể chế mà đã gây tai họa
cho Mỹ Latin. Nó đã bị sập bẫy trong một vòng luẩn quẩn, không phải một vòng
thiện. Như một hệ quả, những sự phát triển tích cực, như các bước đầu tiên hướng
tới việc tạo ra một Tòa án Tối cao độc lập, đã chẳng bao giờ có được vị trí chắc
chắn. Với chủ nghĩa đa nguyên, không nhóm nào muốn hay dám lật đổ quyền lực
332 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
của nhóm khác, vì sợ rằng quyền lực riêng của chính nó sau đó sẽ bị thách thức.
Đồng thời, sự phân bổ rộng quyền lực làm cho một sự lật đổ như vậy là khó. Một
Tòa án Tối cao có thể có quyền lực nếu nó nhận được sự ủng hộ đáng kể từ các
mảng rộng của xã hội sẵn sàng đẩy lui các mưu toan để làm mất hiệu lực của tính
độc lập của Tòa án. Điều đó đã đúng ở Hoa Kỳ, không phải ở Argentina. Các nhà
lập pháp ở đó đã vui lòng để làm xói mòn Tòa án cho dù họ đã thấy trước rằng
việc này đã có thể gây nguy hiểm cho vị trí của chính họ. Một lý do là, với các thể
chế khai thác có nhiều để kiếm được từ việc lật đổ Tòa án Tối cao, và các lợi ích
tiềm năng đó là đáng giá các rủi ro.
PHẢN HỒI DƯƠNG VÀ CÁC VÒNG THIỆN
Các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm không tự nổi lên. Chúng thường là kết
quả của xung đột đáng kể giữa các elite cưỡng lại sự tăng trưởng kinh tế và thay
đổi chính trị và những người muốn hạn chế quyền lực kinh tế và chính trị của các
elite hiện tồn. Các thể chế bao gồm nổi lên trong các bước ngoặt, như trong Cách
mạng Vinh quang ở Anh hay sự thành lập thuộc địa Jamestown ở Bắc Mỹ, khi
một chuỗi nhân tố làm yếu sự nắm giữ quyền lực của các elite, làm cho các đối
thủ của họ mạnh hơn, và tạo ra những khuyến khích cho việc hình thành của một
xã hội đa nguyên. Kết quả của xung đột chính trị chẳng bao giờ là chắc chắn, và
cho dù nhìn lại chúng ta thấy nhiều sự kiện lịch sử cứ như là không thể tránh khỏi,
con đường của lịch sử là tùy thuộc ngẫu nhiên. Tuy nhiên, một khi đã ở trong vị
trí, các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm có xu hướng tạo ra một vòng thiện,
một quá trình phản hồi dương, làm cho có khả năng hơn rằng các thể chế này sẽ
tồn tại dai dẳng và thậm chí mở rộng.
Vòng thiện hoạt động thông qua nhiều cơ chế. Đầu tiên, logic của các thể chế
chính trị đa nguyên làm cho việc chiếm đoạt quyền lực bởi một kẻ độc tài, một
phe phái bên trong chính phủ, hay thậm chí một Tổng thống có thiện chí là khó
hơn nhiều, như Franklin Roosevelt đã phát hiện ra khi ông thử loại bỏ những sự
kiểm soát lên quyền lực của ông được áp đặt bởi Tòa án Tối cao, và như Sir
Robert Walpole đã phát hiện ra khi ông thử thực hiện một cách qua loa Đạo luật
Đen. Trong cả hai trường hợp, sự tập trung thêm quyền lực vào tay một cá nhân
hay một nhóm hẹp sẽ bắt đầu làm xói mòn các nền tảng của các thể chế chính trị
VÒNG THIỆN ● 333
đa nguyên, và biện pháp thật của chủ nghĩa đa nguyên chính xác là khả năng của
nó để cưỡng lại các mưu toan như vậy. Chủ nghĩa đa nguyên cũng là nơi lưu giữ
linh thiêng quan niệm về pháp trị, nguyên lý rằng các luật phải được áp dụng
ngang bằng cho tất cả mọi người – cái gì đó là không thể một cách tự nhiên dưới
một nền quân chủ chuyên chế. Nhưng pháp trị, đến lượt, lại ngụ ý rằng các luật
không thể đơn giản được sử dụng bởi một nhóm để xâm phạm các quyền của
người khác. Còn nhiều hơn, nguyên lý của pháp trị mở cánh cửa cho sự tham gia
lớn hơn trong quá trình chính trị và tính bao gồm lớn hơn, khi nó đưa vào một
cách mạnh mẽ ý tưởng rằng nhân dân phải bình đẳng không chỉ trước luật mà cả
trong hệ thống chính trị. Đấy là một trong những nguyên lý mà đã làm cho rất khó
đối với hệ thống chính trị Anh để cưỡng lại những lời kêu gọi mạnh mẽ cho dân
chủ lớn hơn suốt thế kỷ thứ mười chín, mở đường cho sự mở rộng từ từ của quyền
bầu cử cho tất cả những người trưởng thành.
Thứ hai, như chúng ta đã thấy nhiều lần trước đây, các thể chế chính trị bao
gồm ủng hộ và được ủng hộ bởi các thể chế kinh tế bao gồm. Điều này tạo ra một
cơ chế khác của vòng thiện. Các thể chế kinh tế bao gồm loại bỏ các mối quan hệ
kinh tế khai thác quá xá nhất, như tình trạng nô lệ và chế độ nông nô, làm giảm
tầm quan trọng của các độc quyền, và tạo ra một nền kinh tế năng động, mà tất cả
chúng làm giảm các lợi ích kinh tế mà một người có thể đạt được, chí ít trong
ngắn hạn, bằng chiếm đoạt quyền lực chính trị. Bởi vì các thể chế kinh tế đã trở
nên đủ bao gồm ở Anh vào thế kỷ thứ mười tám, elite đã có ít để đạt được bằng
bám lấy quyền lực và, thực ra, đã có nhiều để mất bằng sử dụng sự đàn áp rộng
rãi chống lại những người đòi hỏi dân chủ lớn hơn. Khía cạnh này của vòng thiện
làm cho sự tiến triển từ từ của dân chủ ở nước Anh thế kỷ thứ mười chín đã cả ít
đe dọa giới elite và có khả năng hơn để thành công. Điều này tương phản với tình
hình ở các chế độ chuyên chế như các đế chế Áo-Hungary hay Nga, nơi các thể
chế kinh tế đã vẫn hết sức khai thác và, vì thế, nơi muộn hơn những lời kêu gọi
cho sự bao gồm chính trị lớn hơn trong thế kỷ thứ mười chín đã đối mặt với sự
đàn áp bởi vì giới elite đã có quá nhiều để mất vì sự chia sẻ quyền lực.
Cuối cùng, các thể chế chính trị bao gồm cho phép một nền báo chí tự do đơm
hoa kết trái, và một nền báo chí tự do thường cung cấp thông tin về và động viên
sự phản đối các mối đe dọa chống lại các thể chế bao gồm, như nó đã làm trong
phần tư cuối của thế kỷ thứ mười chín và phần tư đầu của thế kỷ thứ hai mươi, khi
334 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
sự thống trị kinh tế ngày càng gia tăng của các Trùm Kẻ Cướp đã đe dọa bản chất
của các thể chế kinh tế bao gồm ở Hoa Kỳ.
Mặc dù kết quả của các xung đột luôn luôn-hiện diện tiếp tục là tùy thuộc ngẫu
nhiên, thông qua các cơ chế này vòng thiện tạo ra một xu hướng hùng mạnh cho
các thể chế bao gồm để tồn tại lâu dài, để cưỡng lại các thách thức, và để mở rộng
như chúng đã làm ở cả Anh và Hoa Kỳ. Đáng tiếc, như chúng ta sẽ thấy trong
chương tiếp theo, các thể chế khai thác tạo ra các lực mạnh ngang thế theo hướng
sự tồn tại dai dẳng của chúng – quá trình của vòng luẩn quẩn.
12.
VÒNG LUẨN QUẨN
KHÔNG THỂ ĐI XE LỬA ĐẾN BO NỮA
OÀN BỘ QUỐC GIA tây Phi Sierra Leone đã trở thành thuộc địa Anh trong
năm 1896. Thành phố thủ đô, Freetown, được thành lập vào cuối thế kỷ thứ
mười tám ban đầu như một quê hương cho các nô lệ được hồi hương và được giải
phóng. Nhưng khi Freetown trở thành một thuộc địa Anh, nội địa Sierra Leone đã
vẫn gồm nhiều vương quốc nhỏ Phi châu. Từ từ, trong nửa sau của thế kỷ thứ
mười chín, những người Anh đã mở rộng sự cai trị của họ vào nội địa thông qua
một chuỗi dài các hiệp ước với các nhà cai trị Phi châu. Ngày 31 tháng Tám,
1896, chính phủ Anh đã tuyên bố thuộc địa là một chế độ bảo hộ dựa trên cơ sở
của các hiệp ước này. Những người Anh đã nhận diện các nhà cai trị quan trọng
và đã trao cho họ một tước hiệu mới, thủ lĩnh tối cao. Ở miền đông Sierra Leone,
chẳng hạn, trong quận khai mỏ kim cương hiện đại, quận Kono, họ đã bắt gặp
Suluku, một nhà vua chiến binh hùng mạnh. Vua Suluku đã được biến thành Thủ
lĩnh Tối cao Suluku, và chức thủ lĩnh của Sandor đã được tạo ra như một đơn vị
hành chính trong chế độ bảo hộ.
Mặc dù các vua như Suluku đã ký các hiệp định với một người cầm quyền
hành chính, họ đã không hiểu rằng các hiệp định này sẽ được diễn giải như sự
được phép toàn quyền hành động để dựng lên một thuộc địa. Khi những người
Anh đã thử thu thuế lều – một khoản thuế năm shilling phải được thu từ mỗi nhà –
trong tháng Giêng 1898, các thủ lĩnh đã đứng lên trong một cuộc nội chiến mà
được biết đến như Nổi loạn Thuế Lều (Hut Tax Rebellion). Nó đã bắt đầu ở miền
bắc, nhưng đã mạnh nhất và kéo dài hơn ở miền nam, đặc biệt ở Mendeland, bị
T
336 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
chi phối bởi nhóm sắc tộc Mende. Nổi loạn Thuế Lều đã mau chóng thất bại,
nhưng nó đã cảnh cáo những người Anh về các thách thức của việc kiểm soát nội
địa Sierra Leone. Những người Anh đã bắt đầu xây dựng một đường sắt từ
Freetown vào nội địa. Công việc đã bắt đầu trong tháng Ba 1896, và tuyến đường
sắt đã đến Songo Town tháng Mười Hai 1898, giữa cuộc Nổi loạn Thuế Lều. Các
báo quốc hội Anh từ 1904 đã ghi rằng:
Trong trường hợp Đường sắt Sierra Leone cuộc Khởi nghĩa Bản địa
nổ ra trong tháng Giêng 1898 đã có tác động làm ngừng hoàn toàn
công việc và làm tan rã nhân viên trong thời gian nào đó. Những
người nổi loạn đã bất ngờ tấn công đường sắt, với kết quả là toàn bộ
nhân viên đã phải rút về Freetown … Rotifunk, bây giờ ở đường sắt
cách Freetown 55 dặm, vào lúc đó đã hoàn toàn trong tay những
người nổi loạn.
Thực ra, Rotifunk đã không ở trên tuyến đường sắt được dự tính trong năm
1894. Con đường đã bị thay đổi sau khi bắt đầu vụ bạo loạn, cho nên thay vì đi
theo hướng đông bắc, nó đã đi xuống phía nam, qua Rotifunk và đến Bo, vào đất
Mende (Mendeland). Những người Anh đã muốn tiếp cận nhanh đến Mendeland,
trung tâm của cuộc nổi loạn, và đến các phần khác có tiềm năng gây hỗn loạn ở
nội địa nếu các cuộc nổi loạn khác bùng nổ.
Khi Sierra Leone trở nên độc lập năm 1961, những người Anh đã trao quyền
lực cho Sir Milton Margai và Đảng Nhân dân Sierra Leone (Sierra Leone
People’s Party – SLPP), mà đã thu hút sự ủng hộ chủ yếu ở miền nam, đặc biệt
Mendeland, và ở miền đông. Tiếp theo Sir Milton đã là em ông, Sir Albert
Margai, với tư cách thủ tướng năm 1964. Năm 1967 SLPP đã thua sít sao một
cuộc bầu cử tranh giành nóng bỏng trước phe đối lập, Đảng Hội nghi Toàn dân
(All People’s Congress Party – APC), do Siaka Stevens lãnh đạo. Stevens đã là
một người Limba, từ miền bắc, và APC đã có hầu hết sự ủng hộ của họ từ các
nhóm sắc tộc miền bắc, những người Limba, Temne, và Loko.
Mặc dù đường sắt xuống phía nam ban đầu đã được thiết kế bởi những người
Anh để cai trị Sierra Leone, vào năm 1967 vai trò của nó đã là kinh tế, chuyên
chở hầu hết hàng xuất khẩu của đất nước: cà phê, cocoa, và kim cương. Các nông
dân trồng cà phê và cocoa đã là những người Mende, và đường sắt đã là cửa sổ
VÒNG LUẨN QUẨN ● 337
của Mendeland ra thế giới. Mendeland đã hết sức bầu cho Albert Margai trong
bầu cử năm 1967. Stevens đã quan tâm nhiều đến việc bám chắc lấy quyền lực
hơn là thúc đẩy xuất khẩu của Mendeland. Lập luận của ông đã đơn giản: bất cứ
thứ gì tốt cho người Mende là tốt cho SLPP, và xấu cho Stevens. Cho nên ông đã
ngừng tuyến đường sắt đến Mendeland. Rồi ông đã đi trước và đã bán tống bán
tháo đường ray và nguyên liệu lưu chuyển để làm cho sự thay đổi càng không thể
đảo ngược được càng tốt. Bây giờ, khi bạn lái xe ra khỏi Freetown sang phía
đông, bạn đi qua các ga đường sắt đổ nát Hastings và Waterloo. Không còn tàu
hỏa đi đến Bo nữa. Tất nhiên, hành động quyết liệt của Stevens đã gây thiệt hại
một cách tai họa cho một số khu vực sôi động của nền kinh tế Sierra Leone.
Nhưng giống nhiều lãnh đạo Phi châu sau độc lập, khi sự lựa chọn đã là giữa củng
cố quyền lực và khuyến khích sự tăng trưởng kinh tế, Stevens chọn củng cố quyền
lực của mình, và ông đã chẳng bao giờ nhìn lại. Ngày nay không thể đi tàu hỏa
đến Bo nữa, bởi vì giống Sa hoàng Nicholas I, người đã sợ rằng đường sắt sẽ
mang cách mạng đến Nga, Stevens đã tin đường sắt sẽ tăng cường các đối thủ của
ông. Giống rất nhiều nhà cai trị khác khi kiểm soát các thể chế khai thác, ông đã
sợ các thách thức đối với quyền lực chính trị của mình và đã sẵn sàng hy sinh sự
tăng trưởng kinh tế để phá các thách thức đó.
Chiến lược của Stevens thoạt nhìn tương phản với chiến lược của người Anh.
Nhưng thực ra, có một mức độ liên tục đáng kể giữa sự cai trị Anh và chế độ của
Stevens mà minh họa logic của các vòng luẩn quẩn. Stevens đã cai trị Sierra
Leone bằng cách khai thác các nguồn lực từ người dân của nó sử dụng các
phương pháp tương tự. Ông đã vẫn còn nắm quyền lực trong năm 1985 không bởi
vì ông đã được nhân dân ưa thích bầu lại, mà bởi vì sau 1967 ông đã dựng lên một
chế độ độc tài hung bạo, giết và quấy rối các đối thủ chính trị của ông, đặc biệt
các thành viên của SLPP. Ông đã biến mình thành tổng thống trong năm 1971, và
sau 1978, Sierra Leone đã chỉ có một đảng chính trị, APC của Stevens. Stevens
như thế đã củng cố quyền lực của mình một cách thành công, cho dù với cái giá
làm bần cùng phần lớn nội địa.
Trong thời kỳ thuộc địa, người Anh đã sử dụng một hệ thống cai trị gián tiếp
để quản lý Sierra Leone, như họ đã làm với hầu hết các thuộc địa Phi châu của họ.
Tại cơ sở của hệ thống này đã là các thủ lĩnh tối cao, họ thu thuế, thực thi công lý,
và giữ trật tự. Người Anh đối phó với các nông dân trồng cocoa và cà phê không
338 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI
phải bằng cách cô lập họ, mà bằng cách buộc họ phải bán tất cả sản phẩm của họ
cho một hội đồng marketing được phát triển bởi sở thuộc địa được cho là để giúp
đỡ các nông dân. Giá cả của các mặt hàng nông nghiệp đã lên xuống dữ dội theo
thời gian. Giá cocoa có thể cao một năm và thấp trong năm tiếp theo. Thu nhập
của các nông dân đã lên xuống theo. Lý lẽ biện minh cho hội đồng marketing đã
là, họ, chứ không phải các nông dân, sẽ hấp thu những dao động giá. Khi giá thế
giới cao, hội đồng trả các nông dân ở Sierra Leone ít hơn giá thế giới, nhưng khi
giá thế giới thấp, họ sẽ làm điều ngược lại. Đã có vẻ là một ý tưởng tốt về nguyên
lý. Tuy vậy, thực tế đã rất khác. Hội đồng Marketing Sản phẩm Sierra Leone đã
được thành lập năm 1949. Tất nhiên hội đồng đã cần một nguồn thu nhập để hoạt
động. Cách tự nhiên để đạt những điều này là trả cho các nông dân ít hơn mức họ
phải được nhận một chút cả trong năm thuận lợi lẫn trong năm bất lợi. Số tiền này
khi đó có thể được dùng cho các khoản chi tiêu chung và hành chính. Chẳng bao
lâu ít hơn một chút trở thành ít hơn nhiều. Nhà nước thuộc địa đã sử dụng hội
đồng marketing như một cách để đánh thuế các nông dân một cách nặng nề.
Nhiều người đã kỳ vọng các tập quán tồi nhất của sự cai trị thuộc địa ở châu
Phi hạ-Sahara ngừng lại sau độc lập, và việc sử dụng các hội đồng marketing để
đánh thuế quá đáng các nông dân sẽ chấm dứt. Nhưng chẳng việc nào đã xảy ra.
Trên thực tế, sự tước đoạt các nông dân bằng cách sử dụng các hội đồng
marketing đã trở nên tồi hơn nhiều. Vào giữa các năm 1960, các nông dân trồng
cọ lấy nhân đã nhận được 56 phần trăm giá thế giới từ hội đồng marketing; nông
dân cocoa, 48 phần trăm; và nông dân cà phê, 49 phần trăm. Vào thời gian
Stevens rời chức vụ trong năm 1985, việc từ chức để cho phép ông chọn người kế
vị của m
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail
Why nations fail

More Related Content

PDF
Why nations-fail j-robinson
PDF
TAI SAO CAC QUOC GIA THAT BAI
PDF
Tu tuong hcm
DOCX
Tiểu Luận Chính Trị Và Phát Triển Xã Hội - Con Đường Phát Triển Theo Định Hướ...
PPTX
Nguyên nhân thành công và suy thoái của Kinh tế Nhật Bản tính đến 2015. Bài h...
PDF
Mối quan hệ giữa dân chủ với tăng trưởng và phúc lợi
PDF
Giáo trình lịch sử kinh tế (2)
PDF
Giáo trình lịch sử kinh tế
Why nations-fail j-robinson
TAI SAO CAC QUOC GIA THAT BAI
Tu tuong hcm
Tiểu Luận Chính Trị Và Phát Triển Xã Hội - Con Đường Phát Triển Theo Định Hướ...
Nguyên nhân thành công và suy thoái của Kinh tế Nhật Bản tính đến 2015. Bài h...
Mối quan hệ giữa dân chủ với tăng trưởng và phúc lợi
Giáo trình lịch sử kinh tế (2)
Giáo trình lịch sử kinh tế

Similar to Why nations fail (20)

PDF
Development policy 2013 course review
PPTX
1469Build confidence using English in daily, professional, and family life E...
PPTX
Bài giảng kinh tế học phát triển chương 1
PPTX
ảNh hưởng của các tác động đến kinh tế brazil
PPTX
Ảnh hưởng của các tác động đến kinh tế Brazil
PPTX
đề Tài chủ nghĩa xh..
DOC
Thảo luận 2 đường lối
PPT
Chương 1
PDF
Chuong 6 nhung nen tang cua tang truong
PDF
Chuong 6 nhung nen tang cua tang truong
PDF
Day 1 1-choosing success-v
DOC
Phân tích nội dung lý thuyết của W. Rostow
PPTX
Tieu luan nhom 3 slide
PPT
tailieuxanh_bai_giang_ktpt_4t_dhktqd_1889.ppt
PDF
Giải mã bí quyết thành công của quốc gia Do thái Israel
PDF
Luận án: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay
PPTX
LSHTKT Chủ nghĩa tự do mới
PPTX
Nội dung học thuyết chủ nghĩa tự do mới và khả năng vận dùng vào việt nam
DOC
Đề cương ôn Địa 11a1 - An Nhơn 3
PPTX
nhóm 1.pptx đo lường phát triển chủ đề 2
Development policy 2013 course review
1469Build confidence using English in daily, professional, and family life E...
Bài giảng kinh tế học phát triển chương 1
ảNh hưởng của các tác động đến kinh tế brazil
Ảnh hưởng của các tác động đến kinh tế Brazil
đề Tài chủ nghĩa xh..
Thảo luận 2 đường lối
Chương 1
Chuong 6 nhung nen tang cua tang truong
Chuong 6 nhung nen tang cua tang truong
Day 1 1-choosing success-v
Phân tích nội dung lý thuyết của W. Rostow
Tieu luan nhom 3 slide
tailieuxanh_bai_giang_ktpt_4t_dhktqd_1889.ppt
Giải mã bí quyết thành công của quốc gia Do thái Israel
Luận án: Quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị ở Việt Nam hiện nay
LSHTKT Chủ nghĩa tự do mới
Nội dung học thuyết chủ nghĩa tự do mới và khả năng vận dùng vào việt nam
Đề cương ôn Địa 11a1 - An Nhơn 3
nhóm 1.pptx đo lường phát triển chủ đề 2
Ad

More from Linh Hoàng (20)

PDF
duoi chan thay
PDF
Anh sang chan tam - dalailama
PDF
24 bài học thần kì nhất thế giới bài 2
PDF
24 bài học thần kì nhất thế giới bài 1
PDF
Nhà giả kim paulo coelho
PDF
Thế giới cong
DOCX
Song va khat vong tran dang khoa
PDF
Thegioitronggiotnuoc -luoc trich Thong Diep cua Nuoc Masaru Emoto
PDF
Bai thuoc từ hành gừng tỏi
PDF
Lam chu-van-menh-tt-thich-minh-quang-dich
PDF
Nhung nguyen tac vang cua napoleon hill
PDF
Chien luoc kinh doanh hieu qua
PDF
Tư duy tích cực - Trần Đình Hoành
PDF
Wikinomic-sự cộng tác đại chúng làm biến đổi thế giới như thế nào
PDF
Đạo Đức Kinh _ Lão Tử
PDF
Trang tử Nam hoa kinh
PDF
Nhân quả bao ung hien doi
PDF
Định giá đầu tư tập 1
PDF
Duyên Khởi
PDF
Định giá đầu tư tập 2
duoi chan thay
Anh sang chan tam - dalailama
24 bài học thần kì nhất thế giới bài 2
24 bài học thần kì nhất thế giới bài 1
Nhà giả kim paulo coelho
Thế giới cong
Song va khat vong tran dang khoa
Thegioitronggiotnuoc -luoc trich Thong Diep cua Nuoc Masaru Emoto
Bai thuoc từ hành gừng tỏi
Lam chu-van-menh-tt-thich-minh-quang-dich
Nhung nguyen tac vang cua napoleon hill
Chien luoc kinh doanh hieu qua
Tư duy tích cực - Trần Đình Hoành
Wikinomic-sự cộng tác đại chúng làm biến đổi thế giới như thế nào
Đạo Đức Kinh _ Lão Tử
Trang tử Nam hoa kinh
Nhân quả bao ung hien doi
Định giá đầu tư tập 1
Duyên Khởi
Định giá đầu tư tập 2
Ad

Why nations fail

  • 2. LỜI KHEN NGỢI Vì sao các Quốc gia Thất bại “Acemoglu và Robinson đã có một đóng góp quan trọng cho cuộc tranh luận về vì sao các quốc gia nhìn giống nhau lại hết sức khác nhau đến vậy trong sự phát triển kinh tế và chính trị của chúng. Thông qua một lượng lớn thí dụ lịch sử rộng, họ cho thấy bằng cách nào những sự phát triển thể chế, đôi khi dựa trên hoàn cảnh rất tình cờ, đã có những hệ quả to lớn. Tính mở của một xã hội, sự sẵn sàng của nó để cho phép sự phá hủy sáng tạo, và pháp trị dường như là có tính quyết định đối với sự phát triển kinh tế.” - Kenneth J. Arrow, giải Nobel Kinh tế, 1972. “Các tác giả đã chứng minh một cách thuyết phục rằng các nước thoát khỏi nghèo chỉ khi chúng có các thể chế kinh tế thích hợp, đặc biệt quyền sở hữu tư nhân và cạnh tranh, Một cách độc đáo hơn, họ chứng tỏ các nước có nhiều khả năng hơn để phát triển các thể chế đúng khi chúng có một hệ thống chính trị đa nguyên mở với sự cạnh tranh cho chức vụ chính trị, một số lượng cử tri rộng rãi, và một sự cởi mở cho các nhà lãnh đạo chính trị mới. Quan hệ mật thiết này giữa các thể chế chính trị và kinh tế là tâm điểm của đóng góp lớn của họ, và đã dẫn đến một nghiên cứu đầy sức sống về một trong những vấn đề cốt yếu trong kinh tế học và kinh tế học chính trị.” - Gary S. Becker, giải Nobel Kinh tế, 1992. “Cuốn sách quan trọng và sâu sắc này, được xếp chặt bằng những thí dụ lịch sử, đưa ra lý lẽ ủng hộ rằng các thể chế chính trị bao gồm ủng hộ các thể chế kinh tế bao gồm là chìa khóa cho sự thịnh vượng bền vững. Cuốn sách điểm lại bằng cách nào một số chế độ tốt được đưa vào và sau đó có một vòng xoáy thiện, trong khi các chế độ tồi vẫn ở trong một vòng xoáy luẩn quẩn. Đấy là phân tích quan trọng không được quên.” - Peter Diamond, giải Nobel Kinh tế, 2010. “Đối với những người nghĩ rằng số phận kinh tế của một quốc gia được định đoạt bởi địa lý hay văn hóa, Daron Acemoglu và Jim Robinson có tin xấu. Chính là các
  • 3. thể chế do con người tạo ra, chứ không phải địa hình địa thế hay đức tin của cha ông chúng ta, là cái quyết định liệu một quốc gia là giàu hay nghèo. Tổng hợp một cách xuất sắc công trình của các nhà lý luận từ Adam Smith đến Douglass North với nghiên cứu kinh nghiệm gần đây hơn của các sử gia kinh tế, Acemoglu và Robinson đã tạo ra một cuốn sách hấp dẫn và rất dễ đọc.” - Niall Ferguson, tác giả của The Ascent of Money. “Acemoglu và Robinson – hai chuyên gia hàng đầu thế giới về phát triển – tiết lộ vì sao không phải địa lý, bệnh tật, hay văn hóa là cái giải thích vì sao một số quốc gia giàu và một số nghèo, mà đúng hơn là vấn đề của các thể chế và chính trị. Cuốn sách rất dễ tiếp cận này cung cấp sự thấu hiểu đáng hoan nghênh cho các chuyên gia và các bạn đọc phổ thông như nhau.” - Francis Fukuyama, tác giả của The End of History và Last Man và The Origins of Political Order “Một cuốn sách xuất sắc và gây phấn khích – thế nhưng cũng là một lời kêu gọi thức tỉnh gây lo lắng sâu sắc. Acemoglu và Robinson trình bày một lý thuyết đầy thuyết phục về hầu như mọi thứ cần làm với sự phát triển kinh tế. Các nước trỗi dậy và thăng tiến khi họ đặt các thể chế chính trị đúng ủng hộ tăng trưởng vào vị trí, và thất bại – thường một cách ngoạn mục – khi các thể chế đó chai cứng lại hay không thích nghi. Những người mạnh mẽ luôn luôn và ở mọi nơi đều tìm cách chộp lấy sự kiểm soát hoàn toàn chính phủ, làm xói mòn sự tiến bộ xã hội rộng lớn hơn vì sự tham lam của riêng họ. Chặn những người đó với nền dân chủ hữu hiệu hoặc đứng nhìn quốc gia bạn thất bại.” - Simons Johnson, đồng tác giả của 13 Bankers và giáo sư tại MIT Sloan. “Hai nhà kinh tế học giỏi nhất và uyên bác nhất thế giới, hướng vào vấn đề khó nhất của mọi vấn đề: vì sao một số quốc gia nghèo và số khác giàu? Được viết với một sự hiểu biết sâu sắc về kinh tế học và lịch sử chính trị, đây có lẽ là tuyên bố mạnh mẽ nhất từng được đưa ra cho đến nay rằng ‘thể chế là quan trọng’. Một cuốn sách khiêu khích, làm sáng tỏ, vậy mà hoàn toàn làm say đắm.”
  • 4. - Joel Mokyr, giáo sư Robert H. Strotz về Nghệ thuật và Khoa học và giáo sư Kinh tế học và Lịch sử, Northwestern University “Trong [cuốn sách] dễ đọc một cách thú vị qua bốn trăm năm lịch sử một cách dễ dàng này, hai người khổng lồ của khoa học xã hội đương đại đưa cho chúng ta một thông điệp gây cảm hứng và quan trọng: chính tự do là cái khiến thế giới giàu. Những kẻ bạo chúa ở mọi nơi hãy run sợ!” - Ian, Morris, Standford University, tác giả của Why the West Rules – for Now “Hãy tưởng tượng ngồi quanh một chiếc bàn lắng nghe Jared Diamond, Joseph Schumpeter, và James Madison ngẫm nghĩ về hơn hai ngàn năm của lịch sử chính trị và kinh tế. Hãy tưởng tượng rằng họ dệt các ý tưởng của họ vào một khung khổ lý thuyết mạch lạc dựa trên việc hạn chế sự khai thác, khuyến khích sự phá hủy sáng tạo, và tạo ra các thể chế chính trị mạnh chia sẻ quyền lực, và bạn bắt đầu thấy đóng góp của cuốn sách xuất sắc và được viết một cách lôi cuốn này.” - Scott E. Page, University of Michigan và Santa Fe Institute. “Trong cuốn sách có phạm vi hết sức rộng này, Acemoglu và Robinson hỏi một câu hỏi đơn giản nhưng quan trọng, vì sao một số quốc gia trở nên giàu có và các quốc gia khác vẫn nghèo? Câu trả lời của họ cũng đơn giản – bởi vì một số chính thể phát triển các thể chế chính trị bao gồm hơn. Điểm đáng chú ý về cuốn sách này là tính dứt khoát và tính sáng sủa của cách viết, sự tao nhã của lý lẽ, và sự phong phú đặc biệt về chi tiết lịch sử. Cuốn sách này là cuốn phải đọc tại một thời điểm khi các chính phủ khắp thế giới phương Tây phải tìm ra ý chí chính trị để giải quyết khủng hoảng nợ có quy mô khác thường.” - Steven Pincus, giáo sư Bradford Durfee về Lịch sử và Nghiên cứu Quốc tế và Vùng, Yale University “Là chính trị, ngu ạ! Đó là lời giải thích đơn giản nhưng hấp dẫn của Acemoglu và Robinson cho vì sao nhiều nước đến vậy không phát triển. Từ Chính thể Chuyên chế của nhà Stuart đến trước chiến tranh miền Nam, từ Sierra Leone đến Colombia, công trình có quyền uy này cho thấy giới ưu tú hùng mạnh gian lận các
  • 5. quy tắc như thế nào để làm lợi cho bản thân họ gây tổn hại cho nhiều người. Lên kế hoạch chi tiết một tiến trình cẩn trọng giữa những người bi quan và những người lạc quan, các tác giả đã chứng minh địa lý và lịch sử không phải là định mệnh. Nhưng họ cũng chứng minh bằng tư liệu các ý tưởng và chính sách kinh tế hợp lý thường đạt được ít đến thế nào khi thiếu sự thay đổi chính trị căn bản.” - Dani Rodrik, Kennedy School of Government, Havard University “Đây không chỉ là một cuốn sách hấp dẫn và lý thú: nó là một cuốn sách thực sự quan trọng. Nghiên cứu hết sức độc đáo mà các giáo sư Acemoglu và Robinson đã tiến hành, và tiếp tục làm, về các lực lượng kinh tế, chính trị, và các lựa chọn chính sách tiến triển cùng nhau như thế nào, và các thể chế tác động ra sao đến sự tiến triển đó, là thiết yếu để hiểu thành công và thất bại của các xã hội và các quốc gia. Và ở đây, trong cuốn sách này, những hiểu biết sâu sắc này đến dưới dạng rất dễ tiếp cận, quả thực rất lôi cuốn. Những người cầm cuốn sách này lên và bắt đầu đọc sẽ gặp rắc rối đặt nó xuống.” - Michael Spence, giải Nobel Kinh tế, 2001 “Cuốn sách hấp dẫn và dễ đọc này tập trung vào sự đồng tiến hóa phức tạp của các thể chế chính trị và kinh tế, trong các hướng tốt và xấu. Nó tìm thấy một sự cân đối tế nhị giữa logic của ứng xử chính trị và ứng xử kinh tế và những sự chuyển hướng được tạo ra bởi các sự kiện lịch sử bất ngờ, lớn và nhỏ, tại các ‘critical juncture – bước ngoặt’. Acemoglu và Robinson cung cấp một dải rất rộng các thí dụ lịch sử để chứng tỏ những sự dịch chuyển như vậy có thể nghiêng ra sao theo hướng các thể chế thuận lợi, đổi mới tiến bộ, và thành công kinh tế hoặc theo hướng các thể chế đàn áp và cuối cùng suy tàn hay trì trệ. Bằng cách nào đó họ có thể gây ra cả sự kích thích lẫn sự suy ngẫm.” - Robert Solow, giải Nobel Kinh tế, 1987
  • 6. Why Nations Fail THE ORIGINS OF POWER, PROSPERITY, AND POVERTY Daron Acemoglu and Jemes A. Robinson Crown Publishers ● New York
  • 7. Vì sao Các Quốc gia Thất bại NGUỒN GỐC CỦA QUYỀN LỰC, THỊNH VƯỢNG, VÀ NGHÈO KHÓ Daron Acemoglu và Jemes A. Robinson Nguyễn Quang A dịch
  • 8. For Arda and Asu - DA Para María Angélica, mi vida y mi Alma - JR
  • 10. MỤC LỤC Lời giới thiệu ● xiii LỜI NÓI ĐẦU ● 1 Vì sao những người Ai Cập tràn đầy Quảng trường Tahrir để hạ bệ Hosni Mubarak và nó có ý nghĩa gì cho sự hiểu biết của chúng ta vể các nguyên nhân của sự thịnh vượng và nghèo khó. 1. GẦN THẾ MÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 7 Nogales, Arizona, và Nogales, Sonora, là các thị trấn có cùng dân chúng, văn hóa, và địa lý. Vì sao một thị trấn giàu còn thị trấn kia nghèo? 2. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 45 Các nước nghèo không phải bởi vì địa lý, văn hóa của chúng, hay bởi vì các nhà lãnh đạo của chúng không biết các chính sách nào sẽ làm cho các công dân của họ giàu. 3. TẠO RA SỰ THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 70 Sự thịnh vượng và nghèo khó được xác định như thế nào bởi các khuyến khích do các thể chế tạo ra, và bằng cách nào chính trị xác định các thể chế nào mà một quốc gia có 4. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT: SỨC NẶNG CỦA LỊCH SỬ ● 96 Các thể chế thay đổi thế nào thông qua xung đột chính trị và quá khứ định hình hiện tại ra sao
  • 11. 5. “TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG”: TĂNG TRƯỞNG DƯỚI CÁC THỂ CHẾ KHAI THÁC ● 124 Stalin, Vua Shyaam, Cách mạng Đồ đá mới, và các thành quốc Maya tất cả có gì chung và bằng cách nào điều này giải thích vì sao sự tăng trưởng hiện thời của Trung Quốc không thể kéo dài 6. TRÔI DẠT XA NHAU ● 152 Các thể chế tiến hóa thế nào theo thời gian, thường trôi dạt chậm chạp xa khỏi nhau 7. ĐIỂM NGOẶT ● 182 Một cuộc cách mạng chính trị năm 1688 đã làm thay đổi các thể chế ở nước Anh và đã dẫn đến Cách mạng Công nghiệp như thế nào 8. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI: CÁC RÀO CẢN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN ● 213 Vì sao những kẻ có thế lực chính trị ở nhiều quốc gia đã chống Cách mạng Công nghiệp Các ảnh được chèn 9. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 245 Chủ nghĩa thuộc địa Âu châu đã bần cùng hóa các phần lớn của thế giới thế nào 10. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 274 Một số phần của thế giới đã đi các con đường khác con đường Anh như thế nào đến sự thịnh vượng
  • 12. 11. VÒNG THIỆN ● 302 Các thể chế thúc đẩy thịnh vượng tạo ra các vòng phản hồi dương như thế nào để ngăn chặn các nỗ lực của giới chóp bu (elite) nhằm làm xói mòn chúng 12. VÒNG LUẨN QUẨN ● 335 Bằng cách nào các thể chế gây nghèo khó tạo ra các vòng phản hồi âm và tiếp tục tồn tại 13. VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI NGÀY NAY ● 368 Thể chế, thể chế, thể chế 14. PHÁ VỠ KHUÔN ĐÚC ● 404 Một và nước đã thay đổi quỹ đạo kinh tế của họ bằng thay đổi các thể chế của họ ra sao 15. HIỂU SỰ THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 428 Thế giới đã có thể khác thế nào và bằng cách nào sự hiểu điều này có thể giải thích vì sao hầu hết các nỗ lực chống nghèo đã thất bại LỜI CẢM ƠN ● 463 TIỂU LUẬN VÀ CÁC NGUỒN THƯ MỤC ● 465 TÀI LIỆU THAM KHẢO ● 488 CHỈ MỤC ● 515
  • 13. xiii LỜI GIỚI THIỆU Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ hai mươi ba* của tủ sách SOS2 , cuốn Vì sao các Quốc gia Thất bại của hai nhà khoa học Daron Acemoglu (giáo sư kinh tế học, MIT) và James A. Robinson (giáo sư Quản lý nhà nước, Đại học Havard) vừa xuất bản ở Mỹ đầu năm 2012. Tiêu đề phụ của cuốn sách là, nguồn gốc của quyền lực, sự thịnh vượng, và nghèo khó. Cuốn sách tìm câu trả lời cho câu một hỏi đơn giản nhưng đã làm cho nhiều học giả đau đầu trong nhiều thế kỷ qua: vì sao một số quốc gia giàu và nhiều quốc gia nghèo? Đã có nhiều lý thuyết (giả thuyết) tìm cách giải đáp cho câu hỏi này hay giải * Các quyển trước gồm: 1. J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin (NXB VHTT) 2002; Con đường dẫn tới nền kinh tế tự do (NXB Tri thức. 2007) 2. J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002 3. J. Kornai- K. Eggleston: Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002 4. G. Soros: Giả kim thuật tài chính 5. H. de Soto: Sự bí ẩn của tư bản, NXB Chính trị Quốc gia, 2006 [Sự bí ẩn của Vốn] 6. J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội đi về đâu? 7. F.A. Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nông nô 8. G. Soros: Xã hội Mở 9. K. Popper: Sự Khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử 10. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, I, Plato 11. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, II, Hegel và Marx 12. Thomas S. Kuhn: Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học 13. Thomas L. Friedman: Thế giới phẳng, Nhà xuất bản Trẻ, 2006 14. Một năm Hội nghị Diên Hồng Hungary do Nguyễn Quang A tuyển, dịch, biên soạn 15. Kornai János: Bằng Sức mạnh Tư duy, tiểu sử tự thuật đặc biệt, NXB Thanh Hóa, 2008 16. Kornai János: Lịch sử và những bài học, NXB Tri thức, 2007 17. Peter Drucker: Xã hội tri thức, Quản lý, Kinh doanh, Xã hội và Nhà nước, tập tiểu luận 18. Murray Rothabrd: Luân lý của tự do 19. Amartya Sen: Tư tưởng về công bằng, sắp xuất bản 20. Kornai János: Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, dân chủ và thay đổi hệ thống, sắp xuất bản 21. Kornai János: Các ý tưởng về chủ nghĩa tư bản, NXB Thời Đại, 2012. 22. Robert Kagan: Thế giới mà Mỹ tạo ra, 2012
  • 14. xiv ● LỜI GIỚI THIỆU thích hiện tượng bất bình đẳng thế giới nhức nhối đó. Có các giả thuyết về địa lý, văn hóa, sự thiếu hiểu biết của các nhà lãnh đạo quốc gia, nhưng các lý thuyết này đều không trả lời được một cách thỏa đáng cho câu hỏi đơn giản nêu trên. Acemoglu và Robinson đưa ra giả thuyết về các thể chế chính trị là cái quyết định chứ không phải địa lý, văn hóa, hay sự thiếu hiểu biết. Lập luận đại thể như sau: một quốc gia giàu nếu phần lớn công dân của nó tham gia vào các hoạt động kinh tế, tạo ra nhiều của cải một cách hiệu quả, luôn tìm cách mới để thực hiện các nhiệm vụ (cũ và mới) sao cho hiệu quả hơn. Nhưng cái gì khiến các tác nhân kinh tế (cá nhân, hộ gia đình, các công ty) làm như vậy? Đó là các khuyến khích (incentive). Không có các khuyến khích, không có động cơ người ta không tích cực làm việc; các phản khuyến khích thậm chí còn gây ra tác hại. Nghiên cứu các khuyến khích là một trong những nội dung chính của kinh tế học (và khoa học xã hội nói chung khi khuyến khích được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ là khuyến khích kinh tế). Song cái gì định hình các khuyến khích? Đó là các thể chế kinh tế. Các thể chế kinh tế là các quy tắc ảnh hưởng đến nền kinh tế hoạt động thế nào và đến các khuyến khích thúc đẩy người dân ra sao. Các tác giả phân ra hai loại thể chế kinh tế: thể chế kinh tế bao gồm (inclusive economic institution) và các thể chế kinh tế khai thác (extractive economic institution). Các thể chế kinh tế bao gồm bảo đảm: các quyền tài sản an toàn; luật pháp và trật tự; các thị trường và sự ủng hộ của nhà nước đối với các thị trường (qua các dịch vụ công và các quy định); dễ tham gia hoạt động kinh tế; tôn trọng các hợp đồng; đa số nhân dân được tiếp cận đến giáo dục và đào tạo và các cơ hội. Ngược lại thì các thể chế kinh tế là khai thác: thiếu luật pháp và trật tự; các quyền tài sản không an toàn; các rào cản tham gia và các quy chế cản trở hoạt
  • 15. LỜI GIỚI THIỆU ● xv động của các thị trường và tạo ra sân chơi không bằng phẳng. Cuối cùng, các thể chế kinh tế hình thành trên cơ sở nào? Các thể chế chính trị định hình các thể chế kinh tế. Các tác giả phân biệt hai loại thể chế chính trị: bao gồm và khai thác. Các thể chế chính trị bao gồm bảo đảm: điều kiện cho sự tham gia rộng rãi của các công dân – chủ nghĩa đa nguyên – đặt ra các ràng buộc và kiểm soát đối với các chính trị gia; nền pháp trị; nhà nước tập trung ở mức đủ để thực thi luật pháp và trật tự (nhưng không quá tập trung để biến thành chính thể chuyên chế). Ngược lại, các thể chế chính trị mang tính khai thác: tập trung quyền lực chính trị vào tay một số ít người; không có các ràng buộc lên các chính trị gia hay kiểm soát và cân bằng hay thiếu nền pháp trị. Các thể chế kinh tế bao gồm thúc đẩy tăng trưởng thông qua: khuyến khích đầu tư; tận dụng sức mạnh thị trường trong phân bổ nguồn lực, sự tham gia của các hãng hiệu quả hơn, có khả năng tài trợ vốn cho kinh doanh khởi nghiệp; tạo điều kiện cho sự tham gia rộng rãi thông qua tạo cơ hội bình đẳng, để các công dân có cơ hội giáo dục và đào tạo; và quan trọng nhất khuyến khích đầu tư vào công nghệ mới và chấp nhận sự phá hủy sáng tạo. Như thế, các thể chế bao gồm tạo ra các khuyến khích để các tác nhân kinh tế hoạt động hiệu quả và kết quả là tạo ra tăng trưởng bền vững, và như thế thường dẫn các quốc gia đến giàu có. Tăng trưởng, tuy vậy luôn luôn kéo theo những kẻ thắng và những người thua. Những kẻ thắng thường ủng hộ, song những người thua thường chống đối. Những người thua về kinh tế và nhất là những người thua (hay có khả năng bị thua) về mặt chính trị thường ngăn cản quyết liệt. Và đấy chính là logic của các thể chế khai thác: những người có quyền thế sợ sự mất quyền lực, sợ sự phá hủy sáng tạo, sợ bị trở thành kẻ thua, nên tìm cách cản trợ thay đổi, cố duy trì các thể chế khai
  • 16. xvi ● LỜI GIỚI THIỆU thác, ưu tiên giữ ổn định chính trị, giữ hiện trạng có lợi cho họ. Tuy vậy, dưới các thể chế khai thác cũng có thể có tăng trưởng. Đầu tiên, có tăng trưởng thì mới có của cải để khai thác. Tăng trưởng dưới các thể chế khai thác chủ yếu diễn ra theo hai kiểu: chuyển nguồn lực từ khu vực năng suất thấp (thí dụ nông nghiệp) sang khu vực có năng suất cao hơn (công nghiệp hay dịch vụ, chẳng hạn); giới chóp bu có thể tự tin để tạo ra các yếu tố bao gồm trong các thể chế kinh tế trong khi vẫn giữ các thể chế chính trị khai thác. Các thể chế kinh tế khai thác có thể tạo ra tăng trưởng, nhưng không bền vững trong dài hạn và thường không tạo ra tăng trưởng và vì thế dẫn đến nghèo khó. Có ái lực mạnh (hay sự đồng vận) giữa các thể chế chính trị bao gồm và các thể chế kinh tế bao gồm; cũng vậy đối với các thể chế khai thác; chúng tăng cường lẫn nhau và tạo ra trạng thái ổn định tương đối. Sự kết hợp của các thể chế chính trị khai thác với các thể chế kinh tế bao gồm có thể tạo ra tăng trưởng, nhưng cuối cùng sẽ quay về hai trạng thái ổn định hơn: hoặc các thể chế chính trị chuyển thành các thể chế bao gồm và quốc gia phát triển mạnh, hay các thể chế kinh tế bao gồm bị thay thế bằng các thể chế khai thác. Tương tự, trạng thái các thể chế chính trị bao gồm kết hợp với các thể chế kinh tế khai thác cũng là trạng thái bất ổn định: các lực lượng chính trị sẽ buộc các thể chế kinh tế trở nên bao gồm, hoặc bản thân các thể chế chính trị bị biến thành khai thác. Có thể phát triển một loại số đo tổng hợp, theo kiểu như chỉ số HDI chẳng hạn, cho các thể chế chính trị và kinh tế. Có thể gán, chẳng hạn chỉ số - 1 cho tập các thể chế tuyệt đối khai thác, và +1 cho tập các thể chế tuyệt đối bao gồm. Khi đó số đo của các thể chế chính trị của một quốc gia có thể có giá trị từ (-1) đến (+1) và có thể được biểu diễn như một điểm nào đó giữa (-1 và + 1), thí dụ trên trục tung (y). Tương tự số đo của tập các thể chế kinh tế cũng lấy giá trị từ -1 đến +1
  • 17. LỜI GIỚI THIỆU ● xvii và có thể biểu diễn thí dụ trên trục hoành (x) [ở sơ đồ dưới đây trục x chạy từ phải qua trái hơi ngược với bình thường một chút]. Như thế ta có bốn ô trên mặt phẳng x-y: ô 1 trên cùng bên phải, ô 2 dưới cùng bên phải; ô 3 dưới bên trái; và ô 4 trên cùng bên trái. Tại mỗi thời điểm, mỗi quốc gia có một vị trí ở một trong bốn ô này, và theo thời gian vị trí có thể dịch chuyển trong từng ô, hay chuyển từ ô này sang ô kia. Sự dịch chuyển này vẽ lên một quỹ đạo thể chế, và lịch sử thể chế đóng vai trò hết sức quan trọng trong lý thuyết của hai tác giả này. Rất nhiều quốc gia nằm ở ô 2 và họ thường nghèo và vị trí càng gần góc dưới bên phải (-1,-1) thì càng nghèo; có một số quốc gia ở ô 4 và họ thường giàu, các quốc gia có vị trí càng gần góc trên cùng bên trái (+1,+1) thì càng giàu. Hai ô 2 và 4 tương đối ổn định. Ô 2 gắn với vòng luẩn quẩn. Ô 4 gắn với vòng thiện, và sự ổn định tại đây cũng chỉ tương đối, nếu không giữ gìn vẫn có thể thụt lùi, như trường hợp Venice. Các ô 1 và 3 không ổn định theo nghĩa các quốc gia nằm ở các ô này sớm muộn (tính bằng hàng chục năm) sẽ chuyển về ô 2 hay ô 4. Phần cốt lõi thứ hai của lý thuyết là động học của sự thay đổi thể chế. Các tác giả nhấn mạnh đến tầm quan trọng của: các xung đột (conflict) luôn xảy ra trong xã hội; sự trôi dạt thể chế (institutional drift), các thể chế ban đầu như nhau theo
  • 18. xviii ● LỜI GIỚI THIỆU thời gian sẽ trôi dạt xa nhau; và tạo ra những sự khác biệt nhỏ về thể chế nhưng các khác biệt nhỏ lại có thể quan trọng trong các bước ngoặt; các bước ngoặt (critical juncture) là bất cứ sự kiện lớn nào ảnh hưởng đến xã hội như tai họa thiên nhiên, dịch bệnh, khám phá mới, hay các cuộc cách mạng, hay cái chết của một nhân vật quan trọng; và sự tùy thuộc ngẫu nhiên (contingency). Các xung đột dẫn đến sự trôi dạt thể chế, tại các bước ngoặt do những khác biệt nhỏ và sự tùy thuộc ngẫu nhiên chúng rẽ nhánh theo những con đường rất khác nhau và tạo ra sự phân kỳ thể chế. Lý thuyết về thay đổi thể chế cũng như sự đồng vận của các thể chế (chính trị và kinh tế) bao gồm và sự đồng vận của các thể chế khai thác là các công cụ hùng mạnh mà các tác giả dùng để tìm câu trả lời cho câu hỏi đơn giản và hết sức cơ bản mà cuốn sách đặt ra: vì sao có một số quốc gia giàu và nhiều quốc gia nghèo, vì sao các phương pháp xóa nghèo hiện hành thường thất bại. Các tác giả đưa bạn đọc chu du khắp thế giới, từ châu Mỹ, Hoa Kỳ, đến châu Âu, châu Phi, châu Á, châu Đại Dương để tìm hiểu vì sao ở nơi nào đó lại nghèo hay giàu, các lực lượng chính trị và kinh tế tương tác với nhau ra sao và gây ra những thay đổi thể chế như thế nào và đưa ra cách giải thích thuyết phục cho các hiện tượng đó, giúp bạn đọc hiểu trên cơ sở của khung khổ lý thuyết này. Tầm phủ thời gian của cuốn sách cũng thật ấn tượng, từ cách mạng đồ đá mới đến 2011, nhưng chi tiết hơn là khoảng một ngàn năm và nhất là từ 1800 đến nay. Một lý thuyết khoa học luôn là các giả thuyết và giá trị của một lý thuyết chỉ nằm trong sức mạnh giải thích (và tiên đoán, nhưng trong các khoa học xã hội khó có thể nói về khả năng tiên đoán) của nó. Muốn cho quốc gia không thất bại và giàu có thì phải tìm mọi cách để xây dựng các thể chế chính trị bao gồm. Các tác giả nhấn mạnh không có công thức
  • 19. LỜI GIỚI THIỆU ● xix sẵn có cho việc này. Tuy vậy có nhiều việc có thể tạo thuận lợi, có thể thúc đẩy cho việc hình thành các thể chế chính trị như vậy. Trao quyền (empowerment) cho nhân dân, hay cho các mảng rộng của xã hội là hết sức quan trọng để cho một quá trình như vậy có thể hình thành hay mang lại kết quả. Xây dựng nền pháp trị thực sự, với những ràng buộc lên các chính trị gia, buộc họ phải có trách nhiệm giải trình và khó lạm dụng quyền lực. Người dân biết quyền của mình và đòi một cách tích cực các quyền hiến định đó và tham gia vào các tổ chức chính trị. Cần một nền báo chí tự do và quyền tự do ngôn luận. Và như thế cần có một xã hội dân sự lành mạnh và sự tham dự tích cực của các công dân. Đấy là cách làm giàu bền vững nhất không chỉ cho chính mình mà cho cả con cháu nhiều đời sau. Cuốn sách được viết rất sáng sủa và hết sức dung dị, không đòi hỏi quá nhiều kiến thức kinh tế học từ bạn đọc. Theo tôi đây là một công trình rất có giá trị và chắc chắn sẽ có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển nói chung và của sự phát triển kinh tế học nói riêng. Tôi nghĩ đối tượng bạn đọc của cuốn sách này sẽ rất rộng, từ các nhà kinh tế học, các nhà khoa học xã hội, các nhà hoạch định chính sách, các chính trị gia, các nhà báo, sinh viên, học sinh thuộc tất cả các ngành (chứ không chỉ các ngành xã hội) và bất cứ ai quan tâm khác đều nên đọc cuốn sách này. Và họ sẽ không phí công vì nó giúp chúng ta hiểu thế giới, hiểu chính mình và tự rút ra các bài học cho hành động thực tiễn. Cảm ơn các ông Nguyễn Anh Tuấn và Vũ Văn Lê đã tặng sách. Tôi đã hết sức cố gắng để truyền tải chính xác nội dung nhưng do hiểu biết hạn chế nên bản dịch chắc chắn còn nhiều thiếu sót mong được bạn đọc góp ý và lượng thứ. Hà Nội, 4- 6-2012 Nguyễn Quang A
  • 21. LỜI NÓI ĐẦU uốn sách này là về những khác biệt khổng lồ về thu nhập và mức sống mà tách biệt các nước giàu trên thế giới, như Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, và Đức, khỏi các nước nghèo, như các nước ở châu Phi hạ-Sahara, Trung Mỹ và Nam Á. Khi chúng tôi viết lời nói đầu này, Bắc Phi và Trung Đông rung chuyển bởi “Mùa xuân Arab” khởi đầu bằng cái được gọi là Cách mạng Hoa Nhài, mà ban đầu được châm ngòi bởi việc làm công chúng phẫn uất vì sự tự thiêu của một người bán hàng rong, Mohamed Bouazizi, ngày 17-12-2010. Ngày 14-1-2011, Tổng thống Zine El Abidine Ben Ali, người đã cai trị Tunesia từ 1987, đã từ chức, nhưng nhiệt tình cách mạng chống lại sự cai trị của giới ưu tú (elite) có đặc quyền ở Tunesia còn xa mới giảm bớt đi, đã trở nên mạnh hơn và đã lan ra phần còn lại của Trung Đông. Hosni Mubarak, người đã cai trị Ai Cập với một bàn tay siết chặt gần ba mươi năm, đã bị hất cẳng vào ngày 11-1-2011. Số phận của các chế độ ở Bahrain, Lybia, Syria và Yemen chưa được rõ khi chúng tôi hoàn tất lời nói đầu này. Gốc rễ của sự bất mãn tại các nước này là ở sự nghèo khó của chúng. Một người Ai Cập trung bình có mức thu nhập bằng khoảng 12 phần trăm của mức thu nhập của công dân Mỹ trung bình, và có thể kỳ vọng để sống ngắn hơn mười năm; 20 phần trăm dân số sống trong cảnh cực kỳ nghèo. Tuy những khác biệt này là đáng kể, chúng thực ra là khá nhỏ so với những sự khác biệt giữa Hoa Kỳ và các nước nghèo nhất trên thế giới, như Bắc Triều Tiên, Sierra Leone, và Zimbabwe, nơi hơn một nửa dân số sống trong nghèo khó. Vì sao Ai Cập nghèo hơn Hoa Kỳ nhiều đến vậy? Những ràng buộc nào kéo những người Ai Cập khỏi việc trở nên phát đạt hơn? Sự nghèo của Ai Cập có là bất biến, hay có thể được xóa bỏ? Cách tự nhiên để bắt đầu nghĩ về việc này là nghe bản thân những người Ai Cập nói về các vấn đề họ đối mặt và vì sao họ lại đứng lên chống chế độ Mubarak. Noha Hamed, một người hai mươi bốn tuổi, làm việc tại một hãng quảng cáo ở Cairo, đã làm rõ quan điểm của mình khi cô biểu tình tại Quảng trường Tahrir: “Chúng tôi đã chịu sự tham nhũng, sự áp bức, và nền giáo dục tồi. Chúng tôi sống giữa một hệ thống thối nát mà phải thay đổi”. C
  • 22. 2 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Một người khác trên quảng trường, Mosaab El Shami, hai mươi tuổi, sinh viên dược, nhất trí: “Tôi hy vọng rằng vào cuối năm nay chúng tôi sẽ có một chính phủ được bầu và rằng quyền tự do phổ quát được áp dụng và rằng chúng ta chấm dứt nạn tham nhũng mà đã kiểm soát đất nước này”. Những người biểu tình ở Quảng trường Tahrir đã nói cùng một tiếng nói về sự tham nhũng của chính phủ, sự bất lực của nó để cung cấp các dịch vụ công, và sự thiếu bình đẳng cơ hội ở nước họ. Họ đặc biệt than phiền về sự áp bức và sự thiếu các quyền chính trị. Như Mohamed ElBaradei, nguyên giám đốc Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, đã viết trên Twitter ngày 13-1-2011, “Tunesia: áp bức + thiếu công lý xã hội + từ chối các kênh cho diễn biến hòa bình = một quả bom nổ chậm đang kêu tích tắc”. Những người Ai Cập và Tunesia đều đã coi các vấn đề kinh tế của họ cơ bản là do thiếu các quyền chính trị gây ra. Khi những người biểu tình bắt đầu diễn đạt các đòi hỏi của họ một cách có hệ thống hơn, mười hai đòi hỏi đầu tiên được post lên bởi Wael Khalil, một kỹ sự phần mềm và blogger người đã nổi lên như một trong những nhà lãnh đạo của phong trào phản kháng Ai Cập, đã đều tập trung vào sự thay đổi chính trị. Các vấn đề như tăng lương tối thiểu đã xuất hiện chỉ giữa các đòi hỏi chuyển tiếp mà sẽ được thực hiện muộn hơn. Đối với những người Ai Cập, những cái, mà đã néo giữ họ lại, bao gồm một nhà nước không hiệu quả và thối nát và một xã hội nơi họ không thể sử dụng tài năng, khát vọng và sự khéo léo của mình và sự giáo dục mà họ có thể có được. Nhưng họ cũng nhận ra gốc rễ của các vấn đề này là có nguồn gốc chính trị. Tất cả những cản trở kinh tế mà họ đối mặt bắt nguồn từ cách mà quyền lực chính trị được sử dụng và bị độc chiếm bởi một elite hẹp. Đấy, họ hiểu, là cái đầu tiên phải thay đổi. Thế nhưng, khi tin điều này, những người biểu tình ở Quảng trường Tahrir đã bất đồng sâu sắc với sự sáng suốt thông thường về chủ đề này. Khi lập luận, vì sao một nước như Ai Cập lại nghèo, hầu hết các học giả và những người bình luận nhấn mạnh các yếu tố hoàn toàn khác. Một số người nhấn mạnh sự nghèo của Ai Cập chủ yếu là do địa lý của nó quyết định, do sự thực rằng đất nước này hầu như là một sa mạc và thiếu lượng mưa đầy đủ, và rằng đất và khí hậu của nó không cho phép một nền nông nghiệp sinh lợi. Những người khác thì chỉ ra các tính chất văn hóa của những người Ai Cập mà được cho là không thuận cho sự phát triển và thịnh vượng kinh tế. Họ cho rằng những người Ai Cập thiếu đúng loại phong
  • 23. LỜI NÓI ĐẦU ● 3 cách làm việc và các đặc điểm văn hóa mà đã cho phép các dân tộc khác phát đạt, và thay vào đó đã chấp nhận các niềm tin Islamic không phù hợp với thành công kinh tế. Một cách tiếp cận thứ ba, cách chiếm ưu thế giữa các nhà kinh tế học và các chuyên gia chính sách, lại dựa vào ý niệm rằng các nhà cai trị của Ai Cập đơn giản đã không biết cái gì cần để làm cho đất nước họ phồn thịnh, và đã đi theo các chính sách, các chiến lược sai trong quá khứ. Nếu giá như các nhà cai trị này nhận được lời khuyên đúng từ các cố vấn thích hợp, cách tư duy này tiếp tục, thì sẽ có sự thịnh vượng. Đối với các học giả và chuyên gia chính sách ấy, sự thực rằng Ai Cập bị cai trị bởi elite hẹp, chỉ thu vén cho bản thân họ gây tổn hại cho xã hội, có vẻ không liên quan gì đến việc hiểu các vấn đề kinh tế của nước này. Trong cuốn sách này chúng tôi sẽ biện luận rằng những người Ai Cập ở Quảng trường Tahrir, chứ không phải hầu hết các học giả và các nhà bình luận, đã có ý tưởng đúng. Thực ra, Ai Cập nghèo chính xác bởi vì nó bị cai trị bởi elite hẹp, giới đã tổ chức xã hội vì lợi ích riêng của họ gây tổn hại cho số rất đông quần chúng nhân dân. Quyền lực chính trị đã được tập trung hẹp, và đã được sử dụng để tạo ra sự giàu có hết sức cho những kẻ nắm quyền, như tài sản 70 tỷ USD có vẻ như đã được cựu Tổng thống Mubarak tích cóp. Những người bị thua thiệt đã là nhân dân Ai Cập, như họ hiểu rất rõ [điều đó]. Chúng ta sẽ chứng tỏ rằng sự giải thích này về sự nghèo của Ai Cập, sự giải thích của nhân dân, hóa ra cung cấp một sự giải thích chung cho câu hỏi vì sao các nước nghèo lại nghèo. Bất luận đó là Bắc Triều Tiên, Sierra Leone, hay Zimbabwe, chúng ta sẽ chứng tỏ rằng các nước nghèo là nghèo vì chính xác cùng lý do mà Ai Cập nghèo. Các nước như Vương quốc Anh và Hoa Kỳ đã trở nên giàu bởi vì các công dân của họ đã lật đổ elite, giới đã kiểm soát quyền lực, và đã tạo ra một xã hội nơi các quyền chính trị được phân phát rộng rãi hơn nhiều, nơi các chính phủ có trách nhiệm giải trình và có trách nhiệm với công dân, và nơi số đông quần chúng nhân dân có thể tận dụng các cơ hội kinh tế. Chúng ta sẽ chứng tỏ rằng để hiểu vì sao có sự bất bình đẳng như vậy trong thế giới ngày nay, chúng ta phải đào sâu vào quá khứ và nghiên cứu động học lịch sử của các xã hội. Chúng ta sẽ thấy rằng lý do mà Vương quốc Anh giàu hơn Ai Cập là bởi vì năm 1688, Vương quốc Anh (hay nước Anh, để cho chính xác) đã có một cuộc cách mạng mà đã biến đổi hoạt động chính trị và như thế hoạt động kinh tế của quốc gia. Nhân dân đã chiến đấu vì và đã giành được nhiều quyền chính trị hơn, và họ
  • 24. 4 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI đã dùng chúng để mở rộng các cơ hội kinh tế của họ. Kết quả đã là một quỹ đạo chính trị và kinh tế khác một cách căn bản, lên đỉnh điểm trong Cách mạng Công nghiệp. Cuộc Cách mạng Công nghiệp và các công nghệ mà nó mở ra đã không lan sang Ai Cập, vì nước đó đã nằm dưới sự kiểm soát của Đế chế Ottoman, mà đã đối xử với Ai Cập phần nào theo cùng cách như gia đình Mubarak sau này đã đối xử. Sự cai trị Ottoman ở Ai Cập đã bị Napoleon Bonaparte lật đổ năm 1798, nhưng sau đó mước này rơi vào sự kiểm soát của chủ nghĩa thực dân Anh, mà cũng như Ottoman đã ít quan tâm đến việc thúc đẩy sự thịnh vượng của Ai Cập. Tuy những người Ai Cập đã thoát khỏi được các đế chế Ottoman và Anh, và, năm 1952, đã lật đổ chế độ quân chủ của họ, nhưng đấy đã không phải là các cuộc cách mạng như cách mạng 1688 ở Anh, và thay cho việc biến đổi căn bản hoạt động chính trị ở Ai Cập, chúng lại đưa một elite khác lên nắm quyền, giới cũng chẳng quan tâm đến việc đạt được sự thịnh vượng cho những người dân thường Ai Cập [hệt] như những người Ottoman và Anh đã chẳng quan tâm. Hậu quả là, cấu trúc cơ bản của xã hội đã không thay đổi và Ai Cập vẫn nghèo. Trong cuốn sách này chúng ta sẽ nghiên cứu các hình mẫu này tái tạo mình ra sao theo thời gian và vì sao đôi khi chúng thay đổi như chúng đã thay đổi ở Anh năm 1688 và ở Pháp với cách mạng 1789. Việc này sẽ giúp chúng ta hiểu liệu tình hình ở Ai Cập đã thay đổi hiện nay và liệu cuộc cách mạng đã lật đổ Mubarak sẽ có dẫn đến một tập mới của các thể chế có khả năng mang lại sự thịnh vượng cho những người Ai Cập bình thường hay không. Ai Cập đã có các cuộc cách mạng trong quá khứ mà đã không làm thay đổi tình hình, bởi vì những người tổ chức các cuộc cách mạng đơn giản đã nắm lấy giây cương từ những người mà họ phế truất và đã tạo dựng lại một hệ thống tương tự. Quả thực là khó đối với các công dân bình thường để nắm lấy quyền lực chính trị thực và thay đổi cách xã hội của họ vận hành. Nhưng là có thể, và chúng ta sẽ xem việc này diễn ra thế nào ở Anh, Pháp, Hoa Kỳ, và cả ở Nhật Bản, Botswana, và Brazil. Về căn bản chính một sự biến đổi chính trị thuộc loại này là cái cần cho một xã hội nghèo trở thành giàu. Có bằng chứng rằng điều này có thể đang xảy ra ở Ai Cập. Reda Metwaly, một người biểu tình khác ở Quảng trường Tahrir, lập luận, “Bây giờ bạn thấy những người Muslim và những người Ki tô giáo cùng nhau, bây giờ bạn thấy người già và người trẻ cùng nhau, tất cả đều muốn cùng một thứ”. Chúng ta sẽ thấy rằng
  • 25. LỜI NÓI ĐẦU ● 5 một phong trào rộng như vậy trong xã hội đã là một phần then chốt của cái đã xảy ra trong những biến đổi chính trị khác này. Nếu chúng ta hiểu khi nào và vì sao những sự chuyển đổi như thế xảy ra, chúng ta sẽ ở vị thế tốt hơn để đánh giá khi nào chúng ta kỳ vọng các phong trào như vậy thất bại như chúng đã thường thất bại trong quá khứ và khi nào chúng ta có thể hy vọng rằng chúng sẽ thành công và cải thiện cuộc sống của hàng triệu người.
  • 27. 1. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU NỀN KINH TẾ CỦA RIO GRANDE HÀNH PHỐ NOGALES bị cắt đôi bởi một hàng rào. Nếu bạn đứng cạnh nó và nhìn theo hướng bắc, bạn sẽ thấy Nogales, Arizona, nằm ở Quận Santa Cruz. Thu nhập của hộ gia đình trung bình ở đó là khoảng 30.000 USD một năm. Hầu hết trẻ vị thành niên ở trường học, và đa số những người lớn là những người đã tốt nghiệp trung học. Bất chấp những tranh luận mà người dân đưa ra về hệ thống chăm sóc sức khỏe Mỹ thiếu sót đến thế nào, dân chúng tương đối khỏe mạnh, với ước tính tuổi thọ cao theo tiêu chuẩn toàn cầu. Nhiều cư dân trên tuổi sáu mươi lăm và có tiếp cận đến Medicare (Chăm sóc y tế). Đó chỉ là một trong nhiều dịch vụ do chính phủ cung cấp mà hầu hết được coi là nghiễm nhiên, như điện, điện thoại, hệ thống thoát nước, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, mạng lưới đường kết nối họ với các thành phố khác trong vùng và với phần còn lại của Hoa Kỳ, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, luật pháp và trật tự. Nhân dân Nogales, Arizona, có thể tiến hành các hoạt động hàng ngày của họ mà không có sự sợ hãi về đời sống hay sự an toàn và không phải liên tục sợ trộm cắp, sự tước đoạt, hay những thứ khác có thể gây nguy hiểm cho các khoản đầu tư của họ trong các doanh nghiệp và nhà của họ. Quan trọng ngang thế là, người dân Nogales, Arizona, coi là nghiễm nhiên rằng chính phủ, với tất cả sự không hiệu quả và đôi khi tham nhũng của nó, là người đại diện của họ. Họ có thể bỏ phiếu để thay thị trưởng, các thượng và hạ nghị sỹ của họ; họ bỏ phiếu trong các cuộc bầu tổng thống để xác định ai sẽ lãnh đạo nước họ. Dân chủ là bản chất thứ hai của họ. T
  • 28. 8 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Cuộc sống ở phía nam hàng rào, chỉ cách vài mét, là khá khác. Trong khi cư dân của Nogales, Sonora, sống trong một phần tương đối thịnh vượng của Mexico, thu nhập của hộ gia đình trung bình ở đó bằng khoảng một phần ba của thu nhập ở Nogales, Arizona. Hầu hết người lớn ở Nogales, Sonora, không tốt nghiệp trung học, và nhiều trẻ vị thành niên không đến trường. Các bà mẹ phải lo về tỷ lệ tử vong trẻ em cao. Điều kiện chăm sóc sức khỏe công cộng nghèo nàn cho thấy không có gì ngạc nhiên rằng dân cư của Nogales, Sonora, không sống lâu như các láng giềng phía bắc của họ. Họ không tiếp cận được đến nhiều tiện nghi công cộng. Đường sá trong tình trạng tồi tàn ở phía nam hàng rào. Luật pháp và trật tự trong tình trạng tồi tệ hơn. Tội phạm cao, và mở một doanh nghiệp là một hoạt động rủi ro. Không phải chỉ là bạn có rủi ro bị cướp, mà lấy được tất cả các giấy phép và bôi trơn mọi bàn tay chỉ để mở là nỗ lực không dễ dàng. Dân cư Nogales, Sonora, sống với sự tham nhũng và sự vụng về của các nhà chính trị hàng ngày. Ngược với các láng giềng phương bắc của họ, dân chủ là một trải nghiệm rất mới đây đối với họ. Cho đến các cuộc cải cách năm 2000, Nogales, Sonora, hệt như phần còn lại của Mexico, đã nằm dưới sự kiểm soát thối nát của Đảng Cách mạng Thể chế, hay Partido Revolucionario Institucional (PRI). Làm sao mà hai nửa của cái về cơ bản là cùng một thành phố lại khác nhau đến vậy? Không có sự khác biệt nào về địa lý, khí hậu, hay những loại bệnh phổ biến trong vùng này, vì các vi trùng không đối mặt với bất cứ hạn chế nào khi qua lại giữa Hoa Kỳ và Mexico. Tất nhiên, các điều kiện y tế là rất khác nhau, nhưng điều này chẳng liên quan gì đến môi trường bệnh tật; đó là bởi vì nhân dân ở phía nam biên giới sống với các điều kiện vệ sinh thấp kém và thiếu sự chăm sóc sức khỏe tử tế. Nhưng có lẽ người dân là rất khác nhau. Có thể chăng, cư dân của Nogales, Arizona, là con cháu của những người nhập cư từ châu Âu, còn những người ở phía nam là con cháu của những người Aztec? Không phải vậy. Nguồn gốc của người dân ở cả hai bên biên giới là khá giống nhau. Sau khi Mexico trở nên độc lập từ Tây Ban Nha năm 1821, vùng xung quanh “Los dos Nogales” đã là một phần của nhà nước Mexic Vieja California và vẫn thế ngay cả sau Chiến tranh Mexic-Mỹ 1846-1848. Quả thực, chỉ sau [Thỏa thuận] Gadesden Mua năm 1853 mà biên giới Hoa Kỳ mới được mở rộng ra vùng này. Trung úy N. Michler là
  • 29. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 9 người, trong khi khảo sát biên giới, đã ghi nhận sự hiện diện của “thung lũng Los Nogales nhỏ xinh xắn”. Ở đây, ở cả hai bên biên giới, hai thành phố đã mọc lên. Các cư dân của Nogales, Arizona, và Nogales, Sonora, có chung tổ tiên, thưởng thức cùng loại thức ăn và âm nhạc, và, chúng ta bạo gan để nói có cùng “văn hóa”. Tất nhiên, có một giải thích rất đơn giản và rõ ràng cho những sự khác biệt giữa hai nửa của Nogales mà bạn có lẽ đã đoán từ lâu: chính là cái biên giới xác định hai nửa. Nogales, Arizona, là ở Hoa Kỳ. Các cư dân của nó được tiếp cận đến các thể chế kinh tế của Hoa Kỳ, mà cho phép họ lựa chọn nghề của mình một cách tự do, có được sự học hành và các kỹ năng, và khuyến khích những người sử dụng lao động của họ đầu tư vào công nghệ tốt nhất, dẫn đến lương cao hơn cho họ. Họ cũng được tiếp cận đến các thể chế chính trị cho phép họ tham gia vào các quá trình dân chủ, để bầu các đại diện của họ và thay thế chúng nếu chúng cư xử tồi. Hệ quả là, các chính trị gia cung cấp các dịch vụ cơ bản mà công dân đòi hỏi (từ chăm sóc sức khỏe công cộng, đến đường sá, luật pháp và trật tự). Những công dân của Nogales, Sonora, không may mắn như vậy. Họ sống trong một thế giới khác được định hình bởi các thể chế khác. Các thể chế khác nhau này tạo ra những khuyến khích rất khác nhau cho cư dân của hai Nogales và cho các doanh nhân và doanh nghiệp muốn đầu tư ở đó. Những khuyến khích được tạo ra bởi các thể chế khác nhau của [hai] Nogales và của hai nước tương ứng là lý do chính cho những khác biệt về sự thịnh vượng kinh tế ở hai bên biên giới. Vì sao các thể chế của Hoa Kỳ lại thuận lợi hơn rất nhiều cho thành công kinh tế so với các thể chế của Mexico, và cũng thế của cả phần còn lại của Mỹ Latin? Câu trả lời cho câu hỏi này nằm ở cách mà các xã hội đã hình thành vào đầu thời kỳ thực dân. Một sự phân kỳ thể chế đã xảy ra khi đó, với những tác động kéo dài cho đến ngày nay. Để hiểu sự phân kỳ này chúng ta phải bắt đầu ngay ở việc thiết lập các thuộc địa tại Bắc Mỹ và Mỹ Latin. SỰ THÀNH LẬP BUENOS AIRES Đầu năm 1516, Juan Díaz de Solís, hoa tiêu Tây Ban Nha, đã đi thuyền vào một cửa sông rộng ở Bãi biển phía Đông của Nam Mỹ. Lội lên bờ, de Solís nhận đất
  • 30. 10 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI này cho Tây Ban Nha, đặt tên sông là Riso de la Plata, “Sông Bạc”, bởi vì dân địa phương có bạc. Dân bản địa ở hai bên cửa sông – người Charrúas ở nơi bây giờ là Urugay, và người Querandí trên các đồng bằng được biết đến như Pampas ở Argentina hiện đại – đã coi những kẻ mới đến với sự thù địch. Dân địa phương này đã là những người săn bắt-hái lượm sống trong các nhóm nhỏ mà không có quyền uy chính trị tập trung mạnh. Thật vậy, chính đã là một nhóm Charrúas như vậy đã đánh de Solís bằng gậy cho đến chết khi ông khám phá các vùng mới mà ông đã thử để chiếm cho Tây Ban Nha. Năm 1534, người Tây Ban Nha, vẫn lạc quan, đã gửi một đoàn đầu tiên của những người định cư từ Tây Ban Nha dưới sự lãnh đạo của Pedro de Mendoza. Họ đã lập một thị trấn ở Buenos Aires trong cùng năm. Nó đã phải là một nơi lý tưởng cho những người Âu châu. Buenos Aires, theo nghĩa đen là “không khí trong lành”, đã có một khí hậu ôn hòa, dễ chịu. Thế nhưng cuộc lưu lại đầu tiên của những người Tây Ban Nha ở đó đã ngắn. Họ đã không đi tìm không khí trong lành, mà là tìm tài nguyên để khai thác và lao động để cưỡng bức. Tuy vậy, những người Charrúas và Querandí đã không sốt sắng giúp đỡ. Họ đã từ chối cung cấp thức ăn cho người Tây Ban Nha, từ chối làm việc khi bị bắt. Họ đã tấn công vùng định cư mới bằng cung và mũi tên của mình. Những người Tây Ban Nha bị đói, vì họ đã không lường trước rằng phải tự lo thức ăn cho mình. Buenos Aires đã không phải là cái họ mơ tới. Đã không thể ép buộc dân địa phương để cung cấp lao động. Vùng này đã không có bạc hay vàng để khai thác, và bạc mà de Solís đã thấy thực ra đến suốt lộ trình từ nhà nước Inca trong vùng Andes, xa xôi về phía tây. Những người Tây Ban Nha, trong khi cố sống sót, đã bắt đầu gửi các toán thám hiểm để tìm chỗ mới giàu có hơn và có nhiều dân hơn để dễ cưỡng bức hơn. Năm 1537, một trong các toán thám hiểm này, dưới sự lãnh đạo của Juan de Ayolas, đã thâm nhập ngược Sông Paraná, tìm đường đến những người Inca. Trên đường, nó đã tiếp xúc với người Guaraní, một tộc người tĩnh tại với một nền kinh tế nông nghiệp dựa vào ngô và sắn. De Ayolas ngay lập tức nhận ra rằng người Guaraní là một vấn đề hoàn toàn khác với người Charrúas và Querandí. Sau một xung đột ngắn, những người Tây Ban Nha đã vượt qua sự kháng cự Guaraní và đã thành lập một thị trấn, Nuestra Señora de Santa María de la Asunción, mà vẫn là thủ đô của Paraguay ngày nay. Những người Tây Ban Nha xâm chiếm đã lấy các
  • 31. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 11 công chúa Guaraní làm vợ và nhanh chóng tự phong mình làm một tầng lớp quý tộc mới. Họ đã thích nghi hệ thống lao động cưỡng bức và cống nạp của người Guaraní, với bản thân họ ở địa vị lãnh đạo. Đấy là loại thuộc địa mà họ đã muốn thiết lập, và trong vòng bốn năm Buenos Aires đã bị bỏ vì tất cả những người Tây Ban Nha định cư ở đó đã chuyển đến thị trấn mới. Buenos Aires, “Paris của Nam Mỹ”, một thành phố với các đại lộ rộng theo kiểu Âu châu dựa trên sự giàu có nông nghiệp tuyệt vời của vùng Pampas, đã không được tái định cư cho đến 1580. Việc từ bỏ Buenos Aires và sự chinh phục người Guaraní tiết lộ logic của việc châu Âu thực dân hóa châu Mỹ. Ban đầu các thực dân Tây Ban Nha và, như chúng ta sẽ thấy, các thực dân Anh đã không quan tâm đến việc tự mình canh tác đất; họ đã muốn những người khác làm việc đó cho họ, và họ đã muốn sự giàu có, vàng và bạc, để vơ vét. TỪ CAJAMARCA… Các cuộc thám hiểm của de Solís, de Mendoza, và de Ayolas đến sau các cuộc thám hiểm nổi tiếng hơn tiếp sau việc Christopher Columbus nhìn thấy một trong các đảo của Bahamas ngày 12-10-1492. Người Tây Ban Nha bắt đầu bành trướng và thuộc địa hóa châu Mỹ một cách dồn dập với việc Hernán Cortés xâm chiếm Mexico năm 1519, cuộc thám hiểm của Francisco Pizzaro đến Peru một thập niên rưỡi sau đó, và cuộc thám hiểm của Pedro Mendoza đến Riso de la Plata đúng hai năm sau đó. Trong thế kỷ tiếp theo, Tây Ban Nha đã chinh phục và thuộc địa hóa hầu hết trung, tây, và nam Nam Mỹ, còn Bồ Đào Nha đòi Brazil đến phía đông. Chiến lược thực dân hóa của Tây Ban Nha đã rất hiệu quả. Đầu tiên được hoàn thiện bởi Cortés ở Mexico, nó dựa vào sự quan sát rằng cách tốt nhất cho người Tây Ban Nha để khuất phục sự chống đối đã là bắt lãnh tụ bản địa. Chiến lược này đã cho phép người Tây Ban Nha cướp của cải của lãnh tụ và cưỡng bức dân bản địa cống nạp và cung cấp thức ăn. Bước tiếp theo đã là tự phong mình làm elite mới của xã hội bản địa và nắm quyền kiểm soát các phương pháp hiện tồn về đánh thuế, cống nạp, và đặc biệt, lao động cưỡng bức. Khi Cortés và những người của ông ta đến thủ đô của đại Aztec, Tenochtitlan, ngày 8-11-1519, họ được hoan nghênh bởi Moctezuma, hoàng đế Aztec, người,
  • 32. 12 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI mặc dù có nhiều lời khuyên từ các cố vấn của ngài, đã quyết định tiếp đón những người Tây Ban Nha một cách hữu hảo. Cái gì xảy ra tiếp sau đã được mô tả kỹ trong tường thuật được biên soạn sau năm 1545 bởi thầy tu dòng Franciscan, Bernardino de Saghagún, trong bộ sách Florentine Codices nổi tiếng của ông. Ngay lập lức họ [những người Tây Ban Nha] đã túm chặt lấy Moctezuma … rồi sau đó từng khẩu súng bắn lên trời … Sự sợ hãi bao trùm. Mọi người vãi linh hồn. Ngay cả trước khi trời tối, đã có sự kinh hãi, sự kinh ngạc, sự e sợ, mọi người choáng váng. Và khi trời rạng sáng ngay lúc ấy lộ ra tất cả các thứ [mà những người Tây Ban Nha] đòi hỏi: bánh mỳ trắng làm bằng ngô, gà tây nướng, trứng, nước sạch, gỗ, củi, than … Đấy đã là những thứ Moctezuma quả thực đã ra lệnh. Và khi những người Tây Ban Nha đã ổn định xong, ngay lúc ấy họ đã dò hỏi Moctezuma về tất cả kho báu của thành phố … họ đã tìm vàng với sự sốt sắng lớn. Và ngay lúc ấy Moctezuma đã dẫn những người Tây Ban Nha. Họ đã đi bao quanh ông … mỗi người giữ ông, mỗi người túm lấy ông. Và khi họ đến nhà kho, một nơi được gọi là Teocalco, ngay lúc ấy họ đưa ra tất cả những thứ lóng lánh; quạt đầu lông chim quaetzal, các dụng cụ, các huy hiệu, các đĩa vàng … các hình lưỡi liềm vàng, các đai [vòng đeo] chân vàng, các đai tay vàng, các đai trán vàng. Ngay lúc ấy vàng được tách ra … ngay lập tức họ châm lửa, làm cho tất cả các thứ quý giá ấy … bốc cháy. Chúng bị đốt hết. Và những người Tây Ban Nha đúc vàng thành các thỏi tách biệt … Và người Tây Ban Nha đi khắp mọi nơi … Họ tìm mọi thứ, mọi thứ mà họ thấy là tốt. Ngay lúc ấy họ đi đến nhà kho riêng của Moctezuma … ở nơi được gọi là Totocalco … họ lôi ra các tài sản riêng [của Moctezuma] … tất cả các thứ quý giá; các vòng cổ với các tua tòn ten, các đai tay với các túm lông chim quaetzal, các đai tay bằng vàng, các vòng đeo
  • 33. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 13 tay, các đai bằng vàng với vỏ sò … và vương miện ngọc lam, biểu tượng của người cai trị. Họ lấy hết. Việc chinh phục những người Aztec bằng quân sự đã hoàn tất vào năm 1521. Cortés, với tư cách thống đốc của tỉnh Tây Ban Nha Mới, khi đó đã bắt đầu phân chia tài nguyên quý giá nhất, dân cư bản địa, thông qua thể chế encomienda. Hệ thống điều tiết lao động encomienda đã xuất hiện đầu tiên ở Tây Ban Nha thế kỷ thứ mười lăm như một phần của việc tái chiếm miền nam nước này từ tay những người Moor, Arab, những người đã định cư trong và sau thế kỷ thứ tám. Ở Thế giới Mới nó đã có dạng độc hại hơn nhiều: nó đã là việc cấp những người bản địa cho một người Tây Ban Nha, được biết đến như encomandero. Những người bản địa phải cống nạp và lao dịch cho encomandero, đổi lại các dịch vụ đó encomandero có trách nhiệm cải đạo họ sang Ki tô giáo. Một tường thuật ban đầu sống động về hoạt động của encomienda đã đến với chúng ta từ Bartolomé de la Casas, một thầy tu dòng Dominican, người đã trình bày sự phê phán sớm nhất và là một trong những phê phán gây ấn tượng (có tính tàn phá) nhất về hệ thống thuộc địa Tây Ban Nha. De la Casas đã đến hòn đảo Tây Ban Nha, Hispaniola, năm 1502 với một đội tàu do thống đốc mới, Nicolás de Ovando, đứng đầu. Ông ngày càng trở nên vỡ mộng và bối rối bởi sự cư xử tàn ác và bóc lột đối với người bản địa mà ông chứng kiến hàng ngày. Với tư cách cha tuyên úy ông đã tham gia vào cuộc Tây Ban Nha xâm chiếm Cuba năm 1513, thậm chí được cấp một encomienda cho ông sử dụng. Tuy vậy, ông đã từ bỏ quyền được cấp và đã bắt đầu một cuộc vận động dài để cải cách các thể chế thuộc địa Tây Ban Nha. Các nỗ lực của ông đã đạt đỉnh cao trong cuốn sách của ông, A Short Account of the Destruction of the Indies (Một Tường thuật Ngắn về sự Phá hủy Indies), được viết năm 1542, một sự tấn công khinh miệt lên tính dã man của sự cai trị Tây Ban Nha. Về encomienda ông đã có điều này để nói trong trường hợp của Nicaragua: Mỗi người định cư đã bắt cư dân trong thị trấn được phân cho ông ta (hay được giao cho [encommanded] ông ta, như cách diễn đạt pháp lý), bắt các cư dân làm việc cho mình, ăn cắp thực phẩm hiếm hoi của họ cho chính mình và chiếm đất mà những người bản địa đã sở hữu và đã canh tác mà trên đó họ đã nuôi trồng sản phẩm của họ theo truyền thống. Người định cư đối xử với toàn bộ dân cư bản địa –
  • 34. 14 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI những người quyền cao chức trọng, các ông già, đàn bà và trẻ con – như các thành viên của hộ gia đình mình, và với tư cách như thế, bắt họ làm việc tối ngày vì lợi ích riêng của ông ta, mà không có bất cứ sự nghỉ ngơi nào. Về cuộc chinh phục New Granada, Columbia hiện đại, de la Casas kể lại toàn bộ chiến lược Tây Ban Nha trong hành động: Để thực hiện các mục đích dài hạn về chiếm đoạt tất cả số vàng sẵn có, những người Tây Ban Nha đã áp dụng chiến lược thông thường của họ về chia các thị trấn và dân cư của chúng thành từng phần giữa họ với nhau (hay giao cho, như họ bảo thế) … và sau đó, như từ trước đến giờ, đối xử với họ như các nô lệ thông thường. Người chỉ huy toàn bộ cuộc thám hiểm chiếm lấy Vua của toàn vùng lãnh thổ cho chính mình và giữ ông ta như tù binh trong sáu hay bảy tháng, đòi nhiều và nhiều hơn vàng và ngọc lục bảo từ ông ta một cách hoàn toàn trái phép. Nhà Vua này, một Bogotá, đã khiếp sợ đến mức, vì sự nóng lòng của ông để được giải thoát khỏi nanh vuốt của những kẻ gây đau khổ cho mình, ông đã đồng ý với đòi hỏi rằng ông sẽ chất vàng đầy một nhà và trao cho họ; để đạt mục đích này ông đã gửi người của mình đi tìm vàng, và từng tí một họ đã mang về nhiều đá quý. Nhưng ngôi nhà vẫn chưa đầy và cuối cùng những người Tây Ban Nha đã tuyên bố rằng họ sẽ giết ông vì sự thất hứa. Người chỉ huy đã gợi ý họ phải đưa ông ra xử trước mặt hắn, với tư cách người đại diện của luật pháp, và khi họ đã làm như thế, đệ trình cáo trạng chống lại nhà Vua, hắn đã kết án ông sẽ bị tra tấn nếu ông vẫn khăng khăng không thực hiện lời hứa đã được thương lượng. Họ đã tra tấn ông bằng cách treo ông lên cao, đặt miếng mỡ đang cháy lên bụng ông, trói cả hai chân ông vào hai cọc với các đai sắt và cổ ông vào cái khác và sau đó, với hai người cầm các tay ông, họ tiến hành đốt gan bàn chân ông. Thỉnh thoảng, viên chỉ huy ngó tới và lặp lại rằng họ sẽ tra tấn ông đến chết một cách từ từ trừ phi ông mang lại nhiều vàng hơn, và đấy là cái họ đã làm, nhà Vua cuối cùng đã không chịu nổi những sự đau đớn mà họ đã gây ra cho ông.
  • 35. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 15 Chiến lược và các thể chế chinh phục được hoàn thiện ở Mexico đã được chấp nhận một cách háo hức ở những nơi khác trong Đế chế Tây Ban Nha. Không ở đâu việc này được làm một cách hiệu quả hơn việc Pizzaro chinh phục Peru. Như de las Casas bắt đầu tường thuật của ông: Vào năm 1531 một tên đại lưu manh khác với một số người đã có cuộc hành trình đến vương quốc Peru. Với quyết tâm và ý định rõ rệt, hắn bắt tay vào việc bắt chước chiến lược và chiến thuật của các đồng bọn phiêu lưu của hắn ở các phần khác của Thế giới Mới. Pizzaro đã bắt đầu trên bờ biển cạnh thị trấn Tumbes của Peru và tiến về phía nam. Ngày 15-11-1532, ông đến thị trấn vùng núi Cajarmarca, nơi hoàng đế Inca, Atahualpa, đã cắm trại với quân đội của ngài. Ngày hôm sau, Atahualpa, người vừa thắng anh trai Huáscar của mình trong cuộc tranh đua ai sẽ kế vị người cha mới chết của họ, Huayna Capac, đã cùng đoàn tùy tùng của mình đến nơi những người Tây Ban Nha cắm trại. Atahualpa đã phát cáu bởi vì tin tức về những hành động tàn bạo mà những người Tây Ban Nha đã gây ra, như xúc phạm đền thờ Thần Mặt trời Inti, đã đến với ngài. Những gì đã xảy ra sau đó là điều nhiều người biết. Người Tây Ban Nha đã đặt một cái bẫy và bật bẫy lên. Họ đã giết những người bảo vệ và người hầu của Atahualpa, có lẽ nhiều đến hai ngàn người, và đã bắt giữ ông. Để được tự do, Atahualpa đã hứa chất vàng đầy một phòng và chất bạc đầy thêm hai phòng nữa có cùng kích thước. Ông đã thực hiện việc này, nhưng những người Tây Ban Nha, không giữ lời hứa của họ, đã treo cổ ông vào tháng Bảy 1533. Tháng Mười một năm ấy những người Tây Ban Nha chiếm được thủ đô Inca, Cusco, nơi giới quý tộc Inca đã bị đối xử như Atahualpa đã bị, bị tống giam cho đến khi họ mang vàng và bạc lại. Khi họ không thỏa mãn các đòi hỏi của người Tây Ban Nha, họ bị thiêu sống. Những báu vật nghệ thuật tuyệt vời của Cusco, như Đền thờ Mặt trời, bị lột mất những phần bằng vàng của chúng và vàng được nấu chảy để đúc thành các thỏi. Tại điểm này những người Tây Ban Nha chú tâm vào người dân của Đế chế Inca. Như ở Mexico, các công dân đã được chia thành các encomienda, với mỗi encomienda được phân cho mỗi kẻ chinh phục người đã đi cùng Pizzaro. Encomienda đã là thể chế chủ yếu được dùng cho việc kiểm soát và tổ chức lao động trong thời gian đầu của thời kỳ thuộc địa, nhưng mau chóng đã đối mặt với một đấu thủ mạnh mẽ. Năm 1545, một người địa phương có tên Diego Gualpa
  • 36. 16 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI đang tìm một điện thờ bản địa cao ở Andes, trong vùng là Bolivia ngày nay. Một cơn giói mạnh bất ngờ đã hất ông xuống đất và trước mặt ông xuất hiện một nơi trữ quặng bạc. Đấy là một phần của một hòn núi bạc mênh mông, mà những người Tây Ban Nha đã đặt tên là El Cerro Rico, “Núi Giàu”. Xung quanh nó đã mọc lên thành phố Potosí, mà ở đỉnh cao của nó trong năm 1650 đã có số dân 160.000 người, lớn hơn Lisbon hay Venice trong thời kỳ ấy. Để khai thác bạc, những người Tây Ban Nha cần các thợ mỏ – rất nhiều thợ mỏ. Họ đã phái một phó vương, quan chức chính của thuộc địa Tây Ban Nha, Francisco de Toledo, mà sứ mệnh chính của ông đã là để giải quyết vấn đề lao động. De Toledo, đến Peru năm 1569, đầu tiên đã dùng năm năm du hành khắp nơi và tìm hiểu nhiệm vụ mới của ông. Ông cũng đã giao tiến hành một cuộc điều tra đồ sộ về toàn bộ dân cư trưởng thành. Để tìm được lao động mà ông cần, đầu tiên de Toledo đã di chuyển toàn bộ dân cư bản địa, tập trung họ vào các thị trấn mới được gọi là các reduccion – nghĩa đen là những “sự rút bớt” – mà sẽ tạo thuận lợi cho việc khai thác lao động bởi Quốc vương Tây Ban Nha. Sau đó ông đã phục hồi và phỏng theo một thể chế lao động Inca được gọi là mita, mà, theo ngôn ngữ Inca, Quechua, có nghĩa là “a turn – một phiên”. Dưới hệ thống mita của họ, những người Inca đã sử dụng lao động cưỡng bức để vận hành các đồn điền được trù tính để cung cấp thực phẩm cho các đền thờ, giới quý tộc, và quân đội. Đổi lại, elite đã lo việc cứu trợ nạn đói và an ninh. Mita trong tay de Toledo, đặc biệt mita Potosí, đã trở thành sơ đồ lớn nhất và nặng nề nhất về khai thác lao động trong thời kỳ thuộc địa Tây Ban Nha. De Toledo đã xác định một vùng lưu vực mênh mông, chạy từ giữa của Peru hiện đại và bao gồm hầu hết Bolivia hiện đại. Nó bao phủ một diện tích khoảng hai trăm ngàn dặm vuông. Trong vùng này, một phần bảy cư dân đàn ông, mới đến các reduccion của họ, được yêu cầu làm việc tại các mỏ ở Potosí. Mita Potosí đã tồn tại suốt toàn bộ thời kỳ thuộc địa và đã chỉ bị bãi bỏ vào năm 1825. Bản đồ 1 cho thấy vùng lưu vực của mita được chồng lên khoảng rộng của Đế chế Inca vào thời Tây Ban Nha chinh phục. Nó minh họa mức độ mà mita đã chồng gối lên vùng trung tâm của đế chế, bao gổm thủ đô Cusco.
  • 37. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 17 Đáng chú ý, bạn vẫn thấy di sản của mita ở Peru ngày nay. Hãy xét những sự khác biệt giữa các tỉnh Calca và Acomayo gần đó. Có vẻ có vài sự khác biệt giữa các tỉnh này. Cả hai đều ở trên vùng núi cao, và các hậu duệ, nói tiếng Quechua, của những người Inca sống ở mỗi tỉnh. Thế nhưng, Acomayo thì nghèo hơn nhiều, với các cư dân của nó tiêu thụ khoảng một phần ba ít hơn các cư dân ở Calca. Người dân biết điều này. Ở Acomayo họ hỏi những người nước ngoài can đảm, “Bạn không biết rằng người dân ở đây nghèo hơn người dân ở đó, ở Calca
  • 38. 18 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI ư? Vì sao bạn lại từng muốn đến đây?” Can đảm bởi vì là khó hơn rất nhiều để đến Acomayo từ thủ đô khu vực Cusco, trung tâm cổ xưa của đế chế Inca, so với đến Calca. Đường đến Calca được tráng lớp mặt, còn đường đến Acomayo thì trong tình trạng hư nát kinh khủng. Để đi quá Acomayo bạn cần một con ngựa hay một con la. Ở Calca và Acomayo người dân trồng cùng loại cây trồng, nhưng ở Calca họ bán chúng ở chợ để lấy tiền. Còn ở Acomayo họ nuôi trồng thực phẩm cho sự tồn tại của riêng họ. Những sự bất bình đẳng này, rõ ràng với con mắt và người dân sống ở đó, có thể được hiểu dưới dạng những khác biệt thể chế giữa các tỉnh này – những sự khác biệt thể chế với gốc rễ quay lại đến de Toledo và kế hoạch khai thác hiệu quả lao động bản địa của ông. Sự khác biệt lịch sử chính giữa Acomayo và Calco là, Acomayo đã ở trong vùng mita Potosí, còn Calca thì không. Ngoài sự tập trung lao động và mita, de Toledo đã củng cố encomienda thành thuế thân, một khoản cố định bằng bạc mà mỗi người đàn ông trưởng thành phải nộp hàng năm. Đấy đã là một sơ đồ khác được trù tính để buộc người dân vào thị trường lao động và giảm bớt lương [có lợi] cho các địa chủ Tây Ban Nha. Một thể chế khác, repartimiento de mercancias, cũng đã trở nên phổ biến trong nhiệm kỳ của de Toledo. Có xuất xứ từ động từ tiếng Tây Ban Nha repartir, phân chia, repartimiento này, nghĩa đen là “phân phối hàng hóa”, dính dáng đến việc cưỡng bức bán hàng hóa cho những người địa phương với giá do những người Tây Ban Nha quyết định. Cuối cùng, de Toledo đã đưa ra trajin – theo nghĩa đen có nghĩa là “gánh nặng” – mà đã sử dụng những người bản địa để mang vác các hàng hóa nặng, như rượu hay lá coca hay hàng dệt may, như cái thay thế cho bầy động vật, cho những công việc kinh doanh mạo hiểm của elite Tây Ban Nha. Khắp thế giới thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, các thể chế và các cấu trúc xã hội tương tự đã nổi lên. Sau giai đoạn ban đầu của sự cướp bóc, và sự thèm khát vàng và bạc, những người Tây Ban Nha đã tạo ra một mạng lưới các thể chế được trù tính để khai thác người dân bản địa. Cung bậc đầy đủ của encomienda, mita, repartimiento, và trajin đã được thiết kế để ép mức sống của những người bản địa xuống mức đủ sống qua ngày và như thế moi tất cả thu nhập thặng dư của việc này cho những người Tây Ban Nha. Việc này đã đạt được bằng cách tước đoạt đất của họ, cưỡng bức họ lao động, trả lương thấp cho các dịch vụ lao động của họ, áp đặt các loại thuế cao, tính giá cao cho các hàng hóa đã thậm chí không
  • 39. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 19 được mua một cách tự nguyện. Tuy các thể chế này đã tạo ra nhiều của cải cho Quốc vương Tây Ban Nha và đã làm cho những kẻ chinh phục và các hậu duệ của họ rất giàu, chúng cũng đã biến Mỹ Latin thành lục địa bất bình đẳng nhất thế giới và đã làm hao mòn nhiều tiềm năng kinh tế của nó. … ĐẾN JAMESTOWN Khi những người Tây Ban Nha bắt đầu cuộc chinh phục châu Mỹ của họ trong các năm 1490, nước Anh còn là một cường quốc nhỏ ở châu Âu, đang phục hồi từ những hệ quả tàn phá của cuộc nội chiến, các cuộc Chiến tranh Hoa Hồng. Nó đã không ở trong trạng thái để tận dụng sự tranh giành cướp bóc và vàng và cơ hội để khai thác những người bản địa của châu Mỹ. Gần một trăm năm sau, vào năm 1588, sự thảm bại may mắn của Armada Tây Ban Nha, một mưu toan của Vua Tây Ban Nha Philip II để xâm lăng Anh, đã gửi làn sóng sốc chính trị khắp châu Âu. Dẫu thắng lợi của Anh đã có may mắn đến đâu, nó cũng đã là một dấu hiệu về sự quả quyết ngày càng tăng của Anh trên biển, điều mà sẽ cho phép họ rốt cuộc tham gia vào việc theo đuổi đế chế thuộc địa. Như thế đã không phải ngẫu nhiên rằng những người Anh bắt đầu cuộc thuộc địa hóa Bắc Mỹ của họ chính xác vào cùng thời gian đó. Nhưng họ đã là những người đến muộn rồi. Họ đã chọn Bắc Mỹ không phải vì nó hấp dẫn, mà bởi vì đó là tất cả cái sẵn có còn lại. Các phần “đáng mong muốn” của châu Mỹ, nơi dồi dào những người bản địa để khai thác và nơi có các mỏ vàng và bạc, đã bị chiếm mất rồi. Người Anh đã nhận các phần còn thừa. Khi nhà văn nhà nông học Anh thế kỷ mười tám Arthur Young bàn về nơi sản xuất “các sản phẩm chính” có lời, mà ông hiểu các sản phẩm chính là các hàng hóa nông nghiệp có thể xuất khẩu được, đã lưu ý: Có vẻ xét trên mọi mặt, rằng việc sản xuất các sản phẩm chính của các thuộc địa của chúng ta giảm về giá trị theo tỷ lệ với khoảng cách của chúng đến mặt trời. Ở các vùng Tây Ấn, mà là các vùng nóng nhất, chúng đạt mức 8l. 12s. 1d. trên đầu người. Trong các vùng lục địa phương nam, đạt mức 5l. 10s. Trong các vùng miền trung, đạt mức 9s. 6½d. Trong các vùng định cư phương bắc, đạt mức 2s. 6d. Tỷ
  • 40. 20 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI lệ này chắc chắn gợi ý một bài học quan trọng nhất – tránh việc thuộc địa hóa ở các vùng miền bắc. Mưu toan đầu tiên của người Anh để lập một thuộc địa, tại Roanoke, ở Bắc Carolina, giữa 1585 và 1587, đã hoàn toàn thất bại. Vào năm 1607, họ lại thử lần nữa. Ngay trước khi kết thúc năm 1606, ba tàu, Susan Constant, Godspeed, và Discovery, dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Christopher Newport, đã khởi hành đến Virginia. Các nhà thực dân, dưới sự bảo trợ của Công ty Virginia, đã tiến vào Vịnh Chesapeake và ngược lên một con sông mà họ đã gọi là sông James, theo tên Quốc vương Anh đang trị vì, James I. Ngày 14-5-1607, họ đã lập ra khu định cư Jamestown. Tuy những người định cư trên boong tàu do Công ty Virginia sở hữu đã là những người Anh, họ đã có một mô hình thuộc địa hóa bị ảnh hưởng mạnh bởi mẫu do Cortés, Pizzaro, và de Toledo dựng lên. Kế hoạch đầu tiên của họ đã là đi bắt thủ lĩnh địa phương và sử dụng ông ta như cách để được cung cấp lương thực thực phẩm, và để cưỡng bức dân cư sản xuất thực phẩm và của cải cho họ. Khi lần đầu tiên đổ bộ lên Jamestown, các thực dân Anh đã không biết rằng họ ở bên trong lãnh thổ được yêu sách bởi Hợp bang Powhatan, một liên minh của khoảng ba mươi chính thể thừa nhận lòng trung thành với một vị vua được gọi là Wahunsunacock. Thủ đô của Wahunsunacock đã là thị trấn Werowocomoco, chỉ cách Jemestown có hai mươi dặm. Kế hoạch của các nhà thực dân đã là tìm hiểu thêm về thế đất [địa hình địa thế và tình hình] ở đây. Nếu không thể xui khiến được những người địa phương để cung cấp thức ăn và lao động, các nhà thuộc địa chí ít có khả năng để trao đổi với họ. Ý niệm rằng bản thân những người định cư sẽ làm việc và nuôi trồng thực phẩm riêng của họ có vẻ đã không thoáng qua đầu óc họ. Đó không phải là việc mà các nhà chinh phục Thế giới Mới đã làm. Wahunsunacock mau chóng nhận thức được về sự hiện diện của các nhà thuộc địa và đã xem xét các ý định của họ với sự nghi ngờ lớn. Ông đã chịu trách nhiệm về cái đối với Bắc Mỹ quả thực là một đế chế rất rộng. Nhưng ông đã có nhiều kẻ thù và thiếu sự tập trung chính trị áp đảo của những người Inca. Wahunsunacock
  • 41. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 21 đã quyết định để thăm dò xem ý định của những người Anh là gì, ban đầu gửi những người đưa tin nói rằng ông muốn có quan hệ hữu hảo với họ. Khi mùa đông năm 1607 khép lại, những người định cư ở Jamestown bắt đầu cạn kiệt thức ăn, và người lãnh đạo được chỉ định của hội đồng cai trị thuộc địa, Edward Marie Wingfield, đã chần chừ lưỡng lự. Tình hình đã được Đại úy John Smith cứu vớt. Smith, mà các bài viết của ông đã cung cấp một trong những nguồn thông tin chính của chúng ta về sự phát triển ban đầu của thuộc địa, là một nhân vật rất ấn tượng. Sinh ra ở Anh, tại vùng nông thôn Lincolnshire, ông đã coi thường các mong muốn của cha mình đối với ông để đi kinh doanh và thay vào đó đã trở thành một người lính gặp may. Đầu tiên ông đã chiến đấu với quân đội Anh ở Hà Lan, sau đó ông gia nhập lực lượng Áo phục vụ ở Hungary chiến đấu chống quân đội của Đế chế Ottoman. Bị bắt ở Rumani, ông đã bị bán như nô lệ và bị đưa đi làm như một người phụ việc ngoài đồng. Một ngày ông đã tìm được cách thắng ông chủ của mình, ăn trộm quần áo và ngựa của ông chủ, trốn trở lại lãnh thổ Áo. Smith đã chuốc lấy rắc rối cho mình trên hành trình đến Virginia và đã bị nhốt trên tàu Susan Constant vì sự nổi loạn coi thường mệnh lệnh của Wingfield. Khi tàu đến Thế giới Mới, kế hoạch đã là đưa ông ra xử. Trước sự vô cùng kinh tởm của Wingfield, Newort, và các nhà thuộc địa elite khác, tuy vậy, khi họ mở các lệnh được niêm phong gắn xi của họ, họ đã phát hiện ra rằng Công ty Virginia đã bổ nhiệm Smith làm một thành viên của hội đồng cai trị để cai quản Jamestown. Với Newport lái tàu quay lại Anh lấy hàng cung ứng và nhiều nhà thuộc địa hơn, và Wingfield không chắc chắn về phải làm gì, chính Smith đã là người cứu thuộc địa. Ông đã khởi xướng một loạt chuyến buôn mà đã đảm bảo sự cung ứng thực phẩm trọng yếu. Trong một trong các chuyến này ông đã bị Opechancanough, một trong những người em của Wahunsunacock, bắt và bị đưa về trước mặt nhà vua ở Werowocomoco. Ông đã là người Anh đầu tiên gặp Wahunsunacock, và chính đã là tại cuộc gặp gỡ ban đầu này mà theo một số tường thuật cuộc sống của Smith đã được cứu chỉ do sự can thiệp của Pocahontas, em gái của Wahunsunacock. Được trả tự do ngày 2-1-1608, Smith đã quay lại Jamestown, mà vẫn cạn kiệt thực phẩm ở mức nguy hiểm, cho đến sự quay trở lại kịp thời của Newport từ nước Anh muộn hơn cùng ngày hôm đó. Các nhà thuộc địa của Jamestown đã học được ít từ kinh nghiệm ban đầu này. Khi năm 1608 tiếp diễn, họ tiếp tục tìm vàng và kim loại quý của mình. Họ vẫn có
  • 42. 22 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI vẻ chưa hiểu rằng để tồn tại, họ không thể dựa vào những người địa phương để cho họ ăn thông qua hoặc sự cưỡng bức hay sự buôn bán. Chính Smith là người đầu tiên đã nhận ra rằng mô hình thuộc địa hóa mà đã hoạt động rất tốt cho Cortés và Pizzaro đơn giản sẽ không hoạt động ở Bắc Mỹ. Hoàn cảnh cơ bản thật khác nhau. Smith đã lưu ý thấy, không giống những người Aztec và Inca, người dân ở Virginia đã không có vàng. Thật vậy, ông ghi chép trong nhật ký của mình, “Bạn phải biết thực phẩm là tất cả tài sản của họ”. Anas Todkill, một trong những người định cư ban đầu người đã để lại một nhật ký rộng lớn, đã bày tỏ rõ những thất vọng của Smith và vài người khác mà dựa vào đó sự thừa nhận này trở nên rõ ràng hơn: “Đã không có trò chuyện, không có hy vọng, không có công việc, trừ đào vàng, tinh chế vàng, chất vàng”. Khi Newport lái tàu về nước Anh tháng Tư năm 1608 ông đã chở chuyến hàng pyrite, vàng của thằng ngốc. Ông đã quay lại vào cuối tháng Chín với các mệnh lệnh của Công ty Virginia để giữ sự kiểm soát chặt hơn đối với những người địa phương. Kế hoạch của họ đã là phong vương cho Wahunsunacock, hy vọng rằng việc này sẽ làm cho ông ta phụ thuộc vào vua Anh James I. Họ đã mời ông đến Jamestown, nhưng Wahunsunacock, vẫn nghi ngờ các nhà thuộc địa một cách sâu sắc, đã không có ý định chịu rủi ro bị bắt. John Smith đã ghi lại trả lời của Wahunsunacock: “Nếu đức Vua của các ngươi gửi quà cho trẫm, trẫm cũng là một vị Vua, và đây là đất của trẫm … Cha của các ngươi phải đến chỗ trẫm, không phải trẫm đến chỗ ông ta, chẳng đến pháo đài của các ngươi, mà trẫm cũng sẽ không cắn một cái mồi như vậy”. Nếu Wahunsunacock không “cắn mồi như vậy”, thì Newport và Smith sẽ phải đi đến Werowocomoco để tiến hành việc phong vương. Toàn bộ sự kiện có vẻ đã là một sự thất bại hoàn toàn với thứ duy nhất lộ ra từ đó, một quyết tâm từ phía Wahunsunacock rằng đó là lúc thoát khỏi thuộc địa. Ông đã áp đặt một sự cấm vận thương mại. Jamestown sẽ không còn có thể trao đổi lấy hàng cung ứng. Wahunsunacock sẽ làm họ chết đói. Newport căng buồm một lần nữa về Anh, vào tháng 12-1608. Ông đã mang theo mình một lá thư do Smith viết cầu xin các giám đốc của Công ty Virginia thay đổi cách nghĩ của họ về thuộc địa. Đã không có khả năng về một sự khai thác
  • 43. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 23 trở-nên-giàu-nhanh của Virginia theo đường lối của Mexico và Peru. Đã không có vàng hay kim loại quý, và đã không thể cưỡng bức người dân bản địa để làm việc hay để cung cấp thực phẩm. Smith đã nhận ra rằng nếu muốn có một thuộc địa có thể đứng vững được, thì chính các nhà thuộc địa là những người phải làm việc. Vì thế ông đã cầu xin các giám đốc gửi những loại người phù hợp: “Khi các ngài gửi lần nữa tôi van xin các ngài hãy gửi khoảng ba mươi thợ mộc, cặp vợ chồng, những người làm vườn, những người đánh cá, các thợ rèn, các thợ nề, và những người đào cây, rễ cây, được chu cấp tốt, rồi cả ngàn người như thế khi chúng ta có.” Smith đã không muốn các thợ kim hoàn vô dụng nữa. Một lần nữa Jamestown đã sống sót chỉ bởi vì tài tháo vát của ông. Ông đã tìm được cách để tán tỉnh và bắt nạt các nhóm bản địa địa phương để trao đổi với ông, và khi chúng không thể, ông đã làm cái ông có thể. Phía sau ở khu định cư, Smith đã hoàn toàn chịu trách nhiệm và đã áp đặt quy tắc rằng “ai không làm thì đừng ăn”. Jemestown đã sống sót qua mùa đông thứ hai. Công ty Virginia dự định là một doanh nghiệp làm ra tiền, và sau hai năm thảm hại, đã chẳng thấy tăm hơi nào của lợi nhuận. Các giám đốc của công ty đã quyết định rằng họ cần một mô hình quản trị mới, thay thế hội đồng cai trị bằng một thống đốc duy nhất, Người đầu tiên được bổ nhiệm vào chức vụ này đã là Sir Thomas Gates. Lưu ý đến một số khía cạnh của sự cảnh báo của Smith, công ty đã nhận ra rằng họ phải thử cái gì đó mới. Sự nhận thức này đã được hiểu rõ bởi những sự kiện của mùa đông 1609/1610 – bởi cái gọi là “thời chết đói”. Cách thức quản trị mới đã không có chỗ cho Smith, người bực bội, đã trở về Anh vào mùa thu năm 1609. Không có tài xoay xở của ông và với Wahunsunacock bóp nghẹt việc cung cấp thực phẩm, các nhà thuộc địa của Jamestown đã chết. Trong số năm trăm người đã bước vào mùa đông, chỉ sáu mươi người còn sống vào tháng Ba. Tình hình đã tuyệt vọng đến mức họ đã phải quay sang ăn thịt người. “Cái gì đó mới” mà đã được áp đặt lên thuộc địa bởi Gates và người phó của ông, Sir Thomas Dale, đã là một chế độ lao động nghiêm ngặt hà khắc đối với những người định cư Anh – tuy tất nhiên không phải đối với elite vận hành thuộc địa. Chính Dale là người đã truyền bá “Luật Thánh thần, Luân lý và Quân sự”. Luật này bao gồm các điều khoản:
  • 44. 24 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Không đàn ông hay đàn bà nào được chạy từ thuộc địa sang những người Indian, bị tội chết.
  • 45. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 25 Bất cứ ai cướp một vườn, tư hay công, hay một vườn nho, hay người ăn cắp các bắp ngô sẽ bị phạt tội chết. Không thành viên nào của thuộc địa sẽ bán hay cho bất cứ hàng hóa nào của nước này cho một thuyền trưởng, thủy thủ, ông chủ hay thủy thủ để chở khỏi thuộc địa, cho việc sử dụng riêng của anh ta, bị tội chết. Nếu những người bản địa không được khai thác, Công ty Virginia lý luận, có lẽ các nhà thuộc địa có thể. Mô hình mới về phát triển thuộc địa đòi hỏi Công ty Virginia làm chủ toàn bộ đất. Đàn ông phải ở trong các doanh trại, và được cấp khẩu phần do công ty quyết định. Các đội làm việc được lựa chọn, mỗi đội được giám sát bởi một đại diện của công ty. Nó đã gần với thiết quân luật, với việc hành hình như sự trừng phạt dùng đến đầu tiên. Như một phần của các thể chế mới cho thuộc địa, điều đầu tiên vừa được trích là quan trọng. Công ty đe dọa giết những người bỏ đi. Căn cứ vào chế độ lao động mới, bỏ đi để sống với những người địa phương đã trở thành một lựa chọn ngày càng hấp dẫn cho các nhà thuộc địa phải làm việc. Căn cứ vào mật độ thấp của dân cư bản địa ở Virginia thời đó, cũng đã có triển vọng để bỏ đi một mình ra vùng biên cương ngoài tầm kiểm soát của Công ty Virginia. Quyền lực của công ty là hạn chế khi đối mặt với các lựa chọn này. Nó đã không thể cưỡng bức những người định cư Anh làm việc nặng nhọc với mức khẩu phần đủ sống. Bản đồ 2 cho thấy một ước tính mật độ dân số của các vùng khác nhau của châu Mỹ vào thời Tây Ban Nha chinh phục. Mật độ dân số của Hoa Kỳ, ngoài vài ổ, nhiều nhất đã là ba phần tư người trên một dặm vuông. Ở trung tâm Mexico hay Peru vùng Andes, mật độ dân số cao ở mức bốn trăm người trên một dặm vuông, cao hơn năm trăm lần. Những gì có thể ở Mexico hay Peru đã là không khả thi ở Virginia. Công ty Virginia đã cần một ít thời gian để nhận ra rằng mô hình ban đầu của nó về thuộc địa hóa đã không hoạt động ở Virginia, và cũng cần một ít thời gian nữa để thấu hiểu sự thất bại của “Luật Thánh thần, Luân lý và Quân sự”. Bắt đầu trong năm 1618, một chiến lược hết sức mới đã được chấp nhận. Vì đã không thể cưỡng bức những người địa phương cũng chẳng thể cưỡng bức những người định cư, lựa chọn khả dĩ duy nhất đã là khuyến khích những người định cư. Năm 1618 công ty bắt đầu “hệ thống quyền đầu người – headright system”, cấp cho mỗi
  • 46. 26 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI người đàn ông định cư năm mươi mẫu đất [một mẫu Anh, acre, bằng khoảng 4.050 m2 ] và thêm năm mươi mẫu cho mỗi thành viên gia đình của ông ta và cho tất cả các đầy tớ mà gia đình có thể mang sang Virginia. Những người định cư được cho nhà ở và được giải phóng khỏi các hợp đồng, và năm 1619 một Đại Hội đồng (General Assembly) được đặt ra mà trên thực tế đã cho tất cả những người đàn ông trưởng thành quyền quyết định về các luật và các thể chế cai trị thuộc địa. Nó đã là khởi đầu của nền dân chủ ở Hoa Kỳ. Công ty Virginia đã cần đến mười hai năm để học bài học đầu tiên của mình rằng những gì đã hoạt động cho người Tây Ban Nha ở Mexico và ở Trung và Nam Mỹ sẽ không hoạt động ở miền bắc. Phần còn lại của thế kỷ thứ mười bảy đã trải qua một chuỗi dài các cuộc đấu tranh về bài học thứ hai: lựa chọn duy nhất cho một thuộc địa có thể đứng vững về mặt kinh tế đã là tạo ra các thể chế khuyến khích các nhà thuộc địa đầu tư và làm việc cần cù. Trong khi mà Bắc Mỹ phát triển, các elite Anh hết lần này đến lần khác đã thử dựng lên các thể chế mà chúng hạn chế nặng nề đến các quyền kinh tế và chính trị của tất cả mọi người trừ một số ít có đặc quyền trong dân cư của thuộc địa, hệt như những người Tây Ban Nha đã làm. Thế nhưng trong mỗi trường hợp mô hình này đã sụp đổ, như nó đã thất bại ở Virginia. Một trong những nỗ lực tham vọng nhất đã bắt đầu không lâu sau sự thay đổi chiến lược của Công ty Virginia. Năm 1632 mười triệu mẫu đất ở phần trên vùng Vịnh Cheasapeake đã được vua Anh Charles I ban cho Cecilius Calbert, Lord Baltimore. Hiến chương của Maryland đã trao cho Lord Baltimore quyền tự do hoàn toàn để lập ra một chính phủ theo bất cứ đường lối nào ông muốn, với điều VI lưu ý rằng Baltimore đã có “Quyền lực tự do, đầy đủ, và tuyệt đối, theo ý nghĩa tổng quát của các Tặng phẩm này, để Quy định, Làm, và Ban hành các Đạo Luật, thuộc bất cứ Loại nào, cho Chính phủ có đức hạnh và tốt phúc của Tỉnh được nói đến này”. Baltimore đã thảo một kế hoạch chi tiết để tạo ra một xã hội thái ấp, một biến thể Bắc Mỹ của một phiên bản được lý tưởng hóa của nước Anh thôn quê thế kỷ mười bảy. Nó đòi hỏi việc chia đất thành các lô hàng ngàn mẫu, mà sẽ được các lord (chúa) vận hành. Các chúa sẽ tuyển mộ những người thuê, những người sẽ canh tác đất và nộp tô (tiền thuê) cho elite có đặc quyền và đang kiểm soát đất.
  • 47. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 27 Một nỗ lực tương tự đã được đưa ra muộn hơn trong năm 1663, với việc thành lập Carolina bởi tám chủ sở hữu, kể cả Sir Anthony Ashley-Cooper. Ashley-Cooper cùng với thư ký của mình, nhà triết học Anh vĩ đại John Locke, đã trình bày Hiến pháp Cơ bản của Carolina. Tài liệu này, giống Hiến chương Maryland trước nó, đã cung cấp một kế hoạch chi tiết cho một xã hội tinh hoa chủ nghĩa, có thứ bậc dựa trên sự kiểm soát bởi một elite có nhiều đất đai. Lời mở đầu ghi rằng “chính phủ của tỉnh này có thể trở nên thích hợp nhất với nền quân chủ mà dưới đó chúng ta sống mà tỉnh này là một phần; và rằng chúng ta có thể tránh được việc dựng lên một nền dân chủ đông đảo”. Các điều khoản của Hiến pháp Cơ bản đặt ra một cấu trúc xã hội cứng nhắc. Ở dưới cùng là “những người-leet” (leet-men), với điều khoản 23 ghi, “Tất cả con của những người leet sẽ là những người leet, và cứ như thế cho mọi thế hệ”. Trên những người leet, những người không có quyền chính trị nào, là các lãnh chúa (landgrave) và các tộc trưởng (cazique), những người tạo thành giới quý tộc. Mỗi lãnh chúa được phân cho bốn mươi tám ngàn mẫu, mỗi tộc trưởng được hai mươi bốn ngàn mẫu. Đã có một quốc hội đại diện cho các lãnh chúa và tộc trưởng, nhưng nó sẽ được phép để tranh luận chỉ các biện pháp mà đã được tám chủ sở hữu chấp thuận trước. Hệt như nỗ lực áp đặt các quy tắc hà khắc ở Virginia đã thất bại, các kế hoạch cho cùng loại các thể chế ở Maryland và Carolina cũng thế. Các lý do là giống nhau. Trong mọi trường hợp đã chứng tỏ là không thể ép buộc những người định cư vào một xã hội có thứ bậc cứng nhắc, bởi vì đơn giản đã có quá nhiều lựa chọn mở ra cho họ ở Thế giới Mới. Thay vào đó, phải cung cấp cho họ các khuyến khích để họ muốn làm việc. Và chẳng bao lâu họ đã đòi nhiều quyền tự do kinh tế hơn và thêm các quyền chính trị nữa. Cả ở Maryland nữa, những người định cư khăng khăng đòi có được đất riêng của họ, và họ đã buộc Lord Baltimore vào việc tạo ra một hội đồng. Vào năm 1691, hội đồng đã xui khiến vua tuyên bố Maryland là một thuộc địa thuộc Quốc vương [Crown colony, nên chưa được độc lập], như thế loại bỏ các đặc quyền chính trị của Baltimore và các đại lãnh chúa của ông. Một cuộc chiến đấu kéo dài tương tự đã xảy ra ở Carolina, lại lần nữa với các chủ sở hữu bị thua. Nam Carolina trở thành thuộc địa hoàng gia vào năm 1729. Vào các năm 1720, tất cả mười ba thuộc địa của cái sẽ trở thành Hoa Kỳ đã có các cấu trúc chính phủ giống nhau. Trong mọi trường hợp đã có một thống đốc,
  • 48. 28 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI và một hội đồng dựa vào quyền bầu cử của những người đàn ông chủ tài sản. Chúng đã chưa phải là các nền dân chủ; phụ nữ, nô lệ, và những người không có tài sản đã không được bỏ phiếu. Nhưng các quyền chính trị đã là rất rộng so với các xã hội đương thời ở nơi khác. Chính các hội đồng này và các nhà lãnh đạo của chúng là cái đã hợp lại để hình thành Quốc hội Lục địa Đầu tiên (First Continental Congress) vào năm 1774, khúc dạo đầu cho sự độc lập của Hoa Kỳ. Các hội đồng đã tin họ có quyền để quyết định cả tư cách thành viên riêng của họ lẫn quyền đánh thuế. Điều này, như chúng ta biết, gây ra các vấn đề đối với chính phủ thuộc địa Anh. CÂU CHUYỆN VỀ HAI HIẾN PHÁP Bây giờ phải là rõ ràng, rằng không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên mà Hoa Kỳ, chứ không phải Mexico, đã thông qua và thực thi một hiến pháp tán thành các nguyên tắc dân chủ, tạo ra các hạn chế về việc sử dụng quyền lực chính trị, và phân phối quyền lực đó một cách rộng rãi trong xã hội. Văn kiện mà các đại biểu đã ngồi xuống để viết ở Philadelphia năm 1787 đã là kết quả của một quá trình dài được khởi đầu bằng sự hình thành của Đại Hội đồng ở Jamestown năm 1619. Sự tương phản giữa quá trình lập hiến xảy ra vào thời độc lập của Hoa Kỳ và quá trình xảy ra sau đó một chút ở Mexico lộ rõ hẳn ra. Trong tháng Hai 1808, quân đội Pháp của Napoleon Bonaparte đã xâm lăng Tây Ban Nha. Vào tháng Năm họ đã lấy được Madrid, thủ đô Tây Ban Nha. Vào tháng Chín vua Tây Ban Nha Ferdinal đã bị bắt và đã thoái vị. Một junta (hội đồng hành chính) quốc gia, Junta Trung ương, đã thế chỗ ông, cầm ngọn đuốc trong cuộc chiến đấu chống Pháp. Junta họp lần đầu tiên tại Aranjuez, nhưng đã rút lui xuống phía nam trước quân đội Pháp. Cuối cùng nó đã đến cảng Cádiz, mà, tuy bị các lực lượng Napoleonic bao vây, vẫn đã đứng vững. Ở đây Junta đã thành lập một quốc hội, được gọi là Cortes. Năm 1812 Cortes đã tạo ra cái được biết đến như Hiến pháp Cádiz, mà nó kêu gọi việc lập ra một nền quân chủ lập hiến dựa trên những quan niệm của chủ quyền nhân dân. Nó cũng đã kêu gọi chấm dứt các đặc quyền và đưa vào sự bình đẳng trước pháp luật. Elite của Nam Mỹ, những người vẫn cai trị trong một môi trường, do encomienda, lao động cưỡng bức, và quyền lực tuyệt
  • 49. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 29 đối được ban cho họ và nhà nước thuộc địa định hình, đã ghét cay ghét đắng những đòi hỏi này. Sự sụp đổ của nhà nước Tây Ban Nha với sự xâm lược Napoleon đã tạo ra một khủng hoảng hiến pháp trên khắp Mỹ Latin thuộc địa. Đã có tranh luận nhiều về liệu có thừa nhận thẩm quyền của Junta Trung ương hay không, và đáp lại, nhiều người Mỹ Latin đã bắt đầu thành lập các junta riêng của họ. Đã chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi họ bắt đầu ý thức được khả năng trở thành thực sự độc lập với Tây Ban Nha. Tuyên bố độc lập đầu tiên đã xảy ra ở La Paz, Bolivia, năm 1809, tuy nó đã nhanh chóng bị nghiền nát bởi binh lính Tây Ban Nha được gửi từ Peru sang. Tại Mexico thái độ chính trị của elite đã được định hình bởi cuộc Nổi loạn Hidalgo năm 1810, được lãnh đạo bởi một linh mục, Cha Miguel Hidalgo. Khi quân đội của Hidalgo cướp phá Guanajuato ngày 23 tháng Chín, họ đã giết quản đốc, quan chức thuộc địa cấp cao, và sau đó đã bắt đầu giết những người gia trắng một cách không phân biệt. Nó đã giống một cuộc chiến tranh giai cấp hay sắc tộc hơn là một phong trào độc lập, và nó đã hiệp nhất tất cả elite trong phe đối lập. Nếu sự độc lập cho phép sự tham gia của nhân dân vào chính trị, elite địa phương, không chỉ những người Tây Ban Nha, đã chống lại nó. Hệ quả là, elite Mexico đã xem xét Hiến pháp Cádiz, mà đã mở đường cho sự tham gia của nhân dân, với sự ngờ vực cực kỳ; họ sẽ chẳng bao giờ công nhận tính hợp pháp của nó. Năm 1815, khi đế chế Âu châu của Napoleon sụp đổ, Vua Ferdinand VII quay lại nắm quyền và Hiến pháp Cádiz đã bị bãi bỏ. Khi Quốc Vương Tây Ban Nha bắt đầu thử đòi lại các thuộc địa Mỹ của nó, nó đã không gặp khó khăn với Mexico trung thành. Thế nhưng, năm 1820, một đội quân Tây Ban Nha đã tụ tập ở Cádiz để đi tàu sang châu Mỹ giúp khôi phục lại thẩm quyền Tây Ban Nha đã nổi loạn chống Ferdinand VII. Các lực lượng quân đội khắp nước đã gia nhập với họ, và Ferdinand đã buộc phải khôi phục Hiến pháp Cádiz và triệu tập lại Cortes. Cortes này thậm chí còn cấp tiến hơn Cortes đã soạn ra Hiến pháp Cádiz, và nó đã đề xuất xóa bỏ mọi hình thức cưỡng bức lao động. Nó cũng đã tấn công các đặc quyền đặc biệt – thí dụ, quyền của quân đội để được xử các tội hình sự tại các tòa án riêng của họ. Đối mặt cuối cùng với sự áp đặt văn kiện này ở Mexico, elite ở đó đã quyết định rằng tốt hơn nếu nó đi một mình và tuyên bố độc lập. Phong trào độc lập này đã được lãnh đạo bởi Augustín de Iturbide, người đã là một sỹ quan trong quân đội Tây Ban Nha. Ngày 24-2-1821, ông công bố Plan de
  • 50. 30 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Iguala (Kế hoạch Iguala), tầm nhìn của ông cho một Mexico độc lập. Kế hoạch đã đề cao một nền quân chủ lập hiến với một hoàng đế Mexic, và đã loại bỏ các quy định của Hiến pháp Cádiz mà elite Mexic thấy rất đe dọa đến địa vị và các đặc quyền của họ. Nó đã nhận được sự ủng hộ tức thời, và Tây Ban Nha đã nhanh chóng nhận ra rằng nó không thể ngăn cái không thể tránh khỏi. Nhưng Iturbide đã không chỉ tổ chức sự ly khai Mexic. Nhận ra chân không quyền lực, ông đã nhanh chóng tận dụng sự ủng hộ của quân đội, ông đã tự tuyên bố mình là hoàng đế, một vị trí mà nhà lãnh đạo vĩ đại của nền độc lập Nam Mỹ, Simón Bolivar, đã mô tả như “nhờ ân sủng của Chúa và của lưỡi lê”. Iturbide đã không bị ràng buộc bởi cùng các thể chế chính trị mà các tổng thống Hoa Kỳ bị hạn chế; ông đã nhanh chóng biến mình thành một kẻ độc tài, và vào tháng Mười 1822, ông đã giải tán quốc hội được phê chuẩn một cách hợp hiến và đã thay thế nó bằng một junta do ông chọn. Tuy [triều đại] Iturbide đã không kéo dài, nhưng hình mẫu này của các sự kiện đã lặp đi lặp lại ở Mexico thế kỷ thứ mười chín. Hiến pháp Hoa Kỳ đã không tạo ra một nền dân chủ theo các tiêu chuẩn hiện đại. Ai có thể bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử đã được để cho từng bang quyết định. Trong khi các bang miền bắc đã nhanh chóng thừa nhận quyền bỏ phiếu của tất cả những đàn ông da trắng bất kể họ nhận được bao nhiêu thu nhập hay có bao nhiêu tài sản, còn các bang miền nam đã chỉ làm vậy một cách từ từ. Không bang nào đã trao quyền bầu cử cho phụ nữ hay các nô lệ, và khi những hạn chế về tài sản và của cải đã được bãi bỏ đối với đàn ông gia trắng, việc tước quyền bầu cử của các đàn ông da đen đã được đưa vào một cách tường minh. Chế độ nô lệ, tất nhiên, đã được coi là hợp hiến khi Hiến pháp Hoa Kỳ được soạn ở Philadelphia, và sự thương lượng đê tiện nhất đã liên quan đến việc phân chia các ghế trong Hạ viện giữa các bang. Các ghế này được phân bổ trên cơ sở dân số của mỗi bang, nhưng các đại biểu quốc hội của các bang miền nam khi đó đã đòi hỏi rằng các nô lệ phải được tính. Những người miền bắc đã phản đối. Sự thỏa hiệp đã là trong chia phần các ghế Hạ viện, một nô lệ sẽ được tính như ba phần năm của một người tự do. Các xung đột giữa miền Bắc và miền Nam của Hoa Kỳ đã được kiềm chế trong quá trình lập hiến vì quy tắc ba phần năm và những thỏa hiệp khác đã được nghĩ ra. Những sang sửa mới được thêm vào theo thời gian – thí dụ, Thỏa hiệp Missouri, một dàn xếp nơi một bang ủng hộ chế độ nô lệ và một bang phản đối chế độ nô lệ đã luôn luôn được cộng thêm vào toàn liên bang, để giữ sự cân bằng trong Thượng viện gữa các bang ủng hộ và chống đối chế độ nô lệ. Những
  • 51. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 31 chuyện vớ vẩn này đã giữ các thể chế chính trị của Hoa Kỳ hoạt động một cách yên bình cho đến khi Nội Chiến cuối cùng đã giải quyết các xung đột theo cách có lợi cho miền Bắc. Nội Chiến đã đẫm máu và tàn phá. Nhưng cả trước và sau chiến tranh đã có nhiều cơ hội kinh tế cho một phần lớn dân số, đặc biệt ở miền bắc và miền tây Hoa Kỳ. Tình hình ở Mexico đã rất khác. Nếu Hoa Kỳ đã trải qua năm năm bất ổn chính trị giữa 1860 và 1865, thì Mexico đã trải nghiệm sự bất ổn hầu như không ngừng suốt năm mươi năm đầu của sự độc lập. Việc này được minh họa khéo nhất qua sự nghiệp của Antonio Lospez de Santa Ana. Santa Ana, con của một quan chức thuộc địa ở Veracruz, trở nên nổi bật như một người lính chiến đấu cho Tây Ban Nha trong các cuộc chiến tranh độc lập. Năm 1821, ông đã chuyển sang phía Iturbide và đã không bao giờ nhìn lại. Ông đã trở thành tổng thống Mexico lần đầu tiên vào tháng Năm 1833, tuy ông thực hiện quyền lực ít hơn một tháng, thích để cho Valentín Gómez Farías hành động với tư cách tổng thống hơn. Nhiệm kỳ tổng thống của Gómez Farías kéo dài mười lăm ngày, sau đó Santa Ana nắm lại quyền lực. Tuy nhiên, đấy đã ngắn như phiên đầu tiên của ông, và ông đã lại bị Gómez Farías thay thế, vào đầu tháng Bảy. Santa Ana và Gómez Farías đã tiếp tục điệu nhảy này cho đến giữa 1835, khi Santa Ana bị Miguel Barragán thay thế. Nhưng Santa Ana đã không là một kẻ bỏ cuộc. Ông đã quay lại làm tổng thống trong các năm 1839, 1841, 1844, 1847, và, cuối cùng, giữa 1853 và 1855. Tổng cộng, ông đã là tổng thống mười một lần, trong đó ông đã chịu trách nhiệm về việc để mất Alamo và Texas và chiến tranh Mexic-Mỹ tai hại, mà đã dẫn đến việc để mất cái trở thành New Mexico và Arizona. Giữa 1824 và 1867 đã có năm mươi hai tổng thống ở Mexico, vài trong số đó đã nắm quyền theo thủ tục đã được phê chuẩn một cách hợp hiến. Hậu quả của sự bất ổn chính trị chưa từng có này đối với các thể chế và các khuyến khích kinh tế phải là rõ ràng. Sự bất ổn như vậy đã dẫn đến các quyền tài sản hết sức không chắc chắn. Nó cũng đã dẫn đến một sự suy yếu nghiêm trọng của nhà nước Mexic, mà bây giờ đã có ít thẩm quyền và ít khả năng để thu thuế hay cung cấp các dịch vụ công. Thực vậy, mặc dù Santa Ana đã là tổng thống ở Mexico, nhiều phần rộng lớn của nước này đã không nằm dưới sự kiểm soát của ông, mà đã cho phép việc sáp nhập Texas bởi Hoa Kỳ. Ngoài ra, như chúng ta vừa thấy, động cơ nằm đằng sau sự tuyên bố độc lập Mexic đã là để bảo vệ tập các thể
  • 52. 32 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI chế kinh tế đã được phát triển trong thời kỳ thuộc địa, mà đã biến Mexico, theo lời của nhà khám phá và nhà địa lý Đức vĩ đại về Mỹ Latin, Alexander von Humbolt, trở thành “nước của sự bất bình đẳng”. Các thể chế này, do đặt cơ sở xã hội trên sự khai thác người dân bản địa và tạo ra các độc quyền, đã ngăn chặn các khuyến khích kinh tế và các sáng kiến của quảng đại quần chúng nhân dân. Trong khi Hoa Kỳ đã bắt đầu trải nghiệm Cách mạng Công nghiệp trong nửa đầu của thế kỷ thứ mười chín, thì Mexico đã trở nên nghèo hơn. CÓ MỘT Ý TƯỞNG, KHỞI ĐỘNG MỘT HÃNG, VÀ NHẬN ĐƯỢC MỘT KHOẢN VAY Cách mạng Công nghiệp đã bắt đầu ở nước Anh. Thành công đầu tiên của nó đã là cách mạng hóa sản xuất quần áo vải bông bằng cách sử dụng các máy mới được cung cấp lực bởi các bánh xe nước và muộn hơn bởi các động cơ hơi nước. Cơ giới hóa việc sản xuất vải bông đã làm tăng rất nhiều năng suất của những người lao động, đầu tiên trong ngành dệt may, và sau đó trong các ngành khác. Động cơ của những đột phá công nghệ trong khắp nền kinh tế là sự đổi mới sáng tạo (innovation), với mũi xung kích của các doanh nhân và các nhà kinh doanh mới háo hức áp dụng các ý tưởng mới của họ. Sự nở hoa ban đầu này đã nhanh chóng lan qua Bắc Đại Tây Dương sang Hoa Kỳ. Người dân đã thấy các cơ hội kinh tế to lớn sẵn có trong thích nghi các công nghệ mới được phát triển ở Anh. Họ cũng được truyền cảm hứng để phát triển các sáng chế riêng của mình. Chúng ta có thể thử để hiểu bản chất của các sáng chế này bằng cách ngó xem ai đã được cấp bằng sáng chế. Hệ thống bằng sáng chế, mà bảo vệ các quyền tài sản trong các ý tưởng, đã được hệ thống hóa trong Đạo luật về các Độc quyền được xây dựng và ban hành bởi Quốc hội Anh năm 1623, một phần như một nỗ lực để ngăn chặn nhà vua khỏi ban một cách tùy tiện “các thư bằng sáng chế” cho ai mà ngài muốn – trên thực tế cấp các quyền độc quyền để thực hiện các hoạt động hay các công việc kinh doanh nhất định. Điều nổi bật về bằng chứng cấp bằng sáng chế ở Hoa Kỳ là, những người được cấp bằng sáng chế đến từ mọi loại xuất thân, mọi loại bối cảnh và mọi ngành nghề, chứ không chỉ là những người giàu và ưu tú. Nhiều người đã kiếm được bộn tiền hay trở nên giàu có dựa vào các bằng sáng chế của mình. Hãy xét Thomas Edison, người sáng chế ra đĩa ghi âm,
  • 53. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 33 bóng đèn điện và người sáng lập ra General Electric, vẫn là một trong những công ty lớn nhất thế giới. Edison đã là người con út trong bảy người con. Cha ông, Samuel Edison, đã theo nhiều nghề, từ tách các tấm ván làm ngói gỗ lợp nhà đến làm thợ may đến cai quản một quán rượu. Thomas đã ít được học chính thống ở trường nhưng đã được học tại nhà nhờ mẹ ông. Giữa 1820 và 1845, chỉ có 19 phần trăm những người được cấp bằng sáng chế ở Hoa Kỳ đã có cha mẹ là các nhà chuyên nghiệp hay từ các gia đình chủ đất lớn có thể nhận ra được. Trong cùng thời kỳ, 40 phần trăm những người đã được cấp bằng sáng chế chỉ đã học tiểu học hay ít hơn, đúng như Edison. Hơn nữa, họ thường khai thác bằng sáng chế của mình bằng cách thành lập một hãng, lại giống như Edison. Hệt như Hoa Kỳ trong thế kỷ thứ mười chín về mặt chính trị đã là dân chủ hơn hầu như bất cứ quốc gia khác nào trên thế giới vào thời đó, nó cũng đã dân chủ hơn các nước khác khi nói về đổi mới sáng tạo. Điều này là cốt yếu cho con đường của nó để trở thành quốc gia đổi mới sáng tạo nhất về mặt kinh tế trên thế giới. Nếu bạn nghèo với một ý tưởng hay, thì một việc là lấy một bằng sáng chế, mà, rốt cuộc, cũng không tốn kém lắm. Là chuyện hoàn toàn khác để dùng bằng sáng chế đó để kiếm tiền. Một cách, tất nhiên, là bán bằng sáng chế cho ai đó khác. Đấy là cách Edison đã làm lúc đầu, để huy động một ít vốn, khi ông bán [bằng sáng chế về] máy điện tín Quadruplex cho Western Union lấy 10.000 USD. Nhưng bán các bằng sáng chế là một ý tưởng hay chỉ cho ai đó giống Edison, người đã có các ý tưởng nhanh hơn ông có thể đưa chúng vào thực tế. (Ông đã có một kỷ lục thế giới 1.093 bằng sáng chế đã được cấp cho ông ở Hoa Kỳ, và 1.500 trên toàn thế giới). Cách thực sự để kiếm tiền từ một bằng sáng chế là lập doanh nghiệp riêng của bạn. Nhưng để khởi động một doanh nghiệp, bạn cần vốn, và bạn cần các ngân hàng cho bạn vay vốn. Các nhà sáng chế ở Hoa Kỳ một lần nữa lại gặp may. Trong thế kỷ thứ mười chín đã có sự mở rộng nhanh của trung gian tài chính và hoạt động ngân hàng mà đã là một nhân tố cốt yếu tạo thuận lợi cho sự tăng trưởng nhanh và công nghiệp hóa mà nền kinh tế đã trải qua. Trong khi vào năm 1818 đã có 338 ngân hàng hoạt động ở Hoa Kỳ, với tổng tài sản 160 triệu USD, vào năm 1914 đã có 27.864 ngân hàng với tổng tài sản 27,3 tỷ USD. Các nhà đầu tư tiềm năng ở Hoa Kỳ đã có rồi sự tiếp cận đến vốn để khởi động các doanh nghiệp của mình. Hơn nữa, sự cạnh
  • 54. 34 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI tranh cao độ giữa các ngân hàng và các tổ chức tài chính ở Hoa Kỳ đã có nghĩa rằng khoản vốn này đã sẵn có với lãi suất khá thấp. Cùng thứ đã không đúng ở Mexico. Thực ra, vào năm 1910, khi Cách mạng Mexic bắt đầu, đã chỉ có bốn mươi hai ngân hàng ở Mexico, và hai trong số đó đã kiểm soát 60 phần trăm tổng tài sản ngân hàng. Không giống Hoa Kỳ, nơi cạnh tranh là khốc liệt, hầu như đã không có cạnh tranh giữa các ngân hàng Mexic. Sự thiếu cạnh tranh này có nghĩa rằng các ngân hàng đã có thể tính lãi suất rất cao cho các khách hàng của mình, và thường đã giới hạn việc cấp tín dụng cho người có đặc quyền và người đã giàu rồi, những người sau đó sẽ sử dụng sự tiếp cận của họ đến tín dụng để tăng sự kìm kẹp của họ đối với các khu vực khác nhau của nền kinh tế. Hình thức, mà ngành ngân hàng Mexico đã lấy trong các thế kỷ mười chín và hai mươi, đã là kết quả trực tiếp của các thể chế chính trị sau độc lập của nước này. Sự hỗn độn của thời đại Santa Ana được kế tiếp bởi một nỗ lực chết yểu của chính phủ Pháp của Hoàng đế Napoleon II để tạo ra một chế độ thuộc địa ở Mexico dưới Hoàng đế Maximillian I giữa 1864 và 1867. Người Pháp đã bị trục xuất, và một hiến pháp mới đã được thảo. Nhưng chính phủ được lập ra đầu tiên bởi Benito Juárez và, sau cái chết của ông, bởi Sebastián Lerdo de Tejeda đã mau chóng bị thách thức bởi một nhà quân sự trẻ có tên là Porfirio Díaz. Díaz đã là một tướng chiến thắng trong chiến tranh chống lại Pháp và đã nuôi dưỡng khát vọng quyền lực. Ông đã lập một đội quân nổi loạn và, vào tháng 11-1876, đã đánh bại quân đội của chính phủ ở Trận Tecoac. Trong tháng Năm của năm sau, ông đã tự bầu mình làm tổng thống. Ông đã tiếp tục cai trị Mexico ít nhiều không gián đoạn và theo cách ngày càng chuyên quyền cho đến khi bị lật đổ bởi cách mạng nổ ra ba mươi tư năm sau. Giống Iturbide và Santa Ana trước ông, Díaz đã bắt đầu cuộc đời như một chỉ huy quân đội. Một con đường sự nghiệp như vậy vào hoạt động chính trị đã chắc chắn được biết đến ở Hoa Kỳ. Tổng thống đầu tiên của Hoa Kỳ, George Washington, cũng đã là một tướng thành công trong Chiến tranh Độc lập. Ulysess S. Grant, một trong các tướng Liên bang chiến thắng của Nội Chiến, đã trở thành tổng thống năm 1869, và Dwight D. Eisenhower, tổng chỉ huy các Lực lượng Đồng minh ở châu Âu trong Chiến tranh Thế giới II, đã là tổng thống Hoa Kỳ giữa 1953 và 1961. Tuy vậy, không giống Iturbide, Santa Ana và Díaz, không ai
  • 55. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 35 trong các nhà quân sự này đã dùng vũ lực để lên nắm quyền. Họ cũng đã không dùng vũ lực để tránh phải từ bỏ quyền lực. Họ đã tuân theo hiến pháp. Tuy Mexico đã có các hiến pháp trong thế kỷ thứ mười chín, chúng đã đặt ra ít ràng buộc về cái mà Iturbide, Santa Ana và Díaz đã có thể làm. Những người này đã có thể bị loại bỏ khỏi quyền lực chỉ bằng cùng cách họ đã đạt được nó: bằng sử dụng vũ lực. Díaz đã vi phạm các quyền tài sản của nhân dân, tạo thuận lợi cho việc chiếm đoạt số lượng đất đai rộng lớn, và ông đã trao những độc quyền và các đặc ân cho những người ủng hộ ông trong mọi lĩnh vực kinh doanh, kể cả ngân hàng. Đã chẳng có gì mới về cách ứng xử này. Đấy chính xác là cái những kẻ chinh phục Tây Ban Nha đã làm, và cái Sata Ana đã làm theo bước chân họ. Lý do mà Hoa Kỳ đã có ngành ngân hàng tốt hơn một cách cơ bản cho sự thịnh vượng kinh tế đã chẳng liên quan gì đến những sự khác biệt về động cơ của những người sở hữu ngân hàng. Thực vậy, động cơ lợi nhuận, mà làm nòng cốt cho bản chất độc quyền của ngành ngân hàng ở Mexico, cũng đã hiện diện cả ở Hoa Kỳ nữa. Nhưng động cơ lợi nhuận này đã được hướng một cách khác đi bởi vì các thể chế khác biệt hoàn toàn của Hoa Kỳ. Các chủ ngân hàng đã đối mặt với các thể chế kinh tế khác hẳn, các thể chế đã buộc chúng phải cạnh tranh mạnh hơn rất nhiều. Và việc này đã phần nhiều là bởi vì các nhà chính trị, những người soạn ra các quy tắc cho các chủ ngân hàng, bản thân họ đã phải đối mặt với các khuyến khích rất khác được tạo ra bởi các thể chế chính trị khác biệt. Thực vậy, vào cuối thế kỷ thứ mười tám, không lâu sau khi Hiến pháp Hoa Kỳ đi vào hoạt động, một hệ thống ngân hàng trông giống hệ thống, mà sau đó đã áp đảo ở Mexico, đã bắt đầu nổi lên. Các chính trị gia đã thử thành lập các độc quyền ngân hàng bang, mà họ đã có thể đưa cho các bạn và các đối tác của họ để đổi lại một phần lợi nhuận độc quyền. Các ngân hàng cũng đã mau chóng lao vào công việc kinh doanh cho các chính trị gia, những người điều tiết họ, vay tiền, hệt như ở Mexico. Nhưng tình hình này đã không thể duy trì được ở Hoa Kỳ, bởi vì các chính trị gia những người đã thử lập ra các độc quyền ngân hàng này, không giống như ở Mexico, đã phải tuân theo sự bầu cử và tái bầu cử. Tạo ra các độc quyền ngân hàng và cấp các khoản vay cho các chính trị gia là công việc kinh doanh tốt cho các chính trị gia, nếu họ có thể tránh thoát các hậu quả. Tuy vậy, nó không đặc biệt tốt cho các công dân. Không giống ở Mexico, ở Hoa Kỳ các công dân đã có thể kìm hãm và
  • 56. 36 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI giải thoát khỏi các chính trị gia, những người lạm dụng chức vụ của mình để làm giàu cho mình hay tạo ra các độc quyền cho các cánh hẩu của mình. Kết quả là, các độc quyền ngân hàng đã sụp đổ. Sự phân bố rộng các quyền chính trị ở Hoa Kỳ, đặc biệt khi so sánh với Mexico, đã đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng đến tài chính và các khoản vay. Điều này, đến lượt nó, lại đảm bảo rằng những người có các ý tưởng và các sáng chế có thể được hưởng lợi từ chúng. SỰ THAY ĐỔI PHỤ THUỘC VÀO CON ĐƯỜNG Thế giới đã thay đổi trong các năm 1870 và 1880. Mỹ Latin đã không là ngoại lệ. Các thể chế, mà Porfirio Díaz đã thiết lập, đã không giống hệt các thể chế của Santa Ana hay của nhà nước thuộc địa Tây Ban Nha. Nền kinh tế thế giới đã phồn thịnh bột phát trong nửa sau của thế kỷ mười chín, và những đổi mới sáng tạo trong giao thông như tàu hơi nước và đường sắt đã dẫn đến sự mở rộng to lớn của thương mại quốc tế. Làn sóng này của toàn cầu hóa đã có nghĩa rằng các nước giàu tài nguyên như Mexico – hay, chính xác hơn elite ở các nước như vậy – đã có thể làm giàu chính mình bằng xuất khẩu các nguyên liệu thô và các tài nguyên thiên nhiên cho Bắc Mỹ hay Châu Âu đang công nghiệp hóa. Díaz và những cánh hẩu của ông đã thấy mình trong một thế giới khác và đang phát triển nhanh. Họ đã nhận ra rằng Mexico cũng phải thay đổi. Nhưng điều này đã không có nghĩa là nhổ cả rễ các thể chế thuộc địa và thay thế chúng bằng các thể chế giống như các thể chế ở Hoa Kỳ. Thay vào đó, sự thay đổi của họ đã là sự thay đổi “phụ thuộc vào con đường – path dependent” chỉ dẫn đến pha tiếp theo của các thể chế đã làm cho phần lớn Mỹ Latin nghèo và bất bình đẳng rồi. Toàn cầu hóa đã làm cho các vùng bỏ ngỏ bao la của châu Mỹ, “các vùng biên cương mở-open frontiers” của nó, có giá trị. Thường các vùng biên cương này đã chỉ trống một cách huyền thoại, vì những người bản địa đã ở đó và họ đã bị truất quyền sở hữu một cách tàn nhẫn. Dẫu sao, sự tranh cướp các tài nguyên có giá trị mới này đã là một quá trình định rõ của châu Mỹ trong nửa sau của thế kỷ mười chín. Sự mở ra đột ngột của vùng biên cương có giá trị này đã không dẫn đến các quá trình tương tự ở Hoa Kỳ và Mỹ Latin, mà đã dẫn đến sự phân kỳ thêm, được định hình bởi những sự khác biệt thể chế hiện tồn, đặc biệt là những khác biệt liên quan đến ai có cơ hội có đất. Ở Hoa Kỳ, một chuỗi dài các hành động lập pháp, từ
  • 57. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 37 Sắc lệnh Đất năm 1785 đến Luật Trang ấp 1862, đã cho sự tiếp cận rộng rãi đến đất biên cương. Tuy những người bản địa đã bị cho ra ngoài lề, việc này đã tạo ra một vùng biên cương bình đẳng và năng động về mặt kinh tế. Trong hầu hết các nước Mỹ Latin, tuy vậy, các thể chế chính trị ở đó đã tạo ra kết quả rất khác. Đất vùng biên cương đã được phân cho những người có thế lực chính trị và những người giàu có và có các mối quan hệ, làm cho những người như vậy thậm chí hùng mạnh hơn. Díaz cũng đã bắt đầu dỡ bỏ nhiều di sản thể chế thuộc địa cụ thể, cản trở thương mại quốc tế, mà ông thấy trước sẽ làm cho ông và những người ủng hộ ông giàu hơn rất nhiều. Mô hình của ông, tuy vậy, vẫn tiếp tục không phải là kiểu phát triển kinh tế mà chúng ta thấy ở phía bắc Rio Grandes mà là kiểu của Cortés, Pizzaro, và de Toledo, nơi elite trở nên rất giàu có trong khi những người còn lại bị loại trừ. Khi elite đầu tư, nền kinh tế tăng trưởng một chút, nhưng sự tăng trưởng như vậy luôn luôn dẫn đến thất vọng. Nó cũng đã xảy ra với sự trả giá của những người thiếu các quyền trong trật tự mới này, như những người Yaqui ở Sonora, trong vùng nội địa xa của Nogales. Giữa 1900 và 1910, có lẽ ba mươi ngàn người Yaqui đã bị lưu đày, về bản chất bị bắt làm nô lệ, bị tống đi lao động ở các đồn điền henequen [cây thùa sợi] ở Yucatán. (Sợi cây henequen đã là một mặt hàng xuất khẩu có giá trị, vì nó có thể được dùng để làm dây thừng và dây bện). Sự dai dẳng kéo dài vào thế kỷ hai mươi của một hình mẫu thể chế đặc thù không thân thiện với tăng trưởng ở Mexico và Mỹ Latin được minh họa rõ bởi sự thực rằng, hệt như trong thế kỷ mười chín, hình mẫu đã gây ra trì trệ kinh tế và bất ổn chính trị, các cuộc nội chiến và đảo chính, khi các phe nhóm tranh giành nhau vì các lợi ích quyền lực. Díaz cuối cùng đã mất quyền lực cho các lực lượng cách mạng trong năm 1910. Cuộc Cách mạng Mexic được tiếp theo bởi các cuộc cách mạng khác ở Bolivia năm 1952, ở Cuba năm 1959, và Nicaragua năm 1979. Trong lúc đó, các cuộc nội chiến kéo dài đã nổ ra ở Columbia, El Salvador, Guatemala, và Peru. Sự chiếm đoạt hay sự đe dọa chiếm đoạt tài sản vẫn tiếp tục mau lẹ, với các cuộc cải cách nông nghiệp hàng loạt (hay các cuộc cải cách được thử) ở Bolivia, Brazil, Chile, Columbia, Guatemala, Peru, và Venezuela. Các cuộc cách mạng, những sự chiếm đoạt và bất ổn chính trị đã đến cùng với các chính phủ quân sự và các chế độ độc tài thuộc nhiều loại. Tuy cũng đã có một sự trôi dạt từ từ hướng về các quyền chính trị rộng lớn hơn, nhưng chỉ đến các năm 1990 thì
  • 58. 38 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI hầu hết các nước Mỹ Latin mới trở thành các nền dân chủ, và thậm chí khi đó chúng vẫn sa lầy trong bất ổn. Sự bất ổn này đã đi cùng với sự đàn áp và giết người hàng loạt. Báo cáo [của] Ủy ban Quốc gia cho Chân lý và Hòa giải năm 1991 ở Chile đã xác định rằng 2.279 người đã bị giết vì các lý do chính trị trong chế độ độc tài Pinochet giữa 1973 và 1990. Có lẽ 50.000 đã bị bỏ tù và tra tấn, và hàng trăm ngàn người đã bị đuổi việc. Báo cáo [của] Ủy ban Guatemalan về Làm rõ Lịch sử trong năm 1999 đã nhận diện được tổng cộng 42.275 nạn nhân có tên, tuy những người khác đã cho rằng có đến 200.000 đã bị giết ở Guatemala giữa 1962 và 1996, 70.000 trong thời chế độ của Tướng Efrain Ríos Montt, kẻ đã có khả năng phạm các tội ác này mà không bị trừng phạt đến mức hắn ta đã có thể ứng cử tổng thống trong năm 2003; rất may là hắn đã không trúng cử. Ủy ban Quốc gia về Người Mất tích ở Argentina đã đưa ra số người bị quân đội ở đó giết từ 1976 đến 1983 là 9.000 người, mặc dù nó lưu ý rằng con số thật có thể cao hơn. (Các ước lượng của các tổ chức nhân quyền thường đưa ra con số 30.000). KIẾM MỘT HAY HAI TỶ Những hệ lụy kéo dài của tổ chức xã hội thuộc địa, và của các di sản của các xã hội đó, định hình những sự khác biệt hiện đại giữa Hoa Kỳ và Mexico, và như thế giữa hai phần của Nogales. Sự tương phản giữa Bill Gates và Carlos Slim đã trở thành hai người giàu nhất thế giới thế nào – Warren Buffett cũng là một đối thủ – minh họa các lực lượng đang tác động. Sự thăng tiến của Bill Gates ai cũng biết, nhưng địa vị của Gates với tư cách người giàu nhất thế giới và nhà sáng lập của một trong những công ty đối mới sáng tạo nhất về mặt công nghệ đã không ngăn cản Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đệ trình các vụ kiện dân sự chống lại Công ty Microsoft ngày 8-5-1998, cho rằng Microsoft đã lạm dụng sức mạnh độc quyền. Đặc biệt gây tranh cãi là cách mà Microsoft đã gắn Web broser (trình duyệt mạng) của nó, Internet Explore, vào hệ điều hành Windows. Chính phủ đã để mắt đến Gates trong thời gian khá dài, và ngay từ 1991, Ủy Ban Thương mại Liên bang đã lao vào một cuộc điều tra xem liệu Microsoft đã có lạm dụng sự độc tài của nó về hệ điều hành máy tính cá nhân hay không. Tháng Mười một 2001, Microsoft đã đạt
  • 59. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 39 một thỏa thuận với Bộ Tư pháp. Các cánh của nó đã bị cắt bớt cho dù các khoản tiền phạt đã thấp hơn mức nhiều người đã đòi. Ở Mexico, Carlos Salem đã không kiếm tiền bằng đổi mới sáng tạo. Lúc đầu ông ta đã trội hơn về các giao dịch chứng khoán, và về mua và tân trang các hãng không có lời. Phi vụ lớn của ông ta đã là việc thôn tính Telmex, công ty viễn thông độc quyền của Mexico được Tổng thống Carlos Salinas tư nhân nhóa năm 1990. Chính phủ đã công bố ý định của mình về bán 51 phần trăm của cổ phiếu được bầu (chiếm 20,4 phần trăm của tổng số cổ phiếu) trong công ty vào tháng 9- 1989 và đã nhận được các giá đặt mua vào tháng 11-1990. Cho dù Carlos Salem đã không đặt giá cao nhất, consortium dẫn đầu bởi Grupo Corso của ông đã thắng thầu. Thay cho việc trả tiền ngay cho các cố phiếu, Salim đã dàn xếp được việc thanh toán chậm, sử dụng cổ tức của bản thân Telmex để trả cho cổ phiếu. Cái từng là độc quyền nhà nước nay đã trở thành độc quyền của Salim, và nó đã sinh lợi khổng lồ. Các thể chế kinh tế, mà đã biến Carlos Salim thành người là ông ta, là rất khác với các thể chế ở Hoa Kỳ. Nếu bạn là một doanh nhân khởi nghiệp ở Mexico, các rào cản gia nhập đóng một vai trò quyết định tại mọi giai đoạn của sự nghiệp của bạn. Các rào cản này bao gồm các giấy phép đắt tiền mà bạn phải kiếm được, tệ quan liêu mà bạn phải vượt qua, các chính trị gia và những người đang ở trong ngành đứng cản đường bạn, và sự khó khăn để kiếm được tài trợ từ một khu vực tài chính mà thường móc ngoặc với những người đang trong ngành mà bạn thử cạnh tranh với. Các rào cản này hoặc có thể là không thể vượt qua được, ngăn không cho bạn vào các lĩnh vực sinh lợi, hay là chiến hữu lớn nhất của bạn, giữ không cho các đối thủ cạnh tranh của bạn đến gần. Sự khác biệt giữa hai kịch bản, tất nhiên, là, bạn biết ai và có thể ảnh hưởng đến ai – và phải, bạn có thể đút lót ai. Carlos Slim, một người có tài, có tham vọng, từ một nền tảng tương đối khiêm tốn của những người nhập cư Liban, đã là một bậc thầy về nhận được các hợp đồng độc quyền; ông đã tìm được cách để độc chiếm thị trường viễn thông béo bở ở Mexico, và sau đó mở rộng tầm với của ông ra phần còn lại của Mỹ Latin. Đã có những thách thức đối với độc quyền Telmex của Salim. Nhưng chúng đã không thành công. Năm 1996 Avantel, nhà cung cấp dịch vụ điện thoại đường dài, đã đưa kiến nghị lên Ủy ban Cạnh tranh Mexic để kiểm tra xem liệu Telmex đã có một vị thế thống trị thị trường viễn thông hay không. Năm 1997, Ủy ban đã
  • 60. 40 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI tuyên bố rằng Telmex đã có quyền lực độc quyền thật về điện thoại nội hạt, các cuộc gọi đường dài quốc gia, và các cuộc gọi đường dài quốc tế, giữa những thứ khác. Nhưng các nỗ lực của các nhà chức trách điều tiết ở Mexico để hạn chế các độc quyền này đã không đi đến đâu cả. Một lý do là, Slim và Telmex có thể sử dụng cái được biết đến như một recurso de amparo, theo nghĩa đen là một “sự kháng án để bảo vệ”. Một amparo thực ra là một đơn để lập luận rằng một luật cá biệt không áp dụng đối với bạn. Ý tưởng về amparo truy nguyên về hiến pháp Mexic năm 1857 và khởi đầu được dự định như một sự bảo vệ các quyền cá nhân và các quyền tự do. Trong tay của Telmex và các độc quyền Mexic khác, tuy vậy, nó lại biến thành một công cụ kinh khủng để thắt chặt quyền lực độc quyền. Thay cho bảo vệ các quyền của người dân, amparo lại cung cấp một kẽ hở trong tính bình đẳng trước pháp luật. Slim đã kiếm được tiền trong nền kinh tế Mexic phần nhiều nhờ các mối quan hệ chính trị của ông. Khi đánh bạo sang Hoa Kỳ kinh doanh, ông đã không thành công. Năm 1999, Grupo Curso của ông đã mua hãng bán lẻ máy tính CompUSA. Khi đó CompUSA đã cấp đặc quyền kinh tiêu cho một hãng được gọi là COC Services để bán hàng hóa của nó ở Mexico. Slim ngay lập tức vi phạm hợp đồng [kinh tiêu] này với ý định lập chuỗi cửa hàng riêng của ông, mà không có bất cứ sự cạnh tranh nào từ COC. Nhưng COC đã kiện CompUSA tại một Tòa án ở Dallas. Không có amparo ở Dallas, cho nên Slim đã thua, và đã bị phạt 454 triệu USD. Luật sư cho COC, Mark Werner sau này đã lưu ý rằng “thông điệp của bản án này là, trong nền kinh tế toàn cầu này các hãng phải tôn trọng các quy tắc của Hoa Kỳ nếu chúng muốn đến đây”. Khi Slim phải chịu các thể chế của Hoa Kỳ, các chiến thuật thông dụng của ông để kiếm tiền đã không có kết quả. HƯỚNG TỚI MỘT LÝ THUYẾT VỀ BẤT BÌNH ĐẲNG THẾ GIỚI Chúng ta sống trong một thế giới bất bình đẳng. Những sự khác biệt giữa các quốc gia là gống như những khác biệt giữa hai phần của Nogales, chỉ trên quy mô lớn hơn. Trong các nước giàu, các cá nhân khỏe mạnh hơn, sống lâu hơn, và được giáo dục tốt hơn nhiều. Họ cũng có sự tiếp cận đến một loạt các tiện nghi và lựa chọn trong đời sống, từ các kỳ nghỉ đến các con đường sự nghiệp, mà người dân ở các nước nghèo chỉ có thể mơ đến. Người dân các nước giàu cũng lái xe trên các
  • 61. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 41 đường không có ổ gà, và có nhà vệ sinh, điện, và nước máy trong nhà của họ. Họ cũng thường có các chính phủ không bắt giữ hay sách nhiễu họ một cách tùy tiện; ngược lại, các chính phủ cung cấp các dịch vụ, kể cả giáo dục, chăm sóc sức khỏe, đường sá, luật và trật tự. Cũng đáng chú ý là sự thực rằng các công dân bỏ phiếu trong các cuộc bầu cử và có tiếng nói nào đó về hướng chính trị mà nước họ chấp nhận. Những khác biệt to lớn trong bất bình đẳng thế giới là hiển nhiên đối với mọi người, ngay cả đối với những người ở các nước nghèo, tuy họ có thể thiếu truy cập đến truyền hình hay Internet. Chính sự nhận thức và thực tế về những khác biệt này thúc đẩy người dân để vượt Rio Grande hay Địa Trung Hải một cách bất hợp pháp để có cơ hội trải nghiệm mức sống và các cơ hội của nước giàu. Tính bất bình đẳng này không chỉ có các hậu quả đối với cuộc sống của từng con người trong các nước nghèo; nó cũng gây ra nỗi bất bình và oán giận với những hậu quả chính trị khổng lồ ở Hoa Kỳ và những nơi khác. Hiểu vì sao những khác biệt này tồn tại và cái gì gây ra chúng là tiêu điểm của chúng ta trong cuốn sách này. Phát triển một sự hiểu biết như vậy không chỉ là một mục đích tự thân, mà cũng là một bước đầu tiên hướng tới việc tạo ra các ý tưởng tốt hơn về làm thế nào để cải thiện đời sống của hàng tỷ người vẫn sống trong nghèo khổ. Những sự chênh lệch ở hai bên hàng rào ở Nagales chỉ là chóp đỉnh của tảng băng. Như trong phần còn lại của bắc Mexico, mà được hưởng lợi từ trao đổi với Hoa Kỳ, cho dù không phải toàn bộ sự trao đổi ấy là hợp pháp, cư dân của Nogales thịnh vượng hơn những người Mexic khác, mà thu nhập hộ gia đình bình quân hàng năm là khoảng 5.000 USD. Sự thịnh vượng tương đối lớn hơn này của Nogales, Sonora, đến từ các nhà máy gia công maquiladora [ăn hoa hồng: nhập bộ phận, chế tác và tái xuất thành phẩm mà không phải chịu bất cứ loại thuế nào] tập trung trong các khu công nghiệp, mà khu đầu tiên đã được thành lập bởi Richard Campbell, Jr., một nhà sản xuất giỏ ở California. Người thuê đầu tiên đã là Coin- Art, một công ty dụng cụ âm nhạc được sở hữu bởi Richard Bosse, chủ sở hữu của công ty sáo và saxophone Artley ở Nogales, Arizona. Tiếp sau Coin-Art đã là Memorex (đi dây máy tính); Avent (quần áo bệnh viện); Grant (kính râm); Chamberlain (một nhà sản xuất dụng cụ mở cửa gara cho [nhà bán lẻ] Sears); và Samsonite (va ly). Đáng kể, tất cả đều là các doanh nghiệp và doanh nhân có cơ sở ở Hoa Kỳ, sử dụng vốn và know-how Hoa Kỳ. Sự thịnh vượng lớn hơn của
  • 62. 42 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Nogales, Sonora, tương đối so với phần còn lại của Mexico, vì thế, đến từ bên ngoài. Những khác biệt giữa Hoa Kỳ và Mexico, đến lượt, là nhỏ so với những khác biệt khắp toàn cầu. Công dân trung bình của Hoa Kỳ thịnh vượng bằng bảy lần công dân Mexic trung bình, bằng hơn mười lần cư dân của Peru hay Trung Mỹ. Khoảng bằng hai mươi lần của dân cư trung bình ở châu Phi hạ-Sahara, và gần bằng bốn mươi lần của những người sống trong các nước Phi châu nghèo nhất như Mali, Ethiopia, và Sierra Leone. Có một nhóm nhỏ nhưng ngày càng tăng của các nước giàu – hầu hết ở châu Âu và Bắc Mỹ, với sự gia nhập của Australia, Nhật Bản, New Zealand, Singapore, Nam Hàn, và Đài Loan – mà các công dân của nó được hưởng cuộc sống rất khác với cuộc sống của cư dân của phần còn lại của địa cầu. Lý do mà Nogales, Arizona, giàu hơn nhiều so với Nogales, Sonora, là đơn giản; chính bởi vì các thể chế rất khác nhau ở hai bên biên giới, mà các thể chế đó tạo ra những khuyến khích rất khác nhau cho cư dân của Nogales, Arizona, đối lại Nogales, Sonora. Hoa Kỳ ngày nay cũng giàu hơn hoặc Mexico hay Peru rất nhiều bởi vì cách các thể chế kinh tế và chính trị của nó định hình các khuyến khích của các doanh nghiệp, các cá nhân, và các chính trị gia. Mỗi xã hội vận hành với một tập các quy tắc kinh tế và chính trị được tạo ra và được thực thi bởi nhà nước và các công dân một cách cùng nhau. Các thể chế kinh tế định hình các khuyến khích kinh tế: các khuyến khích để trở thành người có học, để tiết kiệm và đầu tư, để đổi mới và làm theo các công nghệ mới, và vân vân. Chính quá trình chính trị là cái xác định các thể chế kinh tế nào mà nhân dân sống dưới, và chính các thể chế chính trị là cái xác định quá trình này hoạt động ra sao. Thí dụ, các thể chế chính trị của một quốc gia xác định khả năng của các công dân để kiểm soát các chính trị gia và ảnh hưởng đến việc họ ứng xử thế nào. Việc này, đến lượt nó, lại xác định liệu các chính trị gia có là các đại diện, mặc dù không hoàn hảo, của các công dân, hay họ có thể lạm dụng quyền lực được ủy thác cho họ, hay họ đã chiếm đoạt, để tích lũy gia tài riêng của họ và để theo đuổi các chương trình nghị sự riêng của họ, mà chúng có hại cho các thứ đó của công dân. Các thể chế chính trị bao gồm nhưng không bị hạn chế ở các hiến pháp thành văn, và ở chỗ liệu xã hội có là nền dân chủ hay không. Nó bao gồm quyền lực và năng lực của nhà nước để điều tiết và cai trị xã hội. Cũng cần thiết để xem xét rộng rãi hơn các
  • 63. GẦN THẾ VÀ VẪN RẤT KHÁC NHAU ● 43 nhân tố xác định quyền lực chính trị được phân bố thế nào trong xã hội, đặc biệt là khả năng của các nhóm khác nhau để hành động một cách tập thể nhằm theo đuổi các mục tiêu của họ hay để ngăn chặn những người khác khỏi theo đuổi các mục tiêu của họ. Vì các thể chế ảnh hưởng đến ứng xử và các khuyến khích trong cuộc sống thực, chúng tạo ra sự thành công hay sự thất bại của các quốc gia. Tài năng cá nhân là quan trọng ở mọi mức của xã hội, nhưng ngay cả cái đó cũng cần một khung khổ thể chế để biến nó thành một lực tích cực. Bill Gates, giống như các nhân vật thần kỳ khác trong nghành công nghệ thông tin (như Paul Alen, Steve Ballmer, Steve Jobs, Larry Page, Sergey Brin, và Jeff Bezos), đã có tài năng và khát vọng rất lớn. Nhưng cuối cùng ông đáp lại các khuyến khích. Hệ thống giáo dục tại trường ở Hoa Kỳ đã cho phép Gates và những người khác giống ông để có được một tập duy nhất các kỹ năng để bổ sung cho tài năng của họ. Các thể chế kinh tế ở Hoa Kỳ đã cho phép những người này thành lập các công ty dễ dàng, mà không phải đối mặt với các rào cản không thể vượt qua nổi. Các thể chế đó cũng khiến cho việc cấp tài chính cho các dự án của họ có thể thực hiện được. Các thị trường lao động Hoa Kỳ đã cho phép họ thuê nhân viên có trình độ, và môi trường thị trường tương đối cạnh tranh đã cho phép họ mở rộng các công ty của họ và bán các sản phẩm của họ trên thị trường. Các doanh nhân khởi nghiệp này đã tự tin ngay từ đầu rằng các dự án ước mơ của họ có thể được thực hiện: họ đã tin vào các thể chế và nền pháp trị mà các thể chế này đã tạo ra và họ đã không phải lo lắng về sự an toàn của các quyền tài sản của họ. Cuối cùng, các thể chế chính trị đã đảm bảo sự ổn định và tính liên tục. Trước hết, chúng làm cho chắc chắn rằng không có rủi ro nào về một kẻ độc tài lên nắm quyền và thay đổi các quy tắc của trò chơi, tước đoạt của cải của họ, bỏ tù họ, hay đe dọa đời sống và sinh kế của họ. Chúng cũng làm cho chắc chắn rằng không lợi ích cá biệt nào trong xã hội có thể làm chính phủ thiên lệch theo một hướng tai hại về mặt kinh tế, bởi vì quyền lực chính trị cả bị hạn chế lẫn được phân bố đủ rộng sao cho một tập các thể chế kinh tế tạo ra các khuyến khích cho sự thịnh vượng có thể nổi lên. Cuốn sách này sẽ chứng tỏ rằng các thể chế kinh tế là cốt yếu cho việc xác định liệu một nước là nghèo hay giàu, chính trị và các thể chế chính trị là cái quyết định một nước có các thể chế kinh tế nào. Cuối cùng các thể chế kinh tế tốt của Hoa Kỳ đã là kết quả của các thể chế chính trị mà đã nổi lên dần dần sau
  • 64. 44 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI 1619. Lý thuyết của chúng ta về sự bất bình đẳng thế giới cho thấy các thể chế chính trị và kinh tế tương tác với nhau thế nào trong việc gây ra sự nghèo khổ và sự thịnh vượng, và các phần khác nhau của của thế giới kết thúc ra sao với các tập khác nhau đến vậy của các thể chế. Sự xem xét ngắn gọn của chúng ta về lịch sử châu Mỹ bắt đầu cho một cảm giác về các lực định hình các thể chế chính trị và kinh tế. Các hình mẫu khác nhau của các thể chế ngày nay bén rễ sâu vào quá khứ bởi vì một khi xã hội được tổ chức theo một cách cá biệt, điều này có xu hướng tồn tại dai dẳng. Chúng ta sẽ chứng tỏ rằng sự thực này đến từ cách mà các thể chế chính trị và kinh tế tương tác với nhau. Sự tồn tại dai dẳng này và các lực lượng tạo ra nó cũng giải thích vì sao lại khó đến vậy để loại bỏ sự bất bình đẳng thế giới và để làm cho các nước nghèo thịnh vượng. Tuy các thể chế là chìa khóa cho các khác biệt giữa hai Nogales và giữa Hoa Kỳ và Mexico, điều đó không có nghĩa rằng sẽ có sự đồng thuận ở Mexico để thay đổi các thể chế. Không có sự tất yếu nào đối với một xã hội để phát triển các thể chế tốt nhất cho tăng trưởng kinh tế hay cho phúc lợi của các công dân của nó, bởi vì các thể chế khác có thể thậm chí còn tốt hơn cho những người kiểm soát chính trị và các thể chế chính trị. Những kẻ có quyền thế lớn và những người còn lại của xã hội thường không đồng ý về tập nào của các thể chế nên giữ nguyên và tập nào phải thay đổi. Carlos Slim sẽ không vui sướng để thấy các mối quan hệ chính trị của ông biến mất và các rào cản gia nhập bảo vệ các doanh nghiệp của ông xẹp xuống – không quan trọng rằng sự gia nhập của các doanh nghiệp mới sẽ làm giàu hàng triệu người Mexic. Bởi vì không có sự đồng thuận như vậy, việc xã hội kết thúc với các quy tắc nào được quyết định bởi chính trị: ai có quyền lực và quyền lực này có thể được sử dụng thế nào. Carlos Slim có quyền lực để có được cái ông ta muốn. Quyền lực của Bill Gates bị hạn chế hơn rất nhiều. Đó là vì sao lý thuyết của chúng ta không chỉ là về kinh tế học mà cũng về chính trị học. Nó là về các tác động của các thể chế lên thành công hay thất bại của các quốc gia – như thế là kinh tế học về nghèo khó và thịnh vượng; nó cũng là về các thể chế được xác định và thay đổi thế nào theo thời gian, và chúng thất bại ra sao để thay đổi ngay cả khi chúng tạo ra sự nghèo khó và khốn khổ cho hàng triệu người – như thế là chính trị học về nghèo khó và thịnh vượng.
  • 65. 2. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ĐỊA HÌNH ĐỊA VẬT [TÌNH HÌNH] IÊU ĐIỂM CỦA cuốn sách của chúng ta là giải thích sự bất bình đẳng thế giới và cả một vài hình mẫu rộng có thể nhìn thấy dễ dàng ẩn núp bên trong nó. Nước đầu tiên trải qua sự tăng trưởng kinh tế bền vững đã là nước Anh – hay Vương quốc Anh, hay đơn giản là Anh, với tư cách liên hiệp của nước Anh, xứ Wales và Scotland được biết đến sau 1707. Sự tăng trưởng đã nổi lên chậm trong nửa thứ hai của thế kỷ mười tám như Cách mạng Công nghiệp dựa trên các đột phá công nghệ chủ yếu và sự áp dụng chúng vào công nghiệp, đã bén rễ. Mau chóng tiếp sau công nghiệp hóa ở Anh đã là công nghiệp hóa ở phần lớn của Tây Âu và Hoa Kỳ. Sự thịnh vượng Anh cũng đã nhanh chóng lan sang các “thuộc địa định cư” của Anh là Canada, Australia, New Zealand. Một danh sách của ba mươi nước giàu bao gồm chúng, thêm Nhật Bản, Singapore, và Nam Hàn. Sự thịnh vượng của ba nước sau, đến lượt nó, là phần của một hình mẫu lớn hơn trong đó nhiều quốc gia Đông Á, bao gồm cả Đài Loan và sau đó Trung Quốc, đã trải qua sự tăng trưởng nhanh mới đây. Đáy của phân bố thu nhập thế giới vẽ một bức tranh sắc nét và đặc biệt dễ nhận ra như bức tranh trên đỉnh. Nếu thay vào đó bạn đưa ra một danh sách ba mươi nước nghèo nhất trên thế giới ngày nay, bạn thấy chúng hầu như tất cả ở châu Phi hạ-Sahara. Gia nhập với chúng là các nước như Afghanistan, Haiti, và Nepal, mà, tuy chúng không ở châu Phi, tất cả đều có chung cái gì đó cốt yếu với các quốc gia Phi châu, như chúng ta sẽ giải thích. Nếu lui lại năm mươi năm, Singapore và Nam Hàn đã không ở giữa các nước giàu nhất, và đã có nhiều nước khác trong số ba mươi nước dưới đáy, nhưng bức tranh tổng thể vẫn nhất quán một cách nổi bật T
  • 66. 46 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI với bức tranh chúng ta thấy ngày nay. Quay lại một trăm, hay một trăm năm mươi năm, bạn thấy gần như cùng các nước trong cùng nhóm. Bản đồ 3 cho thấy tình hình (thế đất) trong năm 2008. Các nước được tô màu đen đậm nhất là các nước nghèo nhất trên thế giới, mà thu nhập trung bình đầu người của chúng (được các nhà kinh tế học gọi là GDP, tổng sản phẩm quốc nội) là dưới 2.000 USD một năm. Hầu hết các nước Phi châu có màu này, như Afghanistan, Haiti và các phần của Đông Nam Á (thí dụ, Campuchia và Lào). Bắc Triều Tiên [Bắc Hàn] cũng thuộc nhóm nước này. Các nước có màu trắng là các nước giàu nhất, mà thu nhập trung bình đầu người hàng năm là 20.000 USD hay nhiều hơn. Ở đây chúng ta thấy các nước tình nghi quen thuộc: Bắc Mỹ, Tây Âu, Australia và Nhật Bản. Một hình mẫu lý thú khác có thể được nhận rõ ở châu Mỹ. Lập một danh sách các quốc gia ở châu Mỹ từ giàu nhất đến nghèo nhất. Bạn sẽ thấy rằng ở trên đỉnh là Hoa Kỳ và Canada, theo sau là Chile, Argentina, Brazil, Mexico, và Uruguay, và có lẽ cả Venezuela, tùy thuộc vào giá dầu. Sau đó bạn có Colombia, Cộng hòa Dominic, Equador, và Peru. Tại đáy, có một nhóm khác, tách biệt, nghèo hơn nhiều, gồm Bolivia, Guatemala, và Paraguay. Quay lại năm mươi năm, bạn thấy một sự xếp hạng giống hệt. Quay lại một trăm năm: vẫn thế. Một trăm năm mươi năm: lại vẫn thế. Như thế không chỉ là, Hoa Kỳ và Canada là giàu hơn Mỹ Latin; cũng có một sự phân chia rõ ràng và dai dẳng giữa các quốc gia giàu và nghèo bên trong châu Mỹ. Một hình mẫu lý thú cuối cùng là ở Trung Đông. Ở đó chúng ta thấy các quốc gia giàu-dầu như Saudi Arabia và Kuwait, mà có mức thu nhập gần với mức của ba mươi nước trên đỉnh. Thế nhưng nếu giá dầu sụt, họ sẽ nhanh chóng rớt xuống bảng. Các nước Trung Đông với ít hay không có dầu, như Ai Cập, Jordan, và Syria, tất cả đều tụm quanh một mức thu nhập tương tự như thu nhập của Guatemala hay Peru. Không có dầu, các nước Trung Đông tất cả cũng nghèo, tuy, giống các nước ở Trung Mỹ và vùng Andes, chứ không nghèo như các nước ở châu Phi hạ-Sahara.
  • 67. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 47 Trong khi có nhiều sự dai đẳng trong hình mẫu thịnh vượng mà chúng ta thấy quanh mình ngày nay, các hình mẫu này không phải là không thay đổi hay không thể thay đổi được. Thứ nhất, như chúng ta đã nhấn mạnh rồi, hầu hết sự bất bình đẳng thế giới hiện hành đã nổi lên từ cuối thế kỷ mười tám, là kết quả của các giai đoạn chót của Cách mạng Công nghiệp. Các khoảng cách về thịnh vượng đã không chỉ nhỏ hơn nhiều, [vào thời điểm] mãi đến giữa thế kỷ mười tám, nhưng những sự xếp hạng mà đã hết sức ổn định từ khi đó là không như nhau khi chúng ta lùi xa hơn trong lịch sử. Thí dụ, ở châu Mỹ, sự xếp hạng mà chúng ta thấy trong một trăm năm mươi năm vừa qua là hoàn toàn khác xếp hạng năm trăm năm trước. Thứ hai, nhiều quốc gia đã trải qua nhiều thập kỷ tăng trưởng nhanh, ví dụ như phần lớn Đông Á từ Chiến tranh Thế giới II và, Trung Quốc gần đây hơn. Rồi nhiều trong số các nước này đã thấy sự tăng trưởng đó bắt đầu đảo ngược. Thí dụ, Argentina đã tăng trưởng nhanh trong năm thập kỷ cho đến 1920, trở thành một
  • 68. 48 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI trong những nước giàu nhất thế giới, nhưng sau đó đã bắt đầu trượt dài. Liên Xô thậm chí còn là thí dụ đáng chú ý hơn, tăng trưởng nhanh giữa 1930 và 1970, nhưng rồi đã trải qua một sự sụp đổ nhanh. Cái gì giải thích những sự khác biệt lớn này về nghèo khó và thịnh vượng và các hình mẫu tăng trưởng? Vì sao các quốc gia Tây Âu và các nhánh thuộc địa của chúng đầy người định cư Âu châu bắt đầu tăng trưởng trong thế kỷ mười chín, hầu như không nhìn lại? Cái gì giải thích sự xếp hạng dai dẳng về bất bình đẳng ở bên trong châu Mỹ? Vì sao các quốc gia Phi châu hạ-Sahara và Trung Đông đã không đạt kiểu tăng trưởng thấy ở Tây Âu, trong khi phần lớn Đông Á đã trải nghiệm tốc độ tăng trưởng kinh tế quá nhanh dễ gây tai nạn? Người ta có thể nghĩ là, sự thực rằng sự bất bình đẳng thế giới là hết sức lớn và hợp logic và có các hình mẫu được vẽ sắc nét như vậy, thì có nghĩa rằng nó có một sự giải thích được chấp nhận rộng rãi. Không phải vậy. Hầu hết các giả thuyết mà các nhà khoa học xã hội đã đề xuất cho nguồn gốc của sự nghèo khó và thịnh vượng đơn giản không hoạt động và không giải thích được tình hình một cách thuyết phục. GIẢ THUYẾT ĐỊA LÝ Một lý thuyết được chấp nhận rộng rãi về các nguyên nhân của sự bất bình đẳng thế giới là giả thuyết địa lý, mà nó cho rằng sự cách biệt [divide] lớn giữa các nước giàu và nghèo được tạo ra bởi những khác biệt địa lý. Nhiều nước nghèo, chẳng hạn như các nước ở châu Phi, Trung Mỹ, và Nam Á, nằm ở vùng nhiệt đới giữa Hạ chí tuyến [Bắc chí tuyến: vĩ độ 23° 26' 22" bắc] và Đông chí tuyến [Nam chí tuyến: vĩ độ 23° 26' 22" nam]. Ngược lại, các nước giàu có xu hướng ở các vùng ôn đới. Sự tập trung mang tính địa lý này của nghèo khó và thịnh vượng mang lại sự quyến rũ nông cạn cho giả thuyết địa lý, mà là điểm xuất phát của các lý thuyết và quan điểm của nhiều nhà khoa học xã hội và học giả uyên thâm tương tự. Nhưng điều này không làm cho nó ít sai hơn. Ngay từ cuối thế kỷ mười tám, nhà triết học chính trị Pháp vĩ đại Montesquieu đã lưu ý đến sự tập trung mang tính địa lý của thịnh vượng và nghèo khó, và đã đề xuất một sự giải thích cho nó. Ông cho rằng ở các vùng khí hậu nhiệt đới người
  • 69. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 49 dân có xu hướng lười biếng và thiếu tính tò mò. Như một hệ quả, họ không làm việc siêng năng và không đổi mới, và đấy là lý do vì sao họ nghèo. Montesquieu cũng đã suy đoán rằng những người lười có xu hướng bị cai trị bởi những kẻ bạo chúa, gợi ý rằng vị trí nhiệt đới có thể giải thích không chỉ sự nghèo khó mà cả một số hiện tượng chính trị gắn với thất bại kinh tế, như chế độ độc tài. Lý thuyết rằng các nước nóng bức là nghèo một cách cố hữu, tuy mâu thuẫn với sự tiến bộ kinh tế nhanh gần đây của các nước như Singapore, Malaysia, Botswana, vẫn được biện hộ một cách mạnh mẽ bởi một số người, như nhà kinh tế học Jeffrey Sachs. Phiên bản hiện đại của quan điểm này nhấn mạnh không phải đến các ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu lên các nỗ lực làm việc hay quá trình tư duy, mà đến hai lý lẽ bổ sung: thứ nhất, các bệnh nhiệt đới, nhất là sốt rét, có các hậu quả rất có hại cho sức khỏe và vì thế cho năng suất lao động; và thứ hai, đất nhiệt đới không cho phép nền nông nghiệp sinh lời. Kết luận, tuy vậy, cũng thế: các vùng khí hậu ôn đới có lợi thế tương đối hơn các vùng nhiệt đới và nửa nhiệt đới. Sự bất bình đẳng thế giới, tuy vậy, không thể được giải thích bằng khí hậu hay bệnh tật, hay bất cứ phiên bản nào của giả thuyết địa lý. Hãy chỉ nghĩ về Nogales. Cái tách hai phần ra không phải là khí hậu, địa lý, hay môi trường bệnh tật, mà là biên giới Hoa Kỳ-Mexico. Nếu giả thuyết địa lý không thể giải thích nổi những khác biệt giữa bắc và nam Nogales, hay Bắc và Nam Hàn, hay Đông và Tây Đức trước khi bức Tường Berlin sụp đổ, liệu nó vẫn có thể là một lý thuyết hữu ích cho việc giải thích những khác biệt giữa Bắc và Nam Mỹ? Giữa châu Âu và châu Phi? Hoàn toàn không. Lịch sử minh họa rằng không có mối quan hệ đơn giản hay lâu dài giữa khí hậu hay địa lý và thành công kinh tế. Thí dụ, không đúng rằng vùng nhiệt đới đã luôn luôn nghèo hơn các vùng ôn đới. Như chúng ta đã thấy ở chương trước, vào thời Columbus chinh phục châu Mỹ, các vùng nam Hạ Chí Tuyến và bắc Đông Chí Tuyến, mà hiện nay bao gồm Mexico, Trung Mỹ, Peru và Bolivia, đã có hai nền văn minh lớn, văn minh Aztec và Inca. Các đế chế này đã tập trung và phức tạp về mặt chính trị, đã xây dựng đường sá, và đã cung cấp cứu trợ nạn đói. Những người Aztec đã có cả tiền lẫn chữ viết, và những người Inca, cho dù họ
  • 70. 50 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI thiếu cả hai công nghệ then chốt này, đã ghi lại các lượng thông tin khổng lồ trên các dây được thắt nút, gọi là các quipu. Ngược lại hoàn toàn, trong thời của những người Aztec và Inca, các vùng phía bắc và phía nam của vùng người Aztec và Inca sinh sống, mà ngày nay bao gồm Hoa Kỳ, Canada, Argentina, và Chile, đã hầu như chỉ có các nền văn minh Thời Đồ Đá thiếu các công nghệ này. Vùng nhiệt đới ở châu Mỹ như thế đã giàu hơn các vùng ôn đới rất nhiều, gợi ý rằng “sự thực hiển nhiên” về sự nghèo khó nhiệt đới đã không hiển nhiên và cũng chẳng là một sự thực. Thay vào đó, sự giàu có lớn hơn ở Hoa Kỳ và Canada thể hiện một sự đảo ngược hoàn toàn của sự phát đạt tương đối với cái đã có ở đó khi những người Âu châu đến. Sự đảo ngược này rõ ràng đã chẳng liên quan gì đến địa lý và, như chúng ta đã thấy rồi, có liên quan gì đó với cách các vùng này bị thuộc địa hóa. Sự đảo ngược này đã không giới hạn ở châu Mỹ. Người dân ở Nam Á, nhất là ở tiểu lục địa Ấn Độ, và ở Trung Quốc đã thịnh vượng hơn những người ở nhiều phần khác của châu Á, và chắc chắn hơn những người đã sống ở Australia và New Zealand. Điều này, cũng đã đảo ngược, với Nam Hàn, Singapore, Nhật Bản nổi lên như các quốc gia giàu nhất ở châu Á, và Australia và New Zealand vượt hầu như tất cả châu Á về mặt thịnh vượng. Ngay cả bên trong châu Phi hạ-Sahara cũng đã có một sự đảo ngược tương tự. Gần đây hơn, trước lúc bắt đầu của sự tiếp xúc Âu châu mạnh mẽ với châu Phi, vùng nam châu Phi đã là vùng được định cư thưa thớt nhất và chẳng hề có các nhà nước phát triển với bất cứ sự kiểm soát nào đối với lãnh thổ của họ. Thế nhưng Nam Phi bây giờ là một trong các quốc gia thịnh vượng nhất ở châu Phi hạ-Sahara. Lui xa hơn trong lịch sử, chúng ta lại thấy nhiều thịnh vượng ở các vùng nhiệt đới; một số nền văn minh tiền-hiện đại, như Angkor ở Campuchia hiện đại, Vijayanagara ở nam Ấn Độ, và Aksum ở Ethiopia, đã hưng thịnh trong các vùng nhiệt đới, như các nền văn minh đại Lưu vực sông Indus ở Mohenjo Daro và Hapara, ở Pakistan hiện đại, đã hưng thịnh. Như thế lịch sử để lại ít sự nghi ngờ rằng không có mối quan hệ đơn giản giữa một địa điểm nhiệt đới và thành công kinh tế. Các bệnh nhiệt đới rõ ràng gây ra nhiều đau khổ và tỷ lệ tử vong cao ở châu Phi, nhưng chúng không phải là lý do khiến châu Phi nghèo. Bệnh tật phần lớn là hậu quả của nghèo khó và của các chính phủ không có khả năng hay không muốn đảm trách các biện pháp y tế công cộng cần thiết để xóa bỏ chúng. Nước Anh
  • 71. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 51 trong thế kỷ mười chín cũng đã là một nơi rất hại cho sức khỏe, nhưng chính phủ đã đầu tư dần dần vào nước sạch, vào xử lý thích hợp chất thải và nước thải, và, cuối cùng, vào một ngành chăm sóc sức khỏe hiệu quả. Sức khỏe và ước tính tuổi thọ được cải thiện đã không là nguyên nhân của thành công kinh tế của nước Anh, mà là một trong những thành quả của những thay đổi chính trị và kinh tế trước đó. Cũng đúng thế với Nogales, Arizona. Phần khác của giả thuyết địa lý là, các vùng nhiệt đới là nghèo bởi vì nền nông nghiệp nhiệt đới là không sinh lợi một cách cố hữu. Đất nhiệt đới mỏng và không có khả năng duy trì các chất dinh dưỡng, người ta lập luận, và nhấn mạnh đất này bị xói mòn nhanh thế nào bởi mưa xối. Chắc chắn có giá trị nào đó trong lý lẽ này, nhưng như chúng ta sẽ chứng tỏ, yếu tố quyết định chính vì sao năng suất nông nghiệp – sản lượng nông nghiệp trên một mẫu – lại hết sức thấp ở nhiều nước nghèo, đặc biệt ở châu Phi hạ-Sahara, ít liên quan đến chất lượng đất. Đúng hơn, nó là một hậu quả của cấu trúc quyền sở hữu đất và các khuyến khích mà được các chính phủ và các thể chế tạo ra cho các nông dân sống dưới chúng. Chúng ta cũng sẽ chứng tỏ rằng sự bất bình đẳng thế giới không thể được giải thích bằng những khác biệt về năng suất nông nghiệp. Sự bất bình đẳng to lớn của thế giới hiện đại, mà đã nổi lên trong thế kỷ mười chín, đã là do sự phổ biến không đều của các công nghệ công nghiệp và sự sản xuất chế tác gây ra. Nó đã không được gây ra bởi sự khác biệt về thành tích nông nghiệp. Một phiên bản khác có ảnh hưởng của giả thuyết địa lý đã được thúc đẩy bởi nhà sinh thái học và sinh học tiến hóa Jared Diamond. Ông cho rằng những nguồn gốc của sự bất bình đẳng giữa các lục địa vào lúc đầu của thời kỳ hiện đại, năm trăm năm trước, đã dựa vào các nguồn lực lịch sử khác nhau về các loài thực vật và động vật, mà sau đó đã ảnh hưởng đến năng suất nông nghiệp. Ở một số nơi, như vùng Lưỡi liềm Màu mỡ ở Trung Đông hiện đại, đã có nhiều loài mà con người đã có thể thuần hóa. Ở những nơi khác, như châu Mỹ, đã không có. Có nhiều loài có khả năng được thuần hóa đã khiến cho rất hấp dẫn đối với các xã hội để chuyển từ cách sống săn bắt-hái lượm sang cách sống canh tác [chăn nuôi trồng trọt]. Như một hệ quả, việc canh tác đã phát triển sớm hơn ở vùng Lưỡi liềm Màu mỡ so với ở châu Mỹ. Mật độ dân số tăng lên, cho phép sự chuyên môn hóa lao động, thương mại, và đô thị hóa, và sự phát triển chính trị. Một cách quyết định, ở những nơi canh tác nông nghiệp chiếm ưu thế, đổi mới công nghệ đã diễn
  • 72. 52 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI ra nhanh hơn các phần khác của thế giới rất nhiều. Như thế, theo Diamond, sự sẵn có khác nhau của các loài thực vật và động vật đã tạo ra những cường độ canh tác chênh lệch, mà đã dẫn đến các con đường khác nhau của thay đổi công nghệ và sự thịnh vượng khắp các lục địa khác nhau. Mặc dù luận đề của Diamod là một cách tiếp cận mạnh mẽ đến câu đố, mà ông chú tâm vào, nó không thể được mở rộng để giải thích sự bất bình đẳng thế giới hiện đại. Thí dụ, Diamond cho rằng người Tây Ban Nha đã có thể thống trị các nền văn minh của châu Mỹ bởi vì họ đã có lịch sử canh tác dài hơn và vì thế có công nghệ ưu việt hơn. Nhưng bây giờ chúng ta phải giải thích vì sao những người Mexic và Peru sống trên lãnh thổ trước kia của người Aztec và Inca lại nghèo. Trong khi có sự tiếp cận đến lúa mỳ, lúa mạch, và ngựa đã có thể khiến cho những người Tây Ban Nha giàu hơn những người Inca, khoảng cách thu nhập giữa họ đã không rất lớn. Thu nhập trung bình của một người Tây Ban Nha đã có lẽ ít hơn hai lần thu nhập trung bình của một công dân trong Đế chế Inca. Luận đề của Diamond ngụ ý rằng một khi những người Inca được tiếp xúc với tất cả các loài và các công nghệ sinh ra từ đó mà bản thân họ đã không có khả năng phát triển, thì họ phải nhanh chóng đạt được mức sống của người Tây Ban Nha. Thế nhưng cái xảy ra đã hoàn toàn không như vậy. Ngược lại, trong các thế kỷ mười chín và hai mươi, một khoảng cách lớn hơn nhiều về thu nhập giữa Tây Ban Nha và Peru đã nổi lên. Ngày nay một người Tây Ban Nha trung bình giàu hơn người Peru trung bình hơn sáu lần. Khoảng cách này về thu nhập gắn mật thiết với sự phổ biến không đều của các công nghệ công nghiệp hiện đại, nhưng việc này ít liên quan hoặc đến tiềm năng thuần hóa thực vật và động vật hay đến những khác biệt năng suất nông nghiệp giữa Tây Ban Nha và Peru. Trong khi Tây Ban Nha, mặc dù với một độ trễ, đã chấp nhận và làm theo các công nghệ sức hơi nước, đường sắt, điện, cơ khí hóa, và sản xuất ở nhà máy, Peru đã không, hay nhiều nhất đã làm vậy rất chậm chạp và không hoàn hảo. Khoảng cách công nghệ này ngày nay vẫn còn và tự tái tạo trên một quy mô lớn hơn khi các công nghệ mới, đặc biệt các công nghệ liên quan đến công nghệ thông tin, cấp nhiên liệu thêm cho sự tăng trưởng ở nhiều quốc gia phát triển và một số quốc gia đang phát triển. Luận đề của Diamond không nói cho chúng ta vì sao những công nghệ cốt yếu này không lan truyền và làm ngang bằng thu nhập trên thế giới và không giải thích được vì sao nửa phía bắc của Nogales lại giàu hơn rất nhiều nửa sinh đôi của nó
  • 73. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 53 nằm ngay ở phía nam hàng rào, mặc dù cả hai đã là phần của cùng nền văn minh năm trăm năm trước. Câu chuyện của Nogales làm nổi bật một vấn đề lớn khác trong thích nghi luận đề của Diamond: như chúng ta đã thấy, dù những hạn chế của các đế chế Inca và Aztec vào năm 1532 đã thế nào, không nghi ngờ gì Peru và Mexico đã giàu hơn các phần của châu Mỹ mà đã trở thành Hoa Kỳ và Canada. Bắc Mỹ đã trở nên thịnh vượng hơn chính xác là bởi vì nó đã nhiệt tình chấp nhận các công nghệ và những tiến bộ của Cách mạng Công nghiệp. Dân cư trở nên có giáo dục, đường sắt trải khắp các Bình nguyên Lớn, hoàn toàn ngược lại với cái đã xảy ra ở Nam Mỹ. Điều này không thể được giải thích bằng vạch ra những nguồn lực địa lý chênh lệch của Bắc và Nam Mỹ, mà, có lẽ, đã ưu đãi Nam Mỹ. Sự bất bình đẳng trong thế giới hiện đại chủ yếu là kết quả của sự truyền bá không đều và sự chấp nhận các công nghệ, và luận đề của Diamond có bao gồm các lý lẽ quan trọng về mặt này. Thí dụ, ông biện luận, đi theo nhà sử học William McNeil, rằng sự định hướng [theo chiều] đông-tây của đại lục Á-Âu đã cho phép cây trồng, động vật, và đổi mới lan từ vùng Lưỡi liềm Màu mỡ vào Tây Âu, trong khi sự định hướng bắc-nam của châu Mỹ giải thích vì sao các hệ thống chữ viết, mà được tạo ra ở Mexico, đã không lan tới vùng Andes hay tới Bắc Mỹ. Thế nhưng sự định hướng của các lục địa không thể cung cấp một giải thích cho sự bất bình đẳng thế giới ngày nay. Hãy xem xét châu Phi. Tuy Sa mạc Sahara đã có tỏ ra là một rào cản đáng kể cho sự vận chuyển hàng hóa và ý tưởng từ phương bắc đến châu Phi hạ-Sahara, rào cản này đã không phải là không thể vượt qua. Những người Bồ Đào Nha, và sau đó là những người Âu châu khác, đã đi thuyền quanh bờ biển và đã loại bỏ những khác biệt về kiến thức vào thời khi các khoảng cách thu nhập đã là rất nhỏ so với các khoảng cách ngày nay. Kể từ đó, châu Phi đã không bắt kịp châu Âu; ngược lại bây giờ có một khoảng cách thu nhập lớn hơn rất nhiều giữa hầu hết các nước Phi châu và các nước Âu châu. Cũng phải là rõ, rằng lý lẽ của Diamond, mà là về bất bình đẳng lục địa, đã không được trang bị tốt để giải thích sự khác nhau bên trong các lục địa – một phần quan trọng của sự bất bình đẳng thế giới hiện đại. Thí dụ, trong khi sự định hướng của khối đất Á-Âu đã có thể giải thích nước Anh đã xoay xở thế nào để hưởng lợi từ những đổi mới của Trung Đông mà không phải sáng chế lại chúng, nó không giải thích vì sao Cách mạng Công nghiệp đã xảy ra ở nước Anh hơn là,
  • 74. 54 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI chẳng hạn, ở Moldova. Ngoài ra, như bản thân Diamond đã chỉ ra, Trung Quốc và Ấn Độ đã hưởng lợi rất nhiều từ các bộ rất phong phú của các động vật và thực vật, và từ sự định hướng của đại lục Á-Âu. Nhưng hầu hết những người nghèo của thế giới ngày nay là ở hai nước đó. Thực ra, cách tốt nhất để thấy phạm vi của luận đề của Diamond là bằng chính các biến số giải thích của riêng ông. Bản đồ 4 cho thấy số liệu về phân bố của Sus scrofa – Lợn rừng, tổ tiên của lợn hiện đại, và của bò rừng, tổ tiên của bò hiện đại. Cả hai loài đã phân bố rộng ở đại lục Á-Âu và thậm chí ở Bắc Phi. Bản đồ 5 cho thấy phân bố của một số tổ tiên hoang dại của các cây trồng đã được thuần hóa hiện nay, như Oryza sativa, tổ tiên của lúa được trồng ở châu Á, và tổ tiên của lúa mỳ và lúa mạch. Nó chứng tỏ rằng tổ tiên hoang dã của lúa đã phân bố rộng khắp nam và đông nam Á, trong khi tổ tiên của lúa mỳ và lúa mạch đã phân bố dọc theo một cung dài kéo từ Levant, qua Iran và đến Afghanistan và cụm “stan” (Turkmenistan, Tajikistan, và Krgyzistan). Các loài cổ này có mặt ở phần lớn đại lục Á-Âu. Nhưng sự phân bố rộng của chúng gợi ý rằng sự bất bình đẳng bên trong đại lục Á-Âu không thể được giải thích bằng một lý thuyết đựa vào mức độ tác động của các loài.
  • 75. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 55 Giả thuyết địa lý không chỉ không hữu ích cho việc giải thích nguồn gốc của sự thịnh vượng suốt lịch sử, và đa phần là sai trong sự nhấn mạnh của nó, mà cũng không có khả năng giải thích thế đất (tình hình đặc trưng) mà chúng ta đã bắt đầu chương này với. Người ta có thể biện hộ rằng bất cứ hình mẫu bền bỉ nào, ví dụ như thứ bậc thu nhập ở bên trong châu Mỹ hay những khác biệt sắc nét và trải dài gữa châu Âu và Trung Đông, có thể được giải thích bởi địa lý không thay đổi. Nhưng điều này không phải vậy. Chúng ta đã thấy rồi, rằng các hình mẫu bên trong châu Mỹ là cực kỳ ít có khả năng được thúc đẩy bởi các yếu tố địa lý. Trước 1492, các nền văn minh ở thung lũng trung tâm của Mexico, Trung Mỹ, và vùng Andes đã có công nghệ và mức sống cao hơn Bắc Mỹ hay các nơi chẳng hạn như Argentina và Chile. Trong khi địa lý vẫn như thế, các thể chế do các nhà thuộc địa Âu châu áp đặt đã tạo ra một “sự đảo ngược vận may”. Địa lý cũng không chắc giải thích được sự nghèo khó của Trung Đông vì các lý do tương tự. Rốt cuộc, Trung Đông đã dẫn đầu thế giới trong Cách mạng Đồ đá Mới, và các thành phố
  • 76. 56 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI đầu tiên được xây dựng ở nơi nay là Iraq hiện đại. Sắt đã được nấu lần đầu tiên ở Thổ Nhĩ Kỳ, và vào cuối thời Trung Cổ, Trung Đông đã năng động về mặt công nghệ. Đã không phải địa lý của Trung Đông là cái đã khiến cho Cách mạng Đồ Đá Mới hưng thịnh ở phần đó của thế giới, như chúng ta sẽ thấy ở chương 5, và, lại lần nữa, không phải địa lý là cái làm cho Trung Đông nghèo. Thay vào đó, đã chính là sự bành trướng và sự củng cố của Đế chế Ottoman, và chính là di sản thể chế của đế chế này là cái giữ Trung Đông nghèo hiện nay. Cuối cùng, các yếu tố địa lý là không hữu ích cho việc giải thích không chỉ những khác biệt mà chúng ta thấy khắp các phần khác nhau của thế giới, mà cũng chẳng giúp ích cho việc giải thích vì sao các quốc gia như Nhật Bản hay Trung Quốc lại trì trệ trong các thời kỳ dài và rồi bắt đầu một quá trình tăng trưởng nhanh. Chúng ta cần một lý thuyết khác, tốt hơn.
  • 77. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 57 GIẢ THUYẾT VĂN HÓA Lý thuyết được chấp nhận rộng rãi thứ hai, giả thuyết văn hóa, liên kết thịnh vượng với văn hóa. Giả thuyết văn hóa, cũng giống như giả thuyết địa lý, có một dòng giống lỗi lạc, truy nguyên chí ít về đến Max Weber, nhà xã hội học Đức vĩ đại, người cho rằng Cải cách Kháng cách1 (Protestant Reformation) và đạo đức Kháng cách (Protestant ethic) mà nó khích lệ đã đóng vai trò then chốt trong tạo thuận lợi cho sự thăng tiến của xã hội công nghiệp hiện đại ở Tây Âu. Giả thuyết văn hóa không còn chỉ dựa vào tôn giáo, mà nhấn mạnh cả các loại khác của niềm tin, giá trị, và đạo đức nữa. Mặc dù là không đúng đắn về mặt chính trị để diễn đạt công khai, nhiều người vẫn cho rằng những người châu Phi nghèo bởi vì họ thiếu một đạo lý làm việc tốt, vẫn tin vào phù thủy và ma thuật, hoặc kháng cự các công nghệ phương Tây. Nhiều người cũng tin rằng Mỹ Latin sẽ chẳng bao giờ giàu bởi vì người dân của nó hoang toàng và túng quẫn, và bởi vì họ có thiên hướng văn hóa “Iberian” hay “mañana” nào đó.2 Tất nhiên, nhiều người một thời đã tin rằng văn hóa Trung Quốc hay các giá trị khổng giáo là không thân thiện với tăng trưởng kinh tế, mặc dù ngày nay người ta om sòm nói về tầm quan trọng của văn hóa làm việc Trung Hoa như động cơ tăng trưởng ở Trung Quốc, Hồng Kông, và Singapore. Giả thuyết văn hóa có hữu ích cho việc hiểu sự bất bình đẳng thế giới? Có và không. Có, theo nghĩa rằng các chuẩn mực xã hội, mà có liên quan đến văn hóa, là có ý nghĩa và khó thay đổi, và đôi khi chúng cũng ủng hộ các khác biệt thể chế, mà đấy [sự khác biệt thể chế] là sự giải thích của cuốn sách này cho sự bất bình đẳng thế giới. Nhưng thường là không, bởi vì các khía cạnh đó của văn hóa thường được nhấn mạnh – tôn giáo, đạo đức dân tộc, các giá trị Phi châu hay Latin – đúng là không quan trọng cho việc hiểu về làm thế nào chúng ta lại tới 1 Protestant cũng thường được dịch ra tiếng Việt là Tin lành, tuy phong trào Tin lành (Evangelism) chỉ là một trào lưu thuộc phong trào Kháng cách (Protestantism), ngoài Tin lành ra còn có các giáo phái khác cũng thuộc cộng đồng Kháng cách lớn này như Anh giáo, Calvinist vân vân. Tại Việt Nam Tin lành là cộng đồng Kháng cách lớn nhất, có lẽ vì thế mà có sự lẫn lộn về thuật ngữ như vậy. Trong bản dịch này đôi khi để nguyên là protestant. 2 Mañana tiếng Tây ban Nha có nghĩa là ngày mai, hặc là một thời điểm không xác định trong tương lai, văn hóa mañana có thể được đặc trưng bằng câu tục ngữ của họ “sao lại phải làm hôm nay nếu cũng có thể làm vào ngày mai”.
  • 78. 58 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI đây và vì sao sự bất bình đẳng thế giới lại dai dẳng. Các khía cạnh khác, thí dụ như mức độ mà người dân tin cậy lẫn nhau hoặc có khả năng hợp tác, là quan trọng nhưng chủ yếu chúng là kết quả của các thể chế, chứ không phải là nguyên nhân độc lập. Hãy quay lại với Nogales. Như chúng ta đã nhắc tới sớm hơn, nhiều khía cạnh văn hóa là như nhau ở phía bắc và phía nam hàng rào. Tuy nhiên, có thể có một số khác biệt rõ rệt về các thông lệ, chuẩn mực, và giá trị, mặc dù đấy không phải là những nguyên nhân mà là những kết quả của các con đường phát triển khác nhau của hai nơi. Thí dụ, trong các cuộc điều tra những người Mexic thường nói rằng họ tin cậy những người khác ít hơn các công dân Hoa Kỳ nói họ tin những người khác. Nhưng không phải là một sự ngạc nhiên rằng những người Mexic thiếu sự tin cậy khi chính phủ của họ không thể loại bỏ các cartel ma túy hay cung cấp một hệ thống pháp lý hoạt động không thiên vị. Cũng đúng như thế với Bắc và Nam Hàn, khi chúng ta thảo luận ở chương tiếp theo. Niền Nam là một trong các nước giàu nhất trên thế giới, trong khi miền Bắc vật lộn với nạn đói định kỳ và sự nghèo khó khốn khổ. Trong khi “văn hóa” là rất khác nhau giữ miền Nam và miền Bắc hiện nay, nó đã không đóng vai trò gì trong gây ra vận may kinh tế khác nhau của hai nửa quốc gia này. Bán đảo Triều Tiên đã có một giai đoạn dài của lịch sử chung. Trước Chiến tranh Triều Tiên và sự chia cắt ở vĩ tuyến 38, nó đã có một mức độ đồng đều chưa từng có về các mặt ngôn ngữ, sắc tộc, và văn hóa. Hệt như ở Nogales, cái có ý nghĩa là đường biên giới. Về phía bắc là một chế độ khác, áp đặt các thể chế khác, tạo ra các khuyến khích khác. Bất cứ sự khác biệt nào về văn hóa giữa nam và bắc của đường biên giới cắt ngang qua hai nửa Nogales hay hai miền Triều Tiên như thế không phải là một nguyên nhân của những khác biệt về sự thịnh vượng, mà, đúng hơn, là một hậu quả. Còn về châu Phi và văn hóa Phi châu thì sao? Về mặt lịch sử, châu Phi hạ- Sahara đã nghèo hơn hầu hết các phần khác của thế giới, và các nền văn minh cổ của nó đã không phát triển bánh xe, chữ viết (trừ Ethiopia và Somalia), hay [cái] cày. Mặc dù các công nghệ này đã không được sử dụng rộng rãi cho đến khi sự thực dân hóa Âu châu chính thức đến vào cuối thế kỷ mười chín đầu thế kỷ hai mươi, các xã hội Phi châu biết về chúng sớm hơn nhiều. Những người Âu châu đã bắt đầu đi thuyền quanh bờ tây vào cuối thế kỷ thứ mười lăm, và những người Á châu đã liên tục đi thuyền đến Đông Phi sớm hơn nhiều.
  • 79. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 59 Chúng ta có thể hiểu vì sao những công nghệ này đã không được chấp nhận từ lịch sử của Vương quốc Kongo ở cửa sông Congo, mà đã trao tên của nó cho Cộng hòa Dân chủ Congo hiện đại. Bản đồ 6 cho thấy Kongo đã ở đâu cùng với một nhà nước trung phi quan trọng khác, Vương quốc Kuba, mà chúng ta sẽ thảo luận muộn hơn trong cuốn sách. Kongo đã tiếp xúc mạnh mẽ với người Bồ Đào Nha sau khi thủy thủ Diogo Cão đến thăm nó lần đầu tiên vào năm 1483. Tại thời đó, Kongo đã là một chính thể được tập trung cao độ theo các tiêu chuẩn Phi châu, mà thủ đô của nó, Mbanza, đã có dân số sáu mươi ngàn người, làm cho nó có cùng quy mô như thủ đô Bồ Đào Nha, Lisbon, và lớn hơn London, có dân số khoảng năm mươi ngàn vào năm 1500. Vua Kongo, Nzinga a Nkuwu, đã cải đạo sang Công giáo (Catholicism) và đã đổi tên thành João I. Muộn hơn tên của Mbanza được đổi thành São Salvador. Nhờ những người Bồ Đào Nha, những người Kongo đã học về bánh xe và cái cày, và người Bồ Đào Nha thậm chí đã cổ vũ sự chấp nhận
  • 80. 60 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI chúng với các phái đoàn công cán nông nghiệp vào năm 1491 và 1512. Nhưng tất cả những sáng kiến này đã thất bại. Ấy thế mà, những người Kongo đã hoàn toàn không phải không thích các công nghệ hiện đại nói chung. Họ đã rất nhanh để chấp nhận một đổi mới sáng tạo phương Tây đáng kính: súng. Họ đã dùng công cụ mới và hùng mạnh này để đáp lại các khuyến khích thị trường: để bắt và xuất khẩu nô lệ. Chẳng hề có dấu hiệu nào ở đây rằng các giá trị hay văn hóa Phi châu đã ngăn cản sự chấp nhận các công nghệ và thói quen mới. Khi những tiếp xúc của họ với những người Âu châu sâu thêm, những người Kongo đã chấp nhận các thói quen phương Tây khác: biết đọc biết viết, phong cách ăn mặc, kiểu mẫu nhà cửa. Trong thế kỷ mười chín, nhiều xã hội Phi châu cũng đã tận dụng các cơ hội kinh tế tăng lên do Cách mạng Công nghiệp tạo ra bằng cách thay đổi các hình mẫu sản xuất của họ. Ở Tây Phi đã có sự phát triển kinh tế nhanh dựa trên xuất khẩu dầu cọ và lạc; khắp miền nam châu Phi, những người Phi châu đã phát triển xuất khẩu cho các vùng công nghiệp và khai mỏ đang mở rộng nhanh chóng của Rand ở Nam Phi. Thế nhưng những thử nghiệm kinh tế đầy hứa hẹn này đã bị xóa sạch không phải bởi văn hóa Phi châu hay bởi sự bất tài của những người dân thường Phi châu để hành động vì lợi ích riêng của họ, mà đầu tiên bởi chủ nghĩa thực dân Âu châu và sau đó bởi các chính phủ Phi châu sau độc lập. Lý do thực sự của việc những người Kongo không chấp nhận công nghệ ưu việt bởi vì họ đã không có khuyến khích nào để làm vậy. Họ đã đối mặt với một rủi ro cao về tất cả sản lượng của họ bị chiếm đoạt hay bị đánh thuế bởi nhà vua có mọi quyền lực, dẫu cho ngài đã có cải đạo sang Công giáo hay không. Thực ra, đã không chỉ là tài sản của họ không an toàn. Sự tồn tại tiếp tục của họ được giữ bằng một sợi chỉ. Nhiều trong số họ đã bị bắt và bị bán làm nô lệ – một môi trường hầu như không khích lệ đầu tư để làm tăng năng suất dài hạn. Nhà vua cũng đã chẳng có các khuyến khích để làm cho việc chấp nhận [công nghệ] cày trên quy mô lớn hay gia tăng năng suất nông nghiệp thành ưu tiên chính của ngài; xuất khẩu nô lệ đã sinh lợi hơn rất nhiều. Đã có thể đúng ngày nay rằng những người Phi châu tin cậy lẫn nhau ít hơn người dân ở những phần khác của thế giới. Nhưng đấy là một kết quả của một lịch sử dài của các thể chế mà đã làm xói mòn các quyền con người và quyền tài sản ở châu Phi. Khả năng bị bắt và bị bán như một nô lệ, không nghi ngờ gì đã ảnh hưởng đến mức độ mà những người Phi châu tin vào nhau về mặt lịch sử.
  • 81. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 61 Về đạo đức Protestant của Max Weber thì sao? Mặc dù có thể đúng rằng các nước hầu thết theo Protestant, ví dụ như Hà Lan và Anh, đã là những thành công kinh tế đầu tiên của kỷ nguyên hiện đại, có ít quan hệ giữa tôn giáo và thành công kinh tế. Pháp, nước hầu hết theo Công giáo, đã mau chóng bắt chước thành tích kinh tế của người Hà Lan và người Anh trong thế kỷ mười chín, và ngày nay Italy cũng thịnh vượng như bất cứ quốc gia nào trong các quốc gia này. Nhìn xa hơn sang phương đông, bạn sẽ thấy rằng chẳng có nền kinh tế nào trong các nền kinh tế thành công của Đông Á có bất cứ quan hệ gì với bất cứ hình thức Kitô giáo (Christian) nào, cho nên cũng chẳng có mấy sự ủng hộ cho một mối quan hệ đặc biệt giữa phong trào Protestant và thành công kinh tế cả ở đó nữa. Hãy quay sang vùng ưa thích đối với những người say mê giả thuyết văn hóa: Trung Đông. Các nước Trung Đông chủ yếu theo đạo Hồi, và các nước không sản xuất dầu trong số đó là rất nghèo, như chúng ta đã nhắc tới. Các nước sản xuất dầu giàu hơn, nhưng của cải trời cho này đã làm chẳng bao nhiêu để tạo ra các nền kinh tế hiện đại đa dạng ở Saudi Arabia hay Kuwait. Chẳng phải những sự thực này cho thấy một cách thuyết phục rằng tôn giáo có ý nghĩa? Mặc dù có vẻ hợp lý, lý lẽ này cũng chẳng đúng. Đúng, các nước Syria và Ai Cập là nghèo, và dân cư của chúng chủ yếu theo đạo Hồi. Nhưng các nước này cũng khác một cách có hệ thống theo những cách khác mà quan trọng hơn nhiều đối với sự thịnh vượng. Trước hết, tất cả chúng đã là các tỉnh của Đế chế Ottoman, mà đã định hình một cách nặng nề và bất lợi cách chúng đã phát triển. Sau khi sự cai trị Ottoman sụp đổ, Trung Đông đã bị gộp vào các đế chế thuộc địa Anh và Pháp, mà, lại lần nữa, làm còi cọc những khả năng của chúng. Sau khi độc lập, chúng đã hầu như đi theo thế giới thuộc địa trước đó bằng cách phát triển các chế độ chính trị thứ bậc, chuyên quyền với số ít các thể chế chính trị và kinh tế mà, như chúng ta sẽ biện luận, là cốt yếu cho việc tạo ra thành công kinh tế. Con đường phát triển này đã được tạo dựng chủ yếu bởi lịch sử của sự cai trị Ottoman và Âu châu. Quan hệ giữa Hồi giáo và nghèo khó ở Trung Đông phần lớn là giả. Vai trò của các sự kiện lịch sử này, hơn là các yếu tố văn hóa, trong định hình quỹ đạo kinh tế của Trung Đông cũng được thấy trong sự thực rằng các phần của Trung Đông mà tạm thời thoát khỏi được ảnh hưởng của Đế chế Ottoman và các cường quốc Âu châu, như Ai Cập giữa 1805 và 1848 dưới thời Muhammad Ali, đã có thể bắt đầu tiến lên con đường thay đổi kinh tế nhanh. Muhammad Ali đã
  • 82. 62 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI chiếm quyền tiếp sau sự rút lui của các lực lượng Pháp đã chiếm đóng Ai Cập dưới thời Napoleon Bonaparte. Khai thác sự yếu ớt của ảnh hưởng Ottoman lên lãnh thổ Ai Cập lúc đó, ông đã có thể lập ra triều đại riêng của mình, mà, dưới hình thức này hay hình thức khác, đã có thể cai trị cho đến Cách mạng Ai Cập dưới sự lãnh đạo của Nasser năm 1952. Các cuộc cải cách của Muhammad Ali, mặc dù cưỡng bức, đã mang lại sự tăng trưởng cho Ai Cập khi bộ máy nhà nước, quân đội, hệ thống thuế đã được hiện đại hóa và đã có tăng trưởng trong nông nghiệp và công nghiệp. Tuy nhiên, quá trình hiện đại hóa và tăng trưởng này đã kết thúc sau cái chết của Ali, vì Ai Cập đã rơi vào ảnh hưởng của châu Âu. Nhưng có lẽ đấy là cách sai để nghĩ về văn hóa. Có thể các yếu tố văn hóa mà có ý nghĩa lại không gắn với tôn giáo mà đúng hơn gắn với “các văn hóa dân tộc” cá biệt. Có lẽ ảnh hưởng của văn hóa Anh là cái quan trọng và giải thích vì sao các nước như Hoa Kỳ, Canada, và Australia thịnh vượng đến vậy? Mặc dù ý tưởng này ban đầu nghe có vẻ hấp dẫn, nó cũng chẳng có hiệu lực. Đúng, Hoa Kỳ và Canada đã là các thuộc địa của Anh, nhưng Sierra Leone và Nigeria cũng thế. Sự biến động về thịnh vượng bên trong các thuộc địa trước kia của Anh cũng lớn như sự biến động thịnh vượng trên toàn thế giới. Di sản Anh không phải là lý do cho thành công của Bắc Mỹ. Còn có một phiên bản nữa của giả thuyết văn hóa: có lẽ không phải là Anh đối lại không Anh là cái có ý nghĩa, mà là Âu châu đối lại không Âu châu. Có thể chăng là, những người Âu châu giỏi hơn vì lý do nào đó bởi vì đạo đức làm việc, cách nhìn về cuộc sống, các giá trị Do Thái-Kitô giáo, hay di sản La Mã của họ? Đúng là dân cư của Tây Âu và Bắc Mỹ, những phần thịnh vượng nhất của thế giới, chủ yếu là những người có nguồn gốc Âu châu. Có lẽ di sản văn hóa Âu châu ưu việt hơn là cái nằm ở gốc của sự thịnh vượng – và là nơi ẩn náu cuối cùng của giả thuyết văn hóa. Chao ôi, phiên bản này của giả thuyết văn hóa cũng có ít khả năng giải thích như các phiên bản khác. Phần lớn hơn của dân cư ở Argentina và Uruguay, so với dân cư Hoa Kỳ và Canada, là những người có gốc Âu châu, nhưng thành tích kinh tế của Argentina và Uruguay có nhiều điểm đáng chê. Nhật Bản và Singapore đã chẳng bao giờ có nhiều hơn một nhúm cư dân gốc Âu châu, thế nhưng họ thịnh vượng như nhiều phần của Tây Âu. Trung Quốc, bất chấp nhiều thiếu sót trong hệ thống kinh tế và chính trị của nó, đã là quốc gia tăng trưởng nhanh nhất của ba thập kỷ vừa qua. Sự nghèo khó
  • 83. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 63 của Trung Quốc cho đến cái chết của Mao Trạch Đông đã chẳng liên quan gì đến văn hóa Trung Hoa; nó đã là do cung cách tai họa mà Mao đã tổ chức nền kinh tế và điều hành chính trị. Trong các năm 1950, Mao đã thúc đẩy phong trào Đại Nhảy Vọt, một chính sách công nghiệp hóa quyết liệt mà đã dẫn tới chết đói hàng loạt và nạn đói. Trong các năm 1960, ông đã tuyên truyền Cách mạng Văn hóa, mà đã dẫn đến sự đàn áp hàng loạt trí thức và những người có học – bất cứ ai mà lòng trung thành với đảng bị nghi ngờ. Việc này, một lần nữa, lại đã dẫn đến khủng bố và một sự lãng phí khổng lồ tài năng và nguồn lực của xã hội. Cũng thế, tăng trưởng hiện thời của Trung Quốc chẳng có liên quan gì đến các giá trị Trung Hoa hay đến những thay đổi về văn hóa Trung Hoa; nó là kết quả của một quá trình biến đổi kinh tế được tháo xích bởi những cải cách được thực hiện bởi Đặng Tiểu Bình và các đồng minh của ông, người, sau cái chết của Mao Trạch Đông, đã dần dần từ bỏ các chính sách và các thể chế kinh tế xã hội chủ nghĩa, đầu tiên trong nông nghiệp và sau đó trong công nghiệp. Hệt như giả thuyết địa lý, giả thuyết văn hóa cũng vô ích cho sự giải thích các khía cạnh khác của địa hình địa thế [tình hình] xung quanh chúng ta ngày nay. Tất nhiên, có những khác biệt về lòng tin, thái độ văn hóa, và các giá trị giữa Hoa Kỳ và Mỹ Latin, nhưng hệt như những khác biệt giữa Nogales, Arizona, và Nogales, Sonora, hoặc giữa Bắc và Nam Hàn, những khác biệt này là hệ quả của các thể chế và lịch sử thể chế khác nhau của hai nơi. Các yếu tố văn hóa mà nhấn mạnh văn hóa “Hispanic” hay “Latin” đã đúc Đế chế Tây Ban Nha bằng khuôn không thể giải thích những sự khác biệt bên trong châu Mỹ Latin – thí dụ, vì sao Argentina và Chile thịnh vượng hơn Peru và Bolivia. Các loại khác của các lý lẽ văn hóa – chẳng hạn, những loại nhấn mạnh văn hóa bản địa đương đại – cũng hoạt động tồi ngang thế. Argentina và Chile có ít dân bản địa so với Peru và Bolivia. Mặc dù điều này đúng, văn hóa bản địa với tư cách một sự giải thích cũng chẳng có hiệu lực. Colombia, Ecuador, và Peru có mức sống tương tự nhau, nhưng ngày nay Columbia có rất ít người bản địa, trong khi Ecuador, và Peru có nhiều. Cuối cùng, các thái độ văn hóa, mà nói chung là chậm để thay đổi, bản thân chúng không chắc giải thích được sự tăng trưởng kỳ diệu ở Đông Á và Trung Quốc. Mặc dù các thể chế tồn tại dai dẳng, trong những hoàn cảnh nhất định chúng cũng thay đổi nhanh chóng, như chúng ta sẽ thấy.
  • 84. 64 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI GIẢ THUYẾT DỐT NÁT Lý thuyết được ưa chuộng cuối cùng về vì sao một số quốc gia nghèo và một số giàu là giả thuyết dốt nát, mà nó khẳng định rằng sự bất bình đẳng thế giới tồn tại bởi vì chúng ta hay những kẻ cai trị chúng ta không biết làm thế nào để biến các nước nghèo thành giàu. Ý tưởng này là ý tưởng của hầu hết các nhà kinh tế học, những người nhận được sự gợi ý từ định nghĩa nổi tiếng do nhà kinh tế học Anh Lionel Robins đề xuất năm 1935 rằng “kinh tế học là môn khoa học nghiên cứu hành vi con người như một mối quan hệ giữa các mục đích và các phương tiện khan hiếm mà có những cách sử dụng khả dĩ khác”. Sau đó chỉ là một bước nhỏ để kết luận rằng khoa học kinh tế phải tập trung vào cách sử dụng tốt nhất các phương tiện khan hiếm để thỏa mãn các mục đích xã hội. Thực vậy, kết quả lý thuyết nổi tiếng nhất trong kinh tế học, cái được gọi là Định lý Phúc lợi Thứ nhất, nhận diện hoàn cảnh mà dưới đó sự phân bổ nguồn lực trong một “nền kinh tế thị trường” là đáng mong mỏi về mặt xã hội nhìn từ quan điểm kinh tế. Một nền kinh tế thị trường là một sự trừu tượng hóa mà có ý định nắm bắt một hoàn cảnh trong đó tất cả các cá nhân và các hãng có thể sản xuất, mua, và bán một cách tự do bất cứ sản phẩm hay dịch vụ nào mà họ muốn. Khi các hoàn cảnh này không hiện diện thì có một “khiếm khuyết thị trường – market failure – hay thất bại thị trường”. Những khiếm khuyết như vậy tạo cơ sở cho một lý thuyết về sự bất bình đẳng thế giới, vì các khiếm khuyết thị trường càng không được giải quyết, thì một nước càng có khả năng là nghèo. Giả thuyết dốt nát xác nhận rằng các nước nghèo là nghèo bởi vì chúng có nhiều khiếm khuyết thị trường và bởi vì các nhà kinh tế học và các nhà hoạch định chính sách không biết làm thế nào để thoát khỏi chúng và đã chú ý đến lời khuyên sai trong quá khứ. Các nước giàu là giàu bởi vì họ đã hình dung ra các chính sách tốt hơn và đã thành công loại bỏ các khiếm khuyết này. Giả thuyết dốt nát có thể giải thích sự bất bình đẳng thế giới? Có thể chăng rằng các nước Phi châu nghèo hơn phần còn lại của thế giới là bởi vì các nhà lãnh đạo của họ có xu hướng có cùng các quan điểm sai lầm về làm thế nào để vận hành các nước của họ, dẫn đến sự nghèo khó ở đó, trong khi các nhà lãnh đạo Tây Âu có hiểu biết tốt hơn hay được khuyên bảo tốt hơn, mà giải thích thành công tương đối của họ? Trong khi có các thí dụ nổi tiếng về các nhà lãnh đạo chọn làm
  • 85. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 65 theo các chính sách tai hại bởi vì họ đã hiểu lầm các hậu quả của những chính sách đó, sự dốt nát có thể giải thích một phần nhỏ của sự bất bình đẳng thế giới. Xét theo bề ngoài, sự sa sút kinh tế kéo dài, mà đã bắt đầu ngay ở Ghana sau khi độc lập khỏi Anh, đã do sự dốt nát gây ra. Nhà kinh tế học Anh Tony Killick, khi đó hoạt động với tư cách một cố vấn cho chính phủ Kwame Nkrumah đã ghi lại rất chi tiết nhiều vấn đề. Các chính sách của Nkrumah đã tập trung vào phát triển công nghiệp nhà nước, mà đã hóa ra là rất không hiệu quả. Killick nhớ lại: Nhà máy giày … mà phải gắn với nhà máy thịt ở miền Bắc qua việc vận chuyển da xuống miền Nam (suốt một khoảng cách trên 500 dặm) đến một nhà máy thuộc da (bây giờ bị bỏ hoang); đã phải chở da thuộc ngược lại bằng xe tải đến nhà máy giày ở Kumasi, ở giữa nước và cách nhà máy thuộc da khoảng 200 dặm về phía bắc. Vì thị trường giày chính là ở vùng đô thị Accra, nên sau đó giày phải được vận chuyển thêm 200 dặm quay lại miền Nam. Killick bình luận một cách hơi giảm bớt rằng đấy đã là một hoạt động kinh doanh “mà khả năng sinh lời của nó bị xói mòn bởi sự lựa chọn địa điểm tồi”. Nhà máy giày chỉ là một trong nhiều dự án như vậy, thêm vào là nhà máy đóng hộp xoài được đặt tại vùng của Ghana mà đã không trồng xoài và sản lượng của nó đã nhiều hơn cầu của toàn thế giới đối với sản phẩm đó. Dòng vô tận này của những việc triển khai phi lý về mặt kinh tế đã không được gây ra bở sự thực rằng Nkrumah và các cố vấn của ông đã kém hiểu biết hay đã dốt nát về các chính sách kinh tế đúng. Họ đã có những cố vấn như Killick và đã thậm chí được tư vấn bởi kinh tế gia được giải Nobel, Sir Arthur Lewis, những người đã biết các chính sách này là không tốt. Cái đã khiến các chính sách kinh tế có hình thức ấy là sự thực rằng Nkrumah đã cần phải sử dụng chúng để mua sự ủng hộ chính trị và để duy trì chế độ phi dân chủ của ông. Thành tích gây thất vọng của Ghana sau độc lập không thể, và vô số các trường hợp khác về quản lý kinh tế sai rành rành cũng chẳng thể, đơn giản đổ lỗi cho sự ngu dốt. Rốt cuộc, nếu giả như sự ngu dốt là vấn đề, thì các nhà lãnh đạo có thiện chí sẽ nhanh chóng học được các loại chính sách nào làm tăng thu nhập và phúc lợi của các công dân của họ, và sẽ hướng theo các chính sách đó.
  • 86. 66 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Hãy xem xét những con đường khác nhau của Hoa Kỳ và Mexico. Quy sự khác biệt này cho sự dốt nát của các lãnh đạo của hai quốc gia, nhiều nhất, là có vẻ hết sức không hợp lý. Đã không phải là những sự khác biệt về hiểu biết hay về ý định giữa John Smith và Cortés là cái đã gieo hạt phân kỳ trong giai đoạn thuộc địa, và đã không phải là những sự khác biệt về hiểu biết giữa các tổng thống Hoa Kỳ muộn hơn, như Teddy Roosevelt hay Woodrow Wilson, và Porfirio Díaz là cái đã khiến cho Mexico chọn các thể chế kinh tế làm giàu cho elite gây tổn hại cho phần còn lại của xã hội vào cuối thế kỷ mười chín và đầu thế kỷ hai mươi, trong khi Roosevelt và Wilson thì đã làm ngược lại. Đúng hơn, đã là những khác biệt về các ràng buộc thể chế mà các tổng thống và elite của hai nước đã phải đối mặt. Tương tự, các nhà lãnh đạo của các quốc gia Phi châu, các quốc gia sống khổ cực dưới các quyền tài sản và các thể chế kinh tế không an toàn, bần cùng hóa phần lớn dân cư của họ, đã không cho phép điều này xảy ra bởi vì họ đã nghĩ nó là nền kinh tế tốt; họ đã làm như vậy bởi vì họ đã có thể không bị trừng phạt và làm giàu cho bản thân họ gây tổn hại cho những người còn lại, hay bởi vì họ đã nghĩ là quan điểm chính trị tốt, một cách để bản thân họ bám lấy quyền lực bằng cách mua sự ủng hộ của các nhóm cốt yếu hay elite. Kinh nghiệm của thủ tướng Ghana trong năm 1971, Kofi Busia, minh họa giả thuyết ngu dốt có thể gây lạc lối đến thế nào. Busia đã đối mặt với một khủng hoảng kinh tế nguy hiểm. Sau khi lên nắm quyền năm 1969, giống như Nkrumah trước ông, ông đã theo đuổi các chính sách kinh tế mở rộng không bền vững và duy trì những sự kiểm soát giá khác nhau thông qua các hội đồng marketing và đã định tỷ giá hối đoái cao. Mặc dù Busia đã là một định thủ của Nkrumah, và đã lãnh đạo một phong trào dân chủ, ông đã phải đối mặt với nhiều ràng buộc chính trị cũng như thế. Như với Nkrumah, các chính sách kinh tế của ông đã được chấp nhận không phải bởi vì ông đã “dốt nát” và đã tin rằng những chính sách này là chính sách kinh tế tốt hay là một cách lý tưởng để phát triển đất nước. Các chính sách này đã được chọn bởi vì chúng đã tốt về mặt chính trị, cho phép Busia chuyển nguồn lực cho các nhóm hùng mạnh về mặt chính trị, thí dụ ở các vùng đô thị, những người cần phải được cảm thấy hài lòng. Những việc kiểm soát giá đã vắt ngành nông nghiệp, cung cấp thực phẩm rẻ cho các cử tri đô thị và tạo thu nhập để tài trợ cho chi tiêu của chính phủ. Nhưng những kiểm soát này đã là không bền vững. Ghana mau chóng đã bị một loạt khủng hoảng về cán cân thanh toán và thiếu hụt ngoại hối. Đối mặt với những thế lưỡng nan này, ngày 27-12-
  • 87. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 67 1971, Busia đã ký một thỏa thuận với Quỹ Tiền tệ Quốc tế, IMF, mà bao gồm một sự phá giá ồ ạt đồng nội tệ. IMF, Ngân hàng Thế giới, và toàn bộ cộng đồng quốc tế đã gây áp lực lên Busia để thực thi những cải cách chứa trong thỏa thuận. Mặc dù các thể chế quốc tế đã sung sướng không ý thức được, nhưng Busia biết rõ ông đang lao vào một cuộc đánh bạc chính trị khổng lồ. Hệ quả ngay lập tức của việc phá giá đồng tiền đã là bạo loạn và bất mãn ở Accra, thủ đô Ghana, mà đã lên đến mức không thể kiểm soát nổi cho đến khi Busia bị lật đổ bởi quân đội, lãnh đạo bởi Trung Tá Acheampong, người đã lập tức đảo ngược việc phá giá. Giả thuyết dốt nát khác các giả thuyết địa lý và văn hóa ở chỗ nó đến dễ dàng với một gợi ý về “giải quyết” vấn đề nghèo khó như thế nào: nếu sự dốt nát đã đưa chúng ta đến đây, thì các nhà cai trị và các nhà hoạch định chính sách được giác ngộ và có hiểu biết sẽ có thể đưa chúng ta ra khỏi và chúng ta phải có khả năng “sắp đặt-engineer” sự thịnh vượng quanh thế giới bằng cách cung cấp lời khuyên đúng và thuyết phục các nhà chính trị về nền kinh tế tốt là gì. Thế nhưng kinh nghiệm của Busia nhấn mạnh sự thực rằng trở ngại chính đối với việc chấp nhận các chính sách mà sẽ làm giảm những khiếm khuyết thị trường và khích lệ tăng trưởng kinh tế không phải là sự vô minh, sự dốt nát của các nhà chính trị mà là các khuyến khích (incentive) và các ràng buộc (constraint) họ đối mặt từ các thể chế chính trị và kinh tế trong các xã hội của họ. Mặc dù giả thuyết dốt nát vẫn ngự trị cao nhất giữa hầu hết các nhà kinh tế học và trong giới làm chính sách phương Tây – mà, hầu như loại trừ tất cả những thứ khác, chỉ chú tâm vào làm thế nào để sắp đặt, lập kế hoạch sự thịnh vượng – nó chỉ là một giả thuyết khác không có hiệu lực. Nó không giải thích được các nguồn gốc của thịnh vượng quanh thế giới và cũng chẳng giải thích được tình hình (thế đất) quanh chúng ta – thí dụ, vì sao một số quốc gia, chẳng hạn Mexico và Peru, chứ không phải Hoa Kỳ hay Anh, đã chấp nhận các thể chế và các chính sách bần cùng hóa đa số công dân của họ, hay vì sao hầu như toàn bộ châu Phi hạ-Sahara và hầu hết Trung Mỹ lại nghèo hơn Tây Âu hay Đônng Á rất nhiều. Khi các quốc gia phá vỡ để vượt ra khỏi các hình mẫu thể chế ép buộc họ nghèo và tìm được cách để bắt đầu bước lên con đường tăng trưởng kinh tế, việc này không phải bởi vì các nhà lãnh đạo dốt nát của họ đột nhiên trở nên có hiểu
  • 88. 68 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI biết tốt hơn hay ít tự-tư tự lợi hơn hoặc đã nhận được lời khuyên từ các nhà kinh tế học giỏi hơn. Thí dụ, Trung Quốc là một trong những nước đã chuyển từ các chính sách kinh tế gây ra nghèo khó và sự chết đói của hàng triệu người sang các chính sách khích lệ tăng trưởng kinh tế. Nhưng, như muộn hơn chúng ta sẽ thảo luận chi tiết hơn nhiều, điều này đã không xảy ra bởi vì Đảng Cộng Sản Trung Quốc cuối cùng đã hiểu rằng sở hữu tập thể về đất nông nghiệp và công nghiệp đã tạo ra các khuyến khích khủng khiếp. Thay vào đó, Đặng Tiểu Bình và các đồng minh của ông, những người đã không kém tư lợi hơn các đối thủ của họ mà là những người có các lợi ích và các mục tiêu chính trị khác, đã đánh bại các đối thủ hùng mạnh của họ trong Đảng Cộng Sản và đã chỉ huy một cuộc cách mạng chính trị loại xoàng, thay đổi triệt để ban lãnh đạo và đường hướng của đảng. Các cuộc cải cách kinh tế của họ, mà đã tạo ra các khuyến khích thị trường trong nông nghiệp và sau đó trong công nghiệp, đã tất yếu xảy đến từ cách mạng chính trị này. Chính chính trị là cái đã quyết định sự chuyển từ chủ nghĩa cộng sản sang các khuyến khích thị trường ở Trung Quốc, chứ không phải lời khuyên tốt hơn hoặc một sự hiểu đúng hơn về nền kinh tế hoạt động thế nào. CHÚNG TA SẼ CHỨNG TỎ rằng để hiểu sự bất bình đẳng thế giới chúng ta phải hiểu vì sao một số xã hội lại được tổ chức theo những cách rất không hiệu quả và không đáng mong mỏi về mặt xã hội. Các quốc gia đôi khi có tìm được cách để chấp nhận các thể chế hiệu quả và đạt sự thịnh vượng, nhưng chao ôi, đấy là những trường hợp hiếm hoi. Hầu hết các nhà kinh tế học và các nhà hoạch định chính sách đã tập trung vào “getting it right – hiểu đúng, làm đúng”, trong khi cái thực sự cần đến là một sự giải thích vì sao các quốc gia nghèo lại “get it wrong – hiểu sai, làm sai”. Làm sai phần lớn không phải là về sự dốt nát hay văn hóa. Như chúng ta sẽ chứng tỏ, các nước nghèo là nghèo bởi vì những người có quyền lực đưa ra những lựa chọn mà chúng tạo ra nghèo khó. Họ làm sai không phải bởi sự sai lầm hay sự ngu dốt mà là cố ý, có chủ tâm. Để hiểu điều này, bạn phải vượt quá kinh tế học và lời khuyên chuyên gia về cái tốt nhất để làm và, thay vào đó, nghiên cứu các quyết định thực sự được đưa ra như thế nào, ai sai khiến đưa ra chúng, và vì sao những người quyết định để làm cái họ làm. Đây là việc nghiên cứu về chính trị học và các quá trình chính trị. Theo truyền thống kinh tế học đã bỏ qua chính trị học, nhưng việc hiểu chính trị học là cốt yếu cho việc hiểu sự bất
  • 89. CÁC LÝ THUYẾT KHÔNG HOẠT ĐỘNG ● 69 bình đẳng thế giới. Với tư cách một nhà kinh tế học Abba Lerner đã nhận xét trong các năm 1970, “Kinh tế học đã nhận được danh hiệu Nữ hoàng của các Khoa học Xã hội bằng cách chọn các vấn đề chính trị đã được giải quyết như lĩnh vực của mình”. Chúng ta sẽ chứng tỏ rằng việc đạt sự thịnh vượng phụ thuộc vào việc giải [quyết] một số vấn đề chính trị cơ bản. Chính xác bởi vì kinh tế học đã giả thiết rằng các vấn đề chính trị đã được giải mà nó đã không có khả năng tìm ra một lời giải thích thuyết phục cho sự bất bình đẳng thế giới. Việc giải thích sự bất bình đẳng thế giới vẫn cần đến kinh tế học để hiểu các loại khác nhau của các chính sách và những dàn xếp xã hội ảnh hưởng thế nào đến các khuyến khích và hành vi kinh tế. Nhưng nó cũng cần chính trị học.
  • 90. 3. TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ KINH TẾ HỌC CỦA VĨ TUYẾN 38 RONG MÙA HÈ 1945, khi Chiến tranh Thế giới Thứ hai sắp kết thúc, thuộc địa Nhật ở Triều Tiên bắt đầu sụp đổ. Trong vòng một tháng kể từ ngày 15 tháng Tám khi Nhật Bản đầu hàng vô điều kiện, Triều Tiên được chia tại vĩ tuyến 38 thành hai khu vực ảnh hưởng. Miền Nam được quản lý bởi Hoa Kỳ. Miền Bắc, bởi Nga. Hòa bình khó chịu của chiến tranh lạnh bị tan vỡ vào tháng Sáu năm 1950 khi quân đội Bắc Triều Tiên xâm lược miền Nam. Mặc dầu ban đầu quân Bắc Triều Tiên đã tiến hành đột nhập lớn, chiếm thủ đô Seoul, vào mùa thu, họ đã rút lui hoàn toàn. Chính khi đó Hwang Poyŏng-Wŏn và anh trai của mình bị chia ly. Hwang Poyŏng-Wŏn đã tìm được cách để trốn và tránh bị tuyển vào quân đội Bắc Triều Tiên. Ông ở lại Seoul và làm như một dược sĩ. Anh ông, một bác sĩ làm việc ở Seoul chữa trị cho những người lính bị thương từ quân đội Nam Hàn, đã bị bắt về miền bắc khi quân Bắc Triều Tiên rút lui. Bị lôi tách khỏi nhau năm 1950, họ đã gặp lại năm 2000 ở Seoul lần đầu tiên trong năm mươi năm, sau khi hai chính phủ cuối đùng đã đồng ý để bắt đầu một chương trình hạn chế về đoàn tụ gia đình. Với tư cách một bác sĩ, anh của Hwang Poyŏng-Wŏn đã làm việc cho không quân, một việc làm tốt trong một chế độ độc tài quân sự. Nhưng ngay cả những người với các đặc quyền ở Bắc Triều Tiên [cũng] không làm ăn khấm khá. Khi hai anh em gặp nhau, Hwang Poyŏng-Wŏn đã hỏi về cuộc sống ở bắc vĩ tuyến 38 thế nào. Ông có xe hơi, nhưng anh ông không có. “Anh có điện thọa không?” ông hỏi anh mình. “Không”, người anh nói. “Con gái anh, nó làm ở Bộ Ngoại giao, có một điện thoại, nhưng nếu không biết mã, thì không thể gọi được”. Hwang Poyŏng-Wŏn nhớ tất cả những người từ miền Bắc đã xin tiền thế nào, cho nên ông đưa một số tiền cho anh mình. Nhưng anh ông bảo, “Nếu anh mang tiền về chính phủ sẽ bảo, ‘Đưa số tiền đó cho chúng tôi’, cho nên em giữ lấy”. Hwang T
  • 91. TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 71 Poyŏng-Wŏn để ý thấy áo của anh mình bị sờn: “Anh cởi áo đó ra và bỏ lại đây, và khi anh về hãy mặc cái áo này,” ông gợi ý. “Anh không thể làm điều đó,” anh ông trả lời. “Cái áo này vừa mượn được từ chính phủ để đi đến đây.” Hwang Poyŏng-Wŏn nhớ lại khi họ chia tay, anh ông không thoải mái đến thế nào và luôn luôn lo lắng cứ như có ai đó đang nghe lén. Ông nghèo hơn mức Hwang Poyŏng-Wŏn đã tưởng tượng. Anh ông nói ông sống tốt, nhưng Hwang Poyŏng- Wŏn nghĩ ông nhìn đáng sợ và gầy như cây sậy. Nhân dân Nam Hàn có mức sống tương tự như mức sống của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Về phía bắc, ở cái gọi là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, hay Bắc Triều Tiên, mức sống hơi giống mức sống của một nước châu Phi hạ- Sahara, khoảng một phần mười mức sống ở Nam Hàn. Sức khỏe của những người Bắc Triều Tiên thậm chí còn trong trạng thái tồi tệ hơn; người Bắc Triều Tiên có thể kỳ vọng sống mười năm ngắn hơn anh em họ của mình ở phía nam vĩ tuyến 38. Bản đồ 7 minh họa theo cách đầy kịch tính về khoảng cách kinh tế giữa hai miền Triều Tiên. Nó thể hiện số liệu về cường độ ánh sáng vào ban đêm từ các bức ảnh vệ tinh. Bắc Triều Tiên hầu như hoàn toàn đen thui do thiếu điện; Nam Hàn rực lên với ánh sáng. Những khác biệt nổi bật này không phải là cổ xưa. Thực ra, chúng đã không tồn tại trước cuối Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Nhưng sau 1945, các chính phủ khác nhau ở miền Bắc và miền Nam đã chọn theo những cách khác nhau để tổ chức nền kinh tế của họ. Nam Hàn được lãnh đạo, và các thể chế kinh tế và chính trị ban đầu của nó đã được định hình, bởi Lý Thừa Vãn (Syngman Rhee), một người được đào tạo tại [các đại học] Havard và Princeton và chống cộng kiên định, với sự ủng hộ đáng kể của Hoa Kỳ. Lý đã được bầu làm tổng thống năm 1948. Được rèn đúc giữa Chiến tranh Triều Tiên và chống lại mối đe dọa về chủ nghĩa cộng sản lan xuống phía nam vĩ tuyến 38, Nam Hàn đã không là một nền dân chủ. Cả Lý lẫn người kế vị của ông, Park Chung Hee, nổi tiếng ngang như ông, đã đảm bảo các vị trí của họ trong lịch sử như các tổng thống chuyên quyền. Nhưng cả hai đã cai trị một nền kinh tế thị trường nơi quyền tài sản tư nhân được công nhận, và sau 1961 Park đã thực sự dùng sức mạnh và ảnh hưởng của nhà nước để ủng hộ sự tăng trưởng nhanh, hướng tín dụng và các khoản trợ cấp cho các hãng thành công.
  • 92. 72 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Tình hình ở phía bắc vĩ tuyến 38 đã khác. Kim Nhật Thành (Kim Il-Sung), một nhà lãnh đạo của những người du kích cộng sản chống Nhật trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai, đã xác lập mình như nhà độc tài vào năm 1947 và, với sự giúp đỡ của Liên Xô, đã đưa vào một dạng cứng nhắc của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung như một phần của cái gọi là hệ thống Juche [Tự lực]. Quyền tài sản tư nhân bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, và các thị trường bị cấm. Quyền tự do bị cắt bớt không chỉ trên thương trường, mà trong mọi lĩnh vực cuộc sống của những người Bắc Triều Tiên – trừ những người tình cờ thuộc thành phần của elite rất nhỏ cai trị xung quanh Kim Nhật Thành và, muộn hơn, xung quanh Kim Jong-Il, con ông và người thừa kế của ông. Phải là không ngạc nhiên đối với chúng ta rằng vận may kinh tế của Nam và Bắc Triều Tiên đã rẽ theo các hướng khác nhau rõ rệt. Nền kinh tế chỉ huy và hệ thống Tự lực của Kim Nhật Thành chẳng bao lâu đã chứng tỏ là một thảm họa. Từ
  • 93. TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 73 Bắc Triều Tiên không sẵn có những số liệu thống kê, mà là bí mật nhà nước, để nói giảm nhẹ nhất. Tuy nhiên, bằng chứng sẵn có xác nhận cái chúng ta biết từ các nạn đói xảy ra định kỳ quá thường xuyên: không chỉ sản xuất công nghiệp đã không cất cánh, mà thực ra Bắc Triều Tiên đã trải qua một sự sụp đổ về năng suất nông ngiệp. Thiếu quyền tài sản tư nhân đã có nghĩa rằng ít người có khuyến khích để đầu tư hay cố gắng để làm tăng hoặc thậm chí để duy trì năng suất. Chế độ bóp nghẹt, áp bức đã không thân thiện với đổi mới sáng tạo và thích nghi các công nghệ mới. Nhưng Kim Nhật Thành, Kim Jong-Il, và những cánh hẩu của họ đã không có ý định nào về cải cách hệ thống, hay đưa vào quyền tài sản tư nhân, thị trường, hợp đồng tư nhân, hoặc thay đổi các thể chế kinh tế và chính trị. Bắc Triều Tiên tiếp tục trì trệ về mặt kinh tế. Trong khi đó, ở miền Nam, các thể chế kinh tế khích lệ đầu tư và thương mại. Các nhà chính trị Nam Hàn đã đầu tư vào giáo dục, đạt các tỷ lệ cao về [số người] biết đọc biết viết và đến trường. Các công ty Nam Hàn đã mau chóng tận dụng lợi thế dân cư được giáo dục tương đối, các chính sách khích lệ đầu tư và công nghiệp hóa, xuất khẩu và chuyển giao công nghệ. Nam Hàn mau chóng trở thành một trong những “Nền kinh tế Thần kỳ” của Đông Á, một trong những quốc gia tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Vào cuối các năm 1990, chỉ trong vòng nửa thế kỷ, sự tăng trưởng Nam Hàn và sự trì trệ Bắc Triều Tiên đã dẫn đến một khoảng cách mười lần giữa hai nửa của đất nước một thời thống nhất này – hãy tưởng tượng sự chênh lệch đến thế nào mà vài thế kỷ có thể tạo ra. Thảm họa kinh tế của Bắc Triều Tiên, mà đã dẫn đến sự chết đói của hàng triệu người, khi đặt đối diện với thành công kinh tế của Nam Hàn, gây ấn tượng sâu sắc: không phải văn hóa, chẳng phải địa lý, cũng chẳng phải sự dốt nát có thể giải thích các con đường rẽ theo các hướng hoàn toàn khác nhau của Bắc Triều Tiên và Nam Triều Tiên. Chúng ta phải ngó tới các thể chế để có một câu trả lời. CÁC THỂ CHẾ KINH TẾ KHAI THÁC VÀ BAO GỒM Các nước khác nhau về thành công kinh tế của họ bởi vì các thể chế khác nhau của họ, các quy tắc ảnh hưởng đến nền kinh tế hoạt động như thế nào, và các khuyến khích làm động cơ thúc đẩy người dân. Hãy tưởng tượng những người vị
  • 94. 74 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI thành niên ở Bắc Triều Tiên và Nam Hàn và họ kỳ vọng gì từ cuộc sống. Những người ở miền Bắc trưởng thành trong nghèo khó, mà không có sáng kiến khởi nghiệp kinh doanh, tính sáng tạo hay sự giáo dục thỏa đáng để chuẩn bị họ cho việc làm cần đến kỹ năng. Phần lớn sự giáo dục mà họ nhận được ở trường học là sự tuyên truyền thuần túy, với ý định trụ đỡ cho sự hợp pháp của chế độ; có ít sách, nói chi đến máy tính. Sau khi học xong, mọi người phải vào quân đội mười năm. Các vị thành niên này biết rằng họ sẽ không có khả năng để sở hữu tài sản, bắt đầu một doanh nghiệp, hay trở nên thịnh vượng hơn cho dù nhiều người tiến hành các hoạt động kinh tế bất hợp pháp để kiếm sống. Họ cũng biết rằng họ không có sự tiếp cận hợp pháp đến các thị trường nơi họ có thể sử dụng các năng khiếu của mình hay thu nhập của mình để mua các hàng hóa mà họ cần hay mong muốn. Họ thậm chí còn không chắc chắn về loại quyền con người nào họ sẽ có. Các vị thành niên ở miền Nam nhận được giáo dục tốt, đối mặt với các khuyến khích cổ vũ chúng cố gắng và vượt trội trong nghề nghiệp mà họ chọn. Nam Hàn là một nền kinh tế thị trường, dựa trên quyền tài sản tư nhân. Các vị thành niên Nam Hàn biết, nếu thành công với tư cách doanh nhân hay người lao động, rồi một ngày họ có thể tận hưởng thành quả của các khoản đầu tư và nỗ lực của họ; họ có thể cải thiện mức sống của mình, mua xe hơi, nhà và chăm sóc sức khỏe. Ở miền Nam nhà nước ủng hộ hoạt động kinh tế. Cho nên là có thể đối với các doanh nhân để vay tiền từ các ngân hàng và các thị trường tài chính, đối với các công ty nước ngoài để tham gia chung phần với các hãng Nam Hàn, đối với các cá nhân để lấy các khoản vay thế chấp để mua nhà. Ở miền Nam, nhìn chung, bạn được tự do mở bất cứ doanh nghiệp nào bạn thích. Ở miền Bắc, bạn không được. Ở miền Nam, bạn có thể thuê lao động, bán sản phẩm hay dịch vụ của mình, tiêu tiền của mình trên thương trường theo bất cứ cách nào bạn muốn. Ở miền Bắc, chỉ có các thị trường chợ đen. Các quy tắc khác nhau này là các thể chế mà dưới chúng những người Bắc Triều Tiên và Nam Hàn sống. Các thể chế kinh tế bao gồm [inclusive], ví dụ như các thể chế ở Nam Hàn hay ở Hoa Kỳ, là các thể chế mà cho phép và khuyến khích sự tham gia của đông đảo người dân vào các hoạt động kinh tế, mà lợi dụng tốt nhất tài năng và kỹ năng của họ và cho phép các cá nhân đưa ra các lựa chọn họ muốn. Để là bao gồm, các thể chế kinh tế phải đề cao quyền tài sản tư nhân an toàn, một hệ thống luật pháp không thiên vị, và một sự cung ứng các dịch vụ công mà tạo ra một sân chơi bằng
  • 95. TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 75 phẳng trong đó người dân có thể trao đổi và [thỏa thuận, ký kết] hợp đồng; nó cũng phải cho phép sự gia nhập của các doanh nghiệp mới và cho phép người dân lựa chọn sự nghiệp của mình. SỰ TƯƠNG PHẢN của Nam và Bắc Triều Tiên, và của Hoa Kỳ và Mỹ Latin, minh họa một nguyên lý chung. Các thể chế kinh tế bao gồm khuyến khích hoạt động kinh tế, sự tăng năng suất, và sự thịnh vượng kinh tế. Các quyền tài sản tư nhân an toàn là chính yếu, bởi vì chỉ những người với các quyền như vậy mới sẽ sẵn sàng đầu tư và tăng năng suất. Một nhà doanh nghiệp người kỳ vọng đầu ra của mình bị ăn cắp, bị tước đoạt, hay bị đánh thuế hết sẽ có ít khuyến khích để làm việc, nói chi đến bất cứ khuyến khích nào để cam kết tiến hành đầu tư và đổi mới. Nhưng các quyền như vậy phải có cho đa số người dân trong xã hội. Vào năm 1680 chính phủ Anh đã tiến hành một cuộc điều tra dân số ở thuộc địa Tây Ấn của nó, ở Barbados. Cuộc điều tra dân số tiết lộ rằng trong tổng số cư dân vào khoảng 60.000 người của hòn đảo, thì 39.000 người là các nô lệ Phi châu những người đã là tài sản của một phần ba dân cư còn lại. Thực ra, hầu hết họ đã là tài sản của 175 chủ đồn điền mía lớn nhất, những người cũng sở hữu phần lớn đất đai. Các chủ đồn điền lớn này đã có các quyền tài sản tư nhân an toàn và được thực thi tốt đối với đất của họ thậm chí đối với các nô lệ của họ. Nếu một chủ đồn điền đã muốn bán nô lệ cho chủ khác, ông ta đã có thể làm vậy và kỳ vọng tòa án để thực thi một việc bán như vậy hay bất cứ hợp đồng khác nào mà ông đã ký. Vì sao? Trong số bốn mươi thẩm phán và thẩm phán trị an trên đảo, có hai mươi chín là chủ đồn điền lớn. Hơn nữa, tất cả tám sĩ quan quân đội cao cấp nhất đều là các chủ đồn điền lớn. Bất chấp các quyền tài sản tư nhân và các hợp đồng an toàn, được xác định rõ, được thực thi tốt cho elite của đảo, Barbados đã không có các thể chế kinh tế bao gồm, bởi vì hai phần ba dân số đã là nô lệ mà không có sự tiếp cận nào đến giáo dục hay đến các cơ hội kinh tế, và không có khả năng hay các khuyến khích để sử dụng tài năng và kỹ năng của họ. Các thể chế kinh tế bao gồm đòi hỏi các quyền tài sản tư nhân an toàn và các cơ hội kinh tế không chỉ cho elite mà cả cho một bộ phận rộng lớn của xã hội. Các quyền tài sản an toàn, luật, các dịch vụ công, và quyền tự do hợp đồng và trao đổi, tất cả đều dựa vào nhà nước, thể chế với năng lực cưỡng chế để áp đặt trật tự, ngăn chặn trộm cắp và gian lận, thực thi các hợp đồng giữa các bên tư
  • 96. 76 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI nhân. Để hoạt động tốt, xã hội cũng cần các dịch vụ công: đường sá và mạng lưới giao thông để có thể vận chuyển hàng hóa; một hạ tầng cơ sở công sao cho hoạt động kinh tế có thể hưng thịnh; và loại nào đó của sự điều tiết, của quy chế để ngăn chặn gian lận và hành động bất lương. Mặc dù nhiều trong số các dịch vụ công này có thể được cung cấp bởi các thị trường và các công dân tư nhân, mức độ điều phối cần thiết để làm vậy trên quy mô lớn thường vượt quá [khả năng của] tất cả trừ một nhà chức trách trung ương. Như vậy nhà nước đan xen một cách không lay chuyển được vào các thể chế kinh tế, với tư cách người thực thi luật pháp và trật tự, tài sản và các hợp đồng tư nhân, và thường với tư cách nhà cung cấp chủ chốt của các dịch vụ công. Các thể chế kinh tế bao gồm cần đến và sử dụng nhà nước. Các thể chế kinh tế của Bắc Triều Tiên hay của Mỹ Latin thuộc địa – các mita, ecomienda, hoặc repartimiento được mô tả trước đây – không có các tính chất này. Quyền tài sản tư nhân không tồn tại ở Bắc Triều Tiên. Ở Mỹ Latin thuộc địa, đã có tài sản tư nhân cho người Tây Ban Nha, nhưng tài sản của người bản địa đã rất không an toàn. Cả trong hai loại xã hội này số đông quần chúng nhân dân đã không thể đưa ra các quyết định kinh tế mà họ muốn; họ đã phải chịu sự cưỡng bức hàng loạt. Trong cả hai loại xã hội, sức mạnh của nhà nước đã không được dùng để tạo ra các dịch vụ công then chốt, thúc đẩy sự thịnh vượng. Ở Bắc Triều Tiên, nhà nước đã xây dựng một hệ thống trường học để khắc sâu sự tuyên truyền, nhưng đã không có khả năng ngăn chặn nạn đói. Ở Mỹ Latin thuộc địa, nhà nước đã chú tâm vào cưỡng bức dân bản địa. Trong cả hai loại xã hội, đã không có sân chơi bình đẳng hay một hệ thống pháp lý không thiên vị. Ở Bắc Triều Tiên, hệ thống pháp lý là cánh tay của Đảng Cộng sản, và ở Mỹ Latin nó đã là một công cụ phân biệt đối xử chống lại quần chúng nhân dân. Chúng ta gọi các thể chế như vậy, mà có các tính chất ngược lại với tính chất của các thể chế mà chúng ta đã gọi là các thể chế bao gồm, là các thể chế kinh tế khai thác (extractive) – khai thác bởi vì các thể chế như vậy được thiết kể để vắt, chiết, khai thác thu nhập và của cải từ một tập hợp con của xã hội để làm lợi cho một tập con khác. CÁC ĐỘNG CƠ CỦA SỰ THỊNH VƯỢNG Các thể chế kinh tế bao gồm tạo ra các thị trường bao gồm, mà không chỉ trao cho người dân quyền tự do để theo đuổi nghề nghiệp phù hợp nhất với tài năng của họ
  • 97. TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 77 trong cuộc sống mà cũng tạo ra một sân chơi bằng phẳng tạo cho họ cơ hội để làm vậy. Những người có các ý tưởng hay sẽ có khả năng khởi tạo các doanh nghiệp, những người lao động có xu hướng đi làm các công việc nơi năng suất của họ lớn hơn, và các hãng kém hiệu quả có thể được thay bằng các hãng hiệu quả hơn. Đối sánh việc người dân chọn nghề nghiệp của mình thế nào dưới các thị trường bao gồm so với Peru và Bolivia thuộc địa, nơi dưới mita, nhiều người đã bị cưỡng ép làm việc tại các mỏ bạc và thủy ngân, bất chấp kỹ năng của họ hay liệu họ có muốn hay không. Các thị trường bao gồm không chỉ là các thị trường tự do. Barbados trong thế kỷ mười bảy cũng đã có các thị trường. Nhưng theo cùng cách mà nó đã thiếu các quyền tài sản tư nhân cho tất cả trừ elite chủ đồn điền hạn hẹp, các thị trường của nó còn xa mới bao gồm; các thị trường về nô lệ thực ra đã là một phần của các thể chế kinh tế cưỡng bức một cách có hệ thống đa số dân cư và cướp đoạt mất của họ khả năng để chọn nghề nghiệp và cách họ sử dụng tài năng của mình. Các thể chế kinh tế bao gồm cũng mở đường cho hai động cơ khác của sự thịnh vượng: công nghệ và giáo dục. Tăng trưởng kinh tế bền vững hầu như luôn luôn đi cùng với những cải thiện công nghệ mà cho phép người dân (lao động), đất đai, và vốn hiện tồn (nhà, máy móc hiện hành, và vân vân) trở nên hiệu quả hơn. Hãy nghĩ về các cụ các kỵ của chúng ta, vừa hơn một thế kỷ trước, những người đã không tiếp cận được đến máy bay, ô tô, hay hầu hết các tân dược và chăm sóc sức khỏe mà bây giờ chúng ta coi là nghiễm nhiên, không nhắc đến hệ thống ống nước trong nhà, điều hòa nhiệt độ, siêu thị, radio, hay phim ảnh; nói chi đến công nghệ thông tin, máy móc tự động, hay máy móc điều khiển bằng máy tính. Và lùi thêm vài thế hệ nữa, know-how công nghệ và mức sống còn thậm chí lạc hậu hơn, nhiều đến mức chúng ta thấy khó để tưởng tượng hầu hết người dân đã vật lộn với cuộc sống như thế nào. Những cải thiện này xảy ra như kết quả từ khoa học và từ các doanh nhân như Thomas Edison, những người đã áp dụng khoa học để tạo ra các doanh nghiệp sinh lời. Cái đã khiến cho quá trình này của đổi mới sáng tạo trở nên có thể, là các thể chế kinh tế cổ vũ tài sản tư nhân, ủng hộ các hợp đồng, tạo ra sân chơi bằng phẳng, và khuyến khích và cho phép các doanh nghiệp mới có thể đưa các công nghệ mới vào cuộc sống. Vì thế không ngạc nhiên rằng xã hội Hoa Kỳ, chứ không phải Mexico hay Peru, là xã hội đã tạo ra Thomas Edison, và rằng Nam Hàn, chứ không phải Bắc Triều Tiên, tạo ra các công ty đổi mới về mặt công nghệ như như Samsung và Hyundai ngày nay.
  • 98. 78 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Gắn mật thiết với công nghệ là giáo dục, các kỹ năng, năng lực, và know-how của lực lượng lao động, kiếm được trong các trường, ở nhà, và ở nơi làm việc. Chúng ta hiệu quả hơn một thế kỷ trước hết sức nhiều không chỉ bởi vì công nghệ tốt hơn được chứa đựng trong các máy móc mà cũng bởi vì know-how lớn hơn mà những người lao động có được. Tất cả công nghệ trên thế giới sẽ có ít ích lợi nếu không có những người lao động biết làm cho nó hoạt động thế nào. Nhưng có nhiều kỹ năng và năng lực hơn khả năng đơn thuần để vận hành máy móc. Chính là giáo dục và các kỹ năng của lực lượng lao động là cái tạo ra tri thức khoa học mà dựa vào đó sự tiến bộ của chúng ta được dựng nên và là cái cho phép sự thích nghi và sự chấp nhận làm theo các công nghệ này trong các ngành kinh doanh khác nhau. Mặc dù chúng ta đã thấy trong chương 1 rằng nhiều nhà đổi mới sáng tạo, như Thomas Edison, đã không học cao, các đổi mới đó đã đơn giản hơn công nghệ hiện đại rất nhiều. Ngày nay sự thay đổi công nghệ đòi hỏi giáo dục cả cho các nhà đổi mới lẫn cho người lao động. Và ở đây chúng ta thấy tầm quan trọng của các thể chế kinh tế mà tạo ra sân chơi bằng phẳng. Hoa Kỳ có thể tạo ra, hay thu hút từ các nước ngoài, những người giống như Bill Gates, Steve Jobs, Sergey Brin, Larry Page, và Jeff Bezos, và hàng trăm nhà khoa học những người đã thực hiện các phát minh cơ bản trong công nghệ thông tin, năng lượng hạt nhân, công nghệ sinh học, và các lĩnh vực khác mà dựa vào đó các doanh nhân khởi nghiệp này đã xây dựng các doanh nghiệp của mình. Cung tài năng có ở đó để được khai thác bởi vì các vị thành niên ở Hoa Kỳ có sự tiếp cận đến nhiều việc học ở trường như họ muốn hay họ có khả năng theo học. Bây giờ hãy tưởng tượng một xã hội khác, thí dụ Congo hoặc Haiti, nơi phần lớn dân cư không có phương tiện nào để theo học ở trường, hoặc nơi, nếu họ tìm được cách để đến trường, chất lượng dạy là thảm hại, nơi các giáo viên không có mặt để dạy, và cho dù họ có, có thể không có cuốn sách nào. Mức giáo dục thấp của các nước nghèo bị gây ra bởi các thể chế kinh tế mà không tạo ra các khuyến khích cho cha mẹ để giáo dục con em mình, và bởi các thể chế chính trị mà không xui khiến chính phủ để xây dựng, cấp tài chính, và hỗ trợ các trường và mong ước của cha mẹ và trẻ em. Cái giá, mà các quốc gia này phải trả cho mức giáo dục thấp của dân cư của họ và cho sự thiếu các thị trường bao gồm, là cao. Họ không động viên được tài năng mới sinh của họ. Họ có nhiều Bill Gates tiềm năng và có lẽ một hay hai Albert Einsteins những người đang làm việc như các nông dân nghèo, không được học hành, bị ép làm những việc họ
  • 99. TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 79 không muốn làm hay bị tuyển vào quân đội, bởi vì họ đã chẳng bao giờ có cơ hội để thực hiện năng khiếu của họ trong đời. Khả năng của các thể chế kinh tế để khai thác tiềm năng của các thị trường bao gồm, khuyến khích đổi mới công nghệ, đầu tư vào con người, và động viên tài năng và kỹ năng của số đông cá nhân là cốt yếu cho tăng trưởng kinh tế. Giải thích vì sao rất nhiều thể chế kinh tế không thỏa mãn các mục tiêu đơn giản này là chủ đề trung tâm của cuốn sách này. CÁC THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ KHAI THÁC VÀ BAO GỒM Tất cả các thể chế kinh tế được tạo ra bởi xã hội. Các thể chế kinh tế của Bắc Triều Tiên, chẳng hạn, được áp đặt lên các công dân bởi những người cộng sản, những người đã tiếp quản đất nước trong các năm 1940, trong khi các thể chế kinh tế của Mỹ Latin được áp đặt bởi những kẻ chinh phục Tây Ban Nha. Nam Hàn đã kết thúc với các thể chế kinh tế rất khác với miền Bắc bởi vì những người khác với các lợi ích và mục tiêu khác đã đưa ra các quyết định về tổ chức xã hội thế nào. Nói cách khác, Nam Hàn đã có một nền chính trị khác. Chính trị là một quá trình theo đó một xã hội chọn ra các quy tắc mà sẽ chi phối nó. Chính trị bao quanh các thể chế vì lý do đơn giản rằng trong khi các thể chế bao gồm có thể là tốt cho sự thịnh vượng của một quốc gia, một số người hay nhóm, chẳng hạn elite của Đảng Cộng sản ở Bắc Triều Tiên hay các chủ đồn điền mía của Barbados thuộc địa, sẽ khấm khá hơn rất nhiều bằng cách dựng lên các thể chế mà là các thể chế khai thác. Khi có sự xung đột về các thể chế, cái gì xảy ra sẽ phụ thuộc vào những người nào hay các nhóm nào chiến thắng trong trò chơi chính trị – ai có thể kiếm được nhiều sự ủng hộ, nhận được các nguồn lực thêm, và tạo được các liên minh hữu hiệu hơn. Tóm lại, ai thắng phụ thuộc vào phân bố quyền lực chính trị trong xã hội. Các thể chế chính trị của một xã hội là chìa khóa quyết định kết quả của trò chơi này. Chúng là các quy tắc chi phối các khuyến khích trong chính trị. Chúng xác định việc chính phủ được chọn thế nào và phần nào của chính phủ có quyền làm những gì. Các thể chế chính trị xác định ai có quyền lực trong xã hội và quyền lực đó có thể được sử dụng cho các mục đích nào. Nếu sự phân bố quyền
  • 100. 80 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI lực là hẹp và không bị ràng buộc, thì các thể chế chính trị là chuyên chế (absolutist), như được minh họa bởi các các nền quân chủ chuyên chế trị vì trên khắp thế giới trong phần lớn lịch sử. Dưới các thể chế chính trị chuyên chế như ở Bắc Triều Tiên và Mỹ Latin thuộc địa, những người có thể nắm quyền lực này sẽ có khả năng đặt ra các thể chế kinh tế để làm giàu cho chính họ và làm tăng quyền lực của họ gây phí tổn cho xã hội. Ngược lại, các thể chế chính trị mà phân phối quyền lực rộng rãi trong xã hội và bắt nó phải chịu các ràng buộc, là các thể chế đa nguyên. Thay cho việc được trao cho một cá nhân duy nhất hay một nhóm hẹp, quyền lực chính trị thuộc về một liên minh rộng hay một đa số của các nhóm. Rõ ràng có một mối quan hệ mật thiết giữa chủ nghĩa đa nguyên (pluralism) và các thể chế kinh tế bao gồm. Nhưng chìa khóa cho sự hiểu vì sao Nam Hàn và Hoa Kỳ có các thể chế kinh tế bao gồm không chỉ là các thể chế chính trị đa nguyên của chúng mà cũng là các nhà nước tập trung đủ và hùng mạnh của chúng. Một sự tương phản đích đáng là quốc gia Đông Phi, Somalia. Như chúng ta sẽ thấy muộn hơn trong cuốn sách này, quyền lực chính trị ở Somalia từ lâu đã được phân phối rộng rãi – hầu như đa nguyên. Thực vậy không có nhà chức trách trung ương nào mà có thể kiểm soát hay cho phép cái bất cứ ai làm. Xã hội bị chia rẽ thành các thị tộc đối kháng sâu sắc mà không thể thống trị lẫn nhau. Quyền lực của một thị tộc chỉ bị ràng buộc bởi súng của thị tộc khác. Sự phân bổ quyền lực này dẫn không đến các thể chế bao gồm, mà đến hỗn loạn, và ở gốc rễ của nó là nhà nước Somalia thiếu bất cứ sự tập trung hóa chính trị hay sự tập trung hóa nhà nước nào, và sự bất lực của nó để thực thi ngay cả mức tối thiểu của luật pháp và trật tự để ủng hộ hoạt động kinh tế, thương mại, hay thậm chí sự an toàn cơ bản của các công dân của nó. Max Weber, người chúng ta đã gặp trong chương trước, đã cung cấp một định nghĩa nổi tiếng và được chấp nhận rộng rãi về nhà nước, đồng nhất nó với “độc quyền về bạo lực hợp pháp” trong xã hội. Không có sự độc quyền như vậy và một mức độ tập trung hóa mà nó cần phải có, nhà nước không thể đóng vai trò của nó với tư cách người thực thi pháp luật và trật tự, chưa kể đến cung cấp các dịch vụ công và cổ vũ và điều tiết hoạt động kinh tế. Khi nhà nước không đạt hầu như bất cứ sự tập trung hóa chính trị nào, thì xã hội sớm muộn sẽ sa đọa vào hỗn loạn, như Somalia đã sa vào.
  • 101. TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 81 Chúng ta sẽ nói đến các thể chế chính trị mà đủ tập trung và đa nguyên như các thể chế chính trị bao gồm. Khi một trong hai điều kiện này không thỏa mãn, chúng ta nói đến các thể chế như các thể chế chính trị khai thác. Có sự đồng vận [synergy] mạnh giữa các thể chế kinh tế và chính trị. Các thể chế chính trị khai thác tập trung quyền lực vào tay một elite hẹp và đặt ít ràng buộc lên việc sử dụng quyền lực này. Các thể chế kinh tế sau đó thường được tổ chức bởi elite này để khai thác các nguồn lực từ phần còn lại của xã hội. Các thể chế kinh tế khai thác như thế đi cùng một cách tự nhiên với các thể chế chính trị khai thác. Thực ra, chúng phải phụ thuộc một cách cố hữu vào các thể chế chính trị khai thác cho sự sống sót của chúng. Các thể chế chính trị bao gồm trao quyền lực một cách rộng rãi, sẽ có xu hướng nhổ bật rễ các thể chế kinh tế mà tước đoạt nguồn lực của nhiều người, dựng các rào cản gia nhập, và ngăn hoạt động của các thị trường sao cho chỉ một số ít được hưởng lợi. Ở Barbados, chẳng hạn, hệ thống đồn điền dựa trên sự bóc lột nô lệ đã không thể sống sót mà không có các thể chế chính trị ngăn và loại trừ hoàn toàn các nô lệ khỏi các quá trình chính trị. Hệ thống kinh tế gây nghèo khó cho hàng triệu người vì lợi ích của một elite cộng sản hẹp ở Bắc Triều Tiên cũng không thể tưởng tượng được mà không có sự thống trị chính trị hoàn toàn của Đảng Cộng Sản. Mối quan hệ đồng vận [synergistic] này giữa các thể chế kinh tế khai thác và các thể chế chính trị khai thác tạo ra một vòng phản hồi mạnh: các thể chế chính trị cho phép elite kiểm soát quyền lực chính trị để chọn các thể chế kinh tế với ít ràng buộc hay ít lực lượng chống đối. Chúng cũng cho phép elite tổ chức các thể chế chính trị tương lai và sự tiến hóa của chúng. Các thể chế kinh tế khai thác, đến lượt mình, làm giàu cho cùng elite, và sự giàu có và quyền lực kinh tế củng cố sự thống trị chính trị của họ. Ở Barbados hay ở Mỹ Latin, chẳng hạn, các nhà thực dân đã có khả năng sử dụng quyền lực chính trị của họ để áp đặt một tập các thể chế kinh tế khiến cho họ kiếm được các gia tài kếch xù với sự tổn hại của phần còn lại của dân cư. Những nguồn lực mà các thể chế kinh tế này tạo ra đã cho phép những elite này xây dựng các quân đội và các lực lượng an ninh để bảo vệ sự độc quyền tuyệt đối của họ về quyền lực chính trị. Hệ lụy dĩ nhiên là, các thể chế chính trị khai thác và các thể chế kinh tế khai thác ủng hộ lẫn nhau và có xu hướng tồn tại dai dẳng.
  • 102. 82 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Thực ra, có nhiều hơn sự đồng vận giữa các thể chế kinh tế khai thác và chính trị khai thác. Khi các elite hiện tồn bị thách thức dưới các thể chế chính trị khai thác và những người mới đến thắng, những người mới đến cũng thế chỉ phải đối mặt với ít ràng buộc, Như vậy họ có các khuyến khích để duy trì các thể chế chính trị này và tạo ra một tập tương tự của các thể chế kinh tế, như Porfirio Díaz và elite xung quanh ông đã làm vào cuối thế kỷ mười chín ở Mexico. Các thể chế kinh tế bao gồm, đến lượt, được rèn đúc trên nền tảng được xây bởi các thể chế chính trị bao gồm, mà khiến cho quyền lực được phân phối rộng trong xã hội và kiềm chế việc sử dụng tùy tiện nó. Các thể chế chính trị như vậy cũng làm cho việc những người khác chiếm đoạt quyền lực và làm xói mòn nền tảng của các thể chế bao gồm trở nên khó hơn. Những người kiểm soát quyền lực chính trị không thể dễ dàng sử dụng nó để dựng lên các thể chế kinh tế khai thác cho lợi ích riêng của họ. Các thể chế kinh tế bao gồm, đến lượt mình, tạo ra một sự phân bổ nguồn lực công bằng hơn, tạo thuận lợi cho sự bền bỉ của các thể chế chính trị bao gồm. Đã không phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng vào năm 1618, khi Công ty Virginia đã trao đất cho, và đã giải phóng các nhà thuộc địa, mà trước đó nó đã thử cưỡng bức, khỏi các hợp đồng hà khắc của họ, và Đại Hội Đồng trong năm tiếp theo đã cho phép các nhà thuộc địa để bắt đầu cai quản chính họ. Các quyền kinh tế mà không có các quyền chính trị không được các nhà thuộc địa tin cậy, những người đã thấy các nỗ lực kiên trì của Công ty Virginia để cưỡng bức họ. Các nền kinh tế này cũng đã chẳng ổn định và lâu bền. Thực ra, những sự kết hợp của các thể chế khai thác và các thể chế bao gồm nói chung không ổn định. Các thể chế kinh tế khai thác dưới các thể chế chính trị bao gồm không chắc sống sót trong thời gian dài, như thảo luận của chúng ta về Barbados gợi ý. Tương tự, các thể chế kinh tế bao gồm sẽ không được ủng hộ và cũng đã chẳng được ủng hộ bởi các thể chế chính trị khai thác. Hoặc chúng sẽ biến thành các thể chế kinh tế khai thác làm lợi cho các nhóm lợi ích hẹp nắm quyền, hoặc động học kinh tế mà chúng tạo ra sẽ gây bất ổn cho các thể chế chính trị khai thác, mở đường cho sự nổi lên của các thể chế chính trị bao gồm. Các thể chế kinh tế bao gồm cũng có xu hướng làm giảm các lợi ích mà elite có thể hưởng bằng thống trị các thể chế chính trị khai thác, vì các thể chế đó đối mặt với cạnh tranh trên
  • 103. TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 83 thương trường và bị ràng buộc bởi các hợp đồng và các quyền tài sản của phần còn lại của xã hội. VÌ SAO KHÔNG LUÔN LUÔN CHỌN SỰ THỊNH VƯỢNG? Các thể chế chính trị và kinh tế, mà rốt cuộc là các lựa chọn của xã hội, có thể là bao gồm và khuyến khích sự tăng trưởng kinh tế. Hoặc chúng có thể là khai thác và trở thành những vật cản trở sự tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia thất bại khi chúng có các thể chế kinh tế khai thác, được ủng hộ bởi các thể chế chính trị khai thác mà cản trở và thậm chí chặn sự tăng trưởng kinh tế. Nhưng điều này có nghĩa rằng sự lựa chọn các thể chế – tức là, chính trị học về các thể chế – là cốt yếu cho sự tìm kiếm của chúng ta để hiểu các lý do cho thành công và thất bại của các quốc gia. Chúng ta phải hiểu vì sao chính trị của một số xã hội đã dẫn đến các thể chế bao gồm mà cổ vũ tăng trưởng kinh tế, trong khi chính trị của đại đa số các xã hội trong suốt lịch sử đã dẫn đến, và ngày nay vẫn dẫn đến, các thể chế kinh tế mà cản trở tăng trưởng kinh tế. Có thể có vẻ hiển nhiên rằng mọi người đều có lợi ích trong việc tạo ra loại thể chế kinh tế mà sẽ mang lại sự thịnh vượng. Chẳng phải mọi công dân, mọi chính trị gia, và thậm chí một nhà độc tài cướp bóc đã đều muốn làm cho nước mình càng giàu càng tốt? Hãy quay lại Vương quốc Kongo mà chúng ta đã thảo luận trước đây. Mặc dù vương quốc này đã sụp đổ trong thế kỷ mười bảy, nó đã cho cái tên cho một nước hiện đại mà đã trở nên độc lập khỏi sự cai trị thuộc địa Bỉ năm 1960. Với tư cách một chính thể độc lập, Congo đã trải qua sự sa sút kinh tế hầu như không bị gián đoạn và sự nghèo khó gia tăng dưới sự cai trị của Joseph Mobutu giữa 1965 và 1997. Sự sa sút này đã tiếp tục sau khi Mobutu bị Laurent Kabila lật đổ. Mobutu đã tạo ra một tập của các thể chế kinh tế khai thác hết sức. Các công dân bị bần cùng hóa, nhưng Mobutu và elite quanh ông ta, được biết đến như Les Grosses Légumes (các Quan to), đã trở nên cực kỳ giàu có. Mobutu đã xây dựng cho mình một lâu đài ở quê nơi ông sinh, Gbadolite, ở miền bắc, với một sân bay đủ lớn để máy bay phản lực siêu thanh Concord hạ cánh, máy bay mà ông thường thuê từ Hãng Hàng không Pháp, Air France, cho việc đi châu Âu. Ở châu Âu ông đã mua các lâu đài và sở hữu các dải đất lớn của Brussells, thủ đô Bỉ.
  • 104. 84 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Chẳng phải đã tốt hơn cho Mobutu để dựng lên các thể chế mà làm tăng của cải của những người Congo hơn là khoét sâu sự nghèo khó của họ? Nếu giả như Mobutu đã xoay xở để làm tăng sự thịnh vượng của quốc gia mình, chẳng phải ông ta đã có thể tước đoạt còn nhiều tiền hơn, mua một máy bay Concord thay cho thuê một chiếc, có nhiều nhà lớn và lâu đài hơn, có lẽ một quân đội lớn hơn và hùng mạnh hơn? Đáng tiếc đối với công dân của nhiều quốc gia trên thế giới, câu trả lời là không. Các thể chế kinh tế mà tạo ra các khuyến khích cho tiến bộ kinh tế có thể đồng thời tái phân phối thu nhập và quyền lực theo một cách mà kẻ độc tài cướp bóc và những kẻ khác có quyền lực chính trị có thể trở nên tệ hơn, chứ không phải khá hơn. Vấn đề cơ bản là, sẽ nhất thiết có những tranh cãi và xung đột về các thể chế kinh tế. Các thể chế khác nhau có các hệ quả khác nhau đối với sự thịnh vượng của quốc gia, sự thịnh vượng đó được phân phối thế nào, và ai có quyền lực. Tăng trưởng kinh tế, do các thể chế có thể mang lại, tạo ra cả những người thắng và những kẻ thua. Điều này đã là rõ trong Cách mạng Công nghiệp ở nước Anh, mà đã đặt nền móng của sự thịnh vượng chúng ta thấy ở các nước giàu của thế giới ngày nay. Nó đã tập trung vào một loạt những thay đổi công nghệ mở đường trong sức hơi nước, giao thông, và sản xuất hàng dệt. Cho dù cơ khí hóa đã dẫn đến sự tăng khổng lồ về thu nhập và cuối cùng đã trở thành nền tảng của xã hội công nghiệp hiện đại, nó đã bị phản đối kịch liệt bởi nhiều người. Không phải bởi vì sự dốt nát hay sự thiển cận; hoàn toàn ngược lại. Đúng hơn, sự phản đối tăng trưởng kinh tế như vậy, đáng tiếc, có logic riêng của nó. Tăng trưởng kinh tế và thay đổi công nghệ luôn đi cùng với cái mà nhà kinh tế học vĩ đại Joseph Schumpeter đã gọi là sự phá hủy sáng tạo. Chúng thay cái cũ bằng cái mới. Các khu vực mới thu hút nguồn lực từ các khu vực cũ. Các hãng mới lấy mất công việc kinh doanh của các hãng đã được xác lập. Các công nghệ mới làm cho các kỹ năng và các máy móc hiện hành trở nên lỗi thời. Quá trình tăng trưởng kinh tế và các thể chế kinh tế bao gồm mà sự tăng trưởng dựa vào, tạo ra những người thua cũng như những kẻ thắng trên chính trường và trên thương trường. Sự sợ hãi phá hủy sáng tạo thường nằm ở gốc rễ của sự chống đối các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm. Lịch sử Âu châu cho một thí dụ sinh động về các hậu quả của sự phá hủy sáng tạo. Vào trước Cách mạng công nghiệp trong thế kỷ mười tám, các chính phủ của
  • 105. TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 85 hầu hết các nước Âu châu đã được kiểm soát bởi các giới quý tộc và elite truyền thống, mà nguồn thu nhập chính của họ đã từ việc làm chủ đất hoặc từ các đặc quyền buôn bán mà họ được hưởng nhờ sự độc quyền được ban cho và các rào cản tham gia được áp đặt bởi các quốc vương. Phù hợp với ý tưởng về sự phá hủy sáng tạo, sự mở rộng của các ngành công nghiệp, các nhà máy, và các thị trấn đã lấy đi các nguồn lực từ đất, đã làm giảm tiền thuê [tô] đất, đã làm tăng lương mà các địa chủ phải trả cho những người làm công của họ. Các elite này cũng đã thấy sự nổi lên của các nhà kinh doanh và thương gia mới làm xói mòn các đặc quyền buôn bán của họ. Xét về mọi mặt, họ đã là những người thua thiệt kinh tế rõ ràng do công nghiệp hóa. Việc đô thị hóa và sự nổi lên của các tầng lớp trung lưu và lao động có ý thức về mặt xã hội cũng đã thách thức độc quyền chính trị của các giới quý tộc có nhiều đất. Như thế với sự mở rộng của Cách mạng Công nghiệp, các giới quý tộc đã không chỉ là những kẻ thua về mặt kinh tế; họ cũng còn bị rủi ro trở thành những kẻ thua về mặt chính trị, mất ảnh hưởng của họ lên quyền lực chính trị. Với quyền lực kinh tế và chính trị của họ bị đe dọa, các elite này thường đã tạo ra sự chống đối ghê gớm chống lại công nghiệp hóa. Tầng lớp quý tộc đã không phải là người thua duy nhất từ công nghiệp hóa. Các thợ thủ công, mà các kỹ năng chân tay của họ được thay thế bằng cơ giới hóa, tương tự cũng đã chống sự mở rộng công nghiệp. Nhiều người đã tổ chức chống lại nó, náo loạn và phá hủy máy móc mà họ coi là chịu trách nhiệm về sự sụt giảm sinh kế của họ. Họ đã là các Luddite, một từ mà ngày nay trở thành đồng nghĩa với chống đối thay đổi công nghệ. John Key, nhà sáng chế Anh của “chiếc thoi bay” trong năm 1733, một trong những cải thiện đáng kể trong cơ giới hóa dệt vải, nhà của ông đã bị các Luddite đốt trong năm 1753. James Hargreaves, nhà sáng chế của “spinning jenny-máy kéo sợi cơ khí”, một cải thiện bổ sung mang tính cách mạng trong xe sợi, đã nhận được sự đối xử tương tự. Trên thực tế, các thợ thủ công đã ít hiệu quả hơn các địa chủ và các elite rất nhiều trong chống lại công nghiệp hóa. Các Luddite đã không có quyền lực chính trị – khả năng để ảnh hưởng đến các kết quả chính trị chống lại mong muốn của các nhóm khác – của giới quý tộc có nhiều đất. Ở Anh, công nghiệp hóa đã tiến bước, bất chấp sự chống đối của các Luddite, bởi vì sự chống đối của giới quý tộc, tuy thực, đã câm lặng. Ở các đế chế Áo-Hung và Nga, nơi các quốc vương chuyên quyền và các quý tộc đã có thể mất nhiều hơn rất nhiều, công nghiệp hóa
  • 106. 86 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI đã bị chặn. Hậu quả là, các nền kinh tế của Áo-Hung và Nga bị đình trệ. Họ đã tụt lại sau các quốc gia Âu châu khác, nơi tăng trưởng kinh tế đã cất cánh trong thế kỷ mười chín. Bất kể thành công và thất bại của các nhóm cụ thể, một bài học là rõ: các nhóm hùng mạnh thường đứng lên chống lại tiến bộ kinh tế và chống lại các động cơ của sự thịnh vượng. Tăng trưởng kinh tế không chỉ là một quá trình của các máy móc nhiều hơn và tốt hơn, của những con người được giáo dục nhiều hơn và tốt hơn, mà cũng là một quá trình hình thành và làm mất ổn định gắn với sự phá hủy sáng tạo rộng rãi. Như thế sự tăng trưởng tiến lên chỉ nếu không bị chặn bởi những kẻ thua kinh tế những người lường trước rằng các đặc quyền kinh tế của họ sẽ bị mất và bởi những kẻ thua chính trị những người sợ rằng quyền lực chính trị của họ bị xói mòn. Sự xung đột về các nguồn lực khan hiếm, thu nhập và quyền lực, chuyển sang sự xung đột về các quy tắc của trò chơi, các thể chế kinh tế, mà sẽ xác định các hoạt động kinh tế và ai sẽ được hưởng lợi từ chúng. Khi có một xung đột, những mong muốn của tất cả các bên không thể được thỏa mãn đồng thời. Một số sẽ bị đánh bại và bị thất vọng, trong khi những người khác sẽ thành công trong bảo đảm các kết quả họ thích. Ai là những người thắng của cuộc xung đột này, có các hệ lụy cơ bản đến quỹ đạo kinh tế của một quốc gia. Nếu các nhóm đứng lên chống tăng trưởng là những người thắng, họ có thể thành công chặn sự tăng trưởng kinh tế, và nền kinh tế sẽ đình trệ. Logic của việc vì sao kẻ hùng mạnh không nhất thiết muốn dựng lên các thể chế kinh tế mà thúc đẩy thành công kinh tế, có thể mở rộng dễ dàng sang sự lựa chọn các thể chế chính trị. Trong một chính thể chuyên chế, một số elite có thể sử dụng quyền lực để dựng lên các thể chế kinh tế họ ưa thích. Phải chăng họ quan tâm đến việc thay đổi các thể chế chính trị để làm cho chúng đa nguyên hơn? Nhìn chung là không, vì việc này chỉ pha loãng quyền lực chính trị của họ, làm cho khó khăn hơn, có thể là không thể, đối với họ để tổ chức các thể chế kinh tế nhằm thúc đẩy các lợi ích riêng của họ. Ở đây chúng ta lại thấy một nguồn sẵn của xung đột. Những người chịu đựng các thể chế kinh tế khai thác không thể hy vọng vào các nhà cai trị chuyên chế để họ tự nguyện thay đổi các thể chế chính trị và phân chia lại quyền lực trong xã hội. Cách duy nhất để làm thay đổi các thể chế chính trị này là phải buộc elite tạo ra các thể chế đa nguyên hơn.
  • 107. TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 87 Theo cùng cách rằng không có lý do vì sao các thể chế chính trị lại tự động trở nên đa nguyên hơn, không có xu hướng tự nhiên nào hướng tới sự tập trung hóa chính trị. Chắc chắn có các khuyến khích để tạo ra các thể chế nhà nước tập trung hơn trong bất cứ xã hội nào, nhất là trong các xã hội không có sự tập trung hóa nào. Thí dụ, ở Somalia, nếu một thị tộc tạo ra một nhà nước tập trung có khả năng áp đặt trật tự lên đất nước này, việc này có thể dẫn đến các lợi ích kinh tế và khiến cho thị tộc này giàu hơn. Cái gì cản việc này? Rào cản chính cho sự tập trung hóa chính trị lại là một dạng của sự sợ hãi thay đổi: bất cứ thị tộc, nhóm hay chính trị gia nào thử tập trung quyền lực vào nhà nước cũng sẽ tập trung quyền lực vào tay của chính họ, và việc này chắc gặp phải sự giận dữ của các thị tộc, nhóm, và các cá nhân khác, những người sẽ là kẻ thua về mặt chính trị của quá trình này. Thiếu sự tập trung chính trị có nghĩa không chỉ là thiếu luật pháp và trật tự trong phần lớn của một lãnh thổ, mà cũng là có nhiều diễn viên với đủ quyền lực để chặn hay phá vỡ sự việc, và nỗi sợ về sự chống đối và phản ứng bạo lực của họ sẽ thường làm nhụt chí nhiều người có thể trở thành người tiến hành tập trung hóa. Sự tập trung hóa chính trị là có khả năng chỉ khi một nhóm người đủ mạnh hơn những nhóm khác để xây dựng một nhà nước. Ở Somalia, quyền lực được cân bằng đồng đều, và không một thị tộc nào có thể áp đặt ý chí của mình lên bất cứ thị tộc nào khác. Vì thế, sự thiếu tập trung chính trị tồn tại dai dẳng. SỰ THỐNG KHỔ ĐẰNG ĐẴNG CỦA CONGO Có ít thí dụ tốt hơn, hay phiền muộn hơn về các lực lượng giải thích vì sao thịnh vượng kinh tế lại hiếm hoi một cách dai dẳng đến vậy dưới các thể chế khai thác hoặc minh họa sự đồng vận giữa các thể chế kinh tế khai thác và các thể chế chính trị khai thác hơn là Congo. Các khách viếng thăm người Bồ Đào Nha và Hà Lan đến Congo vào các thế kỷ mười lăm và mười sáu đã để ý đến “sự nghèo khó khốn cùng” ở đó. Công nghệ đã thô sơ theo các tiêu chuẩn Âu châu, với những người Kongo đã không có chữ viết, bánh xe, cũng chẳng có cày. Lý do cho sự nghèo khó này, và sự miễn cưỡng của những nông dân Kongo để chấp nhận những công nghệ tốt hơn khi họ biết về chúng, là rõ từ các tường thuật lịch sử. Đã là do bản chất khai thác của các thể chế kinh tế của nước này. Như chúng ta đã thấy, Vương quốc Kongo đã được cai trị bởi nhà vua ở Mbanza, São Salvador sau này. Các vùng xa thủ đô được cai trị bởi một elite
  • 108. 88 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI những người đã đóng các vai trò thống đốc của các phần khác nhau của vương quốc. Sự giàu có của tầng lớp elite này đã dựa trên các đồn điền nô lệ xung quanh São Salvador và việc khai thác thuế từ phần còn lại của đất nước. Chế độ nô lệ đã là trung tâm của nền kinh tế, được dùng bởi elite để cung cấp cho các đồn điền riêng của họ và bởi những người Âu châu trên bờ biển. Các loại thuế đã rất tùy tiện; một loại thuế thậm chí đã được thu mỗi khi mũ của vua rơi xuống. Để trở nên thịnh vượng hơn, người dân Kongo lẽ ra đã phải tiết kiệm và đầu tư – thí dụ, bằng cách mua các chiếc cày. Nhưng đã không bõ công, vì mọi sản lượng thêm mà họ sản xuất ra với công nghệ tốt hơn đều sẽ bị vua và elite của ông ta tước đoạt. Thay cho đầu tư để làm tăng năng suất của họ và bán sản phẩm của họ trên thị trường, những người Kongo đã chuyển các làng của họ ra xa thị trường; họ đã cố ra càng xa đường càng tốt, nhằm để giảm việc bị tước đoạt và để thoát khỏi tầm với của bọn buôn bán nô lệ. Sự nghèo khó của Kongo vì thế đã là kết quả của các thể chế kinh tế khai thác mà chặn tất cả các động cơ của sự thịnh vượng hay thậm chí khiến chúng hoạt động ngược lại. Chính phủ Kongo đã cung cấp rất ít dịch vụ công cho các công dân của mình, không ngay cả các dịch vụ cơ bản, như các quyền tài sản an toàn hay luật pháp và trật tự. Ngược lại, bản thân chính phủ đã là mối đe dọa lớn nhất cho tài sản và các quyền con người của các thần dân của nó. Chế độ nô lệ, đã có nghĩa rằng thị trường cơ bản nhất, một thị trường lao động bao gồm nơi người dân có thể chọn nghề hay việc làm của mình theo những cách mà hết sức cốt yếu cho một nền kinh tế thịnh vượng, đã không tồn tại. Hơn nữa, thương mại đường dài và các hoạt động buôn bán đã được kiểm soát bởi nhà vua và chỉ mở ra cho những người gắn với ông ta. Mặc dù elite nhanh chóng biết chữ sau khi những người Bồ Đào Nha đưa chữ viết vào, nhà vua đã không có nỗ lực nào để truyền bá sự biết đọc biết viết cho tuyệt đại đa số dân cư. Tuy nhiên, dù “nghèo khó khốn cùng” đã là phổ biến rộng rãi, các thể chế khai thác của Kongo có logic riêng hoàn hảo của chúng: chúng làm cho một số ít người, những người có quyền lực chính trị, rất giàu. Trong thế kỷ mười sáu, vua Kongo và tầng lớp quý tộc đã có thể nhập khẩu các hàng hóa xa xỉ Âu châu và được bao quanh bởi những người hầu và nô lệ. Gốc rễ của các thể chế kinh tế của xã hội Kongo bắt nguồn từ sự phân bổ quyền lực chính trị trong xã hội và như thế là từ bản chất của các thể chế chính trị.
  • 109. TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 89 Đã chẳng có gì chặn nhà vua khỏi lấy tài sản hay thân thể của người dân, khác hơn sự đe dọa nổi loạn. Mặc dù sự đe dọa này là thực, nhưng đã không đủ để làm cho người dân hay tài sản của họ được an toàn. Các thể chế chính trị của Kongo đã thực sự là chuyên chế, khiến cho vua và elite về cơ bản không bị ràng buộc nào, và đã không cho các công dân tiếng nói nào về cách tổ chức xã hội của họ. Tất nhiên, không khó để thấy rằng các thể chế của Kongo tương phản sắc nét với các thể chế chính trị bao gồm nơi quyền lực bị ràng buộc, bị chế ngự và được phân bổ rộng rãi. Các thể chế chuyên chế của Kongo được giữ đúng vị trí bởi quân đội. Nhà vua có một quân đội thường trực năm ngàn quân vào giữa thế kỷ mười bảy, mà nòng cốt là năm trăm lính ngự lâm – một lực lượng kinh khủng vào thời đó. Vì sao nhà vua và tầng lớp quý tộc lại hết sức háo hức chấp nhận các vũ khí Âu châu như thế là dễ hiểu. Đã không có cơ hội nào về sự tăng trưởng kinh tế bền vững dưới tập này của các thể chế kinh tế và thậm chí các khuyến khích cho việc tạo ra sự tăng trưởng tạm thời cũng đã hết sức hạn chế. Cải cách các thể chế kinh tế để cải thiện các quyền tài sản cá nhân đã có thể khiến cho xã hội Kongo nói chung thịnh vượng hơn. Nhưng không chắc là elite được lợi từ sự thịnh vượng rộng hơn này. Thứ nhất, các cải cách như vậy làm cho elite thành những kẻ thua về kinh tế, bằng cách làm xói mòn sự giàu có mà buôn bán nô lệ và các đồn điền nô lệ mang lại cho họ. Thứ hai, các cải cách như vậy là có thể chỉ nếu quyền lực chính trị của nhà vua và elite bị cắt xén. Thí dụ, nếu nhà vua tiếp tục chỉ huy năm trăm ngự lâm quân của ông, ai tin một công bố rằng chế độ nô lệ được bãi bỏ? Cái gì chặn nhà vua khỏi việc đổi ý của ông sau đó? Bảo đảm thực tế duy nhất là một sự thay đổi về các thể chế chính trị sao cho các công dân có được quyền lực chính trị đối lập nào đó, trao cho họ tiếng nói nào đó về thuế hay về cái các ngự lâm quân đã làm. Nhưng trong trường hợp này đáng nghi rằng việc duy trì sự tiêu dùng và phong cách sống của nhà vua và elite là cao trong danh sách ưu tiên của họ [của các công dân]. Trong kịch bản này, những thay đổi tạo ra các thể chế kinh tế tốt hơn làm cho nhà vua và giới quý tộc thành những kẻ thua về mặt kinh tế và chính trị. Sự tương tác giữa các thể chế kinh tế và chính trị năm trăm năm trước vẫn thích đáng cho việc hiểu vì sao nhà nước Congo hiện đại hiện nay vẫn nghèo khổ. Sự đến của các nhà cai trị Âu châu trong khu vực này, và sâu hơn vào lưu vực sông Congo vào thời “tranh giành châu Phi” vào cuối thế kỷ mười chín, đã dẫn
  • 110. 90 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI đến một sự bất an toàn của các quyền con người và tài sản thậm chí còn quá xá hơn cả thời tiền thuộc địa ở Kongo. Ngoài ra, nó tái tạo hình mẫu của các thể chế khai thác và chủ nghĩa chuyên chế trao quyền và làm giàu cho một số ít gây tổn hại cho số đông, mặc dù số ít bây giờ là các nhà thực dân Bỉ, đặc biệt là Vua Leopold II. Khi Congo trở nên độc lập vào năm 1960, cùng hình mẫu của các thể chế, các khuyến khích, và thành tích kinh tế đã tự tái tạo mình. Các thể chế kinh tế khai thác này của Congo đã lại được ủng hộ bởi các thể chế chính trị khai thác cao độ. Tình hình đã còn tồi tệ hơn bởi vì chủ nghĩa thực dân Âu châu đã tạo ra một chính thể, Congo, được tạo thành từ nhiều nhà nước tiền thuộc địa khác nhau và các xã hội mà nhà nước quốc gia, được điều hành từ Kinshasa, đã ít kiểm soát được. Mặc dù Tổng thống Mobutu đã sử dụng nhà nước để làm giàu cho mình và cho các cánh hẩu của ông – thí dụ, qua chương trình Zaire hóa năm 1973, mà dính líu đến sự tước đoạt hàng loạt các lợi ích kinh tế nước ngoài – ông đã đứng đầu một nhà nước không được tập trung hóa với ít quyền lực đối với phần lớn đất nước, và đã phải kêu gọi sự trợ giúp của nước ngoài để chặn các tỉnh Katanga và Kasai ly khai trong các năm 1960. Sự thiếu tập trung hóa chính trị này, hầu như đến điểm hoàn toàn sụp đổ của nhà nước, là một nét đặc trưng mà Congo chia sẻ với phần lớn của châu Phi hạ-Sahara. Cộng hòa Dân chủ Congo hiện đại vẫn nghèo bởi vì các công dân của nó vẫn thiếu các thể chế kinh tế mà tạo ra các khuyến khích cơ bản làm cho một xã hội thịnh vượng. Không phải là địa lý, văn hóa, hay sự ngu dốt của các công dân hay của các chính trị gia của nó là cái giữ Congo nghèo, mà là các thể chế kinh tế khai thác của nó. Những thể chế này vẫn tồn tại sau tất cả những thế kỷ này bởi vì quyền lực chính trị tiếp tục được tập trung một cách hẹp trong tay của một elite những người có ít khuyến khích để thực thi các quyền tài sản an toàn cho người dân, để cung cấp các dịch vụ công cơ bản mà sẽ cải thiện chất lượng cuộc sống, hay để cổ vũ cho sự tiến bộ kinh tế. Đúng hơn, lợi ích của họ là để khai thác thu nhập và duy trì quyền lực của họ. Họ đã không sử dụng quyền lực này để xây dựng một nhà nước tập trung, vì để làm thế sẽ tạo ra cùng các vấn đề về đối lập và các thách thức chính trị thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có thể tạo ra. Hơn nữa, như ở phần lớn của phần còn lại của châu Phi hạ-Sahara, sự đấu đá nội bộ quyết liệt
  • 111. TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 91 được kích bởi các nhóm đối thủ mưu toan kiểm soát các thể chế khai thác đã phá hủy bất cứ xu hướng tập trung hóa nhà nước nào mà đã có thể tồn tại. Lịch sử của Vương quốc Kongo, và lịch sử gần đây hơn của Congo, minh họa một cách sinh động cho việc các thể chế chính trị xác định các thể chế kinh tế ra sao và, thông qua các thể chế này, xác định các khuyến khích kinh tế và quy mô cho tăng trưởng kinh tế như thế nào. Nó cũng minh họa mối quan hệ cộng sinh giữa chủ nghĩa chuyên chế chính trị và các thể chế kinh tế trao quyền và làm giàu cho số ít gây thiệt hại cho số đông. TĂNG TRƯỞNG DƯỚI CÁC THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ KHAI THÁC Congo ngày nay là một thí dụ cực đoan, với sự vô luật pháp và các quyền tài sản rất không an toàn. Tuy vậy, trong hầu hết trường hợp sự cực đoan như vậy không phục vụ cho lợi ích của elite, vì nó sẽ phá hủy tất cả các khuyến khích kinh tế và tạo ra ít nguồn lực để khai thác. Luận đề trung tâm của cuốn sách này là, tăng trưởng kinh tế và sự thịnh vượng gắn với các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm, trong khi các thể chế khai thác dẫn đến sự trì trệ và nghèo khó. Nhưng điều này không ngụ ý rằng các thể chế khai thác chẳng bao giờ có thể tạo ra tăng trưởng, cũng chẳng ngụ ý rằng tất cả các thể chế khai thác được tạo ra bằng nhau. Có hai cách khác biệt nhưng bổ sung cho nhau mà theo đó tăng trưởng có thể nổi lên dưới các thể chế chính trị khai thác. Thứ nhất, cho dù các thể chế kinh tế là khai thác, tăng trưởng là có thể khi elite có thể trực tiếp phân bổ các nguồn lực cho các hoạt động có năng suất cao mà bản thân họ kiểm soát. Một thí dụ nổi bật của loại tăng trưởng này dưới các thể chế khai thác đã là các Đảo vùng Caribe giữa các thế kỷ mười bảy và mười tám. Hầu hết người dân đã là các nô lệ, làm việc dưới các điều kiện khủng khiếp ở các đồn điền, sống hầu như không trên mức sống qua ngày. Nhiều người đã chết do suy dinh dưỡng và kiệt sức. Ở Barbados, Cuba, Haiti, và Jamaica trong các thế kỷ mười bảy và mười tám, một thiểu số nhỏ, elite đồn điền, đã kiểm soát mọi quyền lực chính trị và sở hữu tất cả các tài sản, bao gồm tất cả các nô lệ. Trong khi đa số đã không có quyền nào, quyền sở hữu và tài sản của elite đồn điền đã được bảo vệ kỹ. Bất chấp các thể chế kinh tế khai thác mà đã bóc lột một cách dã man đa số dân cư, các đảo này đã là giữa các nơi giàu nhất trên thế giới, bởi vì nó đã có thể sản xuất đường và bán
  • 112. 92 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI trên các thị trường thế giới. Nền kinh tế của các đảo này đã chỉ trì trệ khi đã có nhu cầu để chuyển sang các hoạt động kinh tế khác, mà đã đe dọa cả các khoản thu nhập và quyền lực chính trị của elite đồn điền. Một thí dụ khác đã là tăng trưởng kinh tế và công nghiệp hóa ở Liên Xô từ Kế hoạch Năm Năm lần thứ nhất trong năm 1928 cho đến tận các năm 1970. Các thể chế chính trị và kinh tế đã mang tính khai thác cao độ, và các thị trường đã bị hạn chế nặng nề. Tuy nhiên, Liên Xô đã có thể đạt sự tăng trưởng kinh tế nhanh bởi vì nó đã có thể sử dụng quyền lực của nhà nước để chuyển các nguồn lực từ nông nghiệp, nơi chúng đã được sử dụng rất kém hiệu quả, sang công nghiệp. Loại thứ hai của tăng trưởng dưới các thể chế chính trị khai thác xuất hiện khi các thể chế cho phép sự phát triển của các thể chế kinh tế bao gồm một chút, cho dù không hoàn toàn. Nhiều xã hội với các thể chế chính trị khai thác sẽ lảng tránh các thể chế kinh tế bao gồm bởi vì sợ sự phá hủy sáng tạo. Nhưng mức độ, mà elite tìm được cách để chiếm độc quyền quyền lực, thay đổi qua các xã hội. Trong một vài xã hội, vị thế của elite đã có thể đủ an toàn nên họ có thể cho phép một số bước hướng tới các thể chế kinh tế bao gồm khi họ khá chắc chắn rằng việc này sẽ không đe dọa quyền lực chính trị của họ. Một cách lựa chọn khả dĩ khác, tình thế lịch sử đã có thể đến nỗi ban cho một chế độ chính trị khai thác các thể chế kinh tế khá bao gồm, mà họ quyết định không chặn lại. Những cách này cung cấp cách thứ hai mà theo đó tăng trưởng kinh tế có thể xảy ra dưới các thể chế chính trị khai thác. Công nghiệp hóa nhanh chóng của Nam Hàn dưới thời Tướng Park là một thí dụ. Park lên nắm quyền qua một cuộc đảo chính năm 1961, nhưng ông đã làm vậy trong một xã hội được ủng hộ mạnh mẽ bởi Hoa Kỳ và với một nền kinh tế nơi các thể chế kinh tế về thực chất đã là bao gồm. Mặc dù chế độ của Park là độc đoán, nó đã cảm thấy đủ an toàn để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, và thực tế đã làm vậy một cách rất tích cực – có lẽ một phần bởi vì chế độ đã không trực tiếp được ủng hộ bởi các thể chế kinh tế khai thác. Khác với Liên Xô và hầu hết các trường hợp khác của tăng trưởng dưới các thể chế khai thác, Nam Hàn đã chuyển đổi từ các thể chế chính trị khai thác theo hướng sang các thể chế chính trị bao gồm trong các năm 1980. Sự chuyển đổi thành công này đã là do một sự hợp lưu của các yếu tố.
  • 113. TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 93 Vào các năm 1970, các thể chế kinh tế ở Nam Hàn đã trở nên đủ bao gồm đến mức chúng đã làm giảm một trong các lý do căn bản cho các thể chế chính trị khai thác – elite kinh tế đã có ít để kiếm được từ sự thống trị chính trị của chính họ hay của quân đội. Sự bình đẳng tương đối về thu nhập ở Nam Hàn cũng đã có nghĩa rằng elite có ít để sợ chủ nghĩa đa nguyên và dân chủ. Ảnh hưởng then chốt của Hoa Kỳ, đặc biệt căn cứ vào sự đe dọa từ Bắc Triều Tiên, cũng đã có nghĩa rằng phong trào dân chủ mạnh, mà đã thách thức chế độ độc tài quân sự, đã không thể bị đàn áp lâu. Mặc dù việc ám sát Tướng Park trong năm 1979 đã tiếp theo bởi một cuộc đảo chính quân sự khác, lãnh đạo bởi Chun Doo-hwan, người kế vị được chọn của Chun, Roh Tae-woo, đã khởi xướng một quá trình cải cách chính trị mà đã dẫn đến sự củng cố của một nền dân chủ đa nguyên sau năm 1992. Tất nhiên, không có sự chuyển đổi nào thuộc loại này đã xảy ra ở Liên Xô. Kết quả là, sự tăng trưởng Soviet đã hụt hơi kiệt sức, và nền kinh tế đã bắt đầu suy sụp trong các năm 1980 và rồi tan vỡ hoàn toàn trong các năm 1990. Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc hiện nay cũng có nhiều điểm chung với những kinh nghiệm của cả Liên Xô và Nam Hàn. Trong khi các giai đoạn ban đầu của sự tăng trưởng Trung Quốc đã được dẫn đầu bởi những cải cách thị trường triệt để trong khu vực nông nghiệp, các cuộc cải cách trong khu vực công nghiệp đã im hơi lặng tiếng hơn. Ngay cả ngày nay, nhà nước và Đảng Cộng Sản đóng vai trò trung tâm trong quyết định khu vực nào và các doanh nghiệp nào sẽ nhận được thêm vốn và sẽ mở rộng – trong quá trình, kiếm được và đánh mất các khoản tiền kếch xù. Như ở Liên Xô trong thời hoàng kim của nó, Trung Quốc đang phát triển nhanh chóng, nhưng đấy vẫn là sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác, dưới sự kiểm soát của nhà nước, với ít dấu hiệu của một sự chuyển đổi sang các thể chế chính trị bao gồm. Sự thực rằng các thể chế kinh tế của Trung Quốc vẫn còn xa mới mang tính bao gồm đầy đủ cũng gợi ý rằng một sự chuyển đổi theo kiểu Nam Hàn là ít có khả năng, mặc dù tất nhiên không phải là không thể. Đáng lưu ý rằng sự tập trung hóa chính trị là chìa khóa cho cả hai cách mà theo đó tăng trưởng dưới các thể chế chính trị khai thác có thể xảy ra. Không có mức độ tập trung chính trị nào đó, thì elite đồn điền ở Barbados, Cuba, Haiti, và Jamaica đã không thể giữ luật pháp và trật tự và bảo vệ các tích sản và tài sản riêng của họ. Không có sự tập trung chính trị đáng kể và một sự nắm chặt quyền
  • 114. 94 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI lực chính trị, thì các elite quân sự Nam Hàn đã không, và Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng đã chẳng cảm thấy đủ an toàn để nghĩ ra các cải cách kinh tế quan trọng và vẫn tìm được cách để bám lấy quyền lực. Và không có sự tập trung hóa như vậy, thì nhà nước ở Liên Xô hay ở Trung Quốc đã không thể điều phối hoạt động kinh tế để hướng các nguồn lực vào các lĩnh vực có năng suất cao. Một đường phân chia chính giữa các thể chế chính trị khai thác vì thế là mức độ tập trung hóa chính trị của chúng. Các thể chế chính trị khai thác mà không có sự tập trung hóa, ví dụ như nhiều ở châu Phi hạ-Sahara, sẽ thấy khó để đạt ngay cả sự tăng trưởng hạn chế. Cho dù các thể chế khai thác có thể tạo ra sự tăng trưởng nào đó, chúng sẽ thường không tạo ra sự tăng trưởng kinh tế được giữ vững, và chắc chắn không tạo ra loại tăng trưởng đi cùng với sự phá hủy sáng tạo. Khi cả các thể chế chính trị và các thể chế kinh tế đều mang tính khai thác, các khuyến khích sẽ không có ở đó cho sự phá hủy sáng tạo và thay đổi công nghệ. Trong một thời gian nhà nước có thể có khả năng để tạo ra tăng trưởng nhanh bằng cách phân bổ các nguồn lực và con người bằng sắc lệnh, nhưng quá trình này bị hạn chế một cách cố hữu. Khi đạt các giới hạn, sự tăng trưởng ngừng lại, như đã xảy ra ở Liên Xô trong các năm 1970. Ngay cả khi những người Soviet đã đạt sự tăng trưởng kinh tế nhanh, đã có ít thay đổi công nghệ trong phần lớn nền kinh tế, mặc dù bằng cách đổ các nguồn lực ồ ạt vào quân đội họ đã có khả năng phát triển các công nghệ quân sự và thậm chí vượt trước Hoa Kỳ trong cuộc chạy đua không gian và hạt nhân trong một thời gian ngắn. Nhưng sự tăng trưởng này mà không có sự phá hủy sáng tạo và không có sự đổi mới công nghệ trên diện rộng đã là không bền vững và đi đến một sự kết thúc đột ngột. Ngoài ra, những sắp xếp, mà ủng hộ tăng trưởng kinh tế dưới các thể chế khai thác, do bản chất của chúng, là mong manh – chúng có thể sụp đổ hay bị phá hủy một cách dễ dàng bởi sự đấu đá nội bộ mà bản thân các thể chế khai thác gây ra. Trên thực tế, các thể chế chính trị và kinh tế khai thác tạo ra một xu hướng chung cho sự đấu đá nội bộ, bởi vì chúng dẫn đến sự tập trung của cải và quyền lực trong tay của một elite hẹp. Nếu một nhóm khác có thể lấn át và có thủ đoạn hơn elite này và nắm lấy sự kiểm soát nhà nước, thì họ sẽ là những người hưởng của cải và quyền lực này. Hệ quả là, như thảo luận của chúng ta về sự sụp đổ của Đế chế La Mã muộn hơn và các thành phố Maya sẽ minh họa, sự chiến đấu để kiểm
  • 115. TẠO RA THỊNH VƯỢNG VÀ NGHÈO KHÓ ● 95 soát nhà nước toàn năng là luôn luôn âm ỉ, và nó sẽ tăng cường một cách định kỳ và dẫn đến sự hủy hoại của các chế độ này, khi nó biến thành nội chiến và đôi khi thành sự tan vỡ và sụp đổ hoàn toàn của nhà nước. Một ngụ ý của việc này là, cho dù một xã hội dưới các thể chế khai thác ban đầu có thể đạt được mức độ tập trung nhà nước nào đó, nó sẽ không kéo dài. Trên thực tế, việc đấu đá nội bộ để kiểm soát các thể chế khai thác thường dẫn đến nội chiến và sự vô luật pháp tràn lan, coi một sự thiếu vắng dai dẳng của sự tập trung nhà nước là thiêng liêng như ở nhiều quốc gia ở châu Phi hạ-Sahara và một số quốc gia ở Mỹ Latin và Nam Á. Cuối cùng, khi sự tăng trưởng đến dưới các thể chế chính trị khai thác nhưng ở nơi các thể chế kinh tế có các khía cạnh bao gồm, như chúng đã là ở Nam Hàn, luôn luôn có mối hiểm nguy rằng các thể chế kinh tế trở nên khai thác hơn và sự tăng trưởng ngừng lại. Những người kiểm soát quyền lực chính trị cuối cùng sẽ thấy có lợi hơn để sử dụng quyền lực của họ để hạn chế cạnh tranh, để làm tăng phần của họ trong chiếc bánh, hay thậm chí để ăn cắp và cướp bóc từ những người khác hơn là ủng hộ sự tiến bộ kinh tế. Sự phân bố và khả năng để sử dụng quyền lực cuối cùng sẽ làm xói mòn chính nền tảng của sự thịnh vượng kinh tế, trừ phi các thể chế chính trị được biến đổi từ khai thác thành bao gồm.
  • 116. 4. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT: SỨC NẶNG CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI DO DỊCH HẠCH GÂY RA RONG NĂM 1346 DỊCH HẠCH, Cái chết Đen, đã đến thành phố cảng Tana ở cửa Sông Đông ở Biển Đen. Được truyền bởi bọ chét sống trên chuột, bệnh dịch hạch được đưa từ Trung Quốc bởi các nhà buôn di chuyển dọc theo Con đường Tơ lụa, mạng lưới thương mại huyết mạch xuyên Á vĩ đại. Nhờ các nhà buôn xứ Genoa, chuột đã mau chóng làm cho bọ chét và dịch hạch lan từ Tana ra toàn bộ vùng Địa Trung Hải. Vào đầu 1347, dịch hạch đã đến Constantinople. Vào mùa xuân 1348, nó đã lan xuyên qua Pháp và Bắc Phi và lên vùng đất hình chiếc ủng của Italia. Bệnh dịch hạch đã triệt hạ khoảng nửa dân số của bất cứ vùng nào mà nó đã quét qua. Nhà văn Ilalia Giovanni Boccaccio đã chứng kiến trực tiếp dịch hạch đến thành phố Florence của Italia. Muộn hơn ông nhớ lại: Đối mặt với sự ào tới của nó, tất cả sự sáng suốt và khéo léo của con người đã đều vô hiệu … bệnh dịch hạch đã bắt đầu làm cho các tác động tai họa của nó trở nên rõ ràng theo một cách lạ thường và gây khiếp sợ. Nó đã không có dạng được cho là đã có ở phương Đông, nơi nếu bất cứ ai hộc máu mũi thì đó là một điềm hiển nhiên của cái chết chắc chắn. Ngược lại, triệu chứng sớm nhất của nó là sự xuất hiện các hạch ở bẹn hay ở nách, một số hạch có hình thù quả trứng trong khi các hạnh khác có kích thước khoảng chừng một quả táo bình thường T
  • 117. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 97 … Muộn hơn các triệu chứng của căn bệnh thay đổi, và nhiều người bắt đầu thấy các vết đen và các vết thâm tím trên tay, đùi và các bộ phận khác trên thân thể họ … Chống lại các chứng bệnh này … Tất cả lời khuyên của các thầy thuốc và tất cả sức mạnh của y học đều vô ích và vô hiệu … Và trong hầu hết các trường hợp cái chết xảy ra trong vòng ba ngày kể từ khi xuất hiện các triệu chứng mà chúng ta mô tả. Người dân ở nước Anh đã biết dịch hạch đang đến và đã biết rõ về sự diệt vong sắp đến. Vào giữa tháng Tám năm 1348, Vua Edward III đã yêu cầu Đức Tổng Giám Mục Cantenbury để tổ chức các lễ cầu nguyện, và nhiều giám mục đã viết thư cho các linh mục để đọc trong nhà thờ nhằm giúp người dân đối phó với cái sắp giáng xuống họ. Ralph ở thị trấn Shrewsbury, Đức Giám mục giáo xứ Bath, đã viết cho các linh mục: Chúa toàn năng dùng sấm, sét [sic], và các cơn gió mạnh khác mà ngài phóng từ ngai vàng của ngài để gây đau khổ cho những đứa con mà ngài muốn cứu rỗi. Do đó, từ khi bệnh dịch hạch tai họa từ phương Đông đã đến một vương quốc láng giềng, rất đáng lo ngại rằng, trừ phi chúng ta câu nguyện một cách chân thành và không ngừng, một bệnh dịch tương tự sẽ trải các nhánh độc hại của nó vào vương quốc này, và giáng xuống và tiêu hủy sạch cư dân. Vì thế tất cả chúng ta phải đến trước sự hiện diện của Chúa trong lúc thú tội, đọc bài thánh vịnh. Việc đó đã chẳng có ích lợi gì. Dịch hạch tấn công và mau chóng tiêu diệt khoảng một nửa dân số Anh. Các thảm họa như vậy có thể có những ảnh hưởng to lớn đến các thể chế của xã hội. Có lẽ dễ hiểu, rất nhiều người đã hóa điên. Boccaccio đã nhận xét rằng, “một số đã xác nhận rằng một cách không thể sai để tránh xa tai họa kinh khủng này là uống túy lúy, thỏa sức tận hưởng cuộc sống, đi vòng quanh ca hát và vui chơi hội hè, chiều theo mọi ham muốn của mình bất cứ khi nào có cơ hội, nhún vai coi khinh cái quan trọng nhất như một trò đùa lớn … và điều này giải thích vì sao các bà, những người đã hồi phục, có lẽ ít trong sạch hơn trong thời kỳ tiếp sau.” Thế nhưng dịch hạch cũng đã có một tác động biến đổi về mặt xã hội, kinh tế, và chính trị lên các xã hội Âu châu trung cổ.
  • 118. 98 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Vào lúc chuyển giao thế kỷ thứ mười bốn, châu Âu đã có một trật tự phong kiến, một cách tổ chức xã hội lần đầu tiên nổi lên ở Tây Âu sau sự sụp đổ của Đế chế La Mã. Nó đã dựa trên một mối quan hệ thứ bậc giữa nhà vua và các chúa (lord) bên dưới ông, với các nông dân ở dưới cùng. Nhà vua sở hữu đất đai và cấp đất cho các chúa đổi lấy các dịch vụ quân sự. Sau đó các chúa phân đất cho các nông dân, đổi lại các nông dân đã phải lao động nhiều mà không được trả công và bị nhiều loại tiền phạt và thuế. Các nông dân, bởi vì địa vị “nô lệ” của họ, đã được gọi là các nông nô, bị gắn liền với đất, không có khả năng di chuyển đi nơi khác nếu không có sự cho phép của chúa của họ, người không chỉ là chúa đất mà cũng là thẩm phán, bội thẩm đoàn, và lực lượng cảnh sát. Đó đã là một hệ thống mang tính khai thác hết sức cao, với của cải chảy từ nhiều nông dân lên phía trên cho ít chúa đất. Sự khan hiếm lao động nghiêm trọng do dịch hạch gây ra đã làm rung chuyển nền tảng của trật tự phong kiến. Nó đã khuyến khích các nông dân đòi thay đổi. Tại Eynsham Abbey, chẳng hạn, các nông dân đã đòi giảm nhiều loại tiền phạt và việc làm không được trả công. Họ đã nhận được cái họ muốn, và hợp đồng mới của họ đã bắt đầu với khẳng định, “Vào thời chết chóc hay bệnh dịch hạch, xảy ra năm 1349, chỉ đúng hai người thuê còn lại trong thái ấp, và họ đã bày tỏ ý định bỏ đi trừ phi Thầy Nicolas xứ Upton, cha trưởng tu viện và chúa của trang ấp khi đó, làm một thỏa thuận mới với họ”. Ông đã làm. Việc xảy ra tại Eynsham đã xảy ra ở mọi nơi. Các nông dân đã bắt đầu giải phóng mình khỏi lao dịch bắt buộc và nhiều nghĩa vụ với các chúa đất của họ. Lương bắt đầu tăng lên. Chính phủ đã thử chấm dứt việc này và, vào năm 1351, đã thông qua Đạo luật [về Những người] Lao động (Statute of Laborers), mà mở đầu bằng: Bởi vì phần lớn nhân dân và đặc biệt các thợ và đầy tớ bây giờ đã chết trong dịch hạch đó, một số, thấy sự thẳng thắn của các ông chủ và sự khan hiếm đầy tớ, không sẵn sàng phục vụ trừ phi họ nhận được tiền công thái quá … Chúng ta, xem xét những sự bất tiện nghiêm trọng mà có thể do sự thiếu lao động, đặc biệt thiếu thợ cày và những lao động chân tay như vậy, gây ra, đã … thấy phù hợp để quy định: rằng mọi đàn ông và đàn bà của vương quốc Anh chúng ta … sẽ buộc phải phục vụ những người mà thấy phù hợp để tìm kiếm anh ta; và anh ta
  • 119. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 99 sẽ chỉ lấy [tiền] công bằng quần áo đồng phục, sự đền bù phù hợp hay lương mà, ở những nơi anh ta được tìm kiếm để phục vụ, đã quen để được trả trong năm thứ hai mươi của triều đại chúng ta ở nước Anh [Vua Edward III lên ngôi vào ngày 25-1-1327, cho nên sự dẫn chiếu ở đây là đến năm 1347] hoặc năm hay sáu năm bình thường ngay trước đó. Đạo luật thực ra đã thử cố định tiền công ở mức trước Cái Chết Đen. Đặc biệt làm cho elite Anh lo lắng đã là “sự dụ dỗ”, một nỗ lực của một chúa đất để hấp dẫn các nông dân khan hiếm của những người khác. Lời giải đã là làm cho việc bắt giam trở thành sự trừng phạt cho việc bỏ đi mà không được phép của chủ: Và nếu một thợ gặt hay thợ cắt, hoặc thợ khác hay đầy tớ, dù địa vị hay điều kiện của người đó thế nào, người được giữ để phục vụ bất cứ ai, mà rời khỏi sự phục vụ được nói đến ấy trước thời hạn được thỏa thuận, mà không có sự cho phép hay lý do hợp lý, sẽ phải chịu sự trừng phạt tống giam, và ngoài ra … không để người nào … trả hoặc cho phép để được trả bất cứ ai khoản tiền công, quần áo đồng phục, sự đền bù hay lương nhiều hơn mức theo lệ thường như đã được nói đến. Nỗ lực của nhà nước Anh để ngăn những sự thay đổi của các thể chế và tiền công sau Cái Chết Đen đã không có hiệu lực. Trong năm 1381, Khởi nghĩa Nông dân nổ ra, và những người nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của Wat Tyler, thậm chí đã chiếm phần lớn London. Mặc dù cuối cùng họ đã bị đánh bại, và Tyler bị xử tử, đã không còn các các nỗ lực để thi hành Đạo luật Lao động nữa. Dịch vụ lao động phong kiến teo dần đi, một thị trường lao động bao gồm đã bắt đầu nổi lên ở nước Anh, và tiền công tăng lên. Dịch hạch có vẻ đã tấn công phần lớn thế giới, và ở mọi nơi một phần tương tự của dân số đã chết. Như thế tác động nhân khẩu học ở Đông Âu đã cũng như ở nước Anh và Tây Âu. Các lực lượng xã hội và kinh tế đang vận hành đã cũng như nhau. Lao động khan hiếm và người dân đã đòi các quyền tự do lớn hơn. Nhưng ở phía Đông, một logic trái ngược mạnh hơn đã tác động. Ít người hơn đã có nghĩa là tiền công cao hơn trong một thị trường lao động bao gồm. Nhưng điều này đã cho phép các chúa đất một khuyến khích lớn hơn để giữ thị trường lao động là thị
  • 120. 100 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI trường lao động khai thác và các nông dân làm nô lệ. Ở nước Anh động lực thúc đẩy này cũng đã có tác động, như được phản ánh trong Đạo Luật Lao động. Nhưng bất chấp việc đó những người lao động đã có đủ sức mạnh để đạt được cái họ muốn. Đã không thế ở Đông Âu. Sau dịch hạch, các chúa đất Đông Âu đã bắt đầu tiếp quản các vùng đất lớn và mở rộng ruộng đất của họ, mà đã lớn hơn ruộng đất của các chúa đất Tây Âu rồi. Các thị trấn đã yếu hơn và thưa dân hơn, và thay vì trở nên tự do hơn, những người lao động bắt đầu thấy quyền tự do hiện hành của họ bị xâm phạm. Các tác động trở nên đặc biệt rõ sau năm 1500, khi Tây Âu bắt đầu cần đến những hàng hóa nông nghiệp được sản xuất ở Đông Âu như lúa mỳ, lúa mạch và gia súc. Tám mươi phần trăm nhập khẩu lúa mạch vào Amsterdam đã đến từ lưu vực của các sông Elbe, Vistula, và Order. Chẳng bao lâu, năm mươi phần trăm thương mại hưng thịnh bột phát của Hà Lan đã là với Đông Âu. Khi cầu Tây Âu tăng, các chúa đất Đông Âu đã siết chặt thêm sự kiểm soát của họ đối với lực lượng lao động để mở rộng cung. Nó đã được gọi là Chế độ Nông nô Thứ hai, khác biệt và hà khắc hơn dạng gốc của nó ở đầu Thời Trung Cổ. Các chúa đất đã tăng thuế mà họ thu trên các mảnh đất riêng của những người thuê của họ và lấy một nửa tổng sản lượng. Tại Korczyn, Ba Lan, mọi việc làm cho chúa đất đã đều được trả công trong năm 1533. Nhưng vào năm 1600 gần một nửa đã là lao động cưỡng bức không được trả công. Trong năm 1500, những người lao động ở Macklenberg, ở miền đông nước Đức, đã chỉ có nghĩa vụ lao động không được trả công vài ngày trong một năm. Vào năm 1550 đã là một ngày trong một tuần, và vào năm 1600 ba ngày trong một tuần. Con của những người lao động đã phải làm không công cho chúa đất trong nhiều năm. Tại Hungary, các địa chủ đã kiểm soát toàn bộ đất năm 1514, quy định một ngày làm việc không công trong một tuần đối với mọi người lao động. Vào năm 1550, mức này đã được nâng lên hai ngày một tuần. Vào cuối thế kỷ, đã là ba ngày. Các nông nô phải chịu các quy định này đã chiếm 90 phần trăm dân số nông thôn thời đó. Mặc dù trong năm 1346 đã có ít sự khác biệt giữa Tây và Đông Âu về mặt các thể chế chính trị và kinh tế, vào năm 1600 chúng đã khác nhau hoàn toàn. Ở Tây Âu, những người lao động đã thoát khỏi các khoản phí, phạt, và các quy định phong kiến, và trở thành một phần then chốt của một nền kinh tế thị trường đang hưng thịnh. Tại Đông Âu, họ cũng đã dính líu đến một nền kinh tế như vậy,
  • 121. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 101 nhưng với tư cách các nông nô bị cưỡng bức nuôi trồng thực phẩm và các hàng hóa nông nghiệp được đòi hỏi ở Tây Âu. Nó đã là một nền kinh tế thị trường nhưng không phải là một nền kinh tế thị trường bao gồm. Sự phân kỳ [sự rẽ theo các hướng khác nhau] thể chế này đã là kết quả của một tình thế nơi những sự khác biệt giữa hai vùng này ban đầu có vẻ đã rất nhỏ: ở Đông Âu các chúa đất đã được tổ chức tốt hơn một chút; họ đã có nhiều quyền hơn một chút và đã có ruộng đất được gộp lại hơn. Các thị trấn yếu hơn và nhỏ hơn, các nông dân ít được tổ chức hơn. Trong sơ đồ lớn của lịch sử, đấy đã là những khác biệt nhỏ. Thế nhưng những sự khác biệt nhỏ này giữa Tây Âu và Đông Âu đã trở nên hết sức quan trọng đối với cuộc sống của dân cư của chúng và đối với con đường tương lai của sự phát triển thể chế khi trật tự phong kiến bị Cái Chết Đen làm lung lay. Cái Chết Đen là một thí dụ sinh động về bước ngoặt [critical juncture], một sự kiện lớn hay sự hợp lưu của những yếu tố phá vỡ sự cân bằng kinh tế hay chính trị hiện tồn trong xã hội. Một bước ngoặt là một con dao hai lưỡi mà có thể gây ra một sự rẽ đột ngột trong quỹ đạo của một quốc gia. Một mặt nó có thể mở đường cho sự phá vỡ chu trình của những thể chế khai thác và cho phép những thể chế bao gồm hơn nổi lên, như ở nước Anh. Hoặc nó có thể tăng cường sự nổi lên của những thể chế khai thác, như trường hợp của Chế độ Nông nô Thứ hai ở Đông Âu. Việc hiểu lịch sử và các bước ngoặt định hình thế nào con đường của các thể chế kinh tế và chính trị cho phép chúng ta có một lý thuyết đầy đủ hơn về nguồn gốc của những sự khác biệt về sự nghèo khó và thịnh vượng. Ngoài ra, nó cho phép chúng ta giải thích tình hình hiện nay và vì sao một số quốc gia chuyển đổi sang các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm trong khi các quốc gia khác lại không. TẠO RA CÁC THỂ CHẾ BAO GỒM Nước Anh đã là độc nhất giữa các quốc gia khi nó có sự đột phá sang tăng trưởng kinh tế bền vững trong thế kỷ mười bảy. Những thay đổi kinh tế lớn đã theo sau một cuộc cách mạng chính trị mà đã mang lại một tập khác biệt của các thể chế
  • 122. 102 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI kinh tế và chính trị, mang tính bao gồm hơn rất nhiều so với các thể chế của xã hội trước. Các thể chế này có các hệ lụy sâu sắc không chỉ đối với các khuyến khích kinh tế và sự thịnh vượng, mà cũng đối với những người gặt hái được các lợi ích của sự thịnh vượng. Chúng đã dựa không phải vào sự đồng thuận mà, đúng hơn, đã là kết quả của sự xung đột dữ dội khi các nhóm khác nhau cạnh tranh vì quyền lực, tranh giành quyền lực của các nhóm khác và cố thử tổ chức các thể chế theo sự ưa thích riêng của họ. Đỉnh cao của các cuộc đấu tranh thể chế của các thế kỷ mười sáu và mười bảy đã là hai sự kiện quan trọng quyết định: Nội chiến Anh giữa 1642 và 1651, và đặc biệt là Cách mạng Vinh quang 1688. Cách mạng Vinh quang đã hạn chế quyền lực của nhà vua và hành pháp, và đã chuyển quyền lực cho Quốc hội để quyết định về các thể chế kinh tế. Đồng thời nó đã mở hệ thống chính trị cho phần bao quát tiêu biểu của xã hội, những người đã có thể ảnh hưởng đáng kể đến cách nhà nước hoạt động. Cách mạng Vinh quang đã là nền tảng cho việc tạo ra một xã hội đa nguyên, và nó đã được xây dựng trên và làm tăng tốc một quá trình tập trung hóa chính trị. Nó đã tạo ra tập hợp đầu tiên của các thể chế chính trị bao gồm của thế giới. Như một hệ quả, các thể chế kinh tế cũng đã bắt đầu trở nên bao gồm hơn. Cả chế độ nô lệ và những hạn chế kinh tế nghiêm ngặt của thời kỳ phong kiến trung cổ đã không tồn tại ở Anh vào đầu thế kỷ thứ mười bảy. Tuy nhiên, đã có nhiều hạn chế về các hoạt động kinh tế mà người dân có thể tiến hành. Cả hoạt động kinh tế trong nước và quốc tế đã bị các độc quyền bóp nghẹt. Nhà nước đã đánh thuế tùy tiện và đã thao túng hệ thống pháp luật. Phần lớn đất đai bị kẹt vào các hình thức cổ xưa của các quyền tài sản mà làm cho việc bán là không thể và rủi ro để đầu tư vào. Tình hình này đã thay đổi sau Cách mạng Vinh quang. Chính phủ đã chấp nhận một tập các thể chế kinh tế tạo các khuyến khích cho đầu tư, thương mại và đổi mới. Nó đã kiên định thực thi các quyền tài sản, kể cả các bằng sáng chế cấp quyền tài sản cho các ý tưởng, do đó đưa ra kích thích lớn cho sự đổi mới. Nó bảo vệ luật pháp và trật tự. Chưa từng có về mặt lịch sử đã là việc áp dụng luật Anh đối với tất cả công dân. Việc đánh thuế tùy tiện đã chấm dứt, và các độc quyền đã bị bãi bỏ hầu như hoàn toàn. Nhà nước Anh đã năng nổ thúc đẩy các hoạt động
  • 123. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 103 buôn bán và đã làm việc để thúc đẩy công nghiệp nội địa, không chỉ bằng cách dỡ bỏ các rào cản đối với sự mở rộng hoạt động công nghiệp mà cũng bằng cách cho phép sử dụng toàn bộ sức mạnh của hải quân Anh để bảo vệ các lợi ích thương mại. Bằng cách hợp lý hóa các quyền sở hữu, nó tạo thuận lợi cho việc xây dựng hạ tầng, đặc biệt đường sá, kênh rạch và muộn hơn đường sắt, mà đã hóa ra là cốt yếu đối với tăng trưởng công nghiệp. Những nền tảng này đã làm thay đổi một cách quyết định các khuyến khích cho người dân và đã thúc đẩy các động cơ của sự thịnh vượng, mở đường cho Cách mạng Công nghiệp. Đầu tiên và trước hết, Cách mạng Công nghiệp đã phụ thuộc vào những tiến bộ công nghệ chính khai thác cơ sở tri thức đã được tích tụ ở châu Âu trong các thế kỷ trước. Nó đã là một sự thay đổi căn bản khỏi quá khứ, do việc nghiên cứu khoa học và tài năng của nhiều cá nhân độc nhất vô nhị đã làm cho nó là có thể. Sức mạnh đầy đủ của cuộc cách mạng này đến từ thị trường, mà đã tạo ra các cơ hội sinh lời cho các công nghệ được phát triển và được áp dụng. Chính bản chất bao gồm của các thị trường là cái đã cho phép người dân phân bổ đúng tài năng của họ cho các ngành kinh doanh. Nó cũng đã dựa vào giáo dục và các kỹ năng, vì đã có các trình độ giáo dục tương đối cao, chí ít theo các tiêu chuẩn của thời đó, mà đã cho phép sự nổi lên của các doanh nhân khởi nghiệp với tầm nhìn để sử dụng những công nghệ mới cho các doanh nghiệp của mình và để tìm những người lao động có kỹ năng để sử dụng chúng. Không phải là một sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng Cách mạng Công nghiệp đã bắt đầu ở nước Anh vài thập kỷ tiếp sau Cách mạng Vinh quang. Các nhà sáng chế vĩ đại, thí dụ như James Watt (người hoàn thiện động cơ hơi nước), Richard Trevithick (người xây dựng đầu máy xe lửa đầu tiên), Richard Arkwright (nhà sáng chế ra máy xe sợi), và Insambard Kingdom Brunel (nhà sáng tạo ra nhiều tàu hơi nước mang tính cách mạng) đã có khả năng nhận các cơ hội kinh tế do các ý tưởng của họ tạo ra, đã tự tin rằng các quyền sở hữu trí tuệ của họ được tôn trọng, và đã có tiếp cận đến các thị trường nơi các đổi mới sáng tạo của họ có thể được bán và được dùng một cách có lời. Năm 1775, ngay sau khi ông gia hạn bằng sáng chế của mình về động cơ hơi nước, mà ông đã gọi là “động cơ Lửa”, James Watt đã viết cho cha mình:
  • 124. 104 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Cha kính mến, Sau một chuỗi những sự Chống đối khác nhau và mãnh liệt, cuối cùng con đã có được một điều Luật do Quốc hội ban hành trao quyền về các động cơ Lửa mới của con cho con và những người được Ủy quyền của con, trên khắp Vương quốc Anh & các đồn điền trong hai mươi lăm năm tới, mà con hy vọng sẽ rất ích lợi cho con, vì đã có cầu đáng kể rồi đối với chúng. Lá thư này tiết lộ hai thứ. Thứ nhất, Watt đã được thúc đẩy bởi các cơ hội thị trường mà ông đã dự tính, bởi “cầu đáng kể” ở Vương quốc Anh và các đồn điền của nó, tức là các thuộc địa hải ngoại của Anh. Thứ hai, nó cho thấy ông đã có khả năng ảnh hưởng đến Quốc hội ra sao để có được cái ông muốn bởi vì nó đã là sự đáp lại các lời thỉnh cầu của các cá nhân và các nhà đổi mới. Những tiến bộ công nghệ, khát vọng của các doanh nghiệp để mở rộng và đầu tư, và việc sử dụng hữu hiệu các kỹ năng và tài năng tất cả đã trở nên có thể bởi các thể chế kinh tế bao gồm mà nước Anh đã phát triển. Những cái này, đến lượt chúng, lại dựa trên nền tảng của các thể chế chính trị bao gồm của nước Anh. Nước Anh đã phát triển các thể chế chính trị bao gồm này bởi vì hai yếu tố. Thứ nhất đã là các thể chế chính trị, kể cả một nhà nước được tập trung hóa, mà đã cho phép nó tiến hành bước triệt để tiếp theo – quả thực chưa từng có – theo hướng các thể chế bao gồm với sự ập tới của Cách mạng Vinh quang. Trong khi yếu tố này đã phân biệt nước Anh với phần lớn thế giới, nó đã không phân biệt đáng kể nước Anh với các nước Tây Âu như Pháp và Tây Ban Nha. Quan trọng hơn đã là yếu tố thứ hai. Các sự kiện dẫn tới Cách mạng Vinh quang đã rèn đúc một liên minh rộng và hùng mạnh có khả năng đặt các ràng buộc lâu bền lên quyền lực của chế độ quân chủ và hành pháp, mà đã buộc phải mở cho các đòi hỏi của liên minh này. Việc này đặt nền móng cho các thể chế chính trị đa nguyên, mà rồi đã cho phép phát triển các thể chế kinh tế mà sẽ làm nòng cốt cho Cách mạng Công nghiệp lần thứ nhất.
  • 125. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 105 NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ MÀ LÀ QUAN TRỌNG Bất bình đẳng thế giới đã tăng đột ngột đầy kịch tính với Cách mạng Công nghiệp Anh bởi vì chỉ một số phần của thế giới đã chọn làm theo các đổi mới và các công nghệ mà những người như Arkwright và Watt, và nhiều người làm theo, đã phát triển. Sự đáp lại của các quốc gia khác nhau đối với làn sóng công nghệ này, mà quyết định liệu họ sẽ sống khổ cực dưới sự nghèo khó hay sẽ đạt tăng trưởng kinh tế bền vững, đã chủ yếu được định hình bởi các con đường lịch sử khác nhau của các thể chế của họ. Vào nửa thế kỷ thứ mười tám đã có những khác biệt nổi bật rồi về các thể chế chính trị và kinh tế xung quanh thế giới. Nhưng những khác biệt này đến từ đâu? Các thể chế chính trị Anh đã trên con đường của chúng đến chủ nghĩa đa nguyên lớn hơn rất nhiều vào năm 1688, so với các thể chế ở Pháp và Tây Ban Nha, nhưng nếu chúng ta quay lại theo thời gian một trăm năm, đến 1588, thì những sự khác biệt co lại gần như chẳng có gì. Cả ba nước đều đã bị cai trị bởi các chế độ quân chủ tương đối chuyên quyền: Elizabeth I ở Anh, Philip II ở Tây Ban Nha, và Henry II ở Pháp. Tất cả đều đã dang chiến đấu với các đại hội đồng của các công dân – như Quốc hội ở Anh, Cortes ở Tây Ban Nha, và Estates- General ở Pháp – mà đã đều đòi nhiều quyền hơn và sự kiểm soát chế độ quân chủ. Tất cả các đại hội đồng này đã có những quyền lực và phạm vi quyền hạn hơi khác nhau. Thí dụ, Quốc hội Anh và Cortes của Tây Ban Nha đã có thẩm quyền về thuế, còn Estates-General thì không. Ở Tây Ban Nha việc này đã ít quan trọng, bởi vì sau 1492 Quốc vương Tây Ban Nha đã có một đế chế Mỹ [châu] mênh mông và đã được hưởng lợi rất lớn từ vàng và bạc được tìm thấy ở đó. Tại nước Anh tình hình đã khác. Elizabeth I đã ít độc lập hơn rất nhiều về mặt tài chính, cho nên bà đã phải cầu xin Quốc hội để được nhiều thuế hơn. Đổi lại, Quốc hội đã đòi những nhượng bộ, đặc biệt những hạn chế đến quyền của Elizabeth để tạo ra các độc quyền. Nó đã là một xung đột mà Quốc hội thắng từ từ. Ở Tây Ban Nha, Cortes lại đã thua trong một xung đột tương tự. Thương mại đã không chỉ bị độc quyền, nó đã là độc quyền của chế độ quân chủ Tây Ban Nha. Những sự khác biệt này, mà ban đầu dường như là nhỏ, đã bắt đầu trở nên rất quan trọng trong thế kỷ mười bảy. Mặc dù châu Mỹ đã được phát hiện ra năm 1492 và Vasco da Gama đã đến được Ấn Độ bằng cách đi vòng quanh Mũi Hảo Vọng, ở đầu tận cùng niềm nam châu Phi, năm 1498, đã chỉ đến sau 1600 thì một
  • 126. 106 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI sự bành trướng to lớn của thương mại thế giới, đặc biệt ở Đại Tây Dương, mới bắt đầu xảy ra. Năm 1585 việc thuộc địa hóa đầu tiên của Anh ở Bắc Mỹ đã bắt đầu tại Roanoke, trong chỗ nơi bây giờ là Bắc Carolina. Năm 1600, Công ty Đông Ấn Anh được thành lập. Năm 1602 Công ty Đông Ấn Hà Lan ra đời. Năm 1607 Công ty Virginia thành lập thuộc địa Jamestown. Vào các năm 1620 vùng Caribe bị thuộc địa hóa, với Barbados bị chiếm năm 1627. Pháp cũng đã bành trướng qua Đại Tây Dương, lập ra thành phố Quebec năm 1608 như thủ đô của nước Pháp mới, mà bây giờ là Canada. Những hệ quả của sự bành trướng kinh tế này đối với các thể chế đã là rất khác nhau đối với Anh so với Tây Ban Nha và Pháp bởi vì những khác biệt nhỏ ban đầu ấy. Elizabeth và những người kế vị bà đã không thể độc quyền thương mại với châu Mỹ. Các nền quân chủ Âu châu khác đã có thể. Vì thế trong khi ở nước Anh, thương mại xuyên Đại Tây Dương và thuộc địa hóa đã bắt đầu tạo ra một nhóm lớn các thương gia giàu có với ít mối liên kết với Quốc vương, điều này đã không như thế ở Tây Ban Nha hay ở Pháp. Các nhà buôn Anh đã bực bội về sự kiểm soát của hoàng gia và đòi những thay đổi về thể chế chính trị và hạn chế các đặc quyền của hoàng gia. Họ đã đóng một vai trò thiết yếu trong Nội Chiến và Cách mạng Vinh quang. Những xung đột tương tự xảy ra ở mọi nơi. Các vua Pháp, chẳng hạn đã đối mặt với Fronde [Nổi loạn] giữa 1648 và 1652. Sự khác biệt đã là ở nước Anh đã có khả năng hơn nhiều là các đối thủ của chính thể chuyên chế sẽ thắng bởi vì họ tương đối giàu hơn và đông hơn các đối thủ của chính thể chuyên chế ở Tây Ban Nha và Pháp. Các con đường phân kỳ của các xã hội Anh, Pháp, và Tây Ban Nha trong thế kỷ mười bảy minh họa tầm quan trọng của sự tác động qua lại của những sự khác biệt nhỏ về thể chế và các bước ngoặt [critical junctures]. Trong thời gian bước ngoặt, một sự kiện lớn hay sự hợp lưu của các yếu tố phá vỡ sự cân bằng hiện tồn của quyền lực chính trị hay kinh tế trong một quốc gia. Những cái này có thể ảnh hưởng đến chỉ một quốc gia duy nhất, thí dụ như cái chết của Chủ tịch Mao Trạch Đông năm 1976, mà đầu tiên đã tạo ra một bước ngoặt chỉ cho Trung Hoa Cộng Sản. Tuy vậy, thường các bước ngoặt ảnh hưởng đến toàn bộ một tập các xã hội, theo cách mà, thí dụ, sự thuộc địa hóa và sau đó là sự phi thuộc địa hóa đã ảnh hưởng đến phần lớn địa cầu.
  • 127. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 107 Những bước ngoặt như vậy là quan trọng bởi vì có những rào cản kinh khủng chống lại những sự cải thiện từ từ, do kết quả từ sự đồng vận giữa các thể chế chính trị và kinh tế khai thác và sự ủng hộ mà chúng trao cho nhau. Sự dai dẳng của vòng phản hồi này tạo ra một vòng luẩn quẩn, Những kẻ hưởng lợi từ hiện trạng là những người giàu và được tổ chức tốt, và có thể chiến đấu một cách hữu hiệu chống lại những thay đổi lớn mà sẽ lấy đi các đặc quyền kinh tế hay quyền lực chính trị của họ. Một khi một bước ngoặt xảy ra, những thay đổi nhỏ mà quan trọng là những khác biệt thể chế ban đầu mà chúng khởi động những sự đáp lại rất khác nhau. Đấy là lý do vì sao những khác biệt thể chế tương đối nhỏ ở Anh, Pháp, và Tây Ban Nha đã dẫn đến những con đường phát triển khác nhau một cách cơ bản. Các con đường nảy sinh do kết quả từ một bước ngoặt được tạo ra bởi các cơ hội kinh tế được thương mại xuyên Đại Tây Dương mở ra cho những người Âu châu. Cho dù những khác biệt thể chế nhỏ là hết sức quan trọng trong các bước ngoặt, và tất nhiên, những khác biệt thể chế lớn hơn dẫn đến những hình mẫu còn khác nhau hơn nữa vào những lúc như vậy. Trong khi những khác biệt thể chế giữa Anh và Pháp đã là nhỏ trong năm 1588, những sự khác biệt thể chế giữa Tây và Đông Âu đã lớn hơn nhiều. Ở Tây Âu, các nhà nước mạnh được tập trung hóa như Anh, Pháp, và Tây Ban Nha đã có các thể chế lập hiến (Quốc hội, Estates- General, và Cortes). Cũng đã có những sự tương tự cơ bản trong các thể chế kinh tế, như sự vắng mặt của chế độ nông nô. Đông Âu khi đó lại là câu chuyện khác. Vương quốc Ba Lan-Lithuania, chẳng hạn, đã bị cai trị bởi một giai cấp elite được gọi là Szlachta, những người đã hùng mạnh đến mức họ thậm chí đưa ra các cuộc bầu chọn vua. Đấy đã không là một sự cai trị chuyên chế như ở Pháp dưới thời Vua Mặt trời, Louis XIV, mà là chính thể chuyên chế của một elite, các thể chế chính trị khai thác hoàn toàn cũng vậy. Szlachta đã cai trị một xã hội chủ yếu là nông thôn với đa số áp đảo dân cư là các nông nô không có quyền tự do di chuyển và các cơ hội kinh tế. Xa hơn sang phía đông, Peter Đại Đế của Nga đã cũng đang củng cố một chính thể chuyên chế hà khắc và khai thác hơn rất nhiều so với Louis XIV đã có thể làm được. Bản đồ 8 cung cấp một cách đơn giản để thấy mức khác nhau giữa Tây và Đông Âu vào đầu thế kỷ mười chín. Nó đánh dấu xem liệu một nước vẫn còn chế độ nông nô
  • 128. 108 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI hay không trong năm 1800. Các nước được tô màu sẫm vẫn còn, các nước màu sáng thì không. Đông Âu sẫm, Tây Âu sáng. Thế mà các thể chế của Tây Âu đã không luôn khác biệt đến vậy so với các thể chế của Đông Âu. Chúng đã bắt đầu, như chúng ta đã thấy ở trước, trở nên khác biệt trong thế kỷ thứ mười bốn khi Cái Chết Đen tấn công vào năm 1346. Đã [chỉ] có những khác biệt nhỏ giữa các thể chế chính trị và kinh tế ở Tây  và Đông Âu. Nước Anh và Hungary thậm chí đã được cai trị bởi cùng một gia tộc, nhà Angevin. Các khác biệt quan trọng hơn nổi lên sau Cái Chết Đen, sau đó đã tạo ra bối cảnh mà trong đó những sự khác nhau quan trọng hơn giữa Tây và Đông Âu đã diễn ra trong các thế kỷ mười bảy, mười tám, và mười chín.
  • 129. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 109 Nhưng đâu là nơi đầu tiên mà những khác biệt nhỏ về thể chế này xuất hiện và khởi động quá trình phân kỳ? Vì sao Đông Âu đã có các thể chế chính trị và kinh tế khác với Tây Âu trong thế kỷ mười bốn? Vì sao sự cân bằng quyền lực giữa Quốc vương và Quốc hội ở Anh lại khác Pháp và Tây Ban Nha? Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, ngay cả các xã hội ít phức tạp hơn xã hội hiện đại của chúng ta rất nhiều cũng tạo ra các thể chế chính trị và kinh tế mà có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống của các thành viên của nó. Điều này đúng ngay cả cho những người săn bắt-hái lượm, như chúng ta thấy từ các xã hội sống sót như dân tộc San của Botswana hiện đại, những người không canh tác chăn nuôi hay thậm chí không sống trong các vùng định cư lâu dài. Không hai xã hội nào tạo ra cùng các thể chế; chúng có những phong tục riêng biệt, các hệ thống quyền sở hữu khác nhau, và những cách khác nhau để chia một con thú bị giết hay của cải cướp được từ các nhóm khác. Một số công nhận uy quyền của những người già, số khác thì không; một số đạt được mức độ tập trung hóa chính trị nào đó ngay từ sớm, nhưng số khác thì không. Các xã hội liên tục phải chịu xung đột kinh tế và chính trị mà được giải quyết theo những cách khác nhau bởi vì những sự khác biệt lịch sử cụ thể, vai trò của các cá nhân, hay các yếu tố ngẫu nhiên đơn thuần. Những sự khác biệt này bắt đầu thường nhỏ, nhưng chúng tích tụ, tạo ra một quá trình trôi thể chế (institutional drift). Hệt như hai quần thể sinh vật được cô lập sẽ từ từ trôi xa nhau trong quá trình trôi dạt di truyền, bởi vì những đột biến gen ngẫu nhiên tích tụ, hai xã hội mặt khác giống nhau cũng sẽ chầm chậm trôi xa nhau về mặt thể chế. Mặc dù, giống như trôi dạt di truyền, trôi dạt thể chế không có con đường được xác định trước và thậm chí không cần tích tụ; qua hàng thế kỷ nó có thể dẫn đến những khác biệt có thể nhận thấy, đôi khi quan trọng. Những sự khác biệt do trôi dạt thể chế gây ra trở nên đặc biệt quan trọng, bởi vì chúng ảnh hưởng đến cách xã hội phản ứng với những thay đổi về hoàn cảnh kinh tế hoặc chính trị trong các bước ngoặt. Các hình mẫu phân kỳ phong phú về phát triển kinh tế xung quanh thế giới phụ thuộc vào sự tác động qua lại của các bước ngoặt và sự trôi dạt thể chế. Các thể chế chính trị và kinh tế hiện hành – đôi khi được định hình bởi một quá trình dài của sự trôi dạt thể chế và đôi khi như kết quả nảy sinh từ các phản ứng khác nhau đối với các bước ngoặt trước – tạo ra một cái đe mà trên đó sự thay đổi tương lai
  • 130. 110 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI sẽ được rèn. Cái Chết Đen và sự mở rộng thương mại thế giới sau 1600 đã là hai bước ngoặt lớn cho các cường quốc Âu châu và đã tương tác với các thể chế ban đầu khác nhau để tạo ra một sự phân kỳ lớn. Bởi vì trong năm 1346 ở Tây Âu các nông dân đã có nhiều quyền lực và sự tự trị hơn những người nông dân ở Đông Âu, Cái Chết Đen đã dẫn đến sự tan rã của chủ nghĩa phong kiến ở phía Tây và dẫn đến Chế độ Nông Nô Thứ hai ở phía Đông. Bởi vì Đông và Tây Âu đã bắt đầu phân kỳ trong thế kỷ mười bốn, các cơ hội kinh tế mới của các thế kỷ mười bảy, mười tám, và mười chín cũng đã có các hệ lụy khác nhau cơ bản đối với các phần khác nhau này của châu Âu. Bởi vì trong năm 1600 sự kìm kẹp của Quốc vương ở nước Anh đã yếu hơn ở Pháp và Tây Ban Nha, thương mại Đại Tây Dương đã mở đường cho việc tạo ra các thể chế mới với chủ nghĩa đa nguyên lớn hơn ở nước Anh, trong khi lại tăng cường các quốc vương Pháp và Tây Ban Nha. CON ĐƯỜNG TÙY THUỘC CỦA LỊCH SỬ Những kết quả của các sự kiện trong các bước ngoặt được định hình bởi sức nặng của lịch sử, như các thể chế kinh tế và chính trị hiện hành định hình sự cân bằng quyền lực và phác họa cái gì là khả thi về mặt chính trị. Kết quả, tuy vậy, không phải là được định trước về mặt lịch sử, mà là tùy thuộc. Con đường chính xác của sự phát triển thể chế trong các giai đoạn này phụ thuộc vào lực nào trong các lực đối địch nhau sẽ thành công, các nhóm nào sẽ có khả năng thành lập các liên minh hữu hiệu, và các lãnh đạo nào sẽ có khả năng xếp đặt các sự kiện có lợi cho họ. Vai trò của sự tùy thuộc ngẫu nhiên có thể được minh họa bởi những nguồn gốc của các thể chế chính trị bao gồm ở nước Anh. Không chỉ đã không có gì được quyết định trước trong chiến thắng của các nhóm tranh nhau để hạn chế quyền lực của Quốc vương và để cho các thể chế đa nguyên hơn trong Cách mạng Vinh quang năm 1688, mà toàn bộ con đường dẫn đến cuộc cách mạng chính trị này đã bị phó mặc cho các sự kiện ngẫu nhiên. Chiến thắng của các nhóm thắng đã liên kết một cách không lay chuyển được với bước ngoặt được tạo ra bởi sự tăng lên của thương mại Đại Tây Dương mà đã làm cho các thương gia giàu lên và mạnh bạo lên chống lại Quốc vương. Nhưng một thế kỷ trước đã còn xa mới hiển nhiên rằng nước Anh sẽ có bất cứ khả năng nào để thống trị các biển, để thuộc địa hóa nhiều phần của vùng Caribe và Bắc Mỹ, hay để chiếm phần nhiều
  • 131. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 111 đến vậy của thương mại béo bở với châu Mỹ và phương Đông. Elizabeth I đã không và các quốc vương Tudor trước bà cũng đã chẳng xây dựng được một hải quân hùng mạnh và thống nhất. Hải quân Anh đã dựa vào các tàu cướp biển và các tàu thương mại độc lập và đã yếu hơn đội tàu Tây Ban Nha rất nhiều. Tuy nhiên lợi nhuận của thương mại Đại Tây Dương đã thu hút các tàu cướp biển này, thách thức độc quyền của Tây Ban Nha trên đại dương. Năm 1588 những người Tây Ban Nha đã quyết định để chấm dứt những thách thức này đối với độc quyền của họ, cũng như việc nước Anh can thiệp vào Hà Lan thuộc Tây Ban Nha, mà lúc đó đang chiến đấu chống lại Tây Ban Nha vì độc lập. Quốc vương Tây Ban Nha Philip I đã cử một đội tàu hùng mạnh, đội Armada, được Công tước Medina Sidonia chỉ huy. Đã dường như là một kết luận bị từ bỏ đối với nhiều người rằng người Tây Ban Nha sẽ chắc chắn đánh bại nước Anh, củng cố độc quyền của họ ở Đại Tây Dương, và có lẽ lật đổ Elizabeth I, cuối cùng có lẽ có được sự kiểm soát các đảo Anh. Thế nhưng cái gì đó hoàn toàn khác đã xảy ra. Thời tiết xấu và các sai lầm chiến lược về phía Sidonia, người được đặt vào vị trí phụ trách vào phút chót sau khi một chỉ huy có kinh nghiệm hơn bị chết, đã làm cho Armada Tây Ban Nha mất lợi thế của họ. Bất chấp mọi sự chênh lệch, những người Anh đã phá hủy phần lớn đội tàu của các đối thủ mạnh hơn của họ. Bây giờ Đại Tây Dương đã mở ra cho những người Anh theo các điều kiện ngang bằng hơn. Không có chiến thắng ít có khả năng xảy ra này cho những người Anh, thì các sự kiện mà sẽ tạo ra bước ngoặt biến đổi và đẻ ra các thể chế chính trị đa nguyên một cách đặc biệt của nước Anh sau-1688 đã chẳng bao giờ bắt đầu. Bản đồ 9 cho thấy dấu vết của các vụ đắm tàu Tây Ban Nha khi Armada bị rượt đuổi ngay quanh các đảo Anh. Tất nhiên, trong năm 1588 chẳng ai đã có thể thấy trước các hệ quả của chiến thắng may mắn của Anh. Ít người lúc đó có lẽ đã hiểu được rằng việc này sẽ gây ra một bước ngoặt dẫn đến một cách mạng chính trị lớn một thế kỷ sau. Không có giả định nào rằng bất cứ bước ngoặt nào sẽ dẫn đến một cách mạng chính trị thành công hay đến một sự thay đổi tốt hơn. Lịch sử đầy rẫy các thí dụ về các cuộc cách mạng, các phong trào cấp tiến thay thế một chính thể chuyên chế bằng một chính thể bạo chúa khác, theo một hình mẫu mà nhà xã hội học Đức Robert Michels đã gán cho cái tên quy luật sắt của chính thể đầu sỏ, một dạng đặc biệt độc hại của vòng luẩn quẩn. Sự chấm dứt của chủ nghĩa thuộc địa trong các
  • 132. 112 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI thập niên sau Chiến tranh Thế giới Lần thứ Hai đã tạo ra các bước ngoặt cho nhiều thuộc địa trước kia. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp ở châu Phi hạ- Sahara và nhiều trường hợp ở châu Á, các chính phủ sau độc lập đã đơn giản lấy ra một trang từ cuốn sách của Robert Michels và đã lặp lại và tăng cường những sự lạm dụng của các chính phủ tiền nhiệm của họ, thường đã thu hẹp một cách nghiêm ngặt sự phân bổ quyền lực chính trị, dỡ bỏ các hạn chế, và đã làm xói mòn các khuyến khích ít ỏi mà các thể chế kinh tế đã tạo ra cho đầu tư và tiến bộ kinh tế. Đã chỉ có vài trường hợp, vài xã hội như Botswana (xem trang 404-414), mà các bước ngoặt đã được dùng để mở ra một quá trình thay đổi chính trị và kinh tế mà mở đường cho tăng trưởng kinh tế. Các bước ngoặt cũng có thể dẫn đến sự thay đổi lớn theo hướng các thể chế khai thác hơn là theo hướng xa khỏi chúng. Các thể chế bao gồm, dẫu cho có vòng phản hồi riêng của chúng, vòng thiện, cũng có thể đảo ngược tiến trình và
  • 133. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 113 trở nên khai thác hơn một cách từ từ bởi vì các thách thức trong các bước ngoặt – và liệu điều này có xảy ra hay không, lần nữa, lại tùy thuộc. Cộng hòa Venice, như chúng ta sẽ thấy ở chương 6, đã tiến hành những bước dài quan trọng theo hướng các thể chế chính trị và kinh tế bao gồm trong thời trung cổ. Nhưng trong khi các thể chế như vậy dần dần trở nên mạnh hơn ở nước Anh sau Cách mạng Vinh quang năm 1688, thì ở Venice cuối cùng chúng đã biến mình thành các thể chế khai thác dưới sự kiểm soát của một elite hẹp mà đã độc quyền hóa cả các cơ hội kinh tế lẫn quyền lực chính trị. HIỂU ĐỊA HÌNH ĐỊA THẾ Sự nổi lên của một nền kinh tế thị trường dựa trên các thể chế bao gồm và sự tăng trưởng kinh tế bền vững ở nước Anh thế kỷ mười tám đã truyền đi các gợn sóng lăn tăn quanh thế giới, nhất là bởi vì nó đã cho phép nước Anh thuộc địa hóa một phần lớn của thế giới. Nhưng nếu ảnh hưởng của sự tăng trưởng kinh tế của Anh chắc chắn đã lan ra khắp thế giới, thì các thể chế kinh tế và chính trị tạo ra sự tăng trưởng đó đã không làm vậy một cách tự động. Sự truyền bá của Cách mạng Công nghiệp đã có những tác động khác nhau lên thế giới theo cùng cách mà Cái Chết Đen đã có những ảnh hưởng khác nhau đến Tây và Đông Âu, và theo cùng cách mà sự mở rộng thương mại Đại Tây Dương đã có những tác động khác nhau ở Anh và Tây Ban Nha. Chính là các thể chế tại chỗ ở các phần khác nhau của thế giới là cái đã xác định sự tác động, và các thể chế này quả thực đã khác nhau – những sự khác biệt nhỏ đã được khuếch đại theo thời gian bởi các bước ngoặt trước. Những sự khác biệt thể chế này và các hệ lụy của chúng đã có xu hướng tồn tại dai dẳng cho đến hiện nay tại vì các vòng thiện và các vòng luẩn quẩn, mặc dù một cách không hoàn hảo, và là chìa khóa để hiểu bằng cách nào bất bình đẳng thế giới nảy sinh và bản chất của tình hình [địa hình địa thế] xung quanh chúng ta. Một số phần của thế giới đã phát triển các thể chế rất gần các thể chế ở nước Anh, mặc dù bằng một con đường rất khác. Điều này đã đặc biệt đúng đối với một số “thuộc địa định cư” Âu châu như Australia, Canada, và Hoa Kỳ, dẫu cho các thể chế của họ đã vừa hình thành khi Cách mạng Công nghiệp bắt đầu tiến triển. Như chúng ta đã thấy trong chương 1, một quá trình bắt đầu với việc thành lập thuộc địa Jamestown năm 1607 và lên đỉnh điểm trong Chiến tranh Độc Lập và
  • 134. 114 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI ban hành Hiến pháp Hoa Kỳ, chia sẻ nhiều của cùng các đặc trưng như cuộc đấu tranh dài của Quốc hội ở Anh chống lại chế độ quân chủ, vì nó cũng đã dẫn đến một nhà nước tập trung với các thể chế chính trị đa nguyên. Cách mạng Công nghiệp sau đó đã lan nhanh sang các nước như vậy. Tây Âu, trải qua nhiều quá trình lịch sử như nhau, đã có các thể chế giống của Anh vào thời Cách mạng Công nghiệp. Đã có những khác biệt nhỏ nhưng có hậu quả lớn giữa nước Anh và phần còn lại [của Tây Âu], mà là lý do vì sao Cách mạng Công nghiệp đã xảy ra ở Anh chứ không phải ở Pháp. Cuộc cách mạng này sau đó đã tạo ra một tình thế hoàn toàn mới và các tập khác nhau đáng kể của những thách thức đối với các chế độ Âu châu, mà đến lượt lại đẻ ra một tập mới của những xung đột lên đỉnh điểm trong Cách mạng Pháp. Cách mạng Pháp đã là một bước ngoặt khác mà đã dẫn đến việc các thể chế của Tây Âu hội tụ với các thể chế của Anh, trong khi Đông Âu đã phân kỳ thêm. Phần còn lại của thế giới đã đi theo các quỹ đạo thể chế khác nhau. Thuộc địa hóa Âu châu chuẩn bị cho sự phân kỳ thể chế ở châu Mỹ, nơi ngược lại với các thể chế bao gồm được phát triển ở Hoa Kỳ và Canada các thể chế khai thác đã nổi lên ở Mỹ Latin, mà giải thích cho các hình mẫu bất bình đẳng mà chúng ta thấy ở châu Mỹ. Các thể chế chính trị và kinh tế khai thác của những người Tây Ban Nha chinh phục ở Mỹ Latin đã kéo dài, buộc phần lớn vùng này phải chịu nghèo. Argentina và Chile, tuy vậy, đã sống khấm khá hơn hầu hết các nước khác trong vùng. Chúng đã có ít người bản địa hay sự phong phú khoáng sản và đã “bị lãng quên” trong lúc những người Tây Ban Nha đã tập trung vào các vùng đất của các nền văn minh Aztec, Mya, và Inca. Không ngẫu nhiên vùng nghèo nhất của Argentina là vùng tây bắc, phần duy nhất của Argentina đã hội nhập vào nền kinh tế thuộc địa Tây Ban Nha. Sự nghèo dai dẳng của nó, các di sản của các thể chế khai thác, là giống cái được tạo ra bởi mita Potosí ở Bolivia và Peru (trang 16-18). Châu Phi đã là phần của thế giới với các thể chế ít có khả năng nhất để tận dụng các cơ hội do Cách mạng Công nghiệp tạo ra. Suốt chí ít một ngàn năm qua, ngoài các ổ nhỏ và trong các giai đoạn hạn chế, châu Phi đã tụt hậu sau phần còn lại của thế giới về mặt công nghiệp, sự phát triển chính trị, và thịnh vượng. Nó là phần của thế giới nơi các nhà nước tập trung đã hình thành rất muộn và rất mỏng manh. Nơi chúng đã hình thành, chúng chắc đã là chính thể hết sức chuyên chế như Kongo và thường tồn tại không lâu, và thường sụp đổ. Châu Phi chia sẻ quỹ
  • 135. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 115 đạo thiếu nhà nước tập trung này với các nước như Afghanistan, Haiti, và Nepal, mà cũng đã không áp đặt được trật tự trên lãnh thổ của chúng và không tạo ra được bất cứ gì giống với sự ổn định để đạt được ngay cả một sự tiến bộ nhỏ về kinh tế. Mặc dù nằm ở các phần rất khác nhau của thế giới, Afghanistan, Haiti, và Nepal có nhiều nét chung về mặt thể chế với hầu hết các quốc gia ở châu Phi hạ- Sahara, và như thế là một số trong các nước nghèo nhất thế giới hiện nay. Các thể chế Phi châu đã tiến hóa ra sao thành hình thức hiện tại hết sức khai thác của chúng lại minh họa quá trình trôi dạt thể chế bị ngắt quãng bởi các bước ngoặt, nhưng thời gian này thường với những kết quả hết sức tai ác, đặc biệt trong thời kỳ mở rộng buôn bán nô lệ xuyên Đại Tây Dương. Đã có những cơ hội kinh tế mới cho Vương quốc Kongo khi các nhà buôn Âu châu đến. Thương mại đường dài mà đã biến đổi châu Âu cũng đã biến đổi Vương quốc Kongo, nhưng lần nữa, những khác biệt thể chế ban đầu là quan trọng. Chính thể chuyên chế Kongo đã hóa phép thần thông từ một xã hội hoàn toàn thống trị, với các thể chế kinh tế chiếm đoạt toàn bộ sản lượng nông nghiệp của các công dân của nó, thành một xã hội bắt hàng loạt người dân làm nô lệ và bán họ cho những người Bồ Đào Nha để đổi lấy súng đạn và các hàng hóa xa xỉ cho elite Kongo. Những sự khác biệt ban đầu giữa nước Anh và Kongo đã có nghĩa rằng trong khi các cơ hội thương mại đường dài mới đã tạo ra một bước ngoặt hướng tới các thể chế đa nguyên chính trị ở nước Anh, chúng cũng đã dập tắt bất cứ hy vọng nào về chính thể chuyên chế bị đánh bại ở Kongo. Ở phần lớn châu Phi các khoản lợi nhuận đáng kể đã phải là từ bán nô lệ, đã dẫn không chỉ đến sự tăng cường của nó và thậm chí các quyền sở hữu không an toàn nhiều hơn, mà còn dẫn đến chiến tranh khốc liệt và sự hủy hoại nhiều thể chế hiện tồn; trong vòng vài thế kỷ, bất cứ quá trình nào về tập trung hóa nhà nước đã đều bị đảo ngược hoàn toàn, và nhiều nhà nước Phi châu phần lớn đã sụp đổ. Mặc dù một số nhà nước mới, và đôi khi hùng mạnh, đã hình thành để lợi dụng việc buôn bán nô lệ, chúng đã dựa trên chiến tranh và cướp bóc. Bước ngoặt của việc tìm ra châu Mỹ đã có thể giúp nước Anh phát triển các thể chế bao gồm, nhưng nó đã làm cho các thể chế ở châu Phi còn khai thác hơn. Mặc dù buôn bán nô lệ đã hầu như chấm dứt vào năm 1807, chủ nghĩa thực dân Âu châu tiếp sau không chỉ đã đảo ngược việc hiện đại hóa kinh tế mới nảy sinh ở các phần của miền nam và tây châu Phi, mà cũng cản trở bất cứ khả năng
  • 136. 116 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI nào của cải cách thể chế bản địa. Điều này đã có nghĩa rằng ngay cả bên ngoài các vùng như Congo, Madagascar, Namibia, và Tanzania, các vùng nơi sự cướp bóc, xâu xé hàng loạt, và thậm chí giết người quy mô lớn đã là lệ thường, đã có ít cơ hội cho châu Phi để thay đổi con đường thể chế của nó. Còn tệ hơn, cấu trúc của sự thống trị thuộc địa đã để lại trong các năm 1960 cho châu Phi một di sản thể chế phức tạp hơn và độc hại hơn đầu thời kỳ thuộc địa hóa. Sự phát triển các thể chế chính trị và kinh tế ở nhiều thuộc địa Phi châu đã có nghĩa rằng thay vì việc tạo ra một bước ngoặt cho những sự cải thiện trong các thể chế của chúng, sự độc lập đã tạo ra một sự mở cửa cho các nhà lãnh đạo vô lương tâm để tiếp quản và tăng cường sự khai thác mà các nhà thực dân Âu châu đã nắm quyền điều khiển. Những khuyến khích chính trị mà các cấu trúc này tạo ra đã dẫn đến một kiểu chính trị mà nó đã tái tạo các hình mẫu lịch sử của các quyền sở hữu không an toàn và không hiệu quả dưới các nhà nước với các xu hướng chuyên chế mạnh nhưng tuy nhiên lại thiếu bất cứ nhà chức trách tập trung nào trên các lãnh thổ của họ. Cách mạng Công nghiệp vẫn chưa lan đến châu Phi bởi vì lục địa đó đã trải qua một vòng luẩn quẩn dài của sự tồn tại dai dẳng và sự tái tạo của các thể chế chính trị và kinh tế khai thác. Botswana là ngoại lệ. Như chúng ta sẽ thấy (trang 404-416), trong thế kỷ thứ mười chín, Vua Khama, ông nội của thủ tướng đầu tiên của Botswana khi độc lập, Seretse Khama, đã khởi xướng những thay đổi thể chế để hiện đại hóa các thể chế chính trị và kinh tế của bộ lạc ông. Hết sức độc đáo, những thay đổi này đã không bị phá hủy trong thời kỳ thuộc địa, một phần như hệ quả của các thách thức thông minh của Khama và các thủ lĩnh khác đối với nhà cầm quyền thuộc địa. Sự tác động qua lại của chúng với bước ngoặt, mà sự độc lập khỏi ách thống trị thuộc địa đã tạo ra, đã đặt nền móng cho thành công kinh tế và chính trị của Botswana. Nó đã là một trường hợp khác về những khác biệt lịch sử nhỏ mà quan trọng. Có một xu hướng để xem các sự kiện lịch sử như các hệ quả không thể tránh được của các lực đã bén rễ sâu. Trong khi chúng ta đặt sự nhấn mạnh nhiều đến lịch sử của các thể chế kinh tế và chính trị tạo ra các vòng thiện và vòng luẩn quẩn, sự tùy thuộc ngẫu nhiên như thế nào, như chúng ta đã nhấn mạnh trong bối cảnh của sự phát triển các thể chế ở Anh, có thể luôn luôn là một yếu tố. Seretse Khama, theo học ở Anh trong các năm 1940, đã phải lòng Ruth Williams, một
  • 137. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 117 phụ nữ da trắng. Như một hậu quả, chế độ phân biệt chủng tộc apartheid ở Nam Phi đã thuyết phục chính phủ Anh cấm ông khỏi xứ bảo hộ, lúc đó được gọi là Bechuanaland (mà bộ máy hành chính của nó đã nằm dưới Cao Ủy Nam Phi), và ông đã từ bỏ vương vị của mình. Khi ông trở về để lãnh đạo cuộc chiến đấu chống thực dân, ông đã làm vậy với sự chủ ý không bám lấy các thể chế truyền thống mà cải biên chúng cho phù hợp với thế giới hiện đại. Khama đã là một người phi thường, đã không quan tâm đến sự giàu có cá nhân và đã tận tâm xây dựng tổ quốc ông. Hầu hết các nước Phi châu khác đã không được may mắn như vậy. Cả hai thứ đều quan trọng, sự phát triển lịch sử của các thể chế ở Botswana và các yếu tố tùy thuộc ngẫu nhiên mà đã dẫn đến việc các thể chế này được kiến tạo hơn là bị đạp đổ hay bị làm cho méo mó như tại các nơi khác ở châu Phi. TRONG THẾ KỶ THỨ MƯỜI CHÍN, chính thể chuyên chế, không khác mấy chính thể chuyên chế ở châu Phi hay Đông Âu, đã chặn con đường công nghiệp hóa ở phần lớn châu Á. Ở Trung Quốc, nhà nước đã là chính thể chuyên chế mạnh, và các thành phố, các thương gia, và các nhà công nghiệp độc lập đã hoặc không tồn tại hay đã yếu hơn nhiều về mặt chính trị. Trung Quốc đã là một cường quốc hàng hải lớn và đã dính líu sâu vào thương mại đường dài hàng thế kỷ, trước những người Âu châu. Nhưng nó đã ngoảnh mặt khỏi các đại dương đúng vào lúc nhầm thời, khi các hoàng đế nhà Minh đã quyết định vào cuối thế kỷ mười bốn và đầu thế kỷ mười lăm rằng thương mại đường dài tăng lên và sự phá hủy sáng tạo mà nó có thể mang lại chắc sẽ đe dọa sự cai trị của họ. Ở Ấn Độ, sự trôi dạt thể chế đã hoạt động theo cách khác và đã dẫn đến sự phát triển của hệ thống caste (đẳng cấp) kế truyền cứng nhắc độc đáo mà đã hạn chế sự vận hành của các thị trường và sự phân bổ lao động giữa các nghề một cách nghiêm trọng hơn rất nhiều so với trật tự phong kiến ở châu Âu trung cổ. Nó cũng đã làm nòng cốt cho một hình thức mạnh khác của chính thể chuyên chế dưới thời các nhà cai trị Mughal. Hầu hết các nước Âu châu đã có các hệ thống giống nhau trong Thời Trung Cổ. Các họ Anglo-Saxon hiện đại như Baker, Cooper, và Smith là các hậu duệ trực tiếp của các loại nghề kế truyền. Các baker làm bánh mỳ, cooper đóng thùng, smith rèn kim loại. Nhưng các loại nghề này đã chẳng bao giở cứng nhắc như những sự phân biệt đẳng cấp Ấn Độ và đã dần dần trở nên vô nghĩa như tên tiên đoán nghề của một cá nhân. Mặc dù các thương gia
  • 138. 118 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Ấn Độ đã buôn bán khắp Ấn Độ Dương, hệ thống đẳng cấp và chính thể chuyên chế Mughal đã là những cản trở nghiêm trọng đối với sự phát triển các thể chế bao gồm ở Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ mười chín, tình hình thậm chí còn ít thân thiện hơn cho công nghiệp hóa vì Ấn Độ đã trở thành một thuộc địa khai thác của người Anh. Trung Quốc đã chẳng bao giờ chính thức bị thuộc địa hóa bởi những người Âu châu, nhưng sau khi những người Anh đã thành công đánh bại người Trung Quốc trong các cuộc Chiến tranh Thuốc Phiện giữa 1839 và 1842, và rồi lần nữa giữa 1856 và 1860, Trung Quốc đã phải ký một loạt các thỏa ước nhục nhã và cho phép các hàng hóa xuất khẩu Âu châu xâm nhập. Vì Trung Quốc, Ấn Độ, và các nước khác đã không tận dụng được các cơ hội thương mại và công nghiệp, châu Á, trừ Nhật Bản, đã tụt lại sau khi Tây Âu tiến lên dẫn đầu. TIẾN TRÌNH phát triển thể chế mà Nhật Bản đã vạch ra trong thế kỷ thứ mười chín lần nữa lại minh họa sự tương tác giữa các bước ngoặt và những khác biệt nhỏ do trôi dạt thể chế gây ra. Nhật Bản, giống Trung Quốc, đã dưới sự cai trị chuyên chế. Nhà Tokugawa đã tiếp quản năm 1600 và đã cai trị một hệ thống phong kiến mà cũng đã cấm thương mại quốc tế. Nhật Bản cũng đã đối mặt với một bước ngoặt được tạo ra bởi sự can thiệp phương Tây khi bốn tàu chiến Hoa Kỳ, do Matthew C. Perry chỉ huy, đã vào Vịnh Edo vào tháng Sáu 1853, đòi những nhượng bộ thương mại giống như các nhượng bộ mà Anh nhận được từ Trung Quốc trong các cuộc Chiến tranh Thuốc phiện. Nhưng bước ngoặt này đã diễn ra một cách rất khác ở Nhật Bản. Bất chấp sự gần nhau và những tương tác thường xuyên của chúng, vào thế kỷ mười chín, về mặt thể chế Trung Quốc và Nhật Bản đã trôi dạt xa nhau rồi. Trong khi sự cai trị của nhà Tokugawa ở Nhật Bản là chuyên chế và mang tính khai thác, nó đã chỉ có một ảnh hưởng mong manh đến các nhà lãnh đạo của các lãnh địa phong kiến lớn khác và đã dễ bị thách thức. Cho dù đã có các cuộc nổi dậy nông dân và bất hòa dân sự, chính thể chuyên chế ở Trung Quốc đã mạnh hơn, và phe đối lập đã ít được tổ chức và tự trị hơn. Đã không có thế lực tương đương nào của các lãnh đạo các lãnh địa phong kiến khác ở Trung Quốc những người đã có thể thách thức sự cai trị chuyên chế của hoàng đế và vạch ra một con đường thể chế khả dĩ khác. Sự khác biệt thể chế này, về nhiều phương diện là nhỏ so với những khác biệt tách Trung Quốc và Nhật Bản khỏi Tây Âu, đã có những hệ quả quyết định trong bước ngoặt được tạo
  • 139. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 119 ra bởi sự đến mạnh mẽ của những người Anh và Mỹ. Trung Quốc đã tiếp tục con đường chuyên chế của mình sau các cuộc Chiến tranh Thuốc Phiện, trong khi sự đe dọa Mỹ đã củng cố phe đối lập với sự cai trị Tokugawa ở Nhật Bản và đã dẫn đến một cuộc cách mạng chính trị, Minh trị Duy tân, như chúng ta sẽ thấy trong chương 10. Cuộc cách mạng chính trị Nhật này đã cho phép hình thành các thể chế chính trị bao gồm hơn và các thể chế kinh tế bao gồm hơn rất nhiều, và đã đặt nền móng cho sự tăng trưởng nhanh sau đó của Nhật Bản, trong khi Trung Quốc sống khổ cực dưới ách chính thể chuyên chế. Nhật Bản đã phản ứng ra sao đối với thách thức do các tàu chiến Hoa Kỳ áp đặt, bằng cách bắt đầu một quá trình biến đổi thể chế cơ bản, giúp chúng ta hiểu một khía cạnh khác của địa hình địa thế xung quanh chúng ta: những sự chuyển đổi từ trì trệ sang tăng trưởng nhanh. Nam Hàn, Đài Loan, và cuối cùng Trung Quốc đã đạt các tốc độ tăng trưởng kinh tế cao dễ gây tai nạn sau Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai thông qua một con đường tương tự như con đường Nhật Bản đã đi. Ở mỗi trong các trường hợp này, tăng trưởng đã đến sau những thay đổi lịch sử về thể chế kinh tế của các nước đó – mặc dù không luôn luôn về thể chế chính trị của họ, như trường hợp của Trung Quốc làm nổi bật. Logic của các đoạn tăng trưởng nhanh đi đến một kết thúc đột ngột và sau đó bị đảo ngược như thế nào cũng được thuật lại. Theo cùng cách mà các bước quyết định hướng đến các thể chế kinh tế bao gồm có thể châm ngòi cho sự tăng trưởng kinh tế nhanh, một sự quay ngoắt đột ngột khỏi các thể chế bao gồm có thể dẫn đến trì trệ kinh tế. Nhưng thường xuyên hơn, những sự sụp đổ của tăng trưởng nhanh, như ở Argentina hay Liên Xô, là một hậu quả của sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác sắp đến hồi kết liễu. Như chúng ta đã thấy, điều này có thể xảy ra hoặc bởi vì sự tranh giành nội bộ về các đồ ăn cướp được của sự khai thác, dẫn đến sự sụp đổ của chế độ, hay bởi vì sự thiếu vắng cố hữu của đổi mới và sự phá hủy sáng tạo dưới các thể chế khai thác đặt một giới hạn lên sự tăng trưởng bền vững. Những người Soviet đã gặp phải khó khăn với các giới hạn này thế nào sẽ được thảo luận chi tiết hơn trong chương tiếp theo. NẾU CÁC THỂ CHẾ chính trị và kinh tế của Mỹ Latin hơn năm trăm năm vừa qua đã được định hình bởi chủ nghĩa thuộc địa Tây Ban Nha, thì các thể chế của
  • 140. 120 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Trung Đông đã được định hình bởi chủ nghĩa thuộc địa Ottoman. Năm 1453 những người Ottoman dưới thời Sultan Mehmet II đã chiếm Constatinople, biến nó thành thủ đô của họ. Trong phần còn lại của thế kỷ, những người Ottoman đã chinh phục các phần lớn của vùng Balkan và hầu hết phần còn lại của Thổ Nhĩ Kỳ. Trong nửa đầu của thế kỷ mười sáu, sự cai trị Ottoman đã lan ra khắp Trung Đông và Bắc Phi. Vào năm 1566, khi Sultan Süleyman I, được biết đến như Ngài Tráng Lệ, chết, đế chế của họ đã trải từ Tunesia ở phía Đông, sang Ai Cập, suốt lộ trình đến Mecca ở Bán Đảo Arab, và lên đến chỗ bây giờ là Iraq hiện đại. Nhà nước Ottoman đã là chính thể chuyên chế, với sultan có trách nhiệm giải trình với vài người và chẳng chia quyền lực với ai. Các thể chế kinh tế mà những người Ottoman áp đặt đã mang tính khai thác cao. Đã không có quyền sở hữu về đất đai, mà về mặt hình thức tất cả thuộc về nhà nước. Đánh thuế đất và sản lượng nông nghiệp, cùng với của cướp được từ chiến tranh, đã là nguồn thu chính của chính phủ. Tuy nhiên, nhà nước Ottoman đã không thống trị Trung Đông theo cùng cách mà nó đã có thể thống trị vùng trung tâm của nó ở Anatolia [phần lớn của Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại] hay thậm chí ở mức độ mà nhà nước Tây Ban Nha đã thống trị xã hội Mỹ Latin. Nhà nước Ottoman đã liên tục bị thách thức bởi những người Bedouin và các cường quốc bộ lạc khác trong Bán Đảo Arab. Nó đã thiếu không chỉ năng lực để áp đặt một trật tự ổn định ở phần lớn Trung Đông mà cũng thiếu năng lực hành chính để thu thuế. Cho nên nó đã “giao” cho các cá nhân, bán quyền cho những người khác để thu thuế theo bất cứ cách nào họ có thể. Các nông dân được giao quyền thu thuế này, nông dân thuế, đã trở nên tự trị và hùng mạnh. Thuế suất trong các lãnh thổ Trung Đông đã rất cao, thay đổi từ một nửa đến hai phần ba sản lượng mà các nông dân làm ra. Phần nhiều của các khoản thuế này được nông dân thuế giữ lại cho mình. Bởi vì nhà nước Ottoman đã không thiết lập được một trật tự ổn định trong các vùng này, các quyền sở hữu còn xa mới an toàn, và đã có rất nhiều sự vô pháp luật và nghề ăn cướp khi các nhóm có vũ trang tranh nhau kiểm soát địa phương. Ở Palestin, chẳng hạn, tình hình đã kinh khủng đến mức bắt đầu vào cuối thế kỷ mười sáu, các nông dân đã bỏ phần lớn đất đai màu mỡ và chuyển lên các vùng núi cao, mà đã cho họ sự bảo vệ lớn hơn chống bọn cướp. Các thể chế kinh tế khai thác trong các vùng đô thị của Đế chế Ottoman cũng đã không ít ngột ngạt hơn. Thương mại đã dưới sự kiểm soát của nhà nước, và các nghề đã bị điều tiết một cách nghiêm ngặt bởi các phường hội hay các độc quyền.
  • 141. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 121 Hậu quả đã là, trong thời của Cách mạng Công nghiệp các thể chế kinh tế của Trung Đông đã là các thể chế khai thác. Vùng này đã trì trệ về mặt kinh tế. Vào các năm 1840, những người Ottoman đã thử cải cách các thể chế – thí dụ, bằng đảo ngược việc giao cho nông dân thu thuế và đưa các nhóm tự trị địa phương vào dưới sự kiểm soát. Nhưng chính thể chuyên chế đã kéo dài đến Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, và các nỗ lực cải cách đã bị ngăn trở bởi nỗi sợ thông thường về sự phá hủy sáng tạo và sự lo ngại giữa các nhóm elite rằng họ sẽ thua về mặt kinh tế và chính trị. Trong khi các nhà cải cách Ottoman đã nói về việc đưa vào quyền sở hữu tư nhân về đất nhằm làm tăng năng suất nông nghiệp, hiện trạng vẫn tồn tại dai dẳng bởi vì mong muốn kiểm soát chính trị và đánh thuế. Tiếp sau sự thuộc địa hóa Ottoman là thuộc địa hóa Âu châu sau 1918. Khi sự kiểm soát Âu châu chấm dứt, cùng động học mà chúng ta đã thấy ở châu Phi hạ- Sahara được giữ vững, với các thể chế thuộc địa khai thác được tiếp quản bởi các elite độc lập. Trong một số trường hợp, như chế độ quân chủ Jordan, các elite này đã là các tác phẩm trực tiếp của các cường quốc thuộc địa, nhưng việc này cũng xảy ra thường xuyên ở châu Phi, như chúng ta sẽ thấy. Các nước Trung Đông không có dầu ngày nay có mức thu nhập tương tự như các quốc gia nghèo ở Mỹ Latin. Họ đã không phải chịu các lực lượng gây bần cùng (immiserizing forces) như buôn bán nô lệ, và trong một giai đoạn dài họ đã hưởng lợi từ các dòng chảy công nghệ từ châu Âu. Trong thời Trung Cổ, bản thân Trung Đông về mặt kinh tế đã cũng là một phần tương đối tiên tiến của thế giới. Vì thế ngày nay nó không nghèo như châu Phi, nhưng đa số nhân dân vẫn sống trong nghèo khó. ⃰⃰ ⃰⃰ ⃰⃰ CHÚNG TA ĐÃ THẤY rằng các lý thuyết đựa vào địa lý, văn hóa, và sự dốt nát đều không hữu ích cho việc giải thích địa hình địa thế [tình hình] xung quanh chúng ta. Chúng không cung cấp một sự giải thích thỏa đáng cho các hình mẫu nổi bật của sự bất bình đẳng thế giới: sự thực rằng quá trình phân kỳ kinh tế đã bắt đầu với Cách mạng Công nghiệp ở nước Anh trong các thế kỷ thứ mười tám và mười chín, rồi sau đó lan ra Tây Âu và các thuộc địa định cư Âu châu; sự phân
  • 142. 122 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI kỳ dai dẳng giữa các phần khác nhau của châu Mỹ; sự nghèo khó của châu Phi và Trung Đông; sự phân kỳ giữa Đông và Tây Âu; và những sự chuyển đổi từ đình trệ sang tăng trưởng và đôi khi sự chấm dứt đột ngột của những cú thúc tăng trưởng. Lý thuyết của chúng ta giải thích được. Trong các chương còn lại, chúng ta sẽ thảo luận rất chi tiết lý thuyết thể chế này hoạt động ra sao và minh họa phạm vi rộng rãi của các hiện tượng mà nó có thể giải thích. Các hiện tượng này trải từ nguồn gốc của Cách mạng Đồ Đá Mới đến sự sụp đổ của nhiều nền văn minh, hoặc bởi vì các giới hạn nội tại của sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác, hay bởi vì các bước hạn chế theo hướng bao gồm bị đảo ngược. Chúng ta sẽ thấy bằng cách nào và vì sao các bước quyết định theo hướng các thể chế chính trị bao gồm đã được đưa ra trong Cách mạng Vinh quang ở nước Anh. Chúng ta sẽ xem cụ thể hơn các vấn đề sau đây: •Các thể chế bao gồm nổi lên thế nào từ sự tác động qua lại của bước ngoặt được tạo ra bởi thương mại Đại Tây Dương và bản chất của các thể chế Anh tồn tại trước đó. •Bằng cách nào các thể chế này tồn tại dai dẳng và trở nên được củng cố để đặt nền móng cho Cách mạng Công nghiệp, một phần nhờ vòng thiện, và một phần nhờ những diễn biến may mắn của sự tùy thuộc ngẫu nhiên. •Có bao nhiêu chế độ ngự trị trên các thể chế chuyên chế và khai thác đã chống lại một cách kiên định sự truyền bá các công nghệ mới được Cách mạng Công nghiệp mở ra. •Bản thân những người Âu châu đã dập tắt khả năng tăng trưởng kinh tế như thế nào ở nhiều phần của thế giới mà họ đã chinh phục. •Bằng cách nào vòng luẩn quẩn và quy luật sắt của chính thể đầu sỏ đã tạo ra một xu hướng mạnh mẽ cho các thể chế khai thác tồn tại dai dẳng, và như thế các vùng đất nơi Cách mạng Công nghiệp ban đầu đã không lan tới vẫn tương đối nghèo.
  • 143. NHỮNG KHÁC BIỆT NHỎ VÀ CÁC BƯỚC NGOẶT ● 123 •Vì sao Cách mạng Công nghiệp và các công nghệ mới khác đã không lan ra hay không chắc sẽ lan đến các nơi xung quanh thế giới ngày nay những nơi mà một mức độ tối thiểu của sự tập trung của nhà nước đã không đạt được. Việc thảo luận của chúng ta sẽ cũng chứng tỏ rằng các vùng nhất định mà đã tìm được cách để biến đổi các thể chế theo hướng bao gồm hơn, như Pháp, Nhật Bản, hay đã cản việc thiết lập các thể chế khai thác, như Hoa Kỳ hoặc Autralia, đã dễ tiếp thu hơn sự lan tỏa của Cách mạng Công nghiệp và đã đi trước các nước còn lại. Như ở nước Anh, đấy đã không luôn luôn là một quá trình suôn sẻ, và dọc đường, nhiều thách thức đối với các thể chế bao gồm đã được khắc phục, đôi khi bởi vì động học của vòng thiện, đôi khi nhờ con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử. Cuối cùng, chúng ta cũng sẽ thảo luận về sự thất bại của các quốc gia ngày nay bị ảnh hưởng nặng nề ra sao bởi lịch sử thể chế của họ, và bao nhiêu lời khuyên chính sách được thông báo bởi các giả thuyết không đúng và có thể làm cho lạc lối, và bằng cách nào các quốc gia vẫn có khả năng túm lấy các bước ngoặt và phá vỡ các khuôn đúc, các vòng kim cô để cải cách các thể chế của họ và bắt đầu bước lên con đường đến sự thịnh vượng lớn hơn.
  • 144. 5. “TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG”: TĂNG TRƯỞNG DƯỚI CÁC THỂ CHẾ KHAI THÁC TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI hững khác biệt thể chế đóng một vai trò cốt yếu trong giải thích sự tăng trưởng suốt các thời đại. Nhưng nếu hầu hết các xã hội trong lịch sử đều dựa vào các thể chế chính trị và kinh tế khai thác, thì điều này có ngụ ý rằng tăng trưởng chẳng bao giờ xảy ra? Hiển nhiên không. Các thể chế khai thác, theo chính logic của chúng, phải tạo ra của cải sao cho nó có thể được khai thác. Một nhà cai trị độc chiếm quyền lực chính trị và trong sự kiểm soát của một nhà nước tập trung có thể đưa ra một mức độ nào đó của luật và trật tự và một hệ thống các quy tắc, và kích thích hoạt động kinh tế. Nhưng sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác khác về bản chất với sự tăng trưởng do các thể chế bao gồm sinh ra. Quan trọng nhất, nó sẽ không là sự tăng trưởng bền vững mà đòi hỏi sự thay đổi công nghệ, mà đúng hơn là sự tăng trưởng dựa trên các công nghệ hiện tồn. Quỹ đạo kinh tế của Liên Xô cung cấp một minh họa sinh động về bằng cách nào nhà chức trách và các khuyến khích do nhà nước cung cấp có thể khởi xướng sự tăng trưởng nhanh dưới các thể chế khai thác và cuối cùng loại tăng trưởng này đi đến kết thúc và sụp đổ ra sao. CHIẾN TRANH THẾ GIỚI lần thứ nhất đã chấm dứt và các cường quốc chiến thắng và chiến bại đã gặp nhau tại Cung điện Versailles, bên ngoài Paris, để quyết định về các tham số của hòa bình. Nổi bật giữa những người tham gia đã là Woodrow Wilson, tổng thống Hoa Kỳ. Dễ nhận thấy là sự vắng mặt của bất cứ N
  • 145. TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 125 đại diện nào từ Nga. Chế độ Nga hoàng cũ đã bị những người Bolshevik lật đổ vào Tháng Mười 1917. Một cuộc nội chiến đã diễn ra ác liệt khi đó giữa quân Đỏ (Hồng quân, Bolshevik) và quân Trắng (Bạch vệ). Những người Anh, Pháp, và Mỹ đã gửi một lực lượng viễn chinh chống lại những người Bolshevik. Một phái đoàn do nhà ngoại giao trẻ, William Bullitt, dẫn đầu và một trí thức và nhà báo kỳ cựu Lincoln Steffens đã được cử đi Moscow để gặp Lenin và cố hiểu ý định của những người Bolshevik và tìm cách đi đến thỏa thuận với họ. Steffens đã trở nên nổi tiếng như một kẻ đập phá thánh tượng, một nhà báo hay bới móc người đã kiên trì lên án những tội lỗi xấu xa của chủ nghĩa tư bản ở Hoa Kỳ. Ông đã ở Nga vào thời cách mạng. Sự hiện diện của ông đã có ý định làm cho phái đoàn có vẻ đáng tin và không quá thù địch. Phái đoàn trở về với những nét phác họa của một đề nghị từ Lenin về chấp nhận gì cho hòa bình với Liên Xô mới được tạo ra. Steffens đã hết sức ngạc nhiên trước cái ông thấy như tiềm năng to lớn của chế độ Soviet. “Nước Nga Soviet,” ông nhớ lại trong tự truyện 1931 của mình, “là một chính phủ cách mạng với một kế hoạch tiến hóa. Kế hoạch của họ đã không phải là chấm dứt những điều xấu xa như nghèo khó và tiền của, sự hối lộ, đặc quyền, sự bạo ngược, và chiến tranh bằng hành động trực tiếp, mà để tìm ra và loại bỏ các nguyên nhân của chúng. Họ đã dựng lên một chế độ độc tài, được ủng hộ bởi một thiểu số được đào tạo, để tiến hành và duy trì trong vài thế hệ một sự sắp xếp lại một cách khoa học các lực lượng kinh tế mà đầu tiên sẽ dẫn đến dân chủ kinh tế và cuối cùng đến dân chủ chính trị”. Khi Steffens trở về từ chuyến công tác ngoại giao, ông đã đi thăm bạn cũ của mình là nhà điêu khắc Jo Davidson và thấy ông đang nặn một tượng bán thân của nhà tài chính giàu có Bernard Baruch. “Thế ông đã ở bên Nga,” Baruch nhận xét. Sefens trả lời, “tôi đã sang tương lai, và nó hoạt động.” Và ông đã có thể hoàn thiện cách ngôn này thành dạng đã đi vào lịch sử: “Tôi đã thấy tương lai, và nó hoạt động.” Ngay cho đến đầu các năm 1980, nhiều người phương Tây đã vẫn thấy tương lai ở Liên Xô, và họ tiếp tục tin rằng nó hoạt động. Theo một nghĩa nó đã, hay chí ít nó đã hoạt động một thời gian. Lenin chết năm 1924, và vào năm 1927 Joseph Stalin đã củng cố sự kìm kẹp của mình trên cả nước. Ông đã thanh trừng các địch thủ của mình và phát động một đợt vận động để nhanh chóng công nghiệp hóa đất
  • 146. 126 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI nước. Ông đã làm việc đó thông qua việc tiếp sinh lực cho Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, Gosplan, được thành lập năm 1921. Gosplan đã soạn ra Kế hoạch-Năm năm lần thứ nhất cho giai đoạn 1928 đến 1933. Tăng trưởng kinh tế kiểu Stalin là đơn giản: phát triển công nghiệp bằng mệnh lệnh nhà nước và nhận được các nguồn lực cần thiết cho việc này bằng cách đánh thuế nông nghiệp với các thuế suất rất cao. Nhà nước cộng sản đã không có một hệ thống thuế hiệu quả, nên thay vào đó Stalin đã “tập thể hóa” nông nghiệp. Quá trình này đòi hỏi sự xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân về đất và việc lùa tất cả nhân dân thôn quê vào các nông trang tập thể khổng lồ do Đảng Cộng Sản vận hành. Điều này đã khiến cho công việc của Stalin dễ hơn nhiều để nắm lấy đầu ra nông nghiệp và dùng nó để nuôi tất cả những người xây dựng, và cung cấp người cho, các nhà máy mới. Những hậu quả của việc này cho nhân dân nông thôn đã là tai họa. Các nông trang tập thể đã hoàn toàn thiếu các khuyến khích để khiến người dân làm việc siêng năng, cho nên sản xuất sa sút nhanh. Phần lớn sản lượng làm ra bị bòn rút đến mức không còn đủ để ăn. Người dân bắt đầu chết đói. Cuối cùng, có lẽ sáu triệu người đã chết đói, trong khi hàng trăm ngàn người khác đã bị giết hoặc bị đầy đi Siberia trong tập thể hóa cưỡng bức. Cả ngành công nghiệp mới được tạo ra lẫn các nông trang tập thể đã không hiệu quả về mặt kinh tế theo nghĩa rằng chúng tận dụng tốt nhất các nguồn lực mà Liên Xô có. Nghe có vẻ như một công thức cho tai họa và sự trì trệ kinh tế, nếu không phải là sự sụp đổ dứt khoát. Thế nhưng Liên Xô đã tăng trưởng nhanh. Lý do cho việc này là không khó hiểu. Cho phép người dân đưa ra các quyết định của riêng mình thông qua các thị trường là cách tốt nhất cho một xã hội sử dụng hiệu quả các nguồn lực của nó. Khi thay vào đó nhà nước hay một elite hẹp kiểm soát tất cả các nguồn lực này, các khuyến khích đúng sẽ không được tạo ra, cũng chẳng có một sự phân bổ hiệu quả các kỹ năng và tài năng của người dân. Nhưng trong một số trường hợp năng suất của lao động và vốn có thể cao hơn rất nhiều trong một khu vực hay một hoạt động, như công nghiệp nặng ở Liên Xô, mà ngay cả một quá trình từ trên xuống, dưới các thể chế khai thác mà nó phân bổ các nguồn lực tới khu vực đó, có thể tạo ra tăng trưởng. Như chúng ta đã thấy ở chương 3, các thể chế khai thác ở các hòn đảo Caribe như Barbados, Cuba, Haiti, và Jamaica đã có thể tạo ra mức thu nhập cao tương đối bởi vì họ đã phân bổ nguồn lực cho sản xuất đường, một mặt hàng thèm muốn trên khắp thế giới. Việc sản xuất đường đã dựa vào các toán nô lệ đã chắc chắn không “hiệu quả”, và đã
  • 147. TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 127 không có sự thay đổi công nghệ nào hay sự phá hủy sáng tạo nào trong các nước này, nhưng điều này đã không cản chúng để đạt được mức độ tăng trưởng nào đó dưới các thể chế khai thác. Tình hình đã tương tự ở Liên Xô, với công nghiệp đóng vai trò của đường ở vùng Caribe. Tăng trưởng công nghiệp ở Liên Xô đã còn được làm cho dễ dàng thêm bởi vì công nghệ của nó đã rất lạc hậu so với công nghệ đã sẵn có ở châu Âu và Hoa Kỳ, cho nên có thể gặt hái được các khoản lợi lớn bằng cách phân bổ lại các nguồn lực cho khu vực công nghiệp, cho dù tất cả những việc này được tiến hành một cách không hiệu quả và bằng vũ lực. Trước năm 1928 hầu hết người Nga sống ở nông thôn. Công nghệ được nông dân sử dụng là công nghệ thô sơ, và đã có ít khuyến khích để sinh lợi. Quả thực, những tàn dư cuối cùng của chủ nghĩa phong kiến Nga đã chỉ mới được xóa bỏ trước Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất một thời gian ngắn. Như thế đã có tiềm năng kinh tế khổng lồ chưa được thực hiện từ việc phân bố lại lao động này từ nông nghiệp sang công nghiệp. Công nghiệp hóa Stalinist là một cách dã man để tháo, mở khóa cho tiềm năng này. Bằng sắc lệnh, Stalin đã chuyển các nguồn lực được sử dụng rất kém này sang công nghiệp, nơi họ đã có thể được sử dụng một cách sinh lời hơn, cho dù bản thân công nghiệp đã được tổ chức rất không hiệu quả so với mức đã có thể đạt được. Thật vậy, giữa 1928 và 1960 thu nhập quốc dân đã tăng 6 phần trăm một năm, có lẽ là mức tăng tốc nhanh nhất của tăng trưởng kinh tế trong lịch sử cho đến thời điểm đó. Sự tăng trưởng kinh tế nhanh này đã không được tạo ra bằng sự thay đổi công nghệ, mà bằng sự phân bổ lại lao động và bằng tích tụ vốn qua tạo ra các công cụ và các nhà máy mới. Sự tăng trưởng nhanh đến mức đã cần đến các thế hệ của những người phương Tây để hiểu được, không chỉ Lincoln Steffens. Đã cần đến Cục Tình báo Trung ương của Hoa Kỳ để hiểu được. Thậm chí đã cần đến các lãnh tụ của chính Liên Xô, như Nikita Khrushchev, người đã khoác lác một cách khét tiếng trong một bài phát biểu trước các nhà ngoại giao phương Tây trong năm 1956 rằng “chúng tôi sẽ chôn các anh [phương Tây]”, để hiểu được. Mãi đến cuối 1977, một sách giáo khoa hàng đầu của một nhà kinh tế học Anh đã cho rằng các nền kinh tế kiểu Soviet là ưu việt hơn các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa về mặt tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm đầy đủ và ổn định giá cả và thậm chí về mặt tạo ra những người con người với động cơ thúc đẩy vị tha. Chủ nghĩa tư bản già nua tồi tàn đã làm tốt hơn chỉ ở việc cung cấp quyền tự do chính trị. Quả thực, sách giáo khoa đại học được
  • 148. 128 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI sử dụng rộng rãi nhất trong kinh tế học, được viết bởi người được giải Nobel Kinh tế Paul Samuelson, đã tiên đoán một cách lặp đi lặp lại sự thống trị kinh tế sắp đến của Liên Xô. Trong lần xuất bản 1961, Samuelson đã tiên đoán rằng thu nhập quốc dân Soviet sẽ vượt thu nhập quốc dân Hoa Kỳ có thể vào 1984, nhưng chắc là vào năm 1994. Trong lần tái bản 1980 đã có một chút sửa đổi trong phân tích, dẫu cho hai thời điểm bị lùi thành 2002 và 2012. Mặc dù các chính sách của Stalin và các lãnh đạo Soviet kế tiếp đã có thể tạo ra tăng trưởng kinh tế nhanh, họ đã không thể làm thế theo cách bền vững. Vào các năm 1970, tăng trưởng kinh tế hầu như đã bị ngừng. Bài học quan trọng nhất là, các thể chế khai thác không thể tạo ra sự thay đổi công nghệ bền vững vì hai lý do: sự thiếu các khuyến khích và sự chống đối của elite. Ngoài ra, một khi tất cả các nguồn lực được sử dụng rất không hiệu quả đã được phân bổ cho công nghiệp, thì còn ít lợi lộc kinh tế có được bằng sắc lệnh. Sau đó hệ thống Soviet vấp phải vật chắn đường, với sự thiếu đổi mới và các khuyến khích kinh tế tồi ngăn cản bất cứ sự tiến bộ thêm nào. Lĩnh vực duy nhất mà trong đó những người Soviet đã tìm được cách để đạt sự đổi mới nào đó đã là thông qua các nỗ lực lớn lao trong công nghệ quân sự và hàng không vũ trụ. Như một kết quả họ đã đưa được con chó đầu tiên, Laika, và con người đầu tiên, Yuri Gagarin, vào vũ trụ. Họ cũng đã để lại cho thế giới AK-47 như một trong những di sản của họ. Gosplan đã là cơ quan lập kế hoạch được cho là có toàn quyền, chịu trách nhiệm về kế hoạch hóa tập trung của nền kinh tế Soviet. Một trong những lợi ích của chuỗi liên tiếp của các kế hoạch năm năm được soạn thảo và quản lý bởi Gosplan được cho là có tầm nhìn dài hạn cần thiết cho đầu tư và đổi mới hợp lý. Trong thực tế, cái được thực hiện trong công nghiệp Soviet ít liên quan đến các kế hoạch năm năm, mà thường xuyên được xét lại và soạn lại trên cơ sở các mệnh lệnh của Stalin và Bộ Chính trị, những người thường xuyên thay đổi ý định của họ và thường xét lại toàn bộ các quyết định trước đây của mình. Tất cả các kế hoạch đều được gắn nhãn “dự thảo” hay “sơ bộ”. Chỉ có duy nhất một bản kế hoạch được gắn nhãn “cuối cùng” – là kế hoạch cho công nghiệp nhẹ năm 1939 – được đưa ra ánh sáng từ trước tới nay. Bản thân Stalin đã nói trong năm 1937 rằng “chỉ có những kẻ quan liêu mới có thể nghĩ rằng công việc lập kế hoạch kết thúc với việc tạo ra bản kế hoạch. Việc tạo ra bản kế hoạch chỉ là sự bắt đầu. Hướng thực sự của kế hoạch bộc lộ ra chỉ sau khi ráp kế hoạch vào với nhau.” Stalin đã muốn
  • 149. TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 129 tối đa hóa sự tự định đoạt của ông để thưởng những người hay các nhóm trung thành về mặt chính trị với ông và trừng phạt những người không trung thành. Về Gosplan, vai trò chính của nó đã là để cung cấp thông tin cho Stalin để ông có thể giám sát tốt hơn các bạn và các kẻ thù của ông. Nó thực sự đã thử tránh đưa ra các quyết định. Nếu bạn đưa ra một quyết định mà hóa ra là tồi, bạn có thể bị bắn. Tốt hơn là tránh mọi trách nhiệm. Một thí dụ về cái gì đã có thể xảy ra nếu bạn coi công việc của mình một cách quá nghiêm túc, hơn là đoán một cách thành công Đảng Cộng Sản muốn gì, đã là cuộc tổng điều tra dân số năm 1937. Khi các bản khai được ghi nhận, đã trở nên rõ ràng là chúng cho thấy dân số khoảng 162 triệu, thấp hơn con số 180 triệu mà Stalin đã dự tính rất nhiều và quả thực thấp hơn con số 168 triệu mà bản thân Stalin đã công bố năm 1934. Tổng điều tra dân số năm 1937 là cuộc điều tra đầu tiên được tiến hành từ 1926, và vì thế là cuộc đầu tiên tiếp sau các nạn đói và các cuộc thanh trừng hàng loạt vào đầu các năm 1930. Con số dân số chính xác phản ánh điều này. Sự đáp lại của Stalin đã là sai bắt những người đã tổ chức tổng điều tra dân số và đày họ đi Siberia hay bắn họ. Ông đã ra lệnh tiến hành một cuộc tổng điều tra dân số khác vào năm 1939. Lần này những người tổ chức đã hiểu đúng; họ đã thấy rằng dân số thực đã là 171 triệu. Stalin đã hiểu rằng trong nền kinh tế Soviet, người dân có ít khuyến khích để làm việc siêng năng. Một phản ứng tự nhiên là phải đưa các khuyến khích đó vào, và đôi khi ông đã làm vậy – thí dụ, bằng cách hướng cung ứng thực phẩm đến các vùng nơi năng suất đã sụt xuống – để tưởng thưởng những sự cải thiện năng suất. Hơn nữa, ngay từ 1931 ông đã từ bỏ ý tưởng tạo ra “con người xã hội chủ nghĩa” những người làm việc mà không có các khuyến khích tiền tệ. Trong một bài nói chuyện nổi tiếng ông đã phê phán “nghề lái buôn bình đẳng”, và trong thời gian tiếp theo đã không chỉ người làm các việc khác nhau được trả lương khác nhau mà một hệ thống tiền thưởng cũng đã được đưa vào. Thật đáng làm bài học để hiểu hệ thống này hoạt động ra sao. Điển hình một hãng dưới kế hoạch hóa tập trung phải đạt một chỉ tiêu sản lượng đặt ra trong kế hoạch, mặc dù các kế hoạch như vậy thường được thương lượng lại và thay đổi. Từ các năm 1930, các công nhân được trả tiền thưởng nếu các mức đầu ra đạt chỉ tiêu. Các khoản này đã có thể khá cao – đến mức 37 phần trăm lương cho chức vụ quản lý hay kỹ sư cao cấp. Nhưng trả các khản tiền thưởng như vậy tạo ra đủ loại phản khuyến khích
  • 150. 130 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI (disincentive) đối với thay đổi công nghệ. Một mặt, sự đổi mới, lấy đi nguồn lực từ sản xuất hiện thời, gây rủi ro về không đạt chỉ tiêu và không được trả tiền thưởng. Mặt khác, các chỉ tiêu sản lượng thường dựa vào các mức sản xuất trước. Việc này tạo ra khuyến khích khổng lồ để đừng bao giờ mở rộng sản lượng, vì việc này chỉ có nghĩa là sẽ phải sản xuất nhiều hơn trong tương lai, vì các chỉ tiêu tương lai sẽ bị “đẩy lên nấc cao hơn.” Đạt dưới mức [có thể đạt được] đã luôn luôn là cách tốt nhất để đạt các chỉ tiêu và nhận được tiền thưởng. Sự thực rằng tiền thưởng được trả hàng tháng cũng khiến tất cả mọi người chú tâm vào hiện tại, trong khi sự đổi mới là về chịu hy sinh hôm nay nhằm có nhiều hơn vào ngày mai. Ngay cả khi tiền thưởng và các khuyến khích đã có hiệu quả trong làm thay đổi hành vi, thì chúng thường gây ra các vấn đề khác. Kế hoạch hóa tập trung đã đúng là không tốt khi thay thế cho cái mà nhà kinh tế học vĩ đại thế kỷ mười tám Adam Smith đã gọi là “bàn tay vô hình” của thị trường. Khi [chỉ tiêu] kế hoạch được diễn đạt bằng tấn thép tấm, tấm thép được làm quá nặng. Khi được trình bày bằng diện tích thép tấm, các tấm được làm quá mỏng. Khi kế hoạch về đèn chùm treo được trình bày bằng tấn, chúng nặng đến mức hầu như không thể treo được trên trần nhà. Vào các năm 1940, các nhà lãnh đạo Liên Xô, cho dù không phải là những người say mê chúng ở phương Tây, [nhưng] đã biết kỹ về các khuyến khích tai ác này. Các lãnh đạo Soviet đã hành động cứ như chúng đã là do các vấn đề kỹ thuật, mà có thể chỉnh sửa được. Thí dụ, họ đã thay đổi ý tưởng về trả tiền thưởng dựa trên các chỉ tiêu sản lượng cho phép các hãng để sang một bên một phần lợi nhuận để trả thưởng. Nhưng một “động cơ lợi nhuận” như vậy đã không khuyến khích đổi mới hơn so với tiền thưởng dựa vào sản lượng. Hệ thống giá được dùng để tính lợi nhuận đã hầu như hoàn toàn không liên quan gì đến giá trị của các đổi mới hay công nghệ mới. Không giống trong một nền kinh tế thị trường, giá cả ở Liên Xô được chính phủ quy định, và như thế có ít liên hệ với giá trị. Để tạo ra các khuyến khích một cách đặc biệt hơn cho đổi mới, Liên Xô đã đưa ra tiền thưởng đổi mới rành mạch trong năm 1946. Ngay từ 1918, nguyên lý đã được công nhận rằng một nhà đổi mới nên nhận được phần thưởng bằng tiền cho đổi mới của mình, nhưng các phần thưởng được quy định là nhỏ và không liên quan đến giá trị của công nghệ mới. Việc này đã thay đổi chỉ vào năm 1956, khi quy
  • 151. TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 131 định rằng tiền thưởng phải tỷ lệ với năng suất của đổi mới. Tuy vậy, vì năng suất được tính dưới dạng các lợi ích kinh tế đo được bằng hệ thống giá cả hiện hành, đấy lại chẳng phải là một khuyến khích tốt để đổi mới. Ta có thể điền đầy nhiều trang về các khuyến khích tai ác mà các sơ đồ này gây ra. Thí dụ, bởi vì quy mô của quỹ thưởng đổi mới được giới hạn bởi hóa đơn lương của một hãng, quy định này ngay lập tức làm giảm khuyến khích để sản xuất hay chấp nhận bất cứ đổi mới nào mà có thể tiết kiệm lao động. Tập trung vào các quy tắc và các sơ đồ thưởng khác nhau có xu hướng che mờ các vấn đề cố hữu của hệ thống. Chừng nào quyền thế và quyền lực chính trị còn nằm trong tay Đảng Cộng Sản, đã là không thể để làm thay đổi một cách cơ bản các khuyến khích mà người dân đối mặt, tiền thưởng hay không phải tiền thưởng. Ngay từ khởi đầu của nó, Đảng Cộng Sản đã sử dụng không chỉ các củ cà rốt mà cả các cây gậy nữa, các cây gậy bự, để có được cái nó muốn. Năng suất trong nền kinh tế cũng đã không khác. Một bộ đầy đủ của các luật tạo ra các vi phạm hình sự đối với các công nhân những người được cảm thấy là lẩn tránh việc. Tháng Sáu 1940, chẳng hạn, một luật đã biến sự vắng mặt, được định nghĩa là bất cứ 20 phút vắng mặt mà không được phép hoặc thậm chí đứng ngồi không trong công việc, thành một sự vi phạm hình sự với mức phạt sáu tháng làm việc nặng và cắt 25 phần trăm lương. Tất cả mọi loại trừng phạt tương tự đã được đưa ra, và đã được thực thi với tần suất gây kinh ngạc. Giữa 1940 và 1955, 36 triệu người, khoảng một phần ba dân số trưởng thành, đã được phát hiện là phạm các tội như vậy. Trong số này, 15 triệu đã bị bỏ tù và 250.000 đã bị bắn. Trong bất cứ năm nào, đã có 1 triệu người lớn bị tù vì những sự vi phạm lao động; đấy là chưa nhắc đến 2,5 triệu người mà Stalin đã đày đến các gulag [trại cải tạo lao động] ở Siberia. Dẫu sao, nó đã không hoạt động. Mặc dù bạn có thể chuyển ai đó đến một nhà máy, bạn không thể ép người dân suy nghĩ và có các ý tưởng hay bằng cách đe dọa bắn bỏ họ. Sự ép buộc giống thế này đã có thể tạo ra sản lượng cao về đường ở Barbados hay Jamaica, nhưng nó không thể bù cho sự thiếu các khuyến khích trong một nền kinh tế công nghiệp hiện đại. Sự thực rằng các khuyến khích thật sự hiệu quả không thể được đưa ra trong một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung đã không phải là do các lỗi kỹ thuật trong thiết kế của các sơ đồ tiền thưởng. Nó là bản chất nội tại của toàn bộ phương pháp mà theo đó sự tăng trưởng khai thác đã đạt được. Nó đã được thực hiện bằng
  • 152. 132 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI mệnh lệnh của chính phủ, mà đã có thể giải quyết một số vấn đề kinh tế cơ bản. Nhưng kích thích tăng trưởng kinh tế bền vững đòi hỏi rằng các cá nhân sử dụng tài năng và các ý tưởng của mình, và việc này chẳng bao giờ có thể làm được trong một hệ thống kinh tế kiểu Soviet. Những kẻ cai trị Liên Xô đã có thể từ bỏ các thể chế kinh tế khai thác, nhưng một bước đi như vậy sẽ làm nguy hiểm cho quyền lực chính trị của họ. Thực vậy, khi Mikhail Gorbachev đã bắt đầu rời khỏi các thể chế kinh tế khai thác sau 1987, quyền lực của Đảng Cộng Sản đã tan tành, và với nó, Liên Xô sụp đổ. LIÊN XÔ đã có khả năng tạo ra sự tăng trưởng nhanh ngay cả dưới các thể chế khai thác bởi vì những người Bolshevik đã xây dựng một nhà nước tập trung hùng mạnh và sử dụng nó để phân bổ các nguồn lực sang công nghiệp. Nhưng như trong mọi trường hợp của tăng trưởng dưới các thể chế khai thác, kinh nghiệm này đã không dành vai nổi bật cho sự thay đổi công nghệ và đã không bền vững. Sự tăng trưởng đầu tiên chậm lại, rồi sau đó hoàn toàn xẹp xuống. Mặc dù chóng tàn, kiểu tăng trưởng này vẫn minh họa các thể chế khai thác có thể kích thích hoạt động kinh tế ra sao. Suốt lịch sử hầu hết các xã hội đã bị cai trị bởi các thể chế khai thác, và các thể chế, mà đã tìm được cách để áp đặt một mức độ trật tự nào đó lên các nước, đã có khả năng tạo ra sự tăng trưởng hạn chế nào đó – cho dù chẳng có xã hội nào trong số các xã hội khai thác này đã tìm được cách để đạt tăng trưởng bền vững. Thực ra, một số điểm ngoặt lớn trong lịch sử được đặc trưng bởi những đổi mới thể chế mà đã củng cố các thể chế khai thác và đã làm tăng quyền lực của một nhóm để áp đặt luật và trật tự và hưởng lợi từ sự khai thác. Trong phần còn lại của chương này, chúng ta đầu tiên sẽ thảo luận bản chất của những đổi mới thể chế mà thiết lập mức độ nào đó của sự tập trung hóa nhà nước và cho phép sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác. Sau đó chúng ta sẽ chứng tỏ các ý tưởng này sẽ giúp chúng ta thế nào để hiểu Cách mạng Đồ đá Mới, sự chuyển đổi hết sức quan trọng sang nông nghiệp, mà làm nòng cốt cho nhiều khía cạnh của nền văn minh hiện tại của chúng ta. Chúng ta sẽ kết thúc bằng việc minh họa, với các thí dụ của các thành- quốc Maya, sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác bị hạn chế ra sao không chỉ bởi vì sự thiếu tiến bộ công nghệ, mà cũng bởi vì nó cũng khuyến khích sự ẩu đả
  • 153. TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 133 từ các nhóm tranh đua muốn nắm sự kiểm soát nhà nước và sự khai thác mà nó tạo ra. TRÊN BỜ SÔNG KASAI Một trong những nhánh lớn của sông Congo là Kasai. Bắt nguồn ở Angola, nó chảy theo hướng bắc và nhập với sông Congo ở đông bắc Kinshasa, thủ đô của Cộng hòa Dân chủ Congo hiện đại. Mặc dù Cộng hòa Dân chủ Congo là nghèo so với phần còn lại của thế giới, đã luôn luôn có những khác biệt đáng kể về thịnh vượng của các nhóm khác nhau bên trong Congo. Kasai là ranh giới giữa các nhóm này. Ngay sau khi đi vào Congo dọc theo bờ tây, bạn sẽ thấy dân tộc Lele, bên bờ đông là những người Bushong (Bản đồ 6, trang 59). Xét theo bề ngoài, phải có ít khác biệt giữa hai nhóm này về mặt thịnh vượng. Họ bị tách biệt chỉ bởi một con sông, mà cả hai bên đều có thể qua bằng thuyền. Hai bộ lạc có chung nguồn gốc và các ngôn ngữ họ hàng. Ngoài ra, nhiều thứ mà họ xây hay tạo ra là giống nhau về kiểu cách, bao gồm nhà, quần áo, và đồ thủ công. Thế nhưng khi nhà nhân chủng học Mary Douglass và nhà sử học Jan Vansina đã nghiên cứu các nhóm này trong các năm 1950, họ đã phát hiện ra một số khác biệt gây sửng sốt giữa họ. Như Douglass diễn đạt, “Những người Lele nghèo, còn những người Bushong giàu …Mọi thứ mà người Lele có hay có thể làm, người Bushong có nhiều hơn và có thể làm tốt hơn.” Dễ kiếm được những giải thích đơn giản cho sự không bằng nhau này. Một sự khác biệt, gợi lại sự khác biệt giữa các nơi ở Peru mà đã bị hay đã không bị lệ thuộc vào mita Potosí, là, những người Lele đã sản xuất cho đủ sống qua ngày, trong khi những người Bushong sản xuất để trao đổi trên thị trường. Douglass và Vansina cũng nhận xét rằng những người Lele đã sử dụng công nghệ thấp. Thí dụ, họ đã không dùng lưới để săn, cho dù lưới cải thiện năng suất rất nhiều. Douglass biện luận, “sự thiếu vắng lưới là phù hợp với một xu hướng chung của người Lele là không đầu tư thời gian và lao động vào trang thiết bị dài hạn.” Cũng đã có những khác biệt quan trọng về công nghệ nông nghiệp và tổ chức. Những người Bushong đã thực hành một dạng canh tác hỗn hợp nơi năm vụ được trồng kế tiếp nhau trong một hệ thống luân canh hai năm. Họ trồng khoai mỡ,
  • 154. 134 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI khoai lang, sắn (mỳ), và đậu và thu hoạch hai, đôi khi ba vụ ngô mỗi năm. Những người Lele đã không có hệ thống như vậy và đã xoay xở để thu hoạch chỉ một vụ ngô một năm. Cũng đã có những khác biệt nổi bật về luật và trật tự. Những người Lele được phân tán vào các làng được phòng thủ, mà đã liên tục xung đột với nhau. Bất cứ ai đi giữa hai làng hay thậm chí dám vào rừng để thu lượm thức ăn đã có khả năng bị tấn công hay bắt cóc. Ở nước Bushong, điều này hiếm khi, nếu có bao giờ, xảy ra. Cái gì nằm đằng sau những khác biệt này về các hình mẫu sản xuất, công nghệ nông nghiệp, và sự thịnh hành của trật tự? Hiển nhiên đã không phải là địa lý đã khiến những người Lele sử dụng công nghệ săn bắn và nông nghiệp thấp. Đã chắc chắn không phải là sự vô minh, sự không biết, bởi vì họ đã biết các công cụ người Bushong sử dụng. Một sự giải thích khả dĩ khác có thể là văn hóa; liệu đã có thể chăng rằng những người Lele có một văn hóa không khuyến khích họ đầu tư vào lưới săn và nhà chắc chắn hơn và được xây cất tốt hơn? Nhưng điều này có vẻ cũng chẳng đúng. Như với người dân Kongo, những người Lele đã rất quan tâm đến mua súng, và Douglass thậm chí đã nhận xét rằng “việc họ hăm hở mua súng cầm tay … cho thấy văn hóa của họ không hạn chế họ ở mức các công nghệ thấp nếu những công nghệ này không đòi hỏi sự cộng tác và nỗ lực dài hạn.” Như thế không phải một ác cảm văn hóa với công nghệ, chẳng phải sự vô minh, cũng chẳng phải địa lý cho một sự giải thích tốt về sự thịnh vượng lớn hơn của những người Bushong so với những người Lele. Lý do cho những khác biệt giữa hai bộ tộc này nằm ở các thể chế khác nhau mà đã nổi lên trong đất nước của những người Bushong và Lele. Chúng ta đã nhắc tới ở trước rằng những người Lele đã sống trong các làng được phòng thủ mà đã không là phần của một cấu trúc chính trị thống nhất. Đã khác ở bên kia Kasai. Khoảng năm 1620 một cuộc cách mạng chính trị đã xảy ra với sự lãn đạo của một người có tên là Shyaam, người đã tạo dựng Vương quốc Kuba, mà chúng ta đã thấy trên Bản đồ 6 (trang 59), với những người Bushong ở trung tâm của nó và với bản thân ông như nhà vua. Trước thời kỳ này, có lẽ đã có ít sự khác biệt giữa những người Bushong và Lele; những sự khác biệt đã nổi lên như những hệ quả của cách mà Shyaam đã tổ chức lại xã hội ở phía đông sông Kasai. Ông đã xây dựng một nhà nước và một kim tự tháp các thể chế chính trị. Chúng đã không
  • 155. TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 135 chỉ được tập trung hóa hơn một cách đáng kể so với trước mà cũng đã bao gồm các cấu trúc rất tinh vi. Shyaam và những người kế vị ông đã tạo ra một bộ máy quan liêu để thu thuế và một hệ thống luật và lực lượng cảnh sát để thi hành luật. Các nhà lãnh đạo bị kiểm tra bởi các hội đồng, mà họ phải tham vấn trước khi đưa ra các quyết định. Thậm chí đã có sự xử án bởi bội thẩm đoàn, một sự kiện có vẻ độc nhất ở châu Phi hạ-Sahara trước chủ nghĩa thuộc địa Âu châu. Tuy nhiên, nhà nước tập trung mà Shyaam xây dựng đã là một công cụ khai thác và hết sức chuyên chế. Đã chẳng ai bỏ phiếu bầu ông, và chính sách đã được quy định từ trên đỉnh, không phải bởi sự tham gia của nhân dân. Cuộc cách mạng này dẫn đến sự tập trung hóa nhà nước, luật và trật tự ở nước Kuba đến lượt nó đã dẫn đến một cuộc cách mạng kinh tế. Nông nghiệp được tổ chức lại và những công nghệ mới được chọn theo để tăng năng suất. Các cây trồng mà trước kia đã là các giống chính đã được thay thế bằng các giống mới có sản lượng cao hơn từ châu Mỹ (đặc biệt là, ngô, sắn, và ớt). Chu trình luân canh thâm canh đã được đưa vào trong thời gian này, và số lượng thực phẩm được sản xuất trên đầu người đã tăng gấp đôi. Để chấp nhận các giống cây trồng này và tổ chức lại nông nghiệp, đã cần nhiều người làm hơn ở ngoài đồng. Cho nên tuổi kết hôn được hạ xuống hai mươi, mà quy định này đã đưa những người đàn ông vào lực lượng lao động nông nghiệp ở tuổi trẻ hơn. Sự tương phản với người Lehe là rõ rệt. Các đàn ông Lele đã thường kết hôn ở tuổi ba mươi lăm và chỉ sau đó mới làm việc ở ngoài đồng. Cho đến lúc đó, họ đã cống hiến đời họ cho chiến đấu và đột nhập để cướp bóc. Mối quan hệ giữa cách mạng chính trị và cách mạng kinh tế đã đơn giản. Nhà vua Shyaam và những người ủng hộ ông đã muốn khai thác thuế và của cải từ người Kuba, những người đã phải sản xuất ra một khoản thặng dư trên mức bản thân họ tiêu thụ. Trong khi Shyaam và những người của ông đã không đưa ra các thể chế bao gồm ở bờ đông sông Kasai, lượng nào đó của thịnh vượng kinh tế là nội tại đối với các thể chế khai thác mà đạt được một mức độ nào đó về tập trung hóa nhà nước và áp đặt luật và trật tự. Khuyến khích hoạt động kinh tế tất nhiên đã là lợi ích của Shyaam và những người của ông, vì khác đi thì chẳng có gì để mà khai thác. Giống hệt Stalin, bằng mệnh lệnh Shyaam đã tạo ra một tập các thể chế mà có thể tạo ra của cải cần thiết để nuôi sống hệ thống này. So với sự thiếu vắng hoàn toàn của luật và trật tự mà là tình trạng ngự trị ở bên kia của bờ sông
  • 156. 136 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Kasai, thì việc này đã tạo ra sự thịnh vượng kinh tế đáng kể – cho dù phần lớn chắc đã bị khai thác bởi Shyaam và các elite của ông. Nhưng nó nhất thiết bị hạn chế. Hệt như ở Liên Xô, đã không có sự phá hủy sáng tạo nào ở Vương quốc Kuba và không có sự đổi mới công nghệ sau sự thay đổi ban đầu này. Tình hình này ít nhiều đã không thay đổi vào thời vương quốc lần đầu tiên đụng độ với các quan chức thuộc địa Bỉ trong cuối thế kỷ mười chín. THÀNH TÍCH CỦA NHÀ VUA SHYAAM minh họa mức hạn chế nào đó của thành công kinh tế có thể đạt được ra sao thông qua các thể chế khai thác. Việc tạo ra sự tăng trưởng như vậy cần đến một nhà nước tập trung. Để tập trung hóa nhà nước, thường cần đến một cuộc cách mạng chính trị. Một khi Shyaam đã tạo ra nhà nước này, ông đã có thể sử dụng sức mạnh của nó để tổ chức lại nền kinh tế và tăng năng suất nông nghiệp, mà sau đó ông có thể đánh thuế. Vì sao những người Bushong, chứ không phải những người Lele, đã có một cuộc cách mạng chính trị. Chẳng phải những người Lele đã có thể có Shyaam riêng của họ? Cái mà Shyaam đạt được đã là một sự đổi mới thể chế không gắn với địa lý, văn hóa, hay sự thiếu hiểu biết theo bất cứ cách tất định nào. Những người Lele đã có thể có một cuộc cách mạng như vậy và biến đổi các thể chế của họ một cách tương tự, nhưng họ đã không làm. Có lẽ đấy là do các lý do mà chúng ta không hiểu bởi vì sự hiểu biết hạn chế của chúng ta ngày nay về xã hội của họ. Có khả năng nhất là bởi vì bản chất tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử. Cùng sự tùy thuộc ngẫu nhiên có lẽ đã có hiệu lực khi một số xã hội ở Trung Đông mười hai ngàn năm trước đã bắt đầu một tập thậm chí cấp tiến hơn của những đổi mới thể chế dẫn đến các xã hội định cư và sau đó đến thuần hóa các thực vật và động vật, như chúng ta thảo luận tiếp đây. MÙA HÈ DÀI Khoảng 15.000 năm trước công nguyên (TCN), Thời kỳ Băng hà chấm dứt vì khí hậu trái đất nóng lên. Bằng chứng từ các lõi băng Greenland gợi ý rằng nhiệt độ đã tăng ở mức mười lăm độ C trong một khoảng thời gian ngắn. Sự ấm lên này có lẽ đã trùng với sự tăng lên nhanh của dân số vì sự ấm lên toàn cầu đã dẫn đến sự
  • 157. TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 137 mở rộng các quần thể động vật và sự sẵn có lớn hơn nhiều của các cây dại và thực phẩm. Quá trình này đã bị đảo ngược nhanh vào khoảng năm 14.000 TCN, bởi một thời kỳ lạnh đi được biết đến như thời kỳ Younger Dryas, nhưng sau năm 9600 TCN, nhiệt độ toàn cầu lại tăng lên, bảy độ C trong thời gian ngắn hơn một thập kỷ, và kể từ đó vẫn ở mức cao. Nhà khảo cổ học Brian Fagan gọi nó là mùa hè dài. Sự ấm lên của khí hậu đã là một bước ngoặt khổng lồ mà đã tạo thành nền cho Cách mạng đồ Đá mới, nơi các xã hội người đã chuyển sang lối sống định cư, canh tác, và chăn thả. Việc này và phần còn lại của lịch sử con người đã tiến hành phơi nắng trong Mùa hè Dài này. Có một sự khác biệt cơ bản giữa canh tác, chăn thả và săn bắt hái lượm. Những việc trước dựa trên sự thuần hóa các loài thực vật và động vật, với sự can thiệp tích cực vào các chu kỳ sống của chúng để làm thay đổi di truyền khiến cho các loài này hữu ích hơn cho con người. Sự thuần hóa là một sự thay đổi công nghệ, và cho phép con người sản xuất nhiều thực phẩm hơn nhiều từ các thực vật và động vật sẵn có. Sự thuần hóa ngô, chẳng hạn, đã bắt đầu khi con người thu lượm teosinte, giống cây dại là tổ tiên của ngô. Bắp teosinte rất nhỏ, chỉ dài vài centimet. Chúng thật còi cọc so với bắp ngô hiện đại. Thế nhưng, dần dần, bằng cách chọn các bông teosinte lớn hơn, và các cây mà các bông của nó không vỡ và vẫn ở trên thân để thu hoạch, con người đã tạo ra ngô hiện đại, một giống cây cung cấp nhiều chất dinh dưỡng hơn rất nhiều từ cùng một miếng đất. Bằng chứng sớm nhất về canh tác, chăn thả và thuần hóa thực vật và động vật đến từ Trung Đông, đặc biệt từ các vùng được biết đến như Hilly Flank, mà kéo dài từ miền nam của Israel hiện đại, lên qua Palestine và bờ tây của Sông Jordan, qua Syria và vào đến đông nam Thổ Nhĩ Kỳ, bắc Iraq, và tây Iran. Khoảng năm 9.500 TCN các thực vật được thuần hóa đầu tiên, lúa mì emmer và đại mạch hai hàng, được tìm thấy ở Jericho trên bờ tây Sông Jordan ở Palestine; và lúa mì emmer, đậu Hà Lan, đậu lentils (lăng), tại Tell Aswad, xa hơn về phía bắc Syria. Cả hai là các địa điểm của một nền văn hóa gọi là văn hóa Natufian, và cả hai đã nuôi sống các làng lớn; làng ở Jericho đã có dân số có lẽ năm trăm người vào thời ấy. Vì sao các làng canh tác đầu tiên đã xảy ra ở đây chứ không phải nơi khác? Vì sao những người Natufian, chứ không phải những người khác, đã thuần hóa đậu Hà Lan và đậu lentils? Phải chăng họ đã may mắn và chỉ ngẫu nhiên sống ở nơi
  • 158. 138 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI đã có nhiều ứng viên tiềm năng cho việc thuần hóa? Trong khi điều này đúng, nhiều dân tộc khác đã sống giữa các loài này, nhưng họ đã không thuần hóa chúng. Như chúng ta đã thấy ở chương hai trong các bản đồ 4 và 5, nghiên cứu của các nhà di truyền học và các nhà khảo cổ học để định rõ sự phân bố của các tổ tiên hoang dã của các động vật và thực vật hiện đại đã được thuần hóa, tiết lộ rằng nhiều trong số các tổ tiên này đã trải ra trên các vùng rất rộng, hàng triệu kilomet vuông. Các tổ tiên hoang dã của các loài động vật được thuần hóa đã lan rộng khắp lục địa Á-Âu. Mặc dù các vùng Hilly Flank đã được thiên nhiên phú cho nhiều loại cây trồng hoang dại, ngay cả chúng cũng đã còn xa mới độc nhất. Đã không phải là, những người Natufian sống trong một vùng được phú cho một cách duy nhất các loài hoang dại, là cái làm cho họ đặc biệt. Chính là, họ đã sống định cư trước khi họ bắt đầu thuần hóa các thực vật hay động vật. Một mẩu bằng chứng đến từ các răng linh dương, mà chúng bao gồm men chân răng (cementum), xương mô liên kết mà phát triển thành các lớp. Trong mùa xuân và mùa hè khi sự phát triển của cementum nhanh nhất, các lớp có màu khác với các lớp hình thành trong mùa đông. Bằng cách lấy một lát cắt qua răng ta có thể thấy màu của lớp cuối cùng trước khi con linh dương chết. Sử dụng kỹ thuật này ta có thể xác định xem con linh dương bị giết vào mùa hè hay mùa đông. Tại các vị trí [khai quật] Natufian, người ta thấy những con linh dương bị giết trong mọi mùa, gợi ý sự cư trú quanh năm. Làng Abu Hureyra, ở quanh sông Euphrates, là một trong những khu định cư Natufian được nghiên cứu kỹ lưỡng nhất. Trong thời gian gần bốn mươi năm các nhà khảo cổ học đã khảo sát các lớp của ngôi làng, mà cung cấp một trong các thí dụ được tư liệu hóa tốt nhất về cuộc sống định cư trước và sau canh tác. Khu định cư có lẽ đã bắt đầu vào khoảng năm 9.500 TCN, và các cư dân đã tiếp tục lối sống săn bắt hái lượm của họ một khoảng thời gian năm trăm năm nữa trước khi chuyển sang nông nghiệp. Các nhà khảo cổ học đã ước lượng rằng dân số của làng trước khi canh tác đã là giữa một trăm và ba trăm người. Ta có thể nghĩ đủ loại lý do vì sao một xã hội có thể thấy có lợi để sống định cư. Thường xuyên thay đổi chỗ ở là tốn kém; phải mang trẻ con và người già, và là không thể để cất trữ thực phẩm cho những lúc đói kém khi di chuyển. Hơn nữa, các công cụ như đá xay, liềm hái hữu ích cho xử lý các thực phẩm dại, nhưng lại nặng để mang đi. Có bằng chứng rằng ngay cả những người săn bắt hái lượm đã cất trữ thực phẩm ở các địa điểm chọn lọc, như các hang. Một sự hấp dẫn của ngô
  • 159. TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 139 là, nó có thể được cất trữ rất dễ, và đấy là lý do then chốt vì sao nó được thâm canh đến vậy khắp châu Mỹ. Khả năng để giải quyết một cách hiệu quả hơn vấn đề cất trữ và tích tụ các kho thực phẩm đã phải là một khuyến khích chủ chốt cho việc chấp nhận cách sống định cư. Trong khi có thể đáng mong mỏi về mặt tập thể để trở thành người sống định cư, nhưng điều này không có nghĩa rằng nó nhất thiết xảy ra. Một nhóm di động của những người săn bắt hái lượm đã phải thống nhất để làm điều này, hay ai đó đã phải ép buộc họ. Một số nhà khảo cổ học đã gợi ý rằng mật độ dân số tăng lên và mức sống giảm xuống đã là các yếu tố chủ chốt trong sự nổi lên của cuộc sống định cư, buộc những người di động ở lại một chỗ. Thế nhưng mật độ dân số của các địa điểm Natufian đã không lớn hơn mật độ của các nhóm trước đó, cho nên có vẻ không có bằng chứng về mật độ dân số tăng lên. Bằng chứng xương và răng cũng không ngụ ý sự xấu đi của sức khỏe. Thí dụ, sự thiếu thực phẩm có xu hướng tạo ra các đường mỏng trong men răng người, một tình trạng được gọi thiểu sản men (hypoplasia). Các đường này thực ra ít phổ biến ở những người Natufian hơn ở những người canh tác muộn hơn. Quan trọng hơn là lối sống định cư đã có những mặt lợi, nó cũng có các mặt bất lợi. Giải quyết xung đột có lẽ đã khó hơn nhiều đối với các nhóm định cư, vì những sự bất hòa đã có thể được giải quyết ít dễ hơn bằng cách một số người hay nhóm đơn thuần bỏ đi. Một khi người dân đã xây dựng các tòa nhà lâu bền và có nhiều tài sản hơn mức họ có thể mang, thì bỏ đi đã là một lựa chọn ít hấp dẫn. Cho nên các làng đã cần những cách hiệu quả hơn để giải quyết xung đột và các quan niệm tinh vi hơn về tài sản. Các quyết định đã cần được đưa ra về ai có quyền tiếp cận đến miếng đất gần làng, hay ai được hái quả từ hàng cây nào và được đánh cá ở phần nào của con suối. Các quy tắc phải được phát triển, và các thể chế mà tạo ra và thực thi các quy tắc đã phải được thảo ra tỉ mỉ. Để cho cuộc sống định cư nổi lên, vì thế có vẻ hợp lý rằng những người săn bắt hái lượm đã bị buộc phải định cư, và việc này đã phải xảy ra sau một sự đổi mới thể chế tập trung quyền lực vào tay một nhóm mà có thể trở thành elite chính trị, thực thi các quyền tài sản, duy trì trật tự, và cũng hưởng lợi từ địa vị của họ bằng cách khai thác các nguồn lực từ phần còn lại của xã hội. Thực vậy, một cuộc cách mạng tương tự như cuộc đã được nhà Vua Shyaam khở xướng, cho dù ở quy mô nhỏ hơn, chắc đã là bước đột phá dẫn đến cuộc sống định cư.
  • 160. 140 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Bằng chứng khảo cổ học quả thực gợi ý rằng những người Natufian đã phát triển một xã hội phức tạp được đặc trưng bởi hệ thống thứ bậc, trật tự, và sự bất bình đẳng – những sự khởi đầu của cái chúng ta nhận ra như các thể chế khai thác – một thời gian dài trước khi họ trở thành những người nông dân. Một mẩu bằng chứng có tính thuyết phục cho hệ thống thứ bậc và sự bất bình đẳng như vậy đến từ các mộ Natufian. Một số người đã được chôn cất với số lượng lớn đá obsidian (đá vỏ chai) và vỏ ốc răng (dentalium), mà được lấy từ bờ Địa Trung Hải gần Mount Carmel. Các loại đồ trang trí khác gồm các vòng đeo cổ, các nịt chân, và các vòng tay, mà được làm bằng răng chó và đốt ngón chân hươu cũng như vỏ sò ốc. Những người khác được chôn mà không có các thứ này. Vỏ ốc và cả đá vỏ chai đã được trao đổi, và việc kiểm soát sự trao đổi này đã khá chắc là một nguồn của sự tích lũy quyền lực và sự bất bình đẳng. Bằng chứng thêm về sự bất bình đẳng kinh tế và chính trị đến từ địa điểm Natufian ở Ain Mallaha, ngay bắc biển Galilee. Giữa một nhóm của khoảng năm mươi lều tròn và nhiều hố, rõ ràng được dùng để cất trữ, có một tòa nhà lớn được trát vữa một cách tăng cường gần vị trí trung tâm được dọn quang. Tòa nhà này hầu như chắc chắn đã là nhà của một thủ lĩnh. Trong số những chỗ mai táng ở địa điểm, một số công phu hơn nhiều, và cũng có bằng chứng về sự thờ cúng sọ, có lẽ biểu thị sự thờ phụng tổ tiên. Những sự thờ cúng như vậy là phổ biến ở các địa điểm Natufian, đặc biệt ở Jericho. Sự trội hơn của bằng chứng từ các địa điểm Natufian gợi ý rằng đấy có lẽ đã là các xã hội với các thể chế tinh vi xác định sự thừa kế địa vị elite rồi. Họ đã tiến hành buôn bán với các nơi ở xa và đã có các dạng mới nảy sinh của tôn giáo và các thứ bậc chính trị. Sự nổi lên của các elite chính trị rất có thể đã tạo ra sự chuyển đổi đầu tiên sang cuộc sống định cư và sau đó sang canh tác. Như các địa điểm Natufian cho thấy, cuộc sống định cư không nhất thiết có nghĩa là canh tác và chăn thả. Người dân đã có thể định cư nhưng vẫn kiếm sống bằng săn bắt hái lượm. Rốt cuộc Mùa hè Dài đã làm cho các cây dại dồi dào hơn, và săn bắt hái lượm chắc đã hấp dẫn hơn. Hầu hết người dân có thể đã khá thỏa mãn với cuộc sống đủ sống dựa trên săn bắt hái lượm mà đã không đòi hỏi nhiều nỗ lực. Ngay cả sự đổi mới công nghệ cũng không nhất thiết dẫn đến sự sản xuất nông nghiệp gia tăng. Thực vậy, được biết rằng một sự đổi mới công nghệ lớn, việc đưa rìu thép vào giữa nhóm người Thổ dân Australia được biết đến như người Yir Yoront, đã không dẫn đến sự sản xuất mạnh hơn mà đến việc ngủ nhiều hơn, bởi vì nó cho phép việc thỏa
  • 161. TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 141 mãn những đòi hỏi đủ sống một cách dễ dàng hơn, với ít khuyến khích để làm việc nhiều hơn. Cách giải thích truyền thống, dựa vào địa lý, cho cuộc Cách mạng đồ Đá Mới – cốt lõi của lý lẽ của Jared Diamond, mà chúng ta đã thảo luận ở chương 2 – là, nó đã được thúc đẩy bởi sự sẵn có tình cờ của nhiều loài thực vật và động vật mà có thể dễ dàng được thuần hóa. Điều này đã khiến cho canh tác và chăn thả hấp dẫn và đem lại cuộc sống định cư. Sau khi các xã hội đã trở thành xã hội định cư và bắt đầu canh tác, họ bắt đầu phát triển hệ thống thứ bậc chính trị, tôn giáo, và các thể chế phức tạp hơn một cách đáng kể. Mặc dù được chấp nhận rộng rãi, bằng chứng từ những người Natufian gợi ý rằng cách giải thích truyền thống này đặt cái xe trước con ngựa. Những thay đổi thể chế đã xảy ra trong các xã hội một thời gian khá dài trước khi chúng chuyển sang canh tác và có lẽ đã là nguyên nhân của cả việc chuyển sang sống định cư, mà đã tăng cường những sự thay đổi thể chế, lẫn của Cách mạng đồ Đá Mới tiếp sau đó. Hình mẫu này được gợi ý không chỉ bởi bằng chứng từ các vùng Hilly Flank, các vùng được nghiên cứu sâu nhất, mà cả bởi sự trội hơn của bằng chứng từ châu Mỹ, châu Phi hạ-Sahara, và Đông Á. Chắc chắn việc chuyển sang canh tác đã dẫn đến năng suất nông nghiệp lớn hơn và đã cho phép sự bành trướng đáng kể của dân số. Thí dụ, ở các địa điểm như Jericho và Abu Hureyna, ta thấy rằng làng canh tác ban đầu đã lớn hơn làng trước canh tác rất nhiều. Nói chung, các làng đã lớn lên từ hai đến sáu lần khi sự chuyển đổi xảy ra. Hơn nữa, nhiều hệ quả mà người ta đã lập luận một cách truyền thống như bắt nguồn từ sự chuyển đổi này đã xảy ra một cách chắc chắn. Đã có sự chuyên môn hóa nghề nghiệp lớn hơn và sự tiến bộ công nghệ nhanh hơn, và có lẽ sự phát triển của các thể chế chính trị phức tạp hơn và có lẽ ít bình quân chủ nghĩa hơn. Nhưng liệu việc này có xảy ra tại một nơi cá biệt hay không đã không được xác định bởi sự sẵn có của các loài thực vật và động vật. Thay vào đó, nó đã là hệ quả của xã hội đã trải qua các loại đổi mới thể chế, xã hội và chính trị mà đã cho phép cuộc sống định cư và sau đó sự canh tác nổi lên. Mặc dù Mùa Hè Dài và sự hiện diện của các loài cây trồng và động vật đã cho phép việc này xảy ra, nhưng nó đã không xác định một cách chính xác ở đâu và khi nào nó xảy ra, sau khi khí hậu đã ấm lên. Đúng hơn, việc này đã được xác định bởi sự tương tác của một bước ngoặt, Mùa Hè Dài, với những sự khác biệt nhỏ nhưng quan trọng về thể chế. Khi khí hậu ấm lên, một số xã hội, như những
  • 162. 142 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI người Natufian, đã phát triển các yếu tố của các thể chế được tập trung hóa và hệ thống thứ bậc, mặc dù các yếu tố này đã ở quy mô rất nhỏ so với quy mô của các nhà nước-quốc gia hiện đại. Như những người Bushong dưới thời Shyaam, các xã hội đã được tái tổ chức để tận dụng các cơ hội lớn hơn được tạo ra bởi sự tràn ngập của các thực vật và động vật hoang dã, và không nghi ngờ gì các elite chính trị những người đã là những người hưởng lợi chính của các cơ hội mới này và của quá trình tập trung hóa chính trị. Các nơi khác, mà đã có các thể chế chỉ hơi khác một chút, đã không cho phép các elite chính trị của chúng tận dụng một cách tương tự bước ngoặt này và tụt lại phía sau quá trình tập trung hóa chính trị và sự tạo ra các xã hội định cư, nông nghiệp, và phức tạp hơn. Và điều này mở đường cho một sự phân kỳ tiếp sau thuộc loại chính xác mà chúng ta đã thấy trước đây. Một khi những sự khác biệt này đã nổi lên, chúng lan ra một số nơi chứ không ra những nơi khác. Thí dụ, canh tác đã lan ra châu Âu từ Trung Đông vào khoảng năm 6.500 TCN, phần lớn như một hệ quả của sự di cư của các nông dân. Tại châu Âu, các thể chế đã trôi dạt xa các phần của thế giới, chẳng hạn như châu Phi, nơi các thể chế ban đầu đã là khác và nơi những đổi mới được khởi động bởi Mùa Hè Dài ở Trung Đông đã chỉ xảy ra muộn hơn nhiều, và thậm chí khi đó theo một dạng khác. NHỮNG ĐỔI MỚI THỂ CHẾ của những người Natufian, mặc dù chúng rất có khả năng đã làm nòng cốt cho cuộc Cách mạng đồ Đá Mới, đã không để lại một di sản đơn giản trong lịch sử thế giới và đã không dẫn một cách không thể lay chuyển được đến sự thịnh vượng dài hạn của các đất nước ở Israel, Palestine, và Syria hiện đại. Syria và Palestine là các phần tương đối nghèo của thế giới hiện đại, và sự thịnh vượng của Israel đã chủ yếu được nhập khẩu bởi sự định cư của những người Do Thái sau Chiến tranh Thế giới lần thứ Hai và trình độ giáo dục cao của họ và sự tiếp cận dễ dàng của họ đến các công nghệ tiên tiến. Sự tăng trưởng ban đầu của những người Natufian đã không trở thành bền vững vì cùng lý do mà sự tăng trưởng Soviet đã xẹp xuống. Mặc dù hết sức đáng kể, thậm chí mang tính cách mạng trong thời của nó, đấy đã là sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác. Đối với xã hội Natufian cũng đã chắc là, loại tăng trưởng này đã gây ra các xung đột sâu sắc về ai sẽ kiểm soát các thể chế và sự khai thác mà chúng cho phép. Đối với mỗi elite được hưởng lợi từ sự khai thác, có một không-elite người
  • 163. TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 143 sẽ thích thay thế anh ta. Đôi khi sự đấu đá nội bộ sẽ thay một elite bằng một elite khác. Đôi khi nó phá hủy toàn bộ xã hội khai thác, và tháo xích cho một quá trình sụp đổ nhà nước và xã hội, như nền văn minh hùng vĩ của các thành-quốc Maya được xây dựng hơn một ngàn năm trước đã trải qua. SỰ KHAI THÁC KHÔNG ỔN ĐỊNH Sự canh tác đã nổi lên một cách độc lập ở nhiều nơi quanh thế giới. Ở nơi bây giờ là Mexico, các xã hội đã hình thành mà thiết lập các nhà nước và các khu định cư, và đã chuyển sang nông nghiệp. Như với những người Natufian ở Trung Đông, họ cũng đã đạt mức độ nào đó của sự tăng trưởng kinh tế. Các thành-quốc Maya trong vùng nam Mexico, Belize, Guatemala, và Tây Honduras thực ra đã xây dựng một nền văn minh khá tinh vi dưới kiểu riêng của chúng về các thể chế khai thác. Kinh nghiệm Maya minh họa không chỉ khả năng tăng trưởng dưới các thể chế khai thác mà cả các giới hạn cơ bản khác của loại tăng trưởng này: sự bất ổn định chính trị mà nổi lên và cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của cả xã hội, lẫn của nhà nước, khi các nhóm và những người khác nhau đấu tranh để trở thành những kẻ khai thác. Các thành phố Maya đầu tiên đã bắt đầu phát triển vào khoảng năm 500 TCN. Các thành phố ban đầu này cuối cùng đã phá sản, vào thời gian nào đó trong thế kỷ đầu tiên sau công nguyên (SCN). Một mô hình chính trị mới đã nổi lên khi đó, tạo ra nền tảng cho Thời đại Cổ điển, giữa các năm 250 và 900 SCN. Thời kỳ này đã đánh dấu sự phát triển đầy đủ của văn hóa và nền văn minh Maya. Nhưng nền văn minh này cũng đã sụp đổ trong tiến trình của sáu trăm năm tiếp theo. Vào thời của các nhà chinh phục Tây Ban Nha đến trong đầu thế kỷ thứ mười sáu, các đền thờ và cung điện của các địa điểm Maya như Tikal, Palenque, và Calakmul đã lùi xa dần vào rừng, và đã không được tái phát hiện ra cho đến thế kỷ mười chín. Các thành phố Maya đã chưa bao giờ thống nhất thành một đế chế, mặc dù một số thành phố đã phụ thuộc vào các thành phố khác, và chúng thường có vẻ đã hợp tác, đặc biệt trong chiến tranh. Mối liên kết chính giữa các thành-quốc của vùng, mà năm mươi trong số đó chúng ta có thể nhận ra bởi các nét khắc chìm [glyph] của riêng họ, là, người dân của họ đã nói khoảng ba mươi mốt ngôn ngữ Maya
  • 164. 144 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau. Những người Maya đã phát triển một hệ thống chữ viết và có ít nhất mười lăm ngàn câu khắc còn lại mô tả nhiều khía cạnh của đời sống elite, văn hóa, và tôn giáo. Họ cũng đã có một bộ lịch tinh vi để nghi ngày tháng được biết đến như lịch Đếm Dài. Nó đã rất giống với lịch riêng của chúng ta, trong đó nó đếm số năm diễn ra từ một thời điểm cố định và đã được tất cả các thành phố Maya sử dụng. Lịch Đếm Dài bắt đầu vào năm 3.114 TCN, mặc dù chúng ta không biết người Maya đã gắn cho thời điểm này tầm quan trọng gì, mà đi trước rất xa sự nổi lên của bất cứ thứ gì giống với xã hội Maya. Những người Maya đã là các nhà xây dựng khéo léo những người đã sáng chế ra xi măng một cách độc lập. Các công trình và những câu khắc của họ cung cấp thông tin quan trọng về quỹ đạo của các thành phố Maya, vì họ thường đã ghi các sự kiện được tính niên đại theo lịch Đếm Dài. Ngó ngang qua tất cả các thành phố Maya, các nhà khảo cổ học như thế đã có thể đếm xem có bao nhiêu tòa nhà được hoàn tất trong các năm cá biệt. Vào khoảng năm 500 SCN, có ít công trình được ghi niên đại. Thí dụ, vào năm theo lịch Đếm Dài tương ứng với năm 514 sau công nguyên, đã chỉ có mười công trình được ghi. Sau đó đã có sự tăng đều đặn, đạt hai mươi vào năm 672 SCN, và bốn mươi vào giữa thế kỷ thứ tám. Sau đấy số các công trình được ghi niên đại giảm xuống. Vào thế kỷ thứ chín, nó giảm xuống mười công trình mỗi năm, và vào thế kỷ thứ mười, xuống zero. Những chữ khắc ghi niên đại này cho chúng ta bức tranh rõ ràng về sự mở rộng của các thành phố Maya và sự co lại của chúng sau đó từ cuối thế kỷ thứ tám. Phân tích này về niên đại có thể được bổ sung bởi việc xem xét danh sách các vua mà người Maya đã ghi lại. Tại thành phố Maya ở Copán, bây giờ ở miền tây Honduras, có một công trình nổi tiếng được biết đến như Án Thờ Q. Án Thờ Q ghi lại tên của tất cả các vua, bắt đầu từ nhà vua sáng lập của triều đại K’inich Yax K’uk’ Mo’ hay “Vua Mặt trời Xanh chim Quetzal vẹt Macaw Đệ nhất”, được đặt tên không chỉ theo mặt trời mà cả theo hai loại chim kỳ lạ của rừng Trung Mỹ mà lông của chúng được người Maya đánh giá rất cao. Vua K’inich Yax K’uk’ Mo’ lên nắm quyền ở Copán vào năm 426 SCN, mà chúng ta biết từ niên đại theo lịch Đếm Dài được ghi trên Án Thờ Q. Ông đã lập ra triều đại mà đã trị vì trong bốn trăm năm. Một số người kế vị của K’inich Yax đã có những tên sinh động ngang thế. Nét khắc chìm của vị vua cai trị thứ mười ba dịch ra là “18 Thỏ”, tiếp
  • 165. TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 145 sau ông là “Khói Khỉ” và rồi đến “Khói Vỏ Sò”, người chết vào năm 763 SCN. Tên cuối cùng trên án thờ là Vua Yax Pasaj Chan Yoaat, hay “Trời Rạng Sáng Thần Soi Sáng Đệ nhất”, người đã là nhà cai trị thứ mười sáu của dòng dõi này và đã lên ngôi khi Khói Vỏ Sò chết. Sau ông chúng ta biết về chỉ một vị vua nữa, Ukit Took (“Thánh Bảo Trợ Đá Lửa”), từ một mảnh vỡ của một án thờ. Sau Yax Pasaj, các công trình và các chữ khắc đã ngừng lại, và có vẻ rằng triều đại đã bị lật đổ không lâu sau. Ukit Took có lẽ đã thậm chí không phải là người có quyền kế vị thực tế mà chỉ là một người đòi không chính đáng. Có một cách cuối cùng của việc xem xét bằng chứng này tại Copán, cách được các nhà khảo cổ học AnnCorinne Freter, Nancy Gonlin, và David Webster phát triển. Các nhà nghiên cứu này đã trình bày một cách chi tiết sự thăng trầm của Copán bằng cách xem xét sự trải ra của khu định cư ở Thung lũng Copán trong một thời kỳ dài 850 năm, từ năm 400 SCN đến năm 1250 SCN, sử dụng một kỹ thuật được gọi là thủy hóa đá vỏ chai, mà tính hàm lượng nước của đá vỏ chai vào ngày nó được khai. Một khi được khai, hàm lượng nước giảm theo một tốc độ được biết, cho phép các nhà khảo cổ học tính tuổi của miếng đá vỏ chai được khai từ mỏ. Freter, Gonlin và Webster sau đó đã có khả năng để xác định các miếng đá vỏ chai đã được định tuổi có thể tìm thấy ở đâu trong Thung lũng Copán và lần theo dấu vết xem thành phố đã được mở rộng và sau đó bị co lại như thế nào. Vì có thể đưa ra một sự phỏng đoán hợp lý về số các nhà và công trình trong một vùng cá biệt, có thể ước lượng dân số của thành phố. Trong giai đoạn 400-449 SCN, dân số đã không đáng kể, được ước lượng ở mức khoảng sáu trăm người. Nó đã tăng đều đặn lên đỉnh điểm hai mươi tám ngàn vào thời kỳ 750-799 SCN. Mặc dầu con số này có vẻ không lớn theo các tiêu chuẩn đương thời, nhưng đã là rất đông cho thời kỳ ấy; những con số này hàm ý rằng trong thời kỳ này, Copán đã có dân số lớn hơn London hay Paris. Các thành phố Maya khác, như Tikal và Calakmul, không nghi ngờ gì đã lớn hơn nhiều. Phù hợp với bằng chứng này từ niên đại theo lịch Đếm Dài, năm 800 SCN đã là đỉnh điểm dân số cho Copán. Sau đỉnh này nó bắt đầu rớt, và vào năm 900 SCN nó đã giảm xuống còn khoảng mười lăm ngàn người. Từ đó sự giảm sút vẫn tiếp tục, và vào năm 1200 SCN dân số đã trở lại mức tám trăm năm trước. Cơ sở cho phát triển kinh tế của Maya Thời Kỳ Cổ Điển đã cũng như cơ sở cho những người Bushong và Natufian: việc tạo ra các thể chế khai thác với mức độ
  • 166. 146 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI nào đó của sự tập trung hóa nhà nước. Các thể chế này đã có nhiều yếu tố then chốt. Vào khoảng năm 100 SCN, tại thành phố Tikal ở Guatemala, đã nổi lên một loại mới của vương quốc triều đại. Một tầng lớp cai trị dựa trên ajaw (chúa hay nhà cai trị) đã bén rễ với một nhà vua được gọi là k’uhul ajaw (chúa thánh thần) và, dưới ông, một hệ thống thứ bậc của các quý tộc. Chúa thánh thần đã tổ chức xã hội với sự hợp tác của các elite này và cũng liên lạc, hiệp thông với các thần. Trong chừng mực mà chúng ta biết, tập mới này của các thể chế chính trị đã không cho phép bất cứ loại tham gia nào của dân chúng, nhưng nó đã mang lại sự ổn định. K’uhul ajaw thu các đồ cống nạp từ các nông dân và đã tổ chức lao động để xây các công trình vĩ đại, và sự liên kết của các thể chế này đã tạo cơ sở cho một sự mở rộng kinh tế mạnh mẽ. Nền kinh tế của những người Maya đã dựa trên một sự chuyên môn hóa nghề nghiệp sâu rộng, với các thợ gốm, thợ dệt, thợ mộc lành nghề, và những người làm công cụ và đồ trang trí khéo léo. Họ cũng đã trao đổi đá vỏ chai, da báo, vỏ sò biển, cacao, muối, lông chim giữa họ với nhau và giữa các chính thể trên những khoảng cách xa ở Mexico. Họ có lẽ cũng đã có tiền, và giống những người Aztec, đã sử dụng hạt cacao làm tiền. Cách, mà theo đó Maya Thời Đại Cổ Điển đã dựa vào việc tạo ra các thể chế chính trị khai thác, là rất giống tình hình của người Bushong, với Yax Ehb’ Xook ở Tikal đóng vai trò giống như vai trò của Vua Shyaam. Các thể chế chính trị mới đã dẫn đến một sự tăng đáng kể về thịnh vượng kinh tế, mà phần lớn của nó sau đó được khai thác bởi elite mới xung quanh k’uhul ajaw. Một khi hệ thống này được củng cố, vào khoảng năm 300 SCN, tuy vậy, đã có ít sự thay đổi thêm về công nghệ. Mặc dù, có bằng chứng nào đó về những kỹ thuật thủy lợi và quản lý nước được cải thiện, công nghệ nông nghiệp đã thô sơ và dường như đã không thay đổi. Kỹ thuật xây dựng và nghệ thuật đã trở nên tinh vi hơn rất nhiều theo thời gian, nhưng về tổng thể đã có ít đổi mới. Đã không có sự phá hủy sáng tạo. Nhưng đã có các hình thức phá hủy khác, vì sự giàu có mà các thể chế khai thác đã tạo ra cho k’uhul ajaw và elite Maya đã dẫn đến chiến tranh liên miên, mà đã trở nên tồi tệ hơn theo thời gian. Chuỗi các xung đột đã được ghi lại trong các dòng chữ khắc Maya, với các nét chìm đặc biệt cho biết rằng một cuộc chiến tranh đã xảy ra vào một thời điểm cá biệt trong lịch Đếm Dài. Hành tinh (sao) Kim đã là thiên thể bảo trợ của chiến tranh, và những người Maya đã coi một số pha của quỹ đạo hành tinh này như đặc biệt thuận lợi
  • 167. TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 147 cho việc tiến hành chiến tranh. Nét [khắc] chìm biểu thị chiến tranh, được biết như “chiến tranh sao” bởi các nhà khảo cổ học, cho thấy một ngôi sao trút một chất lỏng, mà có thể là nước hay máu, xuống trái đất. Các dòng khắc cũng tiết lộ các hình mẫu liên minh và cạnh tranh. Đã có các cuộc tranh giành quyền lực kéo dài giữa các nhà nước lớn hơn, như Tikal, Calakmul, Copán, và Palenque, và các nhà nước này đã chinh phục các nhà nước nhỏ hơn đưa chúng vào địa vị chư hầu. Bằng chứng cho việc này đến từ các nét chìm đánh dấu những sự lên ngôi vua. Trong thời kỳ này, chúng bắt đầu cho thấy rằng các nhà nước nhỏ hơn bây giờ bị thống trị bởi nhà nước khác, kẻ cai trị từ bên ngoài. Bản đồ 10 (trang 148) cho thấy các thành phố Maya chính và các hình mẫu khác nhau của mối quan hệ giữa chúng như được các nhà khảo cổ học Nikolai Grube và Simon Martin dựng lại. Các hình mẫu này cho biết rằng mặc dù các thành phố lớn như Calakmul, Dos Pilas, Piedras Negras, và Yaxchilian đã có các mối quan hệ ngoại giao rộng, một số thường bị thống trị bởi một số khác và chúng cũng đã chiến đấu với nhau. Sự thực áp đảo về sự sụp đổ Maya là, nó trùng với sự lật đổ mô hình chính trị dựa trên k’uhul ajaw. Chúng ta đã thấy ở Copán rằng sau cái chết của Yax Pasaj trong năm 810 SCN đã không có thêm vua nào. Vào khoảng thời gian này các cung điện hoàng gia bị bỏ rơi. Hai mươi dặm về phía bắc Copán, tại thành phố Quiringuá, nhà vua cuối cùng, Trời Ngọc Thạch, đã lên ngôi vua giữa năm 795 và 800 SCN. Công trình kỷ niệm được ghi niên đại cuối cùng là từ 810 SCN theo lịch Đếm Dài, cùng năm mà Yax Pasaj chết. Thành phố bị bỏ rơi ngay sau đó. Khắp khu vực Maya câu chuyện đều giống nhau; các thể chế chính trị mà đã tạo ra bối cảnh cho sự mở rộng buôn bán, nông nghiệp, và dân số đã biến mất. Các triều đình hoàng gia đã không hoạt động, các công trình và các đền đài đã không được tạo ra, và các cung điện bị bỏ trống. Như các thể chế chính trị và xã hội đã làm sáng tỏ, sự đảo ngược quá trình tập trung hóa nhà nước, nền kinh tế đã co lại và dân số giảm xuống.
  • 168. 148 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Trong một số trường hợp các trung tâm chính đã sụp đổ do bạo lực lan rộng. Vùng Petexbatun của Guatemala – nơi các đền thờ lớn sau đó bị phá đổ và đá được dùng để xây dựng các tường phòng thủ rộng – cung cấp một thí dụ sinh động. Như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, nó đã rất giống với cái đã xảy ra trong Đế chế La Mã cổ đại. Muộn hơn, ngay cả ở những địa điểm, như Copán, nơi đã có ít dấu hiệu về bạo lực vào thời gian sụp đổ, nhiều công trình đã bị tẩy xóa hay bị phá hủy. Ở một số nơi elite vẫn còn thậm chí sau việc lật đổ ban đầu của k’uhul ajaw. Tại Copán, có bằng chứng về elite tiếp tục dựng lên các tòa nhà mới trong ít nhất hai trăm năm nữa trước khi chúng cũng đã biến mất. Ở những nơi khác các elite có vẻ đã biến mất cùng lúc khi chúa thánh thần biến mất. Bằng chứng khảo cổ học hiện có không cho phép chúng ta đi đến một kết luận dứt khoát về vì sao k’uhul ajaw và các elite quanh ông ta bị lật đổ và vì sao các thể chế mà đã tạo ra Maya Thời Kỳ Cổ điển lại sụp đổ. Chúng ta biết việc này đã
  • 169. TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 149 xảy ra trong bối cảnh chiến tranh gia tăng giữa các thành phố, và có vẻ có khả năng rằng sự chống đối và sự nổi loạn ở bên trong thành phố, có lẽ do phe nhóm elite khác lãnh đạo, đã lật đổ thể chế. Mặc dù các thể chế khai thác, mà những người Maya tạo ra, đã làm ra của cải đủ để cho thành phố thịnh vượng và elite trở nên giàu có và tạo ra nghệ thuật và các công trình kỷ niệm tuyệt vời, hệ thống đã không ổn định. Các thể chế khai thác mà trên đó elite hẹp này cai trị đã tạo ra sự bất bình đẳng sâu rộng, và như thế tạo ra tiềm năng cho sự đấu đá nội bộ giữa những người có thể hưởng lợi từ của cải được khai thác từ nhân dân. Sự xung đột này cuối cùng đã dẫn đến sự phá hủy nền văn minh Maya. HỎNG CÁI GÌ? Các thể chế khai thác là rất phổ biến trong lịch sử bởi vì chúng có một logic mạnh mẽ: chúng có thể tạo ra sự thịnh vượng hạn chế nào đó trong khi đồng thời phân phối nó vào tay của một giới elite nhỏ. Để cho sự tăng trưởng này xảy ra, phải có sự tập trung hóa chính trị. Một khi việc này đã xảy ra, nhà nước – hay elite kiểm soát nhà nước – có các khuyến khích để đầu tư và tạo ra của cải, cổ vũ những người khác đầu tư để cho nhà nước có thể khai thác các nguồn lực từ họ, và thậm chí bắt chước một vài trong số các quá trình mà bình thường được khởi động bởi các thể chế kinh tế bao gồm và các thị trường. Trong các nền kinh tế đồn điền ở Caribe, các thể chế khai thác đã có dạng của elite cưỡng bức các nô lệ sản xuất đường. Tại Liên Xô, các thể chế khai thác đã có dạng của Đảng Cộng Sản phân bổ lại các nguồn lực từ nông nghiệp sang công nghiệp và sắp đặt loại nào đó của các khuyến khích cho các nhà quản lý và công nhân. Như chúng ta đã thấy, các khuyến khích như vậy đã bị bản chất của hệ thống làm xói mòn. Tiềm năng tạo ra tăng trưởng khai thác tạo một lực đẩy cho việc tập trung chính trị và là lý do vì sao Vua Shyaam đã muốn tạo ra Vương quốc Kuba, và chắc cung cấp các lời giải thích vì sao những người Natufian ở Trung Đông đã thiết lập một dạng thô sơ của luật và trật tự, hệ thống thứ bậc, và các thể chế khai thác mà cuối cùng đã dẫn đến Cách mạng đồ Đá Mới. Các quá trình tương tự chắc cũng đã là nòng cốt cho sự nổi lên của các xã hội định cư và sự chuyển đổi sang
  • 170. 150 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI nông nghiệp ở châu Mỹ, và đã có thể thấy trong nền văn minh tinh vi mà những người Maya đã xây dựng trên nền tảng được sắp đặt bởi các thể chế hết sức khai thác cưỡng bức số đông làm lợi cho số ít các elite. Tuy vậy, sự tăng trưởng được tạo ra bởi các thể chế khai thác về bản chất là rất khác với sự tăng trưởng được tạo ra dưới các thể chế bao gồm. Quan trọng nhất, nó không bền vững. Do chính bản chất của chúng, các thể chế khai thác không khuyến khích sự phá hủy sáng tạo và tạo ra nhiều nhất chỉ một mức độ hạn chế của tiến bộ công nghệ. Sự tăng trưởng mà chúng tạo ra vì thế kéo dài chỉ lâu dường ấy. Kinh nghiệm Soviet cho một minh họa sống động về giới hạn này. Nước Nga Soviet đã tạo ra sự tăng trưởng nhanh vì nó đã nhanh chóng đuổi kịp một số công nghệ tiên tiến trên thế giới, và các nguồn lực đã được tái phân bổ từ khu vực nông nghiệp hết sức kém hiệu quả sang công nghiệp. Nhưng cuối cùng các khuyến khích trong mọi khu vực, từ nông nghiệp đến công nghiệp, đã không kích thích sự tiến bộ công nghệ. Việc này đã xảy ra chỉ ở vài ổ nơi các nguồn lực được đổ vào và nơi sự đổi mới được tưởng thưởng mạnh mẽ bởi vì vai trò của nó trong cạnh tranh với phương Tây. Sự tăng trưởng Soviet, dẫu nhanh đến đâu, đã nhất thiết là tương đối ngắn ngủi, và nó đã hụt hơi rồi vào các năm 1970. Thiếu sự phá hủy sáng tạo và đổi mới không phải là lý do duy nhất vì sao có những giới hạn khắc nghiệt cho sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác. Lịch sử của các thành-quốc Maya minh họa một sự kết thúc đáng ngại hơn và, than ôi, phổ biến hơn, lại do logic nội tại của các thể chế khai thác gây ra. Vì các thể chế này tạo ra những lợi lộc đáng kể cho elite, sẽ có khuyến khích mạnh mẽ đối với những người khác để chiến đấu thay thế elite hiện thời. Sự đấu đá nội bộ và sự bất ổn định, như thế là các đặc điểm vốn có của các thể chế khai thác và chúng không chỉ gây ra thêm những sự kém hiệu quả mà thường cũng đảo ngược bất cứ sự tập trung chính trị nào, đôi khi thậm chí dẫn đến sự sụp đổ hoàn toàn của luật và trật tự và sa vào hỗn loạn, như các thành-quốc Maya đã trải qua tiếp sau thành công tương đối của họ trong Thời Kỳ Cổ Điển. Mặc dù bị hạn chế một cách cố hữu, tăng trưởng dưới các thể chế khai thác tuy vậy có thể tỏ ra ngoạn mục khi nó trong chuyển động. Nhiều người ở Liên Xô, và còn nhiều người hơn ở thế giới phương Tây đã bị kinh sợ bởi sự tăng trưởng Soviet trong các năm 1920, 30, 40, 50, 60, và thậm chí mãi đến các năm 1970, theo cùng cách mà chúng ta bị mê hoặc bởi nhịp độ chóng mặt của sự tăng trưởng
  • 171. TÔI ĐÃ THẤY TƯƠNG LAI, VÀ NÓ HOẠT ĐỘNG ● 151 kinh tế ở Trung Quốc hiện nay. Nhưng như chúng ta sẽ thảo luận chi tiết trong chương 15, Trung Quốc dưới sự cai trị của Đảng Cộng Sản là một thí dụ khác về xã hội trải qua sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác và một cách tương tự không chắc sẽ tạo ra sự tăng trưởng bền vững trừ phi nó trải qua một sự biến đổi chính trị cơ bản theo hướng các thể chế chính trị bao gồm.
  • 172. 6. TRÔI DẠT XA RA VENICE ĐÃ TRỞ THÀNH BẢO TÀNG NHƯ THẾ NÀO HÓM CÁC ĐẢO tạo thành Venice nằm ở niềm cực bắc Biển Adriatic. Trong Thời Trung Cổ, Venice có lẽ đã là nơi giàu nhất thế giới, với bộ tiên tiến nhất của các thể chế kinh tế bao gồm, do tính bao gồm chính trị mới nảy sinh làm nòng cốt. Nó được độc lập vào năm 810 SCN, vào lúc hóa ra là một thời tình cờ. Nền kinh tế châu Âu đang phục hồi từ sự sa sút mà nó đã phải chịu vì sự sụp đổ của Đế chế La Mã, và các vua như Charlemagne đang tổ chức lại quyền lực chính trị tập trung mạnh. Việc này đã dẫn đến sự ổn định, sự an toàn lớn hơn, và một sự mở rộng thương mại, mà Venice đã ở vị thế độc nhất vô nhị để tận dụng. Nó đã là quốc gia của các thủy thủ, nằm đúng giữa Địa Trung Hải. Hàng hóa đến từ phương Đông là gia vị, các hàng hóa chế tác Byzantine và nô lệ. Venice đã trở nên giàu có. Vào năm 1050, khi Venice đã được mở rộng rồi về mặt kinh tế trong ít nhất một thế kỷ, nó đã có dân số 45.000 người. Con số này đã tăng 50 phần trăm lên 70.000 người vào năm 1200. Vào năm 1330 dân số lại tăng thêm 50 phần trăm lên 110.000 người; Venice thời đó đã lớn như Paris, và có lẽ bằng ba lần London. Một trong những cơ sở then chốt cho sự mở rộng kinh tế của Venice đã là một loạt những đổi mới về hợp đồng làm cho các thể chế kinh tế mang tính bao gồm hơn nhiều. Đổi mới nổi tiếng nhất đã là commenda, một loại sơ đẳng của công ty cổ phần, mà đã hình thành chỉ trong thời gian của một thương vụ duy nhất. Một commenda bao gồm hai đối tác, một đối tác “tĩnh tại” ở lại Venice, và một đối tác chu du. Đối tác tĩnh tại bỏ vốn vào vụ kinh doanh mạo hiểm, trong khi đối tác chu du áp tải hàng hóa. Một cách điển hình, đối tác tĩnh tại bỏ phần lớn vốn. Các doanh nhân trẻ mà bản thân họ không có của cải, khi đó đã có thể tham gia vào kinh doanh thương mại bằng cách đi áp tải hàng hóa. Nó đã là kênh chủ chốt để thăng tiến về mặt xã hội. Bất cứ thiệt hại nào xảy ra trong chuyến buôn được chia N
  • 173. TRÔI DẠT XA RA ● 153 theo tỷ lệ vốn góp. Nếu chuyến buôn có lời, lợi nhuận dựa vào hai loại hợp đồng commenda. Nếu commenda là đơn phương, thì đối tác tĩnh tại bỏ 100 phần trăm vốn và hưởng 75 phần trăm lợi nhuận. Nếu hợp đồng là song phương, đối tác tĩnh tại bỏ 67 phần trăm vốn và hưởng 50 phần trăm lợi nhuận. Nghiên cứu các tài liệu chính thức, ta thấy commenda đã là một lực mạnh đến thế nào trong cổ vũ sự thăng tiến về mặt xã hội: những tài liệu này đầy các tên mới, những người trước đó đã không thuộc về giới elite ở Venice. Trong các tài liệu của chính phủ trong các năm 960, 971, và 982 SCN, số tên mới chiếm một cách tương ứng 69 phần trăm, 81 phần trăm, và 65 phần trăm của những người được ghi chép. Tính bao gồm kinh tế này và sự trỗi dậy của các gia đình mới thông qua thương mại đã buộc hệ thống chính trị trở nên thậm chí mở hơn. Tổng trấn, người điều hành Venice, được Đại Hội (General Assembly) bầu suốt đời. Mặc dù là một đại hội của tất cả công dân, trên thực tế Đại Hội bị thống trị bởi một nhóm cốt lõi gồm các gia đình hùng mạnh. Mặc dù tổng trấn đã rất hùng mạnh, quyền lực của ông đã bị giảm từ từ theo thời gian bởi những thay đổi về thể chế chính trị. Sau năm 1032, tổng trấn được bầu cùng với một Hội đồng Công tước (Ducal Council) mới được lập ra, mà công việc của nó cũng là để đảm bảo tổng trấn không nắm được quyền lực tuyệt đối. Tổng trấn đầu tiên bị hội đồng này bao vây, Domenico Flabianico, đã là một nhà buôn tơ lụa giàu có từ một gia đình mà trước đó đã không giữ chức cao. Sự thay đổi thể chế này được kế tiếp bởi một sự mở rộng to lớn của thương mại và sức mạnh hải hải quân Venice. Trong năm 1082, Venice đã được ban những đặc quyền rộng rãi tại Constantinople, và một khu Venice đã được lập ra ở thành phố đó. Nó mau chóng trở thành chỗ ở cho mười ngàn người Venice. Ở đây chúng ta thấy các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm bắt đầu hoạt động cùng nhau. Sự mở rộng kinh tế của Venice, mà đã tạo ra áp lực nhiều hơn cho thay đổi chính trị, đã bùng nổ sau những thay đổi về thể chế chính trị và kinh tế tiếp sau vụ ám sát tổng trấn năm 1171. Đổi mới quan trọng đầu tiên đã là việc tạo ra một Đại Hội Đồng (Great Council), mà trở thành nguồn cuối cùng của quyền lực chính trị ở Venice từ thời điểm này trở đi. Hội đồng được cấu thành từ các viên chức trong nhà nước Venice, như các thẩm phán, và đã bị áp đảo bởi các nhà quý tộc. Ngoài các viên chức này ra, mỗi năm một trăm thành viên mới được chỉ định vào hội đồng bởi một ủy ban bổ nhiệm mà bốn thành viên ủy ban được lựa chọn bằng
  • 174. 154 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI cách rút thăm từ hội đồng hiện tại. Hội đồng sau đó cũng chọn thành viên cho hai tiểu hội đồng, Thượng viện và Hội đồng Bốn Mươi, mà đã có các nhiệm vụ lập pháp và hành pháp khác nhau. Đại Hội Đồng cũng chọn ra Hội đồng Công tước, mà đã được mở rộng từ hai đến sáu thành viên. Đổi mới thứ hai là việc thành lập một hội đồng nữa, được Đại Hội Đồng chọn bằng cách rút thăm, để bổ nhiệm tổng trấn. Mặc dù, sự lựa chọn phải được Đại Hội phê chuẩn, vì họ đề cử bổ nhiệm một người duy nhất, việc này thực ra trao quyền lựa chọn tổng trấn cho hội đồng. Đổi mới thứ ba đã là, tổng trấn mới phải tuyên thệ nhậm chức mà hạn chế quyền lực công tước [của ông]. Theo thời gian các hạn chế này đã được mở rộng đến mức các tổng trấn tiếp theo đã phải tuân theo các thẩm phán, rồi phải để Hội đồng Công tước phê chuẩn mọi quyết định của mình. Hội đồng Công tước cũng đã nắm vai trò để đảm bảo rằng tổng trấn tuân theo tất cả các quyết định của Đại Hội Đồng. Những cải cách chính trị này đã dẫn đến một loạt nữa của những đổi mới thể chế: về luật, việc tạo ra các thẩm phán độc lập, các tòa án, tòa thượng thẩm, và hợp đồng tư nhân mới và luật phá sản. Các thể chế kinh tế mới này của Venice đã cho phép tạo ra các hình thức kinh doanh hợp pháp mới và các loại hợp đồng mới. Đã có một sự đổi mới tài chính nhanh chóng, và chúng ta thấy sự khởi đầu của hoạt động ngân hàng hiện đại quanh thời gian này ở Venice. Venice năng động đang tiến tới các thể chế hoàn toàn bao gồm đã có vẻ là không thể ngăn được. Nhưng đã có một sự căng thẳng trong tất cả chuyện này. Sự tăng trưởng kinh tế được ủng hộ bởi các thể chế bao gồm của Venice đã đi cùng với sự phá hủy sáng tạo. Mỗi làn sóng mới của những thanh niên táo bạo những người trở nên giàu có qua commenda hay các thể chế kinh tế tương tự đã có xu hướng làm giảm lợi nhuận và thành công kinh tế của các elite có uy quyền đã được thiết lập. Và những người mới này đã không chỉ làm giảm lợi nhuận của họ mà cũng thách thức quyền lực chính trị của họ. Như thế đã luôn luôn có một sự cám dỗ, nếu họ có thể thoát khỏi nó, cho các elite hiện hành đang ngồi trong Đại Hội Đồng để đóng cửa hệ thống đối với những người mới này. Ngay từ khi thành lập Đại Hội Đồng, tư cách thành viên được xác định mỗi năm. Như chúng ta đã thấy, vào cuối mỗi năm, bốn thành viên được chọn một cách ngẫu nhiên để chỉ định một trăm thành viên cho năm tiếp theo, những người được chọn một cách tự động. Ngày 3-10-1286, một kiến nghị được đệ trình cho
  • 175. TRÔI DẠT XA RA ● 155 Đại Hội Đồng rằng các quy tắc được sửa đổi sao cho các việc chỉ định phải được phê chuẩn bởi đa số của Hội đồng Bốn mươi, mà được kiểm soát chặt chẽ bởi các gia đình elite. Việc sửa đổi này sẽ cho giới elite này quyền phủ quyết đối với những sự bổ nhiệm mới vào hội đồng, quyền mà trước kia họ đã không có. Kiến nghị đã bị đánh bại. Ngày 5-10-1286, một kiến nghị khác được đệ trình; lần này nó được thông qua. Kể từ đó trở đi đã có sự xác nhận tự động của một cá nhân nếu bố và ông của người đó đã phục vụ trong hội đồng. Khác đi, thì đòi hỏi sự xác nhận của Hội đồng Công tước. Ngày 17 tháng Mười, một sự thay đổi khác về quy tắc đã được thông qua, quy định rằng một sự bổ nhiệm vào Đại Hội Đồng phải được sự chuẩn y của Hội đồng Bốn mươi, tổng trấn và Hội đồng Công tước. Các cuộc tranh luận và những sửa đổi hiến pháp của năm 1286 đã báo trước La Serrata (“Sự Đóng cửa”) của Venice. Tháng Hai 1297, đã được quyết định rằng nếu bạn đã là thành viên của Đại Hội Đồng trong bốn năm trước, bạn nhận được sự bổ nhiệm và chuẩn y tự động. Những sự bổ nhiệm mới bây giờ phải được Hội đồng Bốn mươi phê chuẩn, nhưng chỉ với mười hai phiếu. Sau 11-9-1298 các thành viên hiện thời và gia đình họ không còn cần xác nhận nữa. Đại Hội Đồng trên thực tế bây giờ đã bị gắn xi lại đối với người ngoài, và những người giữ chức ban đầu đã trở thành một tầng lớp quý tộc kế truyền. Dấu xi cho việc này đã đến vào năm 1315, với Libro d’Oro (“Sách Vàng”), mà là nơi đăng ký chính thức của giới quý tộc Venice. Những người ngoài giới quý tộc mới sinh này đã không để quyền lực của họ bị xói mòn mà không có sự chiến đấu. Những căng thẳng chính trị đã tăng lên đều đặn ở Venice giữa 1297 và 1315. Đại Hội Đồng đã phản ứng lại một phần bằng cách làm cho nó lớn hơn. Trong một nỗ lực để bầu các đối thủ lớn tiếng nhất vào, nó đã phát triển từ 450 lên 1.500. Sự mở rộng này đã được bổ sung bằng đàn áp. Một lực lượng cảnh sát đã được đưa vào lần đầu tiên trong năm 1310, và đã có sự gia tăng đều đặn về áp bức nội địa, không nghi ngờ gì như một cách để củng cố trật tự chính trị mới. Sau khi đã thực hiện một Serrata chính trị, rồi Đại Hội Đồng chuyển sang chấp nhận một Serrata kinh tế. Việc chuyển sang các thể chế chính trị khai thác bây giờ được tiếp theo bởi bước đi theo hướng các thể chế kinh tế khai thác. Quan trọng nhất họ đã cấm việc sử dụng hợp đồng commenda, một trong những đổi mới thể chế vĩ đại mà đã làm cho Venice giàu có. Điều này không ngạc nhiên:
  • 176. 156 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI commeda đã làm lợi cho các thương gia mới, và bây giờ elite đã được củng cố muốn loại trừ họ ra. Đấy đã chỉ là một bước theo hướng các thể chế kinh tế khai thác hơn. Một bước khác đến khi, bắt đầu từ năm 1314, nhà nước Venice bắt đầu tiếp quản và quốc hữu hóa thương mại. Nó đã tổ chức các thuyền galley của nhà nước để làm thương mại và, từ 1324 trở đi, bắt đầu đánh các mức thuế cao những cá nhân muốn làm thương mại. Thương mại đường dài đã trở thành việc riêng của giới quý tộc. Đấy là khởi đầu của sự kết thúc thịnh vượng của Venice. Với các ngành kinh doanh chính bị độc quyền hóa bởi giới elite ngày càng hẹp, sự sa sút đang tiến triển. Venice có vẻ đã sắp sửa trở thành xã hội bao gồm đầu tiên của thế giới, nhưng nó đã bị rơi một cú [bị đảo chính]. Các thể chế chính trị và kinh tế trở nên khai thác hơn, và Venice đã bắt đầu trải qua sự suy tàn kinh tế. Vào năm 1500 dân số đã sụt xuống còn một trăm ngàn người. Giữa 1650 và 1800, khi dân số của châu Âu đã tăng nhanh, dân số của Venice đã co lại. Ngày nay hoạt động kinh tế duy nhất mà Venice có, bên cạnh một chút nghề cá, là du lịch. Thay cho đi tiên phong mở các con đường buôn bán và các thể chế kinh tế, những người Venice làm pizza và kem và thổi thủy tinh màu cho các đám người nước ngoài. Khách du lịch đến Venice để xem các kỳ quan trước-Serrata của Venice, như Dinh Tổng trấn và các con sư tử của Nhà thờ St. Mark, mà đã được cướp từ Byzantium khi Venice cai trị vùng Địa Trung hải. Từ một cường quốc Venice đã biến thành một viện bảo tàng. TRONG CHƯƠNG NÀY chúng ta tập trung vào sự phát triển lịch sử của các thể chế ở các phần khác nhau của thế giới và giải thích vì sao chúng đã tiến hóa theo những cách khác nhau. Chúng ta đã thấy trong chương 4 các thể chế của Tây Âu đã phân kỳ ra sao với các thể chế của Đông Âu và sau đó các thể chế của nước Anh đã phân kỳ thế nào khỏi các thể chế của các nước còn lại của Tây Âu. Đấy đã là hệ quả của những khác biệt nhỏ về thể chế, chủ yếu như kết quả từ một sự trôi dạt thể chế tương tác với các bước ngoặt. Có thể cám dỗ khi đó để nghĩ rằng những sự khác biệt thể chế này là đỉnh của một tảng băng lịch sử sâu, nơi dưới mặt nước chúng ta thấy các thể chế Anh và Âu châu trôi dạt một cách không thể lay chuyển nổi khỏi các thể chế ở các nơi khác, dựa trên các sự kiện lịch sử truy nguyên lại hàng ngàn năm. Phần còn lại, như họ nói, là lịch sử.
  • 177. TRÔI DẠT XA RA ● 157 Ngoại trừ rằng nó không phải vậy, vì hai lý do. Thứ nhất, các bước tiến đến các thể chế bao gồm, như tường thuật của chúng ta về Venice cho thấy, có thể bị đảo ngược. Venice đã trở nên phồn vinh. Nhưng các thể chế chính trị và kinh tế của nó bị lật đổ, và sự thịnh vượng đó đảo ngược. Ngày nay Venice giàu chỉ bởi vì những người kiếm được thu nhập của họ ở nơi khác chọn tiêu ở đó để thán phục vẻ huy hoàng của quá khứ của nó. Sự thực rằng các thể chế bao gồm có thể đảo ngược cho thấy rằng không có một quá trình tích tụ đơn giản của sự cải thiện thể chế. Thứ hai, những sự khác biệt nhỏ về thể chế mà đóng vai trò cốt yếu trong các bước ngoặt, do bản chất của chúng là phù du. Bởi vì chúng là nhỏ, chúng có thể đảo ngược, rồi lại có thể xuất hiện lại và bị đảo ngược lại một lần nữa. Chúng ta sẽ thấy trong chương này rằng, ngược với cái ta có thể kỳ vọng từ các lý thuyết địa lý hay văn hóa, nước Anh, nơi bước quyết định đến các thể chế bao gồm xảy ra trong thế kỷ thứ mười bảy, đã là một nơi ao tù nước đọng, không chỉ trong hàng ngàn năm tiếp sau Cách mạng đồ Đá Mới ở Trung Đông mà cả vào đầu của Thời Trung Cổ, tiếp sau sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã. Các hòn đảo Anh đã không đáng kể đối với Đế chế La Mã, chắc chắn ít quan trọng hơn Tây Âu lục địa, Bắc Phi, vùng Balkan, Constantinople, hay Trung Đông. Khi Đế chế Tây La Mã sụp đổ trong thế kỷ thứ năm sau công nguyên, Anh đã chịu sự suy tàn toàn diện nhất. Nhưng các cuộc cách mạng mà cuối cùng đã mang lại Cách mạng Công nghiệp đã xảy ra không phải ở Italy, Thổ Nhĩ Kỳ, hay thậm chí ở tây Âu lục địa, mà là ở các hòn đảo Anh. Trong việc hiểu con đường đến Cách mạng Công nghiệp của nước Anh và các nước đi theo nó, di sản của La Mã (Rome) tuy vậy là quan trọng vì nhiều lý do. Thứ nhất, La Mã, giống Venice, đã trải qua những đổi mới thể chế ban đầu trọng đại. Như ở Venice, thành công kinh tế ban đầu của La Mã đã dựa trên các thể chế bao gồm – chí ít theo tiêu chuẩn của thời ấy. Như ở Venice, các thể chế này đã trở nên khai thác hơn một cách dứt khoát theo thời gian. Với La Mã, điều này đã là hệ quả của sự thay đổi từ chế độ Cộng Hòa (510 TCN – 49 TCN) sang Đế chế (49 TCN – 476 SCN). Cho dù trong thời kỳ Cộng hòa, La Mã đã xây dựng một đế chế bề thế, và buôn bán đường dài và giao thông đã hưng thịnh, phần lớn nền kinh tế La Mã đã dựa trên sự khai thác. Sự chuyển đổi từ cộng hòa sang đến chế đã làm
  • 178. 158 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI tăng sự khai thác và cuối cùng đã dẫn đến loại đấu đá nội bộ, bất ổn định, và sụp đổ mà chúng ta đã thấy với các thành-quốc Maya. Thứ hai và quan trọng hơn, chúng ta sẽ thấy rằng sự phát triển thể chế tiếp theo của Tây Âu, mặc dù đã không là một sự thừa kế trực tiếp của La Mã, đã là một hệ quả của các bước ngoặt mà đã phổ biến khắp khu vực theo sau sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã. Các bước ngoặt đã có ít sự giống nhau ở các phần khác của thế giới, như châu Phi, châu Á, hay châu Mỹ, mặc dù chúng ta cũng chứng tỏ thông qua lịch sử Ethiopia rằng khi các nơi khác có trải qua các bước ngoặt tương tự, đôi khi chúng phản ứng lại theo những cách giống nhau một cách rõ rệt. Sự suy sụp La Mã đã dẫn đến chủ nghĩa phong kiến, mà, như một sản phẩm phụ, đã làm cho chế độ nô lệ teo đi, đã tạo ra các thành phố nằm ngoài phạm vi ảnh hưởng của các quốc vương và các quý tộc, và trong quá trình tạo ra một bộ các thể chế nơi quyền lực chính trị của những kẻ cai trị bị yếu đi. Chính là trên nền tảng phong kiến này mà Cái Chết Đen tạo ra sự tàn phá và củng cố thêm các thành phố độc lập và các nông dân gây thiệt hại cho các vua, các quý tộc, và các địa chủ lớn. Và chính là trên cái nền này mà các cơ hội được tạo ra bởi thương mại Đại Tây Dương đang diễn ra. Nhiều phần của thế giới đã không trải qua những thay đổi này, và vì thế đã trôi dạt xa ra. CÁC ĐỨC HẠNH LA MÃ … Người bảo vệ dân thường La Mã, Tiberius Gracchus, đã bị đánh bằng gậy đến chết vào năm 133 TCN bởi các thượng nghị sĩ La Mã và xác ông đã bị quẳng xuống sông Tiber không có nghi thức nào. Những người giết ông đã là các quý tộc giống như bản thân Tiberius, và vụ ám sát đã được lên kế hoạch bởi người em họ của ông, Publius Cornelius Scipio Nasica. Tiberius Gracchus đã có một dòng dõi quý tộc hoàn hảo như một hậu duệ của một số lãnh đạo lừng danh của Cộng hòa La Mã, kể cả Lucius Aemillius Paullus, anh hùng của các cuộc chiến tranh Illyrian và Punic thứ Hai, và Scipio Africanus, vị tướng đã đánh bại Hannibal trong Chiến tranh Punic thứ Hai. Vì sao các thượng nghĩ sĩ hùng mạnh của thời ông, ngay cả em họ của ông, đã quay lại chống ông?
  • 179. TRÔI DẠT XA RA ● 159 Câu trả lời cho ta biết nhiều về những căng thẳng trong Cộng hòa La Mã và các nguyên nhân của sự suy sụp sau đó của nó. Cái khiến cho Tiberius đọ sức với các thượng nghị sĩ hùng mạnh này đã là sự sẵn sàng của ông để đứng lên chống lại họ trong một vấn đề cốt yếu của thời đó: sự phân bổ đất và các quyền của những dân thường (plebeian), các công dân La Mã bình thường. Vào thời của Tiberius Gracchus, La Mã là một nền cộng hòa đã có từ lâu. Các thể chế chính trị của nó và các đức hạnh của những người lính-công dân La Mã – như được thể hiện bởi bức tranh nổi tiếng, Lời thề của nhà Horatii, của Jacques- Louis David, mà cho thấy những người con thể với cha mình rằng họ sẽ bảo vệ Cộng Hòa La Mã đến hơi thở cuối cùng – vẫn được nhiều sử gia coi như nền tảng thành công của nền cộng hòa. Các công dân La Mã đã lập ra nền cộng hòa bằng cách lật đổ vua của họ, Lucius Tarquinius Superbus, được biết đến như Tarquin người Tự hào, vào khoảng 510 TCN. Nền cộng hòa đã thiết kế một cách tài tình các thể chế chính trị của nó với nhiều yếu tố bao gồm. Nó được cai trị bởi các quan viên (magistrate) được bầu cho một năm. Sự thực rằng chức vụ quan viên được bầu chọn hàng năm, và nhiều người đồng thời giữ chức ấy đã làm giảm khả năng của bất cứ một cá nhân nào để củng cố hay lạm dụng quyền lực của mình. Các thể chế của nền cộng hòa đã chứa một hệ thống kiểm soát và cân bằng mà đã phân phối quyền lực một cách khá rộng. Điều này đã là thế cho dù không phải tất cả công dân đã có sự đại diện ngang nhau, vì việc bỏ phiếu đã là gián tiếp. Cũng đã có rất nhiều nô lệ thiết yếu cho việc sản xuất ở phần lớn Italy, có lẽ chiếm đến một phần ba dân số. Các nô lệ tất nhiên chẳng có quyền gì, nói chi đến sự đại diện chính trị. Dẫu sao, như ở Venice, các thể chế chính trị La Mã đã có các yếu tố đa nguyên. Các dân thường đã có đại hội riêng của họ được gọi là Đại Hội Dân Thường (Plebeian Assembly), mà đã có thể bầu ra người bảo vệ dân thường (plebeian tribune) của mình, người có quyền phủ quyết các hành động của các quan viên. Chính các dân thường đã đưa Tiberius Gracchus lên nắm quyền của người bảo vệ dân thường trong năm 133 TCN. Sức mạnh của họ đã được rèn bởi “sự ly khai”, một dạng đình công của dân thường, đặc biệt của binh lính, những người có thể bỏ đi đến một quả đồi ở bên ngoài thành phố và từ chối hợp tác với các quan viên cho đến khi những khiếu nại của họ được giải quyết. Sự đe dọa này tất nhiên là đặc biệt quan trọng trong thời chiến. Được cho rằng chính trong một
  • 180. 160 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI sự ly khai như vậy vào thế kỷ thứ năm trước công nguyên mà các công dân đã có được quyền để bầu người bảo vệ của họ và thông qua các luật để cai quản cộng đồng của mình. Sự bảo vệ chính trị và pháp lý của họ, cho dù bị hạn chế theo các tiêu chuẩn hiện thời của chúng ta, đã tạo ra các cơ hội kinh tế cho các công dân và một mức độ bao gồm nào đó trong các thể chế kinh tế. Kết quả là, thương mại khắp vùng Địa Trung Hải đã hưng thịnh dưới Nền cộng hòa La Mã. Bằng chứng khảo cổ học gợi ý rằng trong khi đa số công dân và nô lệ đã sống không cao hơn mức tồn tại qua ngày là mấy, thì nhiều người La Mã, kể cả một số công dân thường, đã đạt thu nhập cao, với sự tiếp cận đến các dịch vụ công như hệ thống thoát nước và đèn đường của thành phố. Hơn nữa, có bằng chứng rằng cũng đã có sự tăng trưởng kinh tế nào đó ở Cộng hòa La Mã. Chúng ta có thể theo dõi sự thịnh vượng kinh tế của Cộng hòa La Mã từ các vụ đắm tàu. Đế chế mà những người La Mã xây dựng theo một nghĩa nào đó đã là một mạng lưới các thành phố cảng – từ Athens, Antioch, và Alexandria ở phía đông; qua Rome, Carthage, và Cadiz; suốt lộ trình đến London ở cực tây. Khi các lãnh thổ La Mã mở rộng, thương mại và đội tàu cũng thế, mà có thể tìm thấy dấu vết từ các vụ đắm tàu được các nhà khảo cổ học tìm thấy dưới đáy Địa Trung Hải. Các xác tàu đắm này có thể được định niên đại bằng nhiều cách. Các tàu thường chở các vò hai quai chứa đầy rượu hay dầu ô liu, được chuyển từ Italy sang Gaul, hay dầu ô liu Tây Ban Nha để bán hay phát không ở Rome. Các vò hai quai, là các bình làm bằng đất sét nung được gắn xi, thường chứa thông tin về ai đã làm ra chúng và làm khi nào. Ngay gần sông Tiber ở Rome có một quả núi nhỏ, Monte Testaccio, cũng được biết đến như Monte dei Cocci (“Núi Gốm”), được tạo thành bởi khoảng năm mươi ba triệu vò hai quai. Khi các vò được dỡ xuống từ các tàu, chúng được bỏ lại, trong hàng thế kỷ đã tạo thành một quả đồi lớn. Các hàng hóa khác trên tàu và bản thân chiếc tàu đôi khi có thể được định niên đại bằng sử dụng phương pháp carbon phóng xạ, một kỹ thuật mạnh được các nhà khảo cổ học sử dụng để xác định tuổi của các di vật hữu cơ. Các thực vật tạo ra năng lượng bằng quang hợp, mà sử dụng năng lượng mặt trời để biến carbon dioxite thành đường. Khi chúng làm việc này, các thực vật kết hợp một lượng isotope phóng xạ có sẵn trong tự nhiên, carbon-14. Sau khi thực vật chết, carbon- 14 giảm đi do phân rã phóng xạ. Khi các nhà khảo cổ học tìm thấy một chiếc tàu
  • 181. TRÔI DẠT XA RA ● 161 đắm, họ có thể định niên đại gỗ vỏ tàu bằng cách so sánh phần carbon-14 trong đó với phần được kỳ vọng từ carbon-14 khí quyển. Việc này cho một ước lượng về thời điểm khi cây gỗ bị đốn. Chỉ khoảng 20 vụ đắm tàu đã được định niên đại lâu như năm 500 TCN. Đấy có lẽ đã không phải là các tàu La Mã, và rất có thể là của người Cartaginian, chẳng hạn. Nhưng sau đó số các tàu La Mã đắm đã tăng lên nhanh chóng. Vào khoảng thời gian [chúa Jesus] Christ sinh ra, chúng đạt đỉnh điểm 180 vụ tàu đắm. Các tàu đắm là một cách thuyết phục để vạch ra tình trạng kinh tế của Cộng hoà La Mã, và chúng có cho thấy bằng chứng về sự tăng trưởng kinh tế nào đó, nhưng phải giữ chúng đúng với thực trạng. Có lẽ hai phần ba nội dung của các tàu đã là tài sản của nhà nước La Mã, các khoản thuế và cống nạp được mang từ các tỉnh về Rome, hay ngũ cốc và dầu ô liu từ Bắc Phi để phát không cho các công dân của thành phố. Chính [vỏ của] những thành quả này của sự khai thác là cái phần lớn đã làm nên Monte Testaccio. Một cách quyến rũ khác để tìm bằng chứng về sự tăng trưởng kinh tế là từ Dự án Lõi Băng Greenland. Khi các bông tuyết rơi xuống, chúng mang theo một lượng nhỏ các chất ô nhiễm không khí, đặc biệt là các kim loại chì, bạc và đồng. Tuyết đông cứng lại và chất đống trên đỉnh lớp tuyết rơi trong các năm trước đã biến thành băng. Quá trình này xảy ra liên tục hàng ngàn năm, và cung cấp một cơ hội vô song cho các nhà khoa học để hiểu mức độ ô nhiễm không khí hàng ngàn năm trước. Trong các năm 1990-1992, Dự án Lõi Băng Greenland đã khoan xuống xuyên qua 3.030 mét băng phủ khoảng 250.000 năm lịch sử loài người. Một trong những khám phá chính của dự án này, và những nghiên cứu trước nó, là, đã có một sự tăng lên rõ rệt của các chất ô nhiễm không khí bắt đầu từ khoảng năm 500 TCN. Lượng chì, bạc, và đồng trong không khí khi đó đã tăng đều đặn, đạt một đỉnh vào thế kỷ đầu tiên sau công nguyên. Thật đáng chú ý, mức chì này trong không khí lại đạt được chỉ vào thế kỷ thứ mười ba. Những khám phá này cho thấy việc khai mỏ La Mã đã mạnh đến thế nào, so với tình trạng trước và sau nó. Đợt bột phát này trong khai mỏ cho thấy một cách rõ ràng sự mở rộng kinh tế. Nhưng sự tăng trưởng La Mã đã không bền vững, xảy ra dưới các thể chế một phần bao gồm và một phần khai thác. Mặc dù các công dân La Mã đã có các quyền chính trị và kinh tế, tình trạng nô lệ đã phổ biến và rất khai thác, và giới elite, tầng lớp nghị sĩ, thống trị cả nền kinh tế lẫn hoạt động chính trị. Bất chấp sự
  • 182. 162 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI hiện diện của Đại hội Dân thường và người bảo vệ dân thường, chẳng hạn, quyền lực thật vẫn do Thượng viện nắm, mà các thành viên của nó đã là các địa chủ lớn tạo thành tầng lớp nghị sĩ. Theo sử gia La Mã Livy, Thượng Viện được lập ra bởi vua đầu tiên của La Mã, Romulus, và gồm một trăm người đàn ông. Các hậu duệ của họ tạo thành tầng lớp nghị sĩ, mặc dù cũng có thêm dòng dõi mới tham gia. Sự phân bổ đất đã rất không đều và rất có khả năng còn bất bình đẳng hơn vào thế kỷ thứ hai trước công nguyên. Đấy là gốc rễ của vấn đề mà đã đưa Tiberius Gracchus lên phía trước với tư cách người bảo vệ dân thường. Khi sự mở rộng của nó ra khắp vùng Địa Trung Hải tiếp tục, La Mã đã trải qua một sự tràn vào của những của cải lớn. Nhưng của cải hậu hĩ này phần lớn đã bị một số ít gia đình giàu có trong hàng ngũ nghị sĩ chiếm lấy, và sự bất bình đẳng giữa người giàu và người nghèo đã tăng lên. Các nghị sĩ đã có sự giàu sang không chỉ do họ kiểm soát các tỉnh màu mỡ của mình mà cũng còn do các bất động sản và ruộng đất rất lớn của họ khắp Italy. Các bất động sản ruộng đất này được cung cấp người bởi các toán nô lệ, thường là những người bị bắt trong các cuộc chiến tranh mà La Mã đã tiến hành. Nhưng các bất động sản ruộng đất này đến từ đâu cũng quan trọng ngang thế. Các đội quân La Mã trong thời Cộng hòa đã gồm các công dân-binh lính những người là các chủ đất nhỏ, đầu tiên ở Rome và sau đó ở các phần khác của Italy. Theo truyền thống họ chiến đấu trong quân đội khi cần và sau đó quay về mảnh đất của mình. Khi La Mã mở rộng và các chiến dịch kéo dài hơn, thì mô hình này đã ngừng hoạt động. Những người lính xa mảnh đất của họ đôi khi hàng năm, và nhiều miếng đất được chiếm hữu đã bị bỏ không. Các gia đình binh sĩ đôi khi đối mặt với hàng núi nợ nần và trên bờ vực chết đói. Nhiều miếng đất vì thế dần dần bị bỏ không và bị sáp nhập vào ruộng đất của các nghị sĩ. Khi tầng lớp nghị sĩ ngày càng giàu lên, số đông các công dân không có đất, đã tập trung về Rome, thường sau khi được giải ngũ khỏi quân đội. Không còn miếng đất cắm dùi nào để quay về, họ tìm việc làm ở Rome. Vào cuối thế kỷ thứ hai TCN, tình trạng đã đạt đến điểm sôi nguy hiểm, cả bởi vì khoảng cách giàu nghèo đã rộng ra đến mức chưa từng có, lẫn bởi vì đã có hàng đàn công dân bất mãn ở Rome sẵn sàng nổi loạn đáp lại những sự bất công này và quay sang chống lại giới quý tộc La Mã. Nhưng quyền lực chính trị lại tùy thuộc vào các địa chủ giàu có của tầng lớp nghị sĩ, những người đã được hưởng lợi của những thay đổi đã diễn ra hơn hai thế kỷ qua. Đa số họ không có ý định nào về thay đổi hệ thống mà đã phục vụ họ tốt đến vậy.
  • 183. TRÔI DẠT XA RA ● 163 Theo sử gia La Mã Plutarch, Tiberius Gracchus, khi chu du khắp Etruria, một vùng bây giờ là trung tâm Italy, đã biết về khó khăn mà các gia đình công dân- binh lính phải chịu đựng. Bất luận bởi vì kinh nghiệm này hoặc bởi vì những va chạm khác với các nghị sĩ hùng mạnh của thời ông, ngay sau đó ông đã bắt đầu lao vào một kế hoạch táo bạo để thay đổi sự phân bổ đất ở Italy. Ông đã đại diện cho người bảo vệ thường dân trong năm 133 TCN, sau đó sử dụng chức vụ này để đề xuất cải cách ruộng đất: một ủy ban sẽ điều tra xem liệu đất công có bị chiếm một cách bất hợp pháp hay không và sẽ chia lại số đất vượt mức hạn điền hợp pháp ba trăm mẫu cho các công dân La Mã không có ruộng. Mức hạn điền ba trăm mẫu thực ra đã là phần của một luật cũ, mặc dù đã bị bỏ qua và không được thực hiện trong hàng thế kỷ. Kiến nghị của Tiberius Gracchus gây ra làn sóng sốc trong tầng lớp nghị sĩ, những người đã có khả năng ngăn cản việc thực hiện các cải cách của ông trong một thời gian. Khi Tiberius Gracchus sử dụng sức mạnh đám đông ủng hộ ông để đuổi một người bảo vệ dân thường khác, người đã đe dọa phủ quyết cuộc cải cách ruộng đất của ông, ủy ban mà ông đề xuất cuối cùng đã được thành lập. Thượng Viện, tuy vậy, đã ngăn cản việc thực hiện bằng cách bỏ đói nguồn tài chính của ủy ban, không cấp tài chính cho nó. Tình hình lên đến cực đỉnh khi Tiberius Gracchus đòi số tiền, mà vua của thành phố Hy Lạp Pergamun đã để lại cho nhân dân La Mã, cho ủy ban của ông. Ông cũng đã thử ứng cử làm người bảo vệ dân thường thêm một lần thứ hai, một phần bởi vì ông sợ bị Thượng Viện ngược đãi sau khi ông từ chức. Việc này đã trao cớ cho Thượng Viện để buộc tội rằng Tiberius đã âm mưu tự phong mình làm vua. Ông và những người ủng hộ ông đã bị tấn công, và nhiều người đã bị giết. Bản thân Tiberius Gracchus đã là một trong những người đầu tiên bị đổ, nhưng cái chết của ông đã không giải quyết được vấn đề, và những người khác sẽ thử cải cách ruộng đất và các khía cạnh khác của nền kinh tế và xã hội La Mã. Nhiều người sẽ đối mặt với số phận tương tự. Em trai của Tiberius Gracchus, chẳng hạn, cũng đã bị các địa chủ giết hại, sau khi ông đảm nhiệm trọng trách của anh mình. Những sự căng thẳng này lại nổi lên một cách định kỳ trong thế kỷ tiếp theo – chẳng hạn, đã dẫn đến “Chiến tranh Xã hội” giữa năm 91 TCN và 87 TCN. Người bảo vệ hung hăng các lợi ích của giới nghị sĩ, Lucius Cornelius Sulla, không chỉ đã đàn áp một cách độc ác những đòi hỏi thay đổi mà cũng đã cắt xén một cách
  • 184. 164 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI nghiêm trọng các quyền của người bảo vệ dân thường. Cùng các vấn đề cũng là một yếu tố trung tâm trong sự ủng hộ mà Julius Caesar đã nhận được từ nhân dân Rome trong cuộc chiến đấu của ông chống lại Thượng Viện. Các thể chế chính trị tạo thành cốt lõi của Nền cộng hòa La Mã đã bị Julius Caesar lật đổ năm 49 TCN khi ông chuyển quân đoàn của mình qua Rubicon, con sông tách các tỉnh La Mã vùng Cisalpine Gaul khỏi Italy. Rome rơi vào tay Caesar, và một cuộc nội chiến khác đã nổ ra. Mặc dù Caesar là người chiến thắng, ông đã bị giết bởi các nghị sĩ bất bình, do Brutus và Cassius đứng đầu trong năm 44 TCN. Cộng hòa La Mã sẽ chẳng bao giờ được tái tạo. Một cuộc nội chiến mới đã nổ ra giữa những người ủng hộ Caesar, đặc biệt là Mark Anthony và Octavian, và các kẻ thù của ông. Sau khi Anthony và Octavian chiến thắng, họ lại đánh lẫn nhau, cho đến khi Octavian trở thành người chiến thắng ở trận Actium năm 31 TCN. Vào năm sau, và suốt bốn mươi lăm năm tiếp theo, Octavian, được biết đến sau năm 28 TCN như Augustus Caesar, đã cai trị La Mã một mình. Augustus đã tạo ra Đế chế La Mã, mặc dù ông đã ưa tước công dân thứ nhất (pricep) hơn, một loại “người thứ nhất giữa những người ngang nhau”, và gọi chế độ là Principate (Nguyên thủ). Bản đồ 11 cho thấy Đế chế La Mã với quy mô rộng nhất của nó vào năm 117 SCN. Nó cũng bao gồm sông Rubicom, mà Caesar đã băng qua một cách định mệnh đến vậy. Chính sự chuyển đổi này từ nền cộng hòa sang chế độ nguyên thủ, và sau đó là đế chế trần trụi, đã gieo các hạt giống suy sụp của La Mã. Các thể chế chính trị một phần bao gồm, mà đã tạo cơ sở cho thành công kinh tế, dần dần đã bị xói mòn. Mặc dù Cộng hòa La Mã đã tạo ra một sân chơi nghiêng có lợi cho tầng lớp nghị sĩ và những người La Mã giàu có khác, nó đã không là một chế độ chuyên chế và đã chưa bao giờ tập trung nhiều quyền lực đến vậy vào một chức vị. Những thay đổi được Augustus tháo ra, như với Serrata ở Venice, đã có các hệ quả chính trị đầu tiên nhưng sau đó sẽ có những hệ quả kinh tế đáng kể. Như một kết quả của những thay đổi này, vào thế kỷ thứ năm SCN, Đế chế Tây La Mã, như phương Tây gọi nó sau khi nó tách khỏi phương Đông, đã suy sụp về mặt kinh tế và quân sự, và đã trên bờ vực sụp đổ.
  • 185. TRÔI DẠT XA RA ● 165
  • 186. 166 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI … CÁC TẬT XẤU LA MÃ Flavius Aetius đã là một trong các nhân vật rất ấn tượng vào cuối Đế chế La Mã, được tung hô như “người La Mã cuối cùng” bởi Edward Gibbon, tác giả của The Decline and Fall of Roman Empire (Sự Suy tàn và Sụp đổ của Đế chế La Mã). Giữa năm 433 và 454 SCN, cho đến khi ông bị hoàng đế Valentinian III giết, Aetius, một vị tướng, đã là người hùng mạnh nhất trong Đế chế La Mã. Ông đã định hình cả chính sách đối nội lẫn đối ngoại, đã chiến đấu một loạt trận đánh quan trọng chống lại những người dã man, và cả những người La Mã khác trong các cuộc nội chiến. Ông đã là độc nhất giữa các tướng hùng mạnh chiến đấu trong các cuộc nội chiến về việc không tìm kiếm chức vị hoàng đế cho chính mình. Từ cuối thế kỷ thứ hai, nội chiến đã trở thành sự thật phũ phàng của cuộc sống trong Đế chế La Mã. Giữa cái chết của Marcus Aurelius trong năm 180 SCN cho đến sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã trong năm 476 SCN, đã hầu như không có thập niên nào mà không có một cuộc nội chiến hay một cuộc đảo chính cung đình chống lại hoàng đế. Ít hoàng đế đã chết vì các nguyên nhân tự nhiên hay trong chiến trận. Hầu hết đã bị giết bởi những kẻ cướp ngôi hay binh lính của chính họ. Sự nghiệp của Aetius minh họa những thay đổi từ Cộng hòa La Mã và Đế chế ban đầu đến cuối Đế chế La Mã. Không chỉ sự dính líu của ông vào các cuộc nội chiến liên miên và quyền lực của ông trong mọi khía cạnh công việc của đế chế tương phản với quyền lực bị hạn chế hơn rất nhiều của các vị tướng và các nghị sĩ trong các giai đoạn trước, mà nó cũng làm nổi bật sự thịnh vượng của những người La Mã đã thay đổi căn bản thế nào trong các thế kỷ ở giữa theo những cách khác nhau. Vào cuối Đế chế La Mã, những người được gọi là dã man, mà ban đầu bị thống trị và bị sáp nhập vào các đội quân La Mã hay bị sử dụng như các nô lệ, bây giờ đã chi phối nhiều phần của đế chế. Như một thanh niên, Aetius đã bị những người dã man bắt làm con tin, đầu tiên bởi những người Goth dưới thời Alaric và sau đó bởi những người Hun. Các quan hệ của La Mã với những người dã man này biểu thị tình hình đã thay đổi ra sao từ thời Cộng hòa. Alaric đã cả là một kẻ thù tàn bạo lẫn là một đồng minh, đến mức mà vào năm 405 ông ta đã được bổ nhiệm làm một trong những tướng cấp cao của quân đội La Mã. Tuy vậy, sự dàn
  • 187. TRÔI DẠT XA RA ● 167 xếp đã là tạm thời. Vào năm 408 Alaric đã chiến đấu chống lại những người La Mã, xâm lăng Italy và cướp phá Rome. Những người Hun cũng đã cả là những kẻ thù hùng mạnh và đôi khi là các đồng minh của những người La Mã. Mặc dù họ cũng đã bắt Aetius làm con tin, muộn hơn họ đã chiến đấu bên cạnh ông trong một cuộc nội chiến. Nhưng những người Hun đã không đứng lâu ở một bên, và dưới thời Attila họ đã đánh các trận lớn chống lại những người La Mã vào năm 451, ngay ở bên kia sông Rhine. Lần này bảo vệ người La Mã đã là những người Goth, dưới thời Theodoric. Tất cả điều này đã không cản các elite La Mã thử thỏa hiệp vô nguyên tắc với những người chỉ huy dã man, thường không để bảo vệ các lãnh thổ La Mã, mà để giành ưu thế trong các cuộc tranh giành quyền lực nội bộ. Thí dụ, những người Vandal, dưới vua của họ, Geiseric, đã tàn phá các phần lớn của Bán đảo Iberian và sau đó đã chinh phục các vựa lúa La Mã ở Bắc Phi từ năn 429 trở đi. Sự đáp lại của La Mã đối với việc này đã là đề nghị cho con gái của hoàng đế Valentinian III làm một cô dâu cho Geiseric. Lúc đó Geiseric đã kết hôn với con gái của một trong các nhà lãnh đạo của những người Goth, nhưng điều này có vẻ đã không cản ông. Ông đã hủy hôn với cái cớ rằng vợ ông đã thử ám sát ông và đã đuổi bà về nhà bà sau khi cắt cả hai tai và mũi bà. May cho người sắp-là-cô dâu, bởi vì tuổi trẻ của cô, nên cô được giữ ở Italy và đã chẳng bao giờ hoàn tất việc kết hôn của cô với Geiseric. Muộn hơn cô kết hôn với một vị tướng hùng mạnh khác, Petronius Maximus, người đạo diễn vụ giết Aetius bởi hoàng đế Valentinian III, mà bản thân ông bị giết không lâu sau trong một âm mưu được Maximus ngấm ngầm dự tính. Muộn hơn Maximus tuyên bố mình là hoàng đế, nhưng triều đại của ông đã rất ngắn, chấm dứt bởi cái chết của ông trong một cuộc tấn công của những người Vandal dưới thời Geiseric chống lại Italy, mà đã thấy Rome thất thủ và bị cướp bóc một cách man rợ. VÀO ĐẦU thế kỷ thứ năm, những người dã man đã thật sự ở ngoài cổng. Một số sử gia cho rằng nó đã là một hệ quả của những đối thủ kinh khủng hơn mà những người La Mã đã phải đối mặt vào cuối Đế chế. Nhưng thành công của những người Goth, Hun, và Vandal chống lại Rome đã là một triệu chứng, không phải là nguyên nhân, của sự suy tàn của La Mã. Trong thời Cộng hòa, La Mã đã phải đối
  • 188. 168 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI phó với các đối thủ có tổ chức và đe dọa hơn rất nhiều, như những người Carthagianinan. Sự suy tàn của La Mã, đã có những nguyên nhân rất giống các nguyên nhân của các thành-quốc Maya. Các thể chế chính trị và kinh tế ngày càng khai thác của La Mã đã gây ra sự sụp đổ của nó bởi vì chúng đã gây ra sự đấu đá nội bộ kịch liệt và nội chiến. Nguồn gốc của sự suy tàn quay lại chí ít đến sự nắm quyền của Augustus, mà khởi động những sự thay đổi khiến cho các thể chế chính trị mang tính khai thác hơn nhiều. Đấy bao gồm những thay đổi về cấu trúc của quân đội, mà làm cho việc ly khai là không thể, như thế loại bỏ một yếu tố cốt yếu đảm bảo sự đại diện chính trị cho những người La Mã bình thường. Hoàng đế Tiberius, người kế tiếp Augustus vào năm 14 SCN, đã bãi bỏ Đại hội Dân thường và đã chuyển quyền lực của nó cho Thượng Viện. Thay cho tiếng nói chính trị, các công dân La Mã bây giờ đã có của bố thí cho không gồm lúa mì và, sau đó là dầu ô liu, rượu, thịt heo, và giữ người dân được giải trí bởi các rạp xiếc và các cuộc tranh đua đấu sĩ. Với những cải cách của Augustus, các hoàng đế đã bắt đầu dựa không nhiều vào quân đội gồm các công dân-người lính, mà dựa vào Vệ binh Praetorian, nhóm ưu tú của những người lính chuyên nghiệp do Augustus lập ra. Bản thân Vệ binh mau chóng trở thành một kẻ môi giới độc lập quan trọng về ai sẽ trở thành hoàng đế, thường thông qua không phải các phương tiện hòa bình mà qua các cuộc nội chiến và âm mưu. Augustus cũng đã củng cố tầng lớp quý tộc chống lại các công dân La Mã bình thường, và sự bất bình đẳng gia tăng, mà đã là nòng cốt của xung đột giữa Tiberius Gracchus và các nhà quý tộc, đã tiếp tục, có lẽ thậm chí còn được tăng cường. Sự tích tụ quyền lực ở trung tâm làm cho các quyền tài sản của những người La Mã bình thường ít an toàn hơn. Đất của nhà nước cũng đã mở rộng với đế chế như một hệ quả của sự tịch thu, và đã tăng lên mức nửa tổng số đất đai ở nhiều phần của đế chế. Các quyền tài sản trở nên đặc biệt bất ổn định bởi vì sự tập trung quyền lực vào tay hoàng đế và đoàn tùy tùng của ông. Theo một hình mẫu không khác biệt quá với cái đã xảy ra ở các thành-quốc Maya, sự đấu đá nội bộ quyết liệt để giành sự kiểm soát vị trí hùng mạnh này đã tăng lên. Các cuộc nội chiến trở thành một sự cố thường xuyên, thậm chí cả trước thế kỷ thứ năm hỗn loạn, khi những người dã man trị vì tối cao. Thí dụ, Septimus Severus đã chiếm lấy quyền lực từ Didius Julianus, người đã phong mình làm hoàng đế sau vụ ám sát Pertinax
  • 189. TRÔI DẠT XA RA ● 169 vào năm 193 SCN. Servius, hoàng đế thứ ba trong cái gọi là Năm của Năm Hoàng đế, sau đó đã tiến hành chiến tranh chống lại các địch thủ của ông đòi quyền kế vị, các tướng Pescennius Niger và Clodius Albinus, những người cuối cùng đã bị đánh bại trong các năm tương ứng 194 và 197 SCN. Servius đã tịch thu tất cả tài sản của các địch thủ thất trận của ông trong nội chiến tiếp sau. Mặc dù các nhà cai trị có tài, như Trajan (98 đến 117 SCN), Hadrian, và Markus Aurelius trong thế kỷ tiếp theo, đã có thể kìm sự suy tàn, họ đã không thể, hay đã không muốn, xử lý các vấn đề thể chế cơ bản. Chẳng ai trong những người này đã đề xuất việc bỏ đế chế hay tái tạo lại các thể chế chính trị hiệu quả theo các đường lối của Cộng hòa La Mã. Markus Aurelius, cho dù các thành công của ông, lại được kế vị bởi con ông Comodus, người đã giống Caligula hay Nero hơn là giống cha mình. Sự bất ổn gia tăng đã là hiển nhiên từ cách bố trí và địa điểm của các thị trấn và thành phố trong đế chế. Vào thế kỷ thứ ba SCN mọi thành phố lớn trong đế chế đã phải có tường bảo vệ. Trong nhiều trường hợp, các công trình tưởng niệm bị cướp phá để lấy đá, mà được dùng trong xây công sự. Ở xứ Gaul trước khi những người La Mã đến vào năm 125 TCN, đã thường xây các khu định cư trên đỉnh đồi, vì dễ bảo vệ. Với sự đến ban đầu của La Mã, các khu định cư đã dời xuống đồng bằng. Trong thế kỷ thứ ba, xu hướng này bị đảo ngược. Theo cùng với sự bất ổn chính trị gia tăng là những thay đổi trong xã hội mà đã chuyển các thể chế kinh tế theo hướng khai thác nhiều hơn. Mặc dù tư cách công dân đã được mở rộng đến mức vào năm 212 SCN gần như tất cả cư dân của đế chế đều là công dân, sự thay đổi này đã đi cùng với những thay đổi về địa vị giữa các công dân. Bất cứ ý nghĩa nào mà đã có thể là sự bình đẳng trước pháp luật đều đã bị xấu đi. Thí dụ, dưới triều đại Hadrian (117 đến 138 SCN), đã có những khác biệt rõ ràng về các loại luật được áp dụng cho các loại công dân La Mã khác nhau. Quan trọng không kém là, vai trò của công dân đã hoàn toàn khác với vai trò đã có trong những ngày của Cộng hòa La Mã, khi họ đã có thể sử dụng quyền lực nào đó đối với các quyết định chính trị và kinh tế thông qua các đại hội ở Rome. Chế độ nô lệ vẫn còn liên tục khắp La Mã, mặc dù có một số tranh cãi về liệu tỷ phần nô lệ trong dân cư có thực sự giảm hay không trong các thế kỷ. Quan trọng ngang thế là, khi đế chế phát triển, ngày càng nhiều người lao động nông nghiệp đã bị giảm xuống địa vị nửa-nô lệ và bị cột chặt vào ruộng đất. Địa vị của những “colonus” nửa-nô lệ này được thảo luận sâu rộng trong các tài liệu pháp
  • 190. 170 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI luật như các bộ luật Codex Theodosianus và Codex Justinianus, và có lẽ có xuất xứ trong triều đại Docletian (284 đến 305 SCN). Quyền của các chúa đất đối với các colonus đã tăng lên tuần tự. Hoàng đế Constantine trong năm 332 đã cho phép các chúa đất xích một colonus lại người mà họ tình nghi là thử bỏ trốn, và từ năm 365 SCN, các colonus đã không được phép bán các tài sản riêng của mình mà không có sự cho phép của chúa đất. Hệt như chúng ta có thể sử dụng các tàu đắm và các lõi băng Greenland để theo dõi sự mở rộng kinh tế của La Mã trong các thời kỳ đầu, chúng ta cũng có thể sử dụng chúng để lần theo dấu vết suy tàn của nó. Vào năm 500 SCN, đỉnh của các tàu đắm từ 180 đã giảm xuống còn 20. Khi La Mã suy tàn, thương mại Địa Trung Hải sụp đổ, và một số học giả cho rằng nó đã không quay lại đỉnh điểm La Mã của nó cho đến thế kỷ thứ mười chín. Băng Greenland kể một câu chuyện tương tự. Những người La Mã đã dùng bạc để đúc tiền, chì đã có nhiều công dụng, kể cả để làm các ống và bộ đồ ăn. Sau khi lên đỉnh điểm vào thế kỷ thứ nhất SCN, lượng chì, bạc và đồng trong các lõi băng giảm xuống. Kinh nghiệm về tăng trưởng kinh tế trong Cộng hòa La Mã đã thật ấn tượng, cũng như các thí dụ khác về tăng trưởng dưới các thể chế khai thác, như Liên Xô. Nhưng sự tăng trưởng đó đã bị hạn chế và không bền vững, ngay cả khi đã tính đến rằng nó đã xảy ra dưới các thể chế một phần bao gồm. Sự tăng trưởng đã dựa vào năng suất nông nghiệp tương đối cao, các khoản cống nạp đáng kể từ các tỉnh, và thương mại đường dài, nhưng nó đã không được trụ đỡ bởi tiến bộ công nghệ hay sự phá hủy sáng tạo. Những người La Mã đã kế thừa một số công nghệ cơ bản, các công cụ bằng sắt và vũ khí, sự biết đọc biết viết, cày trong nông nghiệp, và kỹ thuật xây dựng. Những ngày ban đầu trong nền Cộng hòa, họ đã tạo ra những công nghệ khác: xi măng xây nề, máy bơm, và bánh xe nước. Nhưng sau đó, công nghệ đã trì trệ suốt thời kỳ của Đế chế La Mã. Trong chuyên chở bằng tàu thuyền, chẳng hạn, đã có ít thay đổi trong thiết kế tàu thuyền hay thừng chão, và những người La Mã đã chẳng bao giờ phát triển bánh lái đuôi tàu, thay vào đó lái tàu bằng các mái chèo. Bánh xe nước đã lan truyền rất chậm, cho nên năng lượng nước đã chẳng bao giờ cách mạng hóa nền kinh tế La Mã. Ngay cả những thành tựu vĩ đại như cầu máng nước và cống rãnh thành phố đã sử dụng công nghệ hiện tồn, mặc dù những người La Mã đã hoàn thiện nó. Đã có thể có sự tăng trưởng nào đó mà không có đổi mới sáng tạo, dựa vào công nghệ hiện tồn, nhưng
  • 191. TRÔI DẠT XA RA ● 171 đó đã là sự tăng trưởng mà không có phá hủy sáng tạo. Và nó đã không kéo dài. Khi các quyền sở hữu trở nên ngày càng không an toàn và các quyền kinh tế của công dân tiếp theo sau sự sa sút của các quyền chính trị, cũng thế sự tăng trưởng kinh tế suy sụp. Điều đáng chú ý về các công nghệ mới trong thời kỳ La Mã là, sự tạo ra và sự phổ biến của chúng có vẻ đã được thúc đẩy bởi nhà nước. Đấy là tin tốt, cho đến khi chính phủ quyết định rằng nó không quan tâm đến phát triển công nghệ nữa – một sự cố quá thường xuyên do nỗi sợ sự phá hủy sáng tạo. Nhà văn La Mã vĩ đại Pliny Già kể lại câu chuyện sau đây. Trong triều đại của hoàng đế Tiberius, một người đã sáng chế ra kính không thể vỡ và đã yết kiến hoàng đế dự tính rằng sẽ được một phần thưởng lớn. Ông ta đã minh họa sáng chế của mình, và Tiberius đã hỏi liệu ông ta đã nói cho bất cứ ai khác về sáng chế này hay chưa. Khi người đó trả lời chưa, Tiberius đã sai lôi ông ta ra và giết, “e rằng vàng bị giảm xuống giá trị của bùn”. Có hai điều lý thú về câu chuyện này. Thứ nhất, người đã đi đến Tiberius trước tiên vì một phần thưởng, hơn là tự mình dựng một doanh nghiệp và kiếm lợi nhuận bằng cách bán kính. Điều này cho thấy vai trò của chính phủ La Mã trong kiểm soát công nghệ. Thứ hai, Tiberius đã vui sướng phá hủy sự đổi mới bởi vì các tác động kinh tế có hại mà nó có [đối với ông]. Đấy là nỗi sợ các tác động kinh tế của sự phá hủy sáng tạo. Cũng có bằng chứng trực tiếp từ thời kỳ Đế chế về nỗi sợ các hệ quả chính trị của sự phá hủy sáng tạo. Suetonius kể câu chuyện về hoàng đế Vespasian, người đã cai trị giữa năm 69 và 79 SCN, đã tiếp nhận ra sao sự chạy chọt của một người đã sáng chế ra một công cụ để chuyên chở các cột đá đến Capitol, thành trì của Rome, với chi phí tương đối nhỏ. Các cột đã to, nặng và rất khó chuyên chở. Chuyển chúng tới Rome từ các mỏ nơi chúng được làm ra dính líu đến công việc của hàng ngàn người, với tốn phí rất lớn đối với chính phủ. Vespasian đã không giết người đó, nhưng ông cũng từ chối sử dụng sự đổi mới, tuyên bố rằng “Sẽ làm sao có thể đối với trẫm để nuôi ăn số dân thường này?” Một lần nữa lại một nhà sáng chế đến với chính phủ. Có lẽ sáng chế này đã tự nhiên hơn kính không thể vỡ, vì chính phủ La Mã đã dính líu sâu vào chuyện khai cột đá và chuyên chở chúng. Lại lần nữa, sự đổi mới sáng tạo bị bác bỏ bởi vì sự đe dọa của sự phá hủy sáng tạo, không phải bởi vì tác động kinh tế của nó, mà là bởi vì nỗi lo sợ sự phá hủy sáng tạo chính trị. Vespasian đã lo rằng trừ phi ông giữ cho dân chúng hạnh
  • 192. 172 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI phúc và dưới sự kiểm soát, còn không thì sẽ gây bất ổn chính trị. Những người dân thường La Mã phải được giữ luôn bận rộn và dễ bảo, cho nên đã là tốt để có việc làm cho họ, chẳng hạn việc vận chuyển cột loanh quanh. Điều này bổ sung cho bánh mì và các rạp xiếc, mà cũng đã được phân phát miễn phí để giữ cho dân chúng thỏa mãn. Có lẽ thật đích đáng rằng cả hai thí dụ này đến không lâu sau khi nền Cộng hòa bị sụp đổ. Các hoàng đế La Mã đã có sức mạnh lớn hơn rất nhiều để cản sử thay đổi so với các nhà cai trị La Mã trong thời Cộng hòa. Một lý do quan trọng khác cho sự thiếu đổi mới công nghệ đã là sự phổ biến của tình trạng nô lệ. Khi các lãnh thổ mà những người La Mã kiểm soát được mở rộng, một số rất đông bị bắt làm nô lệ, thường được đưa về Italy để làm việc tại các điền trang lớn. Nhiều công dân của Rome đã không cần phải lao động: họ đã sống nhờ vào những thứ phát không của chính phủ. Thế thì đổi mới sáng tạo đến từ đâu? Chúng ta đã bàn luận rằng đổi mới sáng tạo đến từ những người mới với các ý tưởng mới, phát triển các giải pháp mới cho các vấn đề cũ. Tại La Mã, những người làm việc sản xuất đã là các nô lệ và, muộn hơn, các nửa-nô lệ, các colonus, với ít khuyến khích để đổi mới, vì các ông chủ của họ, chứ không phải họ, được hưởng lợi ích từ bất cứ sự đổi mới nào. Như chúng ta sẽ thấy nhiều lần trong cuốn sách này, các nền kinh tế dựa vào sự trấn áp lao động và các hệ thống như các chế độ nô lệ và nông nô là không đổi mới một cách khét tiếng. Điều này đúng từ thế giới cổ xưa đến thời hiện đại. Ở Hoa Kỳ, chẳng hạn, các bang miền bắc đã tham gia vào Cách mạng Công nghiệp, chứ không phải các bang miền Nam. Tất nhiên chế độ nô lệ và nông nô đã tạo ra của cải to lớn cho những người là các chủ nô và kiểm soát các nông nô, nhưng nó đã không tạo ra đổi mới công nghệ hay sự thịnh vượng cho xã hội. CHẲNG AI VIẾT TỪ VINDOLANDA Vào năm 43 SCN hoàng đế La Mã Claudius đã chinh phục nước Anh, nhưng Scotland thì không. Một nỗ lực vô ích cuối cùng đã được tiến hành bởi thống sứ La Mã Agricola, người đã từ bỏ và, trong năm 85 đã xây một loạt pháo đài để bảo vệ biên giới phía bắc của nước Anh. Một pháo đài lớn nhất trong những số này đã ở Vindolanda, ba mươi lăm dặm về phía tây Newcastle, và được vẽ trên Bản đồ 11 (trang 165) ở cực tây bắc của Đế chế La Mã. Muộn hơn, Vindolanda đã được
  • 193. TRÔI DẠT XA RA ● 173 hợp nhất vào thành phòng thủ dài tám mươi lăm dặm mà hoàng đế Hadrian đã xây dựng, nhưng trong năm 103 SCN, khi một đội trưởng đội trăm người La Mã (centurion), Candidus, đã đóng ở đây, nó đã là một pháo đài cô lập. Candidus đã cùng bới bạn mình Octavius tham gia cung ứng cho đơn vị đồn trú La Mã và đã nhận một bức thư trả lời từ Octavius cho một bức thư mà ông đã gửi: Octavius gửi cho bạn mình Candidus, những lời chào. Tôi đã viết cho anh nhiều lần rằng tôi đã mua khoảng năm ngàn thùng bông lúa, vì lý do đó tôi cần tiền mặt, ít nhất năm trăm đồng denarius, kết quả sẽ là tôi sẽ mất khoản tiền mà tôi đã đặt cọc, khoảng ba trăm denarius, và tôi sẽ bị bối rối. Vì thế, tôi yêu cầu anh, gửi cho tôi một số tiền mặt càng nhanh càng tốt. Số da sống mà anh viết đang ở Cataractonium – hãy viết rằng chúng và xe ngựa mà anh viết về được trao cho tôi. Tôi đã sẵn sàng rồi để thu chúng trừ rằng tôi đã không quan tâm đến việc làm tổn thương các con súc vật trong khi đường sá xấu. Hãy kiểm tra với Tertius về 8½ denarius mà anh ta đã nhận từ Fatalis. Anh ta vẫn chưa ghi chúng vào bên có của tài khoản của tôi. Đảm bảo chắc chắn rằng anh gửi tiền mặt cho tôi để tôi có thể có các bông lúa trên sàn tuốt lúa. Chào Spectatus và Fimus. Tạm biệt. Thư từ giữa Candidus và Octavius minh họa một số mặt quan trọng của sự thịnh vượng của nước Anh La Mã: nó tiết lộ một nền kinh tế tiền tệ tiên tiến với các dịch vụ tài chính. Nó tiết lộ sự hiện diện của đường sá được xây dựng, cho dù đôi khi trong điều kiện tồi tàn. Nó tiết lộ sự hiện diện của một hệ thống tài khóa thu thuế để trả lương của Candidus. Hiển nhiên nhất nó tiết lộ rằng cả hai người đã biết đọc biết viết và đã có khả năng tận dụng lợi thế của một dịch vụ bưu chính loại nào đó. Nước Anh La Mã cũng đã hưởng lợi từ việc sản xuất hàng loạt gốm chất lượng cao, đặc biệt ở Oxfordshire; các trung tâm đô thị với các nhà tắm và các tòa nhà công cộng; và những kỹ thuật xây nhà sử dụng vữa và ngói lợp mái nhà. Vào thế kỷ thứ tư, tất cả trong suy tàn, và sau năm 411 SCN Đế chế La Mã đã từ bỏ nước Anh. Binh lính bị rút đi, những người ở lại đã không được trả lương, và khi nhà nước La Mã sụp đổ, các nhân viên quản lý đã bị dân cư địa phương tống khứ. Vào năm 450 SCN tất cả các dấu hiệu hào nhoáng này của sự thịnh vượng kinh tế đã mất hết. Tiền đã biến mất khỏi sự lưu thông. Các khu vực đô thị
  • 194. 174 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI bị bỏ trống, và các tòa nhà bị lột đá. Đường sá bị cỏ dại bao phủ. Loại gốm duy nhất được sản xuất là gốm thô làm bằng tay, không được chế tác hàng loạt. Người dân quên dùng vữa thế nào, và sự biết đọc biết viết suy giảm đáng kể. Các nóc nhà được làm bằng cành cây, chứ không phải lợp ngói. Không ai còn viết từ Vindolanda nữa. Sau năm 411 SCN, nước Anh đã trải qua một sự sụp đổ kinh tế và trở thành một nơi ao tù nước đọng nghèo nàn – và không phải lần đầu tiên. Trong chương trước chúng ta đã thấy Cách mạng đồ Đá Mới đã bắt đầu như thế nào ở Trung Đông vào khoảng 9.500 TCN. Trong khi cư dân của Jericho và Abu Hureyra đã sống trong các thị trấn nhỏ và canh tác, dân cư của nước Anh vẫn săn bắt và hái lượm, và vẫn làm vậy trong 5.500 năm nữa. Ngay cả khi đó những người Anh đã không sáng chế ra việc canh tác hay chăn thả; những cách làm này đã được mang đến từ bên ngoài bởi những người di cư lan ngang châu Âu từ Trung Đông trong hàng ngàn năm. Khi các cư dân ở nước Anh đuổi kịp các đổi mới lớn này, những người ở Trung Đông phát minh ra các thành phố, chữ viết và đồ gốm. Vào năm 3.500 TCN, các thành phố lớn như Uruk và Ur đã nổi lên ở Mesopotamia, nay là Iraq hiện đại. Uruk đã có thể có dân số mười bốn ngàn người vào năm 3.500 TCN, và bốn mươi ngàn người không lâu sau đó. Bàn chuốt gốm đã được sáng chế ở Mesopotamia vào cùng khoảng thời gian như bánh xe giao thông. Thủ đô Ai Cập Memphis đã nổi lên như một thành phố lớn không lâu sau đó. Chữ viết xuất hiện một cách độc lập ở cả hai khu vực. Trong khi những người Ai Cập đã đang xây các kim tự tháp vĩ đại ở Giza khoảng năm 2.500 TCN, những người Anh đã xây dựng đài tưởng niệm cổ nổi tiếng nhất của họ, vòng tròn đá ở Stonehenge. Không tồi theo các tiêu chuẩn Anh, nhưng thậm chí đã không đủ lớn để chứa được một trong những chiếc thuyền nghi lễ được chôn dưới chân kim tự tháp của Vua Kufu. Nước Anh tiếp tục tụt hậu và để vay mượn từ Trung Đông và phần còn lại của châu Âu cho đến và bao gồm cả thời kỳ La Mã. Bất chấp một lịch sử không may như vậy, đã chính ở nước Anh là nơi mà xã hội bao gồm thực sự đầu tiên đã nổi lên và là nơi Cách mạng Công nghiệp đã khởi hành. Chúng ta đã biện luận trước đây (trang 102-11) rằng đấy đã là kết quả của một loạt những tương tác giữa những khác biệt nhỏ về thể chế và các bước ngoặt – chẳng hạn, Cái Chết Đen và sự khám phá ra châu Mỹ. Sự phân kỳ Anh đã có gốc rễ lịch sử, nhưng cách nhìn từ Vindolanda gợi ý rằng những rễ này đã không
  • 195. TRÔI DẠT XA RA ● 175 sâu đến thế và chắc chắn không được định trước về mặt lịch sử. Chúng đã không được trồng trong Cách mạng đồ Đá Mới, hay thậm chí trong các thế kỷ của sự bá chủ La Mã. Vào năm 450 SCN, vào đầu của cái mà các sử gia gọi là Thời Kỳ Đen Tối, nước Anh đã trượt lại vào nghèo khó và hỗn loạn chính trị. Đã không có một nhà nước tập trung hữu hiệu nào ở nước Anh trong hàng trăm năm. NHỮNG CON ĐƯỜNG PHÂN KỲ (RẼ THEO CÁC HƯỚNG KHÁC NHAU) Sự thăng tiến của các thể chế bao gồm và sự tăng trưởng công nghiệp sau đó ở nước Anh đã không xảy ra như một di sản trực tiếp của các thể chế La Mã (hay sớm hơn). Điều này không có nghĩa rằng đã chẳng có gì quan trọng xảy ra với sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã, một sự kiện lớn tác động đến hầu hết châu Âu. Vì các phần khác nhau của châu Âu chia sẻ cùng các bước ngoặt, các thể chế của chúng sẽ trôi dạt theo kiểu cách giống nhau, có lẽ theo một cách Âu châu đặc biệt. Sự sụp đổ của Đế chế La Mã đã là một phần cốt yếu của những bước ngoặt chung này. Con đường Âu châu này tương phản với những con đường ở các phần khác nhau của thế giới, kể cả châu Phi hạ-Sahara, châu Á, và châu Mỹ, mà đã phát triển một cách khác biệt một phần bởi vì chúng đã không đối mặt với cùng các bước ngoặt. Nước Anh La Mã đã sụp đổ với một tiếng nổ lớn. Điều này đã ít đúng hơn ở Italy, hay ở xứ Gaul La Mã (nay là nước Pháp hiện đại), hoặc thậm chí ở Bắc Phi, ở những nơi nhiều trong các thể chế cũ còn tồn tại dưới dạng nào đó. Thế nhưng không có sự nghi ngờ gì rằng sự thay đổi từ ưu thế của một nhà nước La Mã duy nhất sang một sự thừa quá nhiều của các nhà nước được vận hành bởi những người Frank, Visigoth, Ostrogoth, Vandal, và Burgundian đã là sự thay đổi quan trọng. Sức mạnh của các nhà nước này đã yếu hơn nhiều, và chúng đã bị đày đọa bởi một loạt dài các cuộc đột nhập từ các ngoại vi của chúng. Từ phương bắc là những người Viking và Dane đến trên những chiếc thuyền dài của họ. Từ hướng đông là những kị binh Hun đến trên lưng ngựa. Cuối cùng, sự nổi lên của Islam như một tôn giáo và lực lượng chính trị trong thế kỷ sau cái chết của Mohammed vào năm 632 SCN đã dẫn đến việc tạo ra các nhà nước Islamic mới ở phần lớn Đế chế Byzantine, Bắc Phi, và Tây Ban Nha. Các quá trình chung này đã làm rung
  • 196. 176 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI chuyển châu Âu, và theo sau họ một loại xã hội cá biệt, thông thường được nhắc tới như xã hội phong kiến, đã nổi lên. Xã hội phong kiến đã là phi tập trung, bởi vì các nhà nước tập trung mạnh đã bị teo đi, cho dù một số nhà cai trị như Charlemagne đã thử tái lập chúng. Các thể chế phong kiến, mà dựa trên lao động không tự do, bị cưỡng bức (các nông nô), đã rõ ràng là khai thác, và chúng đã tạo ra cơ sở cho một giai đoạn dài của sự tăng trưởng khai thác và chậm ở châu Âu trong Thời Trung Cổ. Nhưng chúng cũng đã có hậu quả cho những sự phát triển muộn hơn. Thí dụ, trong thời gian dân số nông thôn bị hạ xuống địa vị nông nô, tình trạng nô lệ biến mất khỏi châu Âu. Trong thời gian khi đã là có thể đối với các elite để hạ toàn bộ dân cư nông thôn thành nông nô, đã có vẻ không cần thiết để có một giai cấp nô lệ tách biệt như tất cả các xã hội trước đó đã có. Chủ nghĩa phong kiến cũng đã tạo ra chân không quyền lực trong đó các thành phố độc lập chuyên môn hóa về sản xuất và thương mại đã có thể phồn thịnh. Nhưng khi sự cân bằng quyền lực thay đổi sau Cái Chết Đen, chế độ nông nô bắt đầu tan rã ở Tây Âu, vũ đài được dựng lên cho một xã hội đa nguyên hơn rất nhiều mà không có sự hiện diện của bất cứ nô lệ nào. Các bước ngoặt, mà gây ra xã hội phong kiến, đã khác biệt, nhưng chúng đã không hoàn toàn bị giới hạn ở châu Âu. Một sự so sánh thích hợp là với nước Phi châu hiện đại Ethiopia, mà đã phát triển từ Vương quốc Aksum, được thành lập ở miền bắc nước này vào khoảng năm 400 TCN. Aksum đã là một vương quốc tương đối phát triển vào thời của nó và đã tham gia thương mại quốc tế với Ấn Độ, Arabia, Hy Lạp, và Đế chế La Mã. Theo nhiều cách, nó đã có thể so sánh được với Đế chế Đông La Mã trong thời kỳ đó. Nó đã sử dụng tiền, đã xây dựng các công trình kỷ niệm và các tòa nhà công và đường sá, và đã có công nghệ rất giống, chẳng hạn, trong nông nghiệp và vận tải bằng tàu thuyền. Cũng có sự tương tự ý thức hệ lý thú giữa Aksum và La Mã. Trong năm 312 SCN, hoàng đế La Mã Constantine đã cải đạo sang Kitô giáo (Christianity), như Vua Ezana của Aksum đã cải đạo trong khoảng cùng thời gian đó. Bản đồ 12 (trang sau) cho thấy vị trí của nhà nước Aksum lịch sử trong Ethiopia và Eritrea hiện đại-ngày nay, với các đồn tiền tiêu ngang Hồng Hải ở Saudi Arabia và Yemen. Hệt như La Mã suy sụp, Aksum cũng đã thế, và sự suy sụp lịch sử của nó đã theo một hình mẫu gần với hình mẫu suy sụp của Đế chế Tây La Mã. Vai trò
  • 197. TRÔI DẠT XA RA ● 177 được đóng bởi những người Hun và Vandal trong sự suy sụp của La Mã đã được đóng bởi những người Arab, những người, trong thế kỷ thứ bảy, đã mở rộng vào Hồng Hải và xuống Bán đảo Arabia. Aksum đã mất các thuộc địa của nó ở Arabia và các đường thương mại của nó. Việc này đã thúc đẩy nhanh sự suy sụp kinh tế: tiền bị ngưng đúc, dân số thành thị đã rớt xuống, và nhà nước đã tập trung lại vào nội địa và lên cao nguyên của Ethiopia hiện đại.
  • 198. 178 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Ở châu Âu, các thể chế phong kiến đã nổi lên tiếp sau sự sụp đổ của quyền lực nhà nước tập trung. Cũng thế đã xảy ra tại Ethiopia, dựa vào một hệ thống được gọi là gult, mà dính líu đến việc hoàng đế cấp đất phong. Thể chế này được nhắc đến trong các bản thảo thế kỷ thứ mười ba, mặc dù nó có thể đã bắt nguồn sớm hơn nhiều. Từ gult bắt nguồn từ một từ của ngôn ngữ Amharic có nghĩa là “ông đã nhượng một khoảng đất phong.” Nó có nghĩa rằng trong sự trao đổi lấy đất, người nắm giữ gult phải cung cấp các dịch vụ cho hoàng đế, đặc biệt các dịch vụ quân sự. Đổi lại, người nắm giữ gult có quyền để khai thác đồ cống nạp từ những người canh tác trên đất phong đó. Các nguồn lịch sử khác nhau gợi ý rằng những người nắm giữ gult khai thác, giữa một nửa và ba phần tư sản lượng nông nghiệp của các nông dân. Hệ thống này đã là một sự phát triển độc lập với những sự giống nhau đáng chú ý với chủ nghĩa phong kiến Âu châu, nhưng có lẽ còn khai thác hơn. Tại đỉnh cao của chủ nghĩa phong kiến ở nước Anh, các nông nô đối mặt với sự khai thác ít nặng nề hơn và mất khoảng một nửa sản lượng của họ cho chúa đất theo dạng này hay dạng khác. Nhưng Ethiopia đã không là đại diện của châu Phi. Ở nơi khác, chế độ nô lệ đã không được thay thế bằng chế độ nông nô; chế độ nô lệ Phi châu và các thể chế ủng hộ nó vẫn tiếp tục thêm nhiều thế kỷ. Ngay cả con đường cuối cùng của Ethiopia cũng rất khác. Sau thế kỷ thứ bảy, Ethiopia vẫn đã cô lập ở vùng núi của Đông Phi khỏi các quá trình mà sau đó đã ảnh hưởng đến con đường thể chế của châu Âu, như sự nổi lên của các thành phố độc lập, các ràng buộc mới sinh đối với quốc vương và sự mở rộng thương mại Đại Tây Dương sau việc khám phá ra châu Mỹ. Hệ quả là, phiên bản của các thể chế chuyên chế của nó phần lớn vẫn không thay đổi. Lục địa Phi châu muộn hơn đã tương tác trong một năng lực rất khác với châu Âu và châu Á. Đông Phi đã trở thành nhà cung cấp nô lệ chủ yếu cho thế giới Arab, và Tây và Trung Phi, với tư cách nhà cung cấp nô lệ, đã bị lôi kéo vào nền kinh tế thế giới trong thời gian sự mở rộng Âu châu gắn với thương mại Đại Tây Dương. Thương mại Đại Tây Dương đã dẫn thế nào đến những con đường phân kỳ một cách rõ rệt giữa Tây Âu và châu Phi còn là một thí dụ nữa về sự phân kỳ thể chế do kết quả từ sự tương tác giữa các bước ngoặt và những sự khác biệt thể chế hiện tồn. Trong khi ở nước Anh các khoản lợi nhuận của buôn bán nô lệ đã giúp làm giàu cho những người chống chủ nghĩa chuyên chế, thì ở châu Phi chúng lại đã giúp tạo ra và tăng cường chủ nghĩa chuyên chế.
  • 199. TRÔI DẠT XA RA ● 179 Xa châu Âu hơn, các quá trình trôi dạt thể chế hiển nhiên còn tự do hơn để đi theo con đường riêng của chúng. Ở châu Mỹ, chẳng hạn, mà đã bị cắt khỏi châu Âu vào khoảng năm 15.000 TCN bởi sự tan băng nối liền Alaska với Nga, đã có những đổi mới thể chế tương tự như các đổi mới thể chế của những người Natufian, dẫn đến cuộc sống tĩnh tại, hệ thống thứ bậc, và sự bất bình đẳng – nói ngắn gọn, đến các thể chế khai thác. Những điều này đã xảy ra đầu tiên ở Mexico và Peru Andean và Bolivia, và đã dẫn đến Cách mạng đồ Đá Mới châu Mỹ, với việc thuần hóa ngô. Đã chính là ở các nơi này mà các hình thức ban đầu của sự tăng trưởng khai thác đã xảy ra, như chúng ta đã thấy trong các thành-quốc Maya. Nhưng cũng theo cùng cách, mà những đột phá lớn theo hướng các thể chế bao gồm và tăng trưởng công nghiệp ở châu Âu đã không đến từ các nơi thế giới La Mã đã có ảnh hưởng mạnh nhất, các thể chế bao gồm ở châu Mỹ đã không phát triển ở những vùng đất của các nền văn minh sớm này. Thực vậy, như chúng ta đã thấy ở chương 1, các nền văn minh định cư dày đặc này đã tương tác theo một cách tai ác với chủ nghĩa thuộc địa Âu châu để tạo ra một “sự đảo ngược vận may,” làm cho các nơi trước kia tương đối giàu trở thành tương đối nghèo ở châu Mỹ. Ngày nay chính Hoa Kỳ và Canada, những nơi khi đó đã tụt hậu xa đằng sau các nền văn minh phức tạp ở Mexico, Peru, và Bolivia, là giàu hơn phần còn lại của châu Mỹ rất nhiều. NHỮNG HỆ QUẢ CỦA SỰ TĂNG TRƯỞNG SỚM Thời kỳ dài, giữa Cách mạng đồ Đá Mới mà đã bắt đầu vào năm 9.500 TCN và Cách mạng Công nghiệp Anh vào cuối thế kỷ thứ mười tám, đã bừa bộn với các đợt cố gắng tăng trưởng kinh tế. Những đợt cố gắng này được kích bởi những đổi mới thể chế mà cuối cùng đã mất hiệu lực. Ở La Mã Cổ xưa các thể chế của nền Cộng hòa, mà đã tạo ra mức độ nào đó của sức sống kinh tế và đã cho phép việc xây dựng một đế chế đồ sộ, đã bị tàn phá sau cuộc đảo chính của Julius Caesar và sự xây dựng đế chế dưới thời Augustus. Đã cần đến hàng thế kỷ để cuối cùng Đế chế La Mã biến mất, và sự suy sụp đã kéo dài; nhưng một khi các thể chế cộng hòa tương đối bao gồm đã nhường đường cho các thể chế khai thác của đế chế, thì sự thoái bộ kinh tế đã trở nên hầu như không thể tránh khỏi.
  • 200. 180 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Động học của Venice cũng đã tương tự. Sự thịnh vượng kinh tế của Venice đã được tạo dựng bởi các thể chế mà đã có các yếu tố bao gồm quan trọng, nhưng các thể chế này đã bị xói mòn khi các elite hiện tồn đã đóng hệ thống lại với những người gia nhập mới và thậm chí đã cấm các thể chế mà đã tạo ra sự thịnh vượng của nền cộng hòa. Dẫu kinh nghiệm La Mã có đáng chú ý đến thế nào, không phải sự thừa kế của La Mã là cái đã dẫn trực tiếp đến sự nổi lên của các thể chế bao gồm ở nước Anh và đến Cách mạng Công nghiệp Anh. Các nhân tố lịch sử định hình các thể chế phát triển thế nào, nhưng đây không phải là một quá trình đơn giản, tiền định, tích lũy. La Mã và Venice minh họa các bước ban đầu tiến đến tính bao gồm đã bị đảo ngược ra sao. Phong cảnh kinh tế và thể chế mà La Mã đã tạo ra khắp châu Âu và Trung Đông đã không dẫn một cách không thể lay chuyển nổi đến các thể chế bao gồm được bén rễ chắc của các thế kỷ muộn hơn. Thực ra, những việc này đã nổi lên đầu tiên và mạnh nhất ở nước Anh, nơi ảnh hưởng La Mã đã yếu nhất và nơi nó biến mất một cách dứt khoát nhất, hầu như không có một dấu vết, trong thế kỷ thứ năm SCN. Thay vào đó, như chúng ta đã thảo luận ở chương 4, lịch sử đóng một vai trò chủ yếu thông qua sự trôi dạt thể chế mà tạo ra những sự khác biệt thể chế, dẫu đôi khi nhỏ, mà sau đó được khuếch đại lên khi chúng tương tác với các bước ngoặt. Chính bởi vì những sự khác biệt thể chế này thường là nhỏ mà chúng có thể bị đảo ngược một cách dễ dàng và không nhất thiết là hệ quả của một quá trình tích lũy đơn giản. Tất nhiên, La Mã đã có những ảnh hưởng lâu dài lên châu Âu. Luật và các thể chế La Mã đã ảnh hưởng đến luật và các thể chế mà các vương quốc của những người dã man đã dựng lên sau sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã. Cũng chính sự sụp đổ của La Mã đã là cái tạo ra phong cảnh chính trị phi tập trung mà đã phát triển thành trật tự phong kiến. Sự biến mất của tình trạng nô lệ và sự nổi lên của các thành phố độc lập đã là các sản phẩm phụ dài, kéo dài (và, tất nhiên, tùy thuộc ngẫu nhiên về mặt lịch sử) của quá trình này. Những điều này trở nên đặc biệt quan trọng khi Cái Chết Đen đã làm lung lay xã hội phong kiến một cách sâu sắc. Từ đống tro tàn của Cái Chết Đen nổi lên các thị trấn và các thành phố mạnh hơn, và một giai cấp nông dân không còn bị gắn với đất và mới thoát được các nghĩa vụ phong kiến. Đã chính xác là các bước ngoặt được tháo ra bởi sự sụp đổ của Đế
  • 201. TRÔI DẠT XA RA ● 181 chế La Mã là những cái đã dẫn đến một sự trôi dạt thể chế mạnh tác động đến toàn bộ châu Âu theo một cách mà không có cái tương tự ở châu Phi hạ-Sahara, châu Á, hay châu Âu. Vào thế kỷ thứ mười sáu, về mặt thể chế châu Âu đã rất khác với châu Phi hạ- Sahara và châu Mỹ. Tuy đã không giàu hơn nhiều so với hầu hết các nền văn minh Á châu ngoạn mục nhất ở Ấn Độ hay Trung Quốc, châu Âu đã khác biệt với các chính thể này trên nhiều phương diện chủ chốt. Thí dụ, nó đã phát triển các thể chế đại diện thuộc loại không được biết đến ở đó. Những cái này đã sẽ đóng một vai trò cốt yếu trong sự phát triển của các thể chế bao gồm. Như chúng ta sẽ thấy trong hai chương tiếp theo, những sự khác biệt thể chế nhỏ sẽ là những cái thực sự quan trọng bên trong châu Âu; và những cái này tạo thuận lợi cho nước Anh, bởi vì chính ở đó là nơi trật tự phong kiến đã nhường bước một cách toàn diện nhất cho những người nông dân có đầu óc thương mại và các trung tâm đô thị độc lập nơi các nhà buôn và các nhà công nghiệp đã có thể phát đạt. Các nhóm này đã đòi hỏi rồi các quyền tài sản an toàn hơn, các thể chế kinh tế khác nhau, và tiếng nói chính trị từ các quốc vương của họ. Toàn bộ quá trình này sẽ tới tột đỉnh trong thế kỷ thứ mười bảy.
  • 202. 7. ĐIỂM NGOẶT RẮC RỐI VỚI DỆT KIM NĂM 1583 WILLIAM LEE đã trở về từ việc học tập của ông ở Đại học Cambridge để trở thành linh mục địa phương ở Calverton, nước Anh. Gần đây Elizabeth I (1558-1603) đã ban hành một quyết định rằng thần dân của bà phải luôn luôn đội một mũ được đan. Lee đã nghi chép, “những người đan đã là các phương tiện duy nhất để làm ra đồ như vậy nhưng đã mất quá lâu thời gian để hoàn thành mặt hàng. Tôi đã bắt đầu nghĩ. Tôi nhìn mẹ và các chị em tôi ngồi trong ánh sáng chiều tà thoăn thoắt với những chiếc kim đan của họ. Nếu đồ được đan bằng hai kim và một hàng sợi, tại sao lại không dùng nhiều kim để đưa sợi”. Ý nghĩ rất quan trọng này đã là khởi đầu của việc cơ giới hóa sản xuất hàng dệt. Lee đã trở nên bị ám ảnh với việc làm ra một chiếc máy mà sẽ giải phóng con người khỏi việc đan bằng tay không bao giờ ngớt. Ông nhớ lại, “tôi đã bắt đầu sao lãng các nghĩa với Nhà thờ và gia đình. Ý tưởng về chiếc máy của tôi và việc tạo ra nó đã chiếm hết tâm trí và trái tim tôi.” Cuối cùng, vào năm 1589, “khung dệt kim” máy dệt kim của ông đã xong. Ông đi London với sự hứng khởi xin một cuộc yết kiến với Elizabeth I để giới thiệu với bà chiếc máy hữu ích đến thế nào và yêu cầu bà cấp cho một bằng sáng chế mà sẽ ngăn những người khác sao chép thiết kế của ông. Ông đã thuê một tòa nhà để dựng máy lên và, với sự giúp đỡ của đại biểu địa phương ở Quốc hội Richard Parkyns, gặp Henry Carey, Chúa công Hudson, một thành viên của Hội đồng Cơ mật của Nữ hoàng. Carey đã dàn xếp cho Nữ hoàng Elizabeth đến xem chiếc máy, nhưng phản ứng của bà đã gây choáng váng. Bà đã từ chối cấp bằng sáng chế cho Lee, thay vào đó lại nhận xét, “Cậu Lee, nhà ngươi nhắm cao. Nhà ngươi hãy cân nhắc sáng chế này có thể làm gì đối với các thần dân đáng thương của ta. Nó sẽ chắc chắn làm cho họ phá sản bằng cách cướp đi công ăn việc làm của họ, như thế
  • 203. ĐIỂM NGOẶT ● 183 biến họ thành những kẻ ăn mày.” Bị đánh bại, Lee chuyển sang Pháp để thử vận may của mình ở đó; khi đã thất bại ở đó, ông quay về nước Anh, nơi ông đã yêu cầu James I (1603-1625), vua kế vị Elizabeth, cấp bằng sáng chế, James I cũng đã từ chối, vì cùng lý do như Elizabeth. Cả hai đã sợ rằng việc cơ giới hóa sản xuất dệt kim sẽ gây bất ổn về mặt chính trị. Nó sẽ ném người dân khỏi việc làm, gây ra thất nghiệp và bất ổn chính trị, và đe dọa quyền lực hoàng gia. Máy dệt kim đã là một đổi mới hứa hẹn sự tăng năng suất khổng lồ, nhưng nó cũng hứa hẹn một sự phá hủy sáng tạo. PHẢN ỨNG ĐỐI VỚI sáng chế tài giỏi của Lee minh họa ý tưởng then chốt của cuốn sách này. Sự sợ hãi phá hủy sáng tạo là lý do chủ yếu vì sao đã không có sự gia tăng bền vững của mức sống giữa các cuộc Cách mạng đồ Đá Mới và Cách mạng công nghiệp. Đổi mới công nghệ làm cho các xã hội loài người thịnh vượng, nhưng nó cũng kéo theo việc thay thế cái cũ bằng cái mới, và sự phá hủy các đặc quyền kinh tế và quyền lực chính trị của những người nhất định. Cho tăng trưởng kinh tế bền vững, chúng ta cần các công nghệ mới, những cách mới để làm các thứ, và thường thường chúng sẽ đến từ những người mới như Lee. Nó có thể làm cho xã hội thịnh vượng, nhưng quá trình phá hủy sáng tạo mà nó khởi động sẽ đe dọa sinh kế của những người làm việc với công nghệ cũ, như những người đan tay mà sẽ thấy mình bị thất nghiệp bởi công nghệ của Lee. Quan trọng hơn, những đổi mới lớn như máy dệt kim của Lee cũng đe dọa định hình lại quyền lực chính trị. Cuối cùng chẳng phải là sự lo lắng cho số phận của những người có thể trở thành những người thất nghiệp như kết quả của máy dệt của Lee đã là cái dẫn Elizabeth I và James I đến chống đối sáng chế của ông; mà chính là sự sợ hãi của họ rằng họ sẽ trở thành những kẻ thua chính trị – nỗi lo ngại của họ rằng những người bị sáng chế sa thải sẽ gây ra bất ổn chính trị và đe dọa quyền lực riêng của họ. Như chúng ta đã thấy với các Luddite (trang 85-86), thường có thể phớt lờ sự kháng cự của những người lao động như những người đan bằng tay. Nhưng giới elite, đặc biệt khi quyền lực của họ bị đe dọa, tạo ra một rào cản ghê gớm hơn đối với đổi mới. Sự thực rằng họ có nhiều để mất từ sự phá hủy sáng tạo có nghĩa không chỉ rằng họ sẽ không phải là những người đưa những sự đổi mới sáng tạo mới vào, mà cũng có nghĩa rằng họ thường chống lại và thử chặn những đổi mới như vậy. Như thế xã hội cần những người mới đến để đưa ra những đổi mới cấp tiến nhất, và những người mới này và sự phá hủy sáng tạo họ gây ra thường phải
  • 204. 184 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI vượt qua nhiều nguồn kháng cự, kể cả sự kháng cự từ các nhà cai trị và các elite hùng mạnh. Trước nước Anh thế kỷ thứ mười bảy, các thể chế khai thác đã là chuẩn mực suốt lịch sử. Có lúc chúng đã có thể tạo ra sự tăng trưởng kinh tế, như đã được chỉ ra trong hai chương trước, đặc biệt khi chúng chứa những yếu tố bao gồm, như ở Venice và Rome. Nhưng chúng đã không cho phép sự phá hủy sáng tạo. Sự tăng trưởng mà chúng tạo ra đã không bền vững, và đi đến một sự kết thúc bởi vì thiếu các đổi mới sáng tạo mới, bởi vì sự đấu đá chính trị nội bộ kịch liệt do mong muốn để hưởng lợi từ sự khai thác gây ra, hoặc bởi vì các yếu tố bao gồm mới sinh đã bị đảo ngược một cách dứt khoát, như ở Venice. Ước tính tuổi thọ của một cư dân của một làng Netufian ở Abu Hureyra có lẽ đã không khác mấy với ước tính tuổi thọ của một công dân La Mã Cổ xua. Ước tính tuổi thọ của một người La Mã điển hình đã khá giống tuổi thọ của một cư dân trung bình của nước Anh trong thế kỷ thứ mười bảy. Về mặt thu nhập, trong năm 301 SCN, hoàng đế La Mã Diocletian đã ban hành Chỉ dụ về Giá Tối đa, mà đã quy định một sơ đồ lương mà những loại người lao động khác nhau được trả. Chúng ta không biết chính xác các loại lương và giá của Diocletian đã được thực thi tốt như thế nào, nhưng khi sử gia kinh tế Robert Allen sử dụng chỉ dụ của ngài để tính các mức sống của một một người lao động điển hình không có kỹ năng, ông đã thấy chúng hầu như chính xác như các mức sống của một người lao động không có kỹ năng ở Italy thế kỷ mười bảy. Xa hơn theo hướng bắc, ở nước Anh, lương đã cao hơn và tăng lên, và tình hình đã đang thay đổi. Việc này đã xảy ra như thế nào là chủ đề của chương này. XUNG ĐỘT CHÍNH TRỊ LUÔN LUÔN HIỆN DIỆN Xung đột về các thể chế và sự phân bổ các nguồn lực đã tràn khắp trong lịch sử. Chúng ta đã thấy, chẳng hạn, xung đột chính trị đã định hình thế nào sự tiến triển của La Mã Cổ xưa và Venice, nơi cuối cùng nó đã được giải quyết có lợi cho các elite, những người đã có khả năng tăng sự bám giữ quyền lực của họ. Lịch sử Anh cũng đầy rẫy xung đột giữa nền quân chủ và các thần dân của nó, giữa các phe nhóm khác nhau đấu tranh giành quyền lực, và giữa các elite và các
  • 205. ĐIỂM NGOẶT ● 185 công dân. Kết quả, tuy vậy, đã không luôn luôn để củng cố quyền lực của những người nắm nó. Trong năm 1215, các nam tước, tầng lớp elite dưới vua, đã chống lại Vua John và đã bắt nhà vua ký Magna Carta (“Hiến chương Vĩ đại”) ở Runnymede (xem Bản đồ 9, trang 112). Văn kiện này đã ban hành một số nguyên tắc cơ bản mà đã là những thách thức đáng kể đối với quyền lực của nhà vua. Quan trọng nhất, nó đã xác lập rằng nhà vua phải tham vấn các nam tước để tăng các loại thuế. Điều khoản lôi thôi nhất đã là điều số 61, mà nó nói rõ, “các nam tước sẽ chọn bất cứ hai mươi lăm nam tước nào thuộc lĩnh vực nào họ muốn, những người với tất cả sức mạnh của họ là để tuân thủ, bảo vệ, và làm cho được tuân thủ hòa bình và các quyền tự do mà chúng ta đã ban và đã xác nhận chúng bằng hiến chương hiện tại này của chúng ta.” Về cơ bản, các nam tước đã lập ra một hội đồng để đảm bảo chắc chắn rằng nhà vua thực hiện hiến chương, và nếu nhà vua không thực hiện thì hai mươi lăm nam tước này đã có quyền chiếm các lâu đài, đất đai, và các tài sản “... cho đến khi, theo phán xét của họ, đã được bồi thường.” Vua John đã không thích Magna Carta, và ngay sau khi các nam tước giải tán, ông đã bảo giáo hoàng bãi bỏ nó. Nhưng cả quyền lực chính trị của các nam tước và ảnh hưởng của Magna Carta đã vẫn còn. Nước Anh đã đi bước đi chập chững đầu tiên của nó hướng tới chủ nghĩa đa nguyên. Xung đột về các thể chế chính trị vẫn tiếp tục, và quyền lực của nền quân chủ đã bị hạn chế thêm bởi Quốc hội được bầu đầu tiên trong năm 1265. Không giống Đại hội Dân thường ở Rome hay các cơ quan lập pháp được bầu ngày nay, các thành viên của nó khởi đầu đã là các quý tộc phong kiến, và sau đó đã là các hầu tước (knight) và các quý tộc giàu có nhất của quốc gia. Bất chấp việc gồm có các elite, Quốc hội Anh đã phát triển hai đặc trưng phân biệt. Thứ nhất, nó đã đại diện không chỉ cho các elite gắn bó thân thiết với nhà vua mà cả một tập hợp rộng các lợi ích, kể cả các quý tộc nhỏ dính dáng đến các ngành nghề khác nhau, như thương mại và công nghiệp, và muộn hơn là “gentry – tầng lớp quý tộc nhỏ”, một tầng lớp mới của các nông dân thương mại và di động hướng lên. Như thế Quốc hội đã trao quyền cho một bộ phận khá rộng của xã hội – đặc biệt theo tiêu chuẩn của thời đó. Thứ hai, và chủ yếu như một kết quả của đặc trưng thứ nhất, nhiều thành viên Quốc hội đã phản đối một cách kiên định các nỗ lực của nền quân chủ để tăng quyền lực của nó và sẽ trở thành trụ cột của những người chiến đấu chống lại chế độ quân chủ trong Nội Chiến Anh và trong Cách mạng Vinh quang.
  • 206. 186 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Dẫu có Magna Carta và Quốc hội được bầu đầu tiên, tuy vậy, xung đột chính trị vẫn tiếp tục về quyền lực của nền quân chủ và ai là vua. Xung đột giữa-elite này đã chấm dứt với Chiến tranh Hoa Hồng, một cuộc tranh chấp tay đôi dài giữa các Dòng họ Lancaster và York, hai dòng họ với các địch thủ để làm vua. Những người thắng đã là những người thuộc dòng họ Lancaster, mà ứng viên làm vua của họ, Henry Tudor, đã trở thành Henry VII trong năm 1485. Hai quá trình có quan hệ qua lại khác đã xảy ra. Quá trình thứ nhất đã là sự tập trung hóa chính trị tăng lên, được khởi động bởi nhà Tudor. Sau 1485 Henry VII đã tước vũ khí giới quý tộc, thực ra, phi quân sự họ và vì thế mở rộng một cách ồ ạt quyền lực của nhà nước trung ương. Con trai ông, Henry VIII, đã thực hiện qua bộ trưởng chính của ông, Thomas Comwell, một cuộc cách mạng trong chính phủ. Trong các năm 1530, Comwell đã đưa vào một nhà nước quan liêu mới sinh. Thay cho chính phủ chỉ làm việc nội trợ riêng cho nhà vua, nó trở thành một tập hợp tách biệt của các tổ chức lâu dài. Điều này được bổ sung bởi việc Henry VIII từ bỏ Giáo hội Công giáo (Catholic) La Mã và “sự Giải tán các Tu viện,” mà trong đó Henry VIII đã chiếm đoạt tất cả đất của Giáo hội. Việc dỡ bỏ quyền lực của Giáo hội đã là một phần của việc làm cho nhà nước tập trung hơn. Sự tập trung hóa này của các thể chế nhà nước đã có nghĩa rằng lần đầu tiên, các thể chế chính trị bao gồm đã trở nên có thể. Quá trình này được khởi xướng bởi Henry VII và Henry VIII không chỉ đã tập trung hóa các thể chế nhà nước mà cũng đã làm tăng đòi hỏi cho sự đại diện chính trị có cơ sở rộng hơn. Quá trình tập trung hóa chính trị thực sự có thể dẫn đến một hình thức của chủ nghĩa chuyên chế, khi nhà vua và các đồng minh của ông có thể nghiền nát các nhóm hùng mạnh khác trong xã hội. Đấy quả thực đã là một trong những lý do vì sao có sự phản đối chống lại sự tập trung hóa nhà nước, như chúng ta đã thấy ở chương 3. Tuy vậy, đối lập với lực lượng này, sự tập trung hóa các thể chế nhà nước cũng có thể huy động sự đòi hỏi một hình thức mới sinh của chủ nghĩa đa nguyên, như nó đã làm ở nước Anh dưới thời Tudor. Khi các nam tước và các elite khác nhận ra rằng quyền lực chính trị sẽ ngày càng tập trung hơn và rằng quá trình này khó để chặn lại, họ sẽ đưa ra những đòi hỏi để có tiếng nói về quyền lực được tập trung này sẽ được sử dụng ra sao. Trong nước Anh của cuối thế kỷ mười lăm và thế kỷ thứ mưới sáu, điều này đã có nghĩa rằng các nỗ lực của các nhóm này để có một Quốc hội như cái đối trọng với Quốc vương và để kiểm soát một phần cách nhà nước hoạt động. Như thế dự án Tudor đã không chỉ khởi xướng sự tập trung hóa chính
  • 207. ĐIỂM NGOẶT ● 187 trị, một trụ cột của các thể chế bao gồm, mà nó cũng đóng góp gián tiếp cho chủ nghĩa đa nguyên, trụ cột khác của các thể chế bao gồm. Những sự phát triển này về các thể chế chính trị đã xảy ra trong một bối cảnh của những thay đổi lớn về bản chất của xã hội. Đặc biệt quan trọng đã là sự mở rộng xung đột chính trị mà đã mở rộng tập hợp các nhóm có khả năng để đưa ra những đòi hỏi đối với nền quân chủ và các elite chính trị. Cuộc Khởi nghĩa Nông dân (trang 99) năm 1381 đã là mấu chốt, mà sau đó elite Anh bị rung chuyển bởi một chuỗi dài các cuộc nổi dậy của nhân dân. Quyền lực chính trị đã được phân bổ lại không chỉ đơn giản từ nhà vua sang các thượng nghị sĩ, mà cũng từ giới elite sang nhân dân. Những thay đổi này, cùng với những hạn chế ngày càng tăng lên quyền lực của nhà vua, đã làm cho sự nổi lên của một liên minh rộng chống lại chính thể chuyên chế là có thể và như thế đặt nền tảng cho các thể chế chính trị đa nguyên. Mặc dù bị phản bác, các thể chế chính trị và kinh tế của các triều đại Tudor kế thừa và duy trì đã rõ ràng là khai thác. Trong năm 1603 Elizabeth I, con gái Henry VIII người đã lên ngai vàng của nước Anh vào năm 1553, đã chết mà không có con, các triều đại Tudor bị thay thế bằng triều đại nhà Stuart. Vua Stuart đệ nhất, James I, đã không chỉ kế thừa các thể chế mà cả xung đột về chúng. Ông đã muốn trở thành một nhà cai trị chuyên chế. Mặc dù nhà nước đã trở nên tập trung hơn và sự thay đổi xã hội đang phân bổ lại quyền lực trong xã hội, các thể chế chính trị đã vẫn chưa là các thể chế đa nguyên. Trong nền kinh tế, các thể chế khai thác đã tự biểu thị không chỉ trong việc phản đối sáng chế của Lee, mà trong dạng của các độc quyền, các độc quyền, và nhiều các độc quyền hơn. Trong năm 1601, một danh sách các độc quyền này được đọc lên trong Quốc hội, với một thành viên hỏi một cách châm biếm, “không có bánh mỳ ở đó ư?” Vào năm 1621 số chúng đã có bảy trăm. Như sử gia Anh Christopher Hill diễn đạt, một người đã sống trong một ngôi nhà được xây bằng gạch độc quyền, với các cửa sổ … có kính độc quyền; được sưởi ấm bằng than độc quyền (ở Ireland bằng củi gỗ độc quyền), cháy trong lò sưởi làm bằng sắt độc quyền … Ông ta tắm bằng xà phòng độc quyền, quần áo của ông ta được hồ cứng bằng hồ độc quyền. Ông ta mặc quần áo bằng đăng ten độc quyền, vải lanh độc quyền, da thuộc độc quyền, chỉ vàng độc quyền. Quần áo của ông ta được giữ bằng dây lưng độc quyền, cúc độc quyền
  • 208. 188 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI và ghim độc quyền. Chúng được nhuộm bằng các thuốc nhuộm độc quyền. Ông ta ăn bơ độc quyền, các quả lý chua độc quyền, cá trích đỏ độc quyền, cá hồi độc quyền, và tôm hùm độc quyền. Thức ăn của ông ta được thêm gia vị bằng muối độc quyền, hồ tiêu độc quyền, dấm độc quyền … Ông viết bằng bút độc quyền, đọc (qua các cặp kính độc quyền, với ánh sáng của nến độc quyền) các sách in độc quyền. Các độc quyền này, và còn nhiều hơn nữa, đã cho các cá nhân hay các nhóm quyền độc nhất để kiểm soát việc sản xuất nhiều mặt hàng. Chúng cản trở loại phân bổ tài năng, mà hết sức cốt yếu cho sự thịnh vượng kinh tế. Cả James I và con ông, người kế vị ông, Charles I đã khao khát tăng cường nền quân chủ, giảm ảnh hưởng của Quốc hội, và thiết lập các thể chế chuyên chế giống các thể chế được xây dựng ở Tây Ban Nha và Pháp để đẩy mạnh sự kiểm soát của họ và của giới elite đối với nền kinh tế, làm cho các thể chế có tính khai thác hơn. Xung đột giữa James I và Quốc hội đã lên đến tột đỉnh trong các năm 1620. Trung tâm của cuộc xung đột này đã là sự kiểm soát thương mại cả quốc tế lẫn bên trong các đảo Anh. Khả năng của Quốc vương để cấp các độc quyền đã là nguồn chủ chốt của thu nhập cho nhà nước, và đã được dùng thường xuyên như một cách để ban các quyền độc quyền cho những người ủng hộ nhà vua. Không ngạc nhiên, thể chế khai thác này ngăn chặn sự gia nhập và hạn chế hoạt động của thị trường cũng đã làm tổn hại hoạt động kinh tế và lợi ích của nhiều thành viên của Quốc hội. Trong năm 1623, Quốc hội đã ghi một chiến thắng đáng kể bằng tìm được cách để thông qua Đạo luật Độc quyền, mà đã cấm James tạo ra các độc quyền nội địa mới. Ông vẫn còn có thể cấp độc quyền thương mại quốc tế, tuy vậy, vì quyền hạn của Quốc hội đã không mở rộng ra các vấn đề quốc tế. Các độc quyền hiện tồn, quốc tế hay nội địa, đã không bị đụng chạm đến. Quốc hội đã không họp đều đặn và phải được nhà vua triệu tập họp. Thông lệ mà đã nổi lên sau Magna Carta đã là nhà vua phải họp với Quốc hội để nhận được sự phê chuẩn cho các khoản thuế mới. Charles đã lên ngôi năm 1625, đã từ chối triệu tập Quốc hội họp sau 1629, và đã tăng cường các nỗ lực của James I để xây dựng một chế độ chuyên chế vững chắc hơn. Ông ta đưa vào việc cho vay bắt buộc, có nghĩa rằng người dân phải cho ông ta
  • 209. ĐIỂM NGOẶT ● 189 “vay” tiền, và ông ta đơn phương thay đổi các điều khoản của món vay và từ chối trả nợ. Ông đã tạo ra và bán các quyết định trong một lĩnh vực mà Đạo luật Độc quyền đã để lại cho ông: các doanh nghiệp mạo hiểm buôn bán với nước ngoài. Ông cũng đã làm xói mòn tính độc lập của ngành tư pháp và đã thử can thiệp để ảnh hưởng đến kết quả của các vụ kiện. Ông đã thu nhiều khoản tiền phạt và tiền thù lao, khoản lôi thôi nhất trong số đó là “tiền tàu thuyền” – trong năm 1634 đánh thuế các hạt ven biển để đóng khoản ủng hộ Hải quân Hoàng gia, và trong năm 1635, mở rộng việc thu ra các hạt nội địa. Tiền tàu đã được thu mỗi năm cho đến 1640. Hành vi ngày càng chuyên chế và các chính sách khai thác của Charles đã tạo ra sự oán giận và sự chống cự trên khắp đất nước. Trong năm 1640 ông đã đối mặt với một xung đột với Scotland và, không có đủ tiền để đưa một quân đội thích đáng ra trận, ông đã buộc phải triệu tập Quốc hội để xin nhiều thuế hơn. Cái gọi là Quốc hội Ngắn đã họp chỉ ba tuần. Các nghị sĩ hùng biện những người đến London đã từ chối bàn về thuế, nhưng đã thổ lộ nhiều lời phàn nàn, cho đến khi Charles gạt bỏ chúng. Những người Scot đã nhận ra rằng Charles đã không có sự ủng hộ của dân tộc và đã xâm chiếm nước Anh, chiếm đóng thành phố Newcastle. Charles đã mở ra các cuộc thương thuyết, và những người Scot đã đòi hỏi rằng Quốc hội phải tham gia. Việc này xui khiến Charles triệu tập cái khi đó được biết đến như Quốc hội Dài, bởi vì nó tiếp tục họp cho đến 1648, từ chối giải tán ngay cả khi Charles đã yêu cầu nó làm thế. Trong năm 1642 Nội Chiến đã nổ ra giữa Charles và Quốc hội, cho dù có nhiều người trong Quốc hội đã đứng về phía Quốc vương. Hình mẫu của các cuộc xung đột đã phản ánh cuộc đấu tranh về các thể chế chính trị và kinh tế. Quốc hội đã muốn một sự kết thúc các thể chế chính trị chuyên chế; nhà vua đã muốn chúng được củng cố. Các xung đột này đã có gốc rễ trong kinh tế. Nhiều người đã ủng hộ Quốc vương bởi vì họ đã được ban cho các độc quyền béo bở. Thí dụ, các độc quyền địa phương được kiểm soát bởi các nhà buôn giàu và hùng mạnh ở Shrewsbury và Onswestry đã được Quốc vương bảo vệ khỏi sự cạnh tranh của các nhà buôn London. Các nhà buôn này đã đứng về phía Charles I. Ở phía bên kia, công nghiệp luyện kim đã hưng thịnh xung quanh Birmingham bởi vì các độc quyền đã là yếu ở đó và những người mới
  • 210. 190 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI đến ngành công nghiệp đã không phải phục vụ bảy năm học nghề như họ đã phải ở các phần khác của nước Anh. Trong Nội Chiến họ đã làm ra gươm và tạo ra những người tình nguyện cho phía Quốc hội. Tương tự, việc thiếu điều tiết phường hội ở hạt Lancashire đã cho phép sự phát triển “Vải vóc Mới”, một loại mới của vải nhẹ, trước năm 1640. Vùng nơi việc sản xuất các vải này được tập trung đã là phần duy nhất của Lancashire ủng hộ phe Quốc hội. Dưới sự lãnh đạo của Oliver Cromwell, các Nghị sĩ hùng biện – được biết đến như những người Đầu Tròn gọi theo kiểu mà theo đó tóc của họ được cắt – đã đánh bại những người theo chủ nghĩa bảo hoàng – được biết đến như các Kỵ sĩ. Charles đã bị xét xử và bị hành quyết trong năm 1649. Sự thất bại của ông và sự thủ tiêu nền quân chủ, tuy vậy, đã không tạo ra các thể chế bao gồm. Thay vào đó, nền quân chủ bị thay thế bởi chế độ độc tài của Olivier Cromwell. Tiếp sau cái chết của Cromwell, nền quân chủ được phục hồi trong năm 1660 và đã lấy lại nhiều đặc quyền mà đã bị tước mất trong năm 1649. Con trai của Charles, Charles II, sau đó lại bắt đầu cùng chương trình để tạo ra chính thể chuyên chế ở nước Anh. Những nỗ lực này đã chỉ được tăng cường bởi em trai ông James II, người lên ngôi sau khi Charles chết trong năm 1685. Trong năm 1688, nỗ lực của James để thiết lập lại chính thể chuyên chế đã tạo ra một cuộc nội chiến nữa. Lần này Quốc hội đã thống nhất hơn và có tổ chức hơn. Họ đã mời Statholder (phó Vương, Thống đốc) Hà Lan, William xứ Orange, và vợ ông, Mary, con gái theo giáo phái Kháng cách (Protestant) của James, để thay thế James. William mang một quân đội và yêu sách ngai vàng, để cai trị không như một quốc vương chuyên chế mà dưới một nền quân chủ lập hiến do Quốc hội tạo dựng. Hai tháng sau sự cập bến của William ở các đảo Anh tại Brixham ở Devon (xem Bản đồ 9, trang 112), quân đội của James đã tan rã và ông đã chạy trốn sang Pháp. CÁCH MẠNG VINH QUANG Sau chiến thắng trong Cách mạng Vinh quang, Quốc hội và William đã thương lượng một hiến pháp mới. Những thay đổi đã được báo trước bởi “Tuyên ngôn” của William được đưa ra không lâu trước cuộc xâm lấn của ông. Chúng được lưu giữ thêm trong Tuyên ngôn về các Quyền (Declaration
  • 211. ĐIỂM NGOẶT ● 191 of Rights), do Quốc hội soạn ra trong tháng Hai năm 1689. Tuyên ngôn đã được đọc hết cho William nghe trong cùng phiên họp nơi ông được trao vương miện. Theo nhiều cách, Tuyên ngôn, mà được gọi là Đạo luật về các Quyền sau khi nó được ký thành luật, đã mơ hồ. Một cách quyết định, tuy vậy, nó đã thiết lập các nguyên tắc lập hiến chính yếu. Nó đã xác định sự kế vị ngai vàng, và đã làm vậy theo một cách trệch đáng kể khỏi các nguyên tắc cha truyền con nối được công nhận là đúng khi đó. Nếu một lần Quốc hội đã có thể loại bỏ một quốc vương và thay thế ông ta bằng một người họ ưa thích hơn, thì tại sao lại không lần nữa? Tuyên ngôn về các Quyền cũng đã khẳng định rằng quốc vương không thể đình chỉ luật hay không được miễn trừ nghĩa vụ tuân thủ luật, và nó cũng đã nhắc lại tính bất hợp pháp của thuế mà không có sự tán thành của Quốc hội. Ngoài ra, nó tuyên bố rằng không thể có quân đội thường trực nào ở nước Anh mà không có sự ưng thuận của Quốc hội. Sự mơ hồ lẻn vào các điều khoản như điều số 8, mà tuyên bố, “việc bầu các thành viên của Quốc hội phải là tự do,” nhưng nó đã không quy định rõ “tự do” được xác định thế nào. Còn mơ hồ hơn là điều 13, mà nội dung chính của nó là các Quốc hội cần phải tổ chức [họp] thường xuyên. Vì khi nào và liệu có thể tổ chức [họp] Quốc hội đã là một vấn đề tranh cãi trong suốt cả thế kỷ, người ta có thể kỳ vọng sự quy định chi tiết hơn nhiều trong điều khoản này. Tuy nhiên, lý do của việc hành văn mơ hồ này là rõ. Các điều khoản phải được thực thi. Trong triều đại của Charles II, đã có một Đạo luật Ba năm mà nó khẳng định rằng các Quốc hội phải được triệu tập ít nhất một lần trong mỗi ba năm. Nhưng Charles đã phớt lờ nó, và đã chẳng có gì xảy ra, bởi vì đã không có phương pháp để thực thi nó. Sau 1688, Quốc hội đã có thể thử đưa ra một phương pháp để thực thi điều khoản này, như các nam tước đã làm với hội đồng của họ sau khi Vua John ký Magna Carta. Họ đã không làm vậy bởi vì họ đã không cần phải làm thế. Điều này là bởi vì quyền lực và quyền quyết định đã được chuyển cho Quốc hội sau 1688. Ngay cả không có các quy tắc hay luật lập hiến cụ thể, William đơn giản đã từ bỏ nhiều tập quán của các vị vua trước đó. Ông đã ngừng can thiệp vào các quyết định pháp lý và từ bỏ “các quyền” trước, như nhận được thu nhập thuế quan suốt đời. Tóm lại, những thay đổi này về các thể chế chính trị thể hiện chiến thắng của Quốc hội đối với nhà vua, và như thế chấm dứt chính thể chuyên chế ở nước Anh và sau đó ở Vương quốc Anh – khi nước Anh và Scotland thống nhất bằng Đạo luật Thống nhất năm 1707. Từ đó trở đi, Quốc hội đã nắm vững chắc sự kiểm
  • 212. 192 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI soát chính sách nhà nước. Điều này tạo ra một sự khác biệt to lớn, bởi vì các lợi ích của Quốc hội đã rất khác với các lợi ích của các vua nhà Stuart. Vì nhiều người trong Quốc hội đã có các khoản đầu tư quan trọng trong thương mại và công nghiệp, họ đã có quyền lợi mạnh mẽ trong thực thi các quyền tài sản. Nhà Stuart đã thường xuyên vi phạm các quyền tài sản; bây giờ chúng sẽ được giữ gìn. Hơn nữa, khi nhà Stuart kiểm soát việc chính phủ chi tiêu tiền thế nào, Quốc hội đã phản đối các khoản thuế lớn hơn và đã ngần ngại trước sự tăng cường quyền lực của nhà nước. Bây giờ bản thân Quốc hội kiểm soát việc chi tiêu, nó đã vui lòng tăng thuế và chi tiền cho các hoạt động mà nó cho là có ích. Đứng đầu trong các hoạt động đó đã là tăng cường hải quân, mà sẽ bảo vệ các lợi ích buôn bán quốc tế của nhiều thành viên của Quốc hội. Thậm chí còn quan trọng hơn các lợi ích của các nghị sĩ hùng biện đã là bản chất đa nguyên đang nổi lên của các thể chế chính trị. Nhân dân Anh bây giờ đã có sự tiếp cận đến Quốc hội, theo một cách mà họ chưa từng có khi chính sách bị nhà vua lèo lái. Tất nhiên, việc này đã chỉ là một phần bởi vì các thành viên của Quốc hội được bầu. Nhưng vì nước Anh còn xa mới là một nền dân chủ trong thời kỳ đó, sự tiếp cận này đã chỉ cung cấp một mức độ đại diện khiêm tốn. Giữa nhiều bất bình đẳng của nó là chỉ có ít hơn 2 phần trăm dân số đã có thể bỏ phiếu trong thế kỷ thứ mười tám, và những người này đã phải là các đàn ông. Các thành phố nơi Cách mạng Công nghiệp đã xảy ra, Birmingham, Leeds, Manchaster, và Sheffield, đã không có sự đại diện độc lập trong Quốc hội. Thay vào đó các vùng nông thôn lại được đại diện quá mức. Tồi không kém là, quyền bỏ phiếu ở vùng nông thôn, ở các “hạt-county”, đã dựa trên quyền sở hữu đất, và nhiều vùng đô thị, các “thành phố – borough”, đã bị kiểm soát bởi elite nhỏ, người đã không cho phép các nhà công nghiệp mới được bỏ phiếu hay ứng cử vào một chức vụ. Trong thành phố Birmingham, chẳng hạn, mười ba thị dân đã có độc quyền để bỏ phiếu. Thêm vào đấy đã có “các thành phố mục nát,” mà về mặt lịch sử đã có quyền bỏ phiếu nhưng “đã mục nát hết,” hoặc bởi vì dân cư của nó đã chuyển đi theo thời gian hay, trong trường hợp của Dunwich ở bờ đông nước Anh, đã thực sự rơi vào đại dương như kết quả của sự sạt lở bờ. Trong mỗi của các thành phố mục nát này, một số nhỏ những người bỏ phiếu bầu ra hai thành viên của Quốc hội. Sarum cổ đã có bảy người có quyền bỏ phiếu, Dunwich ba mươi hai, và mỗi thành phố bầu hai thành viên của Quốc hội.
  • 213. ĐIỂM NGOẶT ● 193 Nhưng đã có những cách khác để ảnh hưởng đến Quốc hội và như thế đến các thể chế kinh tế. Quan trọng nhất đã là thông qua kiến nghị, và cách này đã quan trọng hơn rất nhiều so với mức độ hạn chế của dân chủ cho sự nổi lên của chủ nghĩa đa nguyên sau Cách mạng Vinh quang. Bất cứ ai đã đều có thể kiến nghị với Quốc hội, và họ đã làm. Rất quan trọng, khi người dân kiến nghị, Quốc hội đã lắng nghe. Điều này hơn bất cứ thứ gì khác đã phản ánh sự thất bại của chính thể chuyên chế, sự trao quyền cho một mảng khá rộng của xã hội, và sự thăng tiến của chủ nghĩa đa nguyên ở nước Anh sau 1688. Hoạt động kiến nghị cuống cồng cho thấy rằng quả thực đã là một nhóm rộng như vậy trong xã hội, vượt quá xa những người ngồi trong hay thậm chí được đại diện trong Quốc hội, mà đã có sức mạnh để ảnh hưởng đến cách nhà nước hoạt động. Và họ đã sử dụng nó. Trường hợp của các độc quyền minh họa điều này rõ nhất. Chúng ta đã thấy ở trên các độc quyền đã ở trung tâm của các thể chế kinh tế khai thác như thế nào trong thế kỷ thứ mười bảy. Chúng đã bị tấn công trong năm 1623 với Đạo luật Độc quyền, và đã là một vấn đề gây bất đồng nghiêm trọng trong Nội Chiến Anh. Quốc hội Dài đã xóa bỏ tất cả các độc quyền nội địa mà đã ảnh hưởng hết sức đến đời sống nhân dân. Mặc dù Charles II và James II đã không thể đưa các độc quyền này trở lại, họ đã tìm được cách để duy trì khả năng cấp các độc quyền hải ngoại. Một đã là Công ty Hoàng gia Phi châu, Royal African Company, RAC, mà điều lệ độc quyền của nó được Charles II ban hành năm 1660. Công ty này đã giữ độc quyền về buôn bán nô lệ Phi châu béo bở, và thống đốc và cổ đông chính của nó đã là James em của Charles, người không lâu sau đã trở thành James II. Sau 1688 công ty đã mất không chỉ thống đốc của nó, mà cả người ủng hộ chính của nó. James đã bảo vệ một cách chuyên cần sự độc quyền của công ty chống lại “những kẻ xen ngang,” các nhà buôn độc lập những người đã thử mua nô lệ ở Tây châu Phi và bán chúng ở châu Mỹ. Đây đã là việc buôn bán rất có lời, và RAC đã đối mặt với nhiều thách thức, vì tất cả việc buôn bán khác của người Anh qua Đại Tây Dương đã là tự do. Năm 1689 RAC đã chiếm hàng hóa của một kẻ xen ngang, một Nightingale (Chim Sơn ca). Nightingale kiện RAC đã chiếm bất hợp pháp hàng hóa, và Chánh Án Holt đã phán quyết rằng việc chiếm của RAC là bất hợp pháp bởi vì nó đã sử dụng một quyền độc quyền được tạo ra bởi đặc quyền hoàng gia. Holt đã lập luận rằng các đặc quyền độc quyền đã
  • 214. 194 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI có thể được tạo ra chỉ bởi luật, và việc này đã phải do Quốc hội làm. Như thế Holt đã đẩy tất cả các độc quyền tương lai, không chỉ của RAC, vào tay của Quốc hội. Trước 1688 James II đã có thể nhanh chóng loại bỏ bất cứ thẩm phán nào người đưa ra phán xét như vậy. Sau 1688 tình hình đã khác. Bây giờ Quốc hội phải quyết định làm gì với sự độc quyền, và các kiến nghi bắt đầu bay tới tấp. Một trăm ba mươi lăm đã đến từ những kẻ xen ngang đòi tự do thương mại ở Đại Tây Dương. Mặc dầu RAC đã phản ứng bằng đúng cách như thế, nó đã không thể hy vọng để sánh ngang số lượng hay quy mô của các kiến nghị đòi cái chết của nó. Những kẻ xen ngang đã thành công trong định khung sự phản đối của họ dưới dạng không chỉ của tư lợi hạn hẹp, mà của lọi ích quốc gia, mà quả thực đã thế. Như một kết quả, chỉ 5 trong số 135 kiến nghi được ký bởi bản thân các nhà buôn xen ngang, và 73 trong số các kiến nghị của những kẻ xen ngang đã đến từ các tỉnh bên ngoài London, đối lại với 8 cho RAC. Từ các thuộc địa, nơi việc đưa thỉnh cầu, kiến nghị cũng đã được phép, những kẻ xen ngang thu được 27 kiến nghị, RAC được 11. Những kẻ xen ngang đã thu thập được nhiều chữ ký hơn nhiều cho các kiến nghị của họ, tổng cộng 8.000 so với 2.500 cho RAC. Cuộc chiến đấu tiếp diễn cho đến 1698, khi độc quyền của RAC bị hủy bỏ. Cùng với vị trí mới này cho việc xác định các thể chế kinh tế và sự đáp lại nhanh nhạy mới sau 1688, các nghị sĩ bắt đầu thực hiện một loạt những thay đổi then chốt về các thể chế kinh tế và chính sách của chính phủ mà cuối cũng đã mở đường cho Cách mạng Công nghiệp. Các quyền tài sản bị xói mòn dưới thời nhà Stuart đã được tăng cường. Quốc hội đã bắt đầu một quá trình cải cách về các thể chế kinh tế để thúc đẩy chế tác, hơn là đánh thuế và cản trở nó. Loại “thuế nền lò sưởi” – một khoản thuế hàng năm cho mỗi lò sưởi hay cái lò, mà các nhà sản xuất chế tác phải chịu nặng nhất, những người đã phản đối nó một cách gay gắt – đã được hủy bỏ năm 1689, không lâu sau khi William và Mary lên ngôi. Thay cho đánh thuế nền lò sưởi Quốc hội bắt đầu đánh thuế đất. Việc phân phối lại các gánh nặng thuế khóa đã không chỉ là chính sách ủng hộ chế tác mà Quốc hội ủng hộ. Cả một loạt các đạo luật và luật pháp mà mở rộng thị trường và tính sinh lợi của ngành dệt len đã được thông qua. Tất cả điều này có ý nghĩa chính trị, vì nhiều trong số các nghị sĩ những người
  • 215. ĐIỂM NGOẶT ● 195 phản đối James đã đầu tư nhiều vào các doanh nghiệp chế tác mới nảy sinh này. Quốc hội cũng đã thông qua luật pháp mà cho phép việc tổ chức lại hoàn toàn các quyền tài sản về đất, cho phép sự củng cố và sự loại bỏ nhiều hình thức cổ xưa về các quyền tài sản và quyền sử dụng. Một ưu tiên khác của Quốc hội đã là cải cách ngành tài chính. Mặc dù đã có sự mở rộng hoạt động ngân hàng và tài chính trong thời kỳ dẫn tới Cách mạng Vinh quang, quá trình này đã được thắt chặt bởi việc thành lập Ngân hàng Anh quốc (Bank of England) năm 1694, như một nguồn quỹ cho công nghiệp. Nó đã là một hậu quả trực tiếp khác của Cách mạng Vinh quang. Việc thành lập Bank of England đã mở đường cho một “cách mạng tài chính” sâu rộng hơn nhiều, mà đã dẫn đến một sự mở rộng to lớn của các thị trường tài chính và hoạt động ngân hàng. Vào đầu thế kỷ mười tám, các khoản vay đã sẵn có cho bất cứ ai người có thể đặt các tài sản thế chấp cần thiết. Sổ sách của một ngân hàng tương đối nhỏ, C. Hoare’s & Co. ở London, mà đã sống sót nguyên vẹn từ giai đoạn 1702-1724, minh họa điểm này. Mặc dù ngân hàng đã có cho các quý tộc và chúa vay, toàn bộ hai phần ba của những người vay lớn nhất của Hoare trong thời kỳ này đã không phải từ các tầng lớp xã hội có đặc quyền. Thay vào đó họ đã là các nhà buôn, các nhà doanh nghiệp, kể cả một John Smith, một người với cái tên thông dụng của một người Anh trung bình, người đã được ngân hàng cho vay £2.600 trong giai đoạn 1715-1719. Cho đến nay chúng ta đã nhấn mạnh Cách mạng Vinh quang đã biến đổi thế nào các thể chế chính trị Anh, biến chúng thành đa nguyên hơn, và cũng bắt đầu đặt nền móng cho các thể chế kinh tế bao gồm. Còn một sự thay đổi quan trọng nữa về các thể chế mà đã nổi lên từ Cách mạng Vinh quang: Quốc hội đã tiếp tục quá trình tập trung hóa chính trị mà đã được nhà Tudor khởi xướng. Đã không chỉ là các ràng buộc đã tăng lên, hay nhà nước đã điều tiết nền kinh tế theo một cách khác, hay nhà nước Anh đã chi tiêu tiền cho những thứ khác nhau; mà cũng là khả năng và năng lực của nhà nước đã tăng lên theo mọi hướng. Điều này lần nữa lại minh họa các mối liên hệ giữa sự tập trung hóa chính trị và chủ nghĩa đa nguyên: Quốc hội đã chống việc làm cho nhà nước hiệu quả hơn và được cấp nguồn lực tốt hơn trước 1688 bởi vì Quốc hội đã không thể kiểm soát nó. Sau 1688 đã là một câu chuyện khác.
  • 216. 196 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Nhà nước đã bắt đầu mở rộng, với các khoản chi mau chóng đạt mức 10 phần trăm của thu nhập quốc gia. Việc này được trụ đỡ bởi một sự mở rộng cơ sở thuế, đặc biệt liên quan đến thuế hàng hóa, mà được thu trên sản phẩm của một danh sách dài các mặt hàng được sản xuất trong nước. Đấy đã là ngân sách nhà nước rất lớn trong giai đoạn đó, và thực ra lớn hơn mức mà chúng ta thấy ngày nay ở nhiều phần của thế giới. Ngân sách nhà nước ở Colombia, chẳng hạn, đã đạt quy mô tương đối này chỉ trong các năm 1980. Trong nhiều phần của châu Phi hạ-Sahara – thí dụ ở Sierra Leone – ngân sách nhà nước ngay cả ngày nay cũng nhỏ hơn rất nhiều so với quy mô của nền kinh tế mà không có các dòng chảy vào lớn của viện trợ nước ngoài. Nhưng sự mở rộng quy mô của nhà nước chỉ là một phần của quá trình tập trung hóa chính trị. Quan trọng hơn điều này đã là chất lượng của cách mà nhà nước đã vận hành và cách ứng xử của những người kiểm soát nó và những người làm việc trong [bộ máy của] nó. Việc xây dựng các thể chế nhà nước ở nước Anh quay lại đến thời Trung Cổ, nhưng như chúng ta đã thấy (trang 186), các bước theo hướng tập trung hóa chính trị và phát triển bộ máy hành chính hiện đại đã được làm một cách dứt khoát bởi Henry VII và Henry VIII. Thế nhưng nhà nước vẫn còn xa hình thức hiện đại mà sẽ nổi lên sau 1688. Thí dụ, nhiều người được chỉ định đã được chọn trên cơ sở chính trị, chứ không phải bởi vì công trạng và tài năng, và nhà nước đã vẫn chỉ có năng lực rất hạn chế để thu thuế. Sau 1688 Quốc hội đã bắt đầu cải thiện khả năng để tăng thu nhập thông qua đánh thuế, một sự phát triển được minh họa tốt bởi bộ máy quản lý thuế hàng hóa, mà đã mở rộng nhanh chóng từ 1.211 người năm 1690 lên 4.800 người vào năm 1780. Các thanh tra thuế hàng hóa đã đóng ở khắp đất nước, được giám sát bởi những người thu, những người tiến hành các đợt thanh tra để đo lường và kiểm tra số lượng bánh mì, bia, và các mặt hàng khác phải chịu thuế hàng hóa. Mức độ của hoạt động này được minh họa bởi sử gia John Brewer người tái dựng lại các vòng thanh tra thuế hàng hóa của Thanh tra George Cowperthwaite. Giữa 12 tháng Sáu và 5 tháng Bảy năm 1710, Thanh tra Cowperthwaite đã đi 290 dặm trong quận Richmond ở Yorkshire. Trong thời gian này ông đã đến 263 nhà buôn lương thực thực phẩm, 71 nhà buôn lúa mạch (malt), 20 nhà bán nến, và một nhà ủ rượu bia thông thường.
  • 217. ĐIỂM NGOẶT ● 197 Trong tất cả, ông đã tiến hành 81 đo lường khác nhau về sản xuất và đã kiểm tra công việc của 9 nhân viên thuế vụ hàng hóa những người đã làm việc cho ông ta. Tám năm sau chúng ta thấy ông làm việc cũng siêng năng như thế, nhưng bây giờ ở quận Wakefield, trong một phần khác của Yorkshire. Ở Wakefield ông đã đi trung bình hơn mười chín dặm mỗi ngày và đã làm việc sáu ngày một tuần, thường thanh tra bốn hay năm cơ sở. Trong ngày nghỉ của mình, ngày chủ nhật, ông soạn sổ sách của mình, cho nên chúng ta có một hồ sơ đầy đủ về các hoạt động của ông ta. Quả thực, hệ thống thuế hàng hóa đã có sự giữ hồ sơ rất tinh vi. Các quan chức giữ ba loại sổ sách khác nhau, mà tất cả trong số chúng được cho là khớp với nhau, và bất cứ sự giả mạo nào với các sổ sách này đều là sự vi phạm nghiêm trọng. Mức đáng chú ý này của sự giám sát nhà nước đối với xã hội vượt xa mức mà các chính phủ của hầu hết các nước nghèo có thể đạt được hiện nay, và đấy là trong năm 1710. Cũng quan trọng, sau 1688 nhà nước bắt đầu dựa nhiều hơn vào tài năng và ít hơn vào người được bổ nhiệm chính trị, và đã phát triển một hạ tầng cơ sở hùng mạnh để vận hành đất nước. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP Cách mạng Công nghiệp đã được biểu thị trong mọi khía cạnh của nền kinh tế Anh. Đã có những cải thiện lớn trong giao thông, luyện kim, và sức hơi nước. Nhưng lĩnh vực quan trọng nhất của đổi mới đã là cơ giới hóa việc sản xuất vải sợi và sự phát triển các nhà máy để sản xuất các mặt hàng dệt được chế tác này. Quá trình năng động này đã được tháo ra bởi những thay đổi thể chế mà đã bắt nguồn từ Cách mạng Vinh quang. Đấy đã không chỉ là về việc xóa bỏ các độc quyền nội địa, mà đã đạt được vào năm 1640, hay về các loại thuế khác nhau, hay về sự tiếp cận đến tài chính. Mà đã là về một sự tổ chức lại cơ bản các thể chế kinh tế ủng hộ các nhà đổi mới sáng tạo và các doanh nhân khởi nghiệp, dựa trên sự nổi lên của các quyền tài sản ngày càng an toàn và hiệu quả. Những sự cải thiện về tính an toàn và hiệu quả của các quyền tài sản, chẳng hạn, đã đóng vai trò cốt yếu trong “cách mạng giao thông,” lót đường cho Cách mạng Công nghiệp. Đầu tư vào kênh và đường sá, vào cái được gọi
  • 218. 198 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI là đường lớn, đã tăng lên ồ ạt sau năm 1688. Những khoản đầu tư này, bằng cách giảm chi phí giao thông, đã giúp tạo ra các diều kiện tiên quyết cho Cách mạng Công nghiệp. Trước năm 1688, việc đầu tư vào hạ tầng cơ sở như vậy đã bị cản trở bởi các hành động tùy tiện của các nhà vua Stuart. Sự thay đổi tình hình sau 1688 được minh họa sinh động bởi vụ sông Salwerpe, ở Worcestershire, nước Anh. Năm 1662 Quốc hội đã thông qua một đạo luật để khuyến khích đầu tư nhằm làm cho tàu bè có thể đi lại trên sông Salwerpe, và gia đình Baldwyn đã đầu tư £6.000 cho mục đích này. Đổi lại họ nhận được quyền thu phí tàu bè đi lại trên sông. Năm 1693 một dự luật được đưa ra cho Quốc hội để chuyển quyền thu phí tàu bè cho Bá tước xứ Shrewsbury và Lord Coventry. Đạo luật này bị thách thức bởi Sir Timothy Baldwyn, người đã ngay lập tức đệ một đơn khiếu nại lên Quốc hội cho rằng dự luật được kiến nghị đã cơ bản tước đoạt cha ông, người đã đầu tư nhiều vào dòng sông với dự tính các khoản phí mà sau đó ông có thể thu. Baldwyn đã biện luận rằng “đạo luật mới có xu hướng hủy bỏ đạo luật được nhắc đến đó, và lấy đi tất cả các công trình và vật liệu đã được làm để thực hiện việc ấy.” Sự phân bổ lại các quyền như việc này đã chính xác là loại việc được các quốc vương Stuart thực hiện. Baldwyn đã lưu ý, “là hệ quả nguy hiểm để lấy đi quyền của bất cứ cá nhân nào, giành được dưới một đạo luật của Quốc hội, mà không có sự đồng ý của họ.” Trong trường hợp này, đạo luật mới đã thất bại, và các quyền của nhà Baldwyn đã được giữ vững. Các quyền tài sản đã an toàn hơn nhiều sau 1688, một phần bởi vì làm cho chúng an toàn đã phù hợp với lợi ích của Quốc hội và một phần bởi vì các thể chế đa nguyên đã có thể bị ảnh hưởng bởi việc viết đơn kiến nghị. Chúng ta thấy ở đây rằng sau 1688 hệ thống chính trị đã trở nên đa nguyên hơn đáng kể và đã tạo ra sân chơi tương đối bằng phẳng bên trong nước Anh. Đặt cơ sở cho cách mạng giao thông và, nói chung, cho việc sắp xếp lại đất đai mà xảy ra trong thế kỷ thứ mười tám đã là các đạo luật của Quốc hội mà làm thay đổi bản chất của quyền sở hữu tài sản. Cho đến 1688 đã có thậm chí một điều tưởng tượng pháp lý rằng tất cả đất đai ở nước Anh cuối cùng đều được sở hữu bởi Quốc vương, một di sản trực tiếp của tổ chức phong kiến của xã hội. Nhiều miếng đất đã bị đè nặng bởi nhiều hình thức cổ xưa của các quyền tài sản và nhiều đòi hỏi chồng chéo nhau. Nhiều đất đai đã được giữ trong cái gọi là các bất động sản ruộng đất công bằng (equitable
  • 219. ĐIỂM NGOẶT ● 199 estate), mà có nghĩa rằng các chủ đất không thể thế chấp, cho thuê, hay bán đất. Đất chung đã có thể thường chỉ được sử dụng cho những cách sử dụng truyền thống. Đã có những trở ngại to lớn để sử dụng đất theo những cách mà là đáng mong muốn về mặt kinh tế. Quốc hội đã bắt đầu để thay đổi tình trạng này, cho phép các nhóm nhân dân kiến nghị với Quốc hội để đơn giản hóa và tổ chức lại các quyền tài sản, những sự sửa đổi mà sau đó được biểu hiện trong hàng trăm các đạo luật của Quốc hội. Sự tổ chức lại các thể chế kinh tế cũng được thể hiện trong sự nổi lên của một chương trình nghị sự để bảo vệ sự sản xuất hàng dệt trong nước chống lại hàng nhập khẩu nước ngoài. Không ngạc nhiên, các nghị sĩ và các cử tri của họ đã không phản đối tất cả các rào cản gia nhập và các độc quyền. Những rào cản và độc quyền mà có thể gia tăng thị trường và lợi nhuận riêng của họ được hoan nghênh. Tuy vậy, một cách quyết định, các thể chế chính trị đa nguyên – sự thực rằng Quốc hội đã đại diện cho, đã trao quyền cho, và đã lắng nghe một mảng rộng của xã hội – đã có nghĩa rằng các rào cản gia nhập này sẽ không bóp nghẹt các nhà công nghiệp khác hay sẽ gạt bỏ hoàn toàn những người mới đến, như Serrata đã làm ở Venice (trang 155-156). Các nhà chế tác len hùng mạnh mau chóng phát hiện ra điều này. Trong năm 1688 một số của các hàng nhập khẩu quan trọng nhất vào Anh đã là hàng dệt từ Ấn Độ, vải in hoa và vải muslin, mà cấu thành khoảng một phần tư của toàn bộ hàng dệt nhập khẩu. Cũng đã quan trọng là lụa nhập từ Trung Quốc. Vải in hoa và lụa được nhập bởi Công ty Đông Ấn, mà trước 1688 đã được hưởng một sự độc quyền do chính phủ ban cho về thương mại với châu Á. Nhưng độc quyền và quyền lực chính trị của Công ty Đông Ấn đã được duy trì nhờ các khoản đút lót lớn cho James II. Sau 1688 công ty ở vào một vị thế dễ bị tổn thương và mau chóng bị tấn công. Việc này được tiến hành dưới hình thức của một cuộc chiến tranh ác liệt của các kiến nghị với các nhà buôn hy vọng để buôn bán ở Viễn Đông và Ấn Độ đòi hỏi rằng Quốc hội thừa nhận sự cạnh tranh đối với Công ty Đông Ấn, trong khi công ty đáp trả với các phản kiến nghị và đưa ra đề nghị cho Quốc hội vay tiền. Công ty đã thua và một Công ty Đông Ấn mới để cạnh tranh với nó đã được thành lập. Nhưng các nhà sản xuất hàng dệt đã không chỉ muốn nhiều cạnh tranh hơn trong buôn bán với Ấn Độ. Họ đã muốn việc nhập khẩu các hàng
  • 220. 200 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI dệt rẻ tiền (vải in hoa) bị đánh thuế hay thậm chí bị cấm. Các nhà sản xuất này đã phải đối mặt với cạnh tranh mạnh từ các hàng Ấn Độ nhập khẩu rẻ này. Tại thời điểm này các nhà sản xuất nội địa quan trọng nhất đã sản xuất các hàng dệt len, nhưng các nhà sản xuất vải bông đang trở nên ngày càng quan trọng cả về mặt kinh tế lẫn chính trị. Ngành len đã tăng các nỗ lực để bảo vệ mình ngay từ các năm 1660. Nó đã thúc đẩy “Luật Điều chỉnh Chi tiêu,” mà, giữa những thứ khác, đã cấm việc mặc hay dùng vải có màu sáng hơn. Nó cũng đã lobby Quốc hội để thông qua pháp luật trong năm 1666 và 1678 mà khiến cho là bất hợp pháp để ai đó được chôn cất với bất cứ vải liệm nào khác vải liệm bằng len. Cả hai biện pháp đã bảo vệ thị trường cho các mặt hàng len và đã làm giảm sự cạnh tranh mà các nhà sản xuất Anh đối mặt từ châu Á. Tuy nhiên, trong thời kỳ này Công ty Đông Ấn đã quá mạnh để hạn chế nhập khẩu hàng dệt Á châu. Chiều hướng đã thay đổi sau 1688. Giữa 1696 và 1698, các nhà chế tác len từ miền Đông nước Anh và miền Tây đã liên minh với các nhà dệt lụa từ London, Canterbury và Công ty Levant để hạn chế nhập khẩu. Các nhà nhập khẩu lụa từ Levant, cho dù họ mới mất độc quyền của họ, đã muốn loại trừ lụa Á châu để tạo ra một niche (thị trường ngách độc đáo) cho lụa từ Đế chế Ottoman. Liên minh này đã bắt đầu trình bày các dự luật lên Quốc hội để hạn chế việc mặc vải bông và lụa Á châu và cả về nhuộm và in hoa vải Á châu ở nước Anh. Đáp lại, trong năm 1701, Quốc hội cuối cùng đã thông qua “một Đạo luật cho việc nhận người nghèo vào làm hiệu quả hơn, bằng khuyến khích các ngành công nghiệp của vương quốc này.” Từ tháng Chín 1701, nó đã ra sắc lệnh: “Tất cả lụa đã được chế biến, đồ bengal và chất liệu, pha với lụa làm từ cỏ, được sản xuất ở Ba Tư, Trung Quốc, hay Đông Ấn, tất cả vải in hoa được in, nhuộm, hay được nhuộm màu ở đó, mà được hay sẽ được nhập vào vương quốc này, sẽ không được mặc.” Bây giờ đã là bất hợp pháp để mặc đồ lụa và vải in hoa Á châu ở nước Anh. Nhưng đã vẫn có thể nhập khẩu chúng để tái xuất khẩu sang châu Âu hay sang nơi khác, đặc biệt sang các thuộc địa châu Mỹ. Hơn nữa, vải in hoa trơn, chưa được in hoa có thể được nhập về và in hoa tại Anh, và vải muslin đã được miễn không bị cấm. Sau một cuộc đấu tranh dài, các lỗ hổng này, như các nhà sản xuất vải len nội địa coi chúng, đã được bịt bằng Đạo luật Vải
  • 221. ĐIỂM NGOẶT ● 201 in hoa năm 1721: “Sau 25-12-1722, sẽ là không hợp pháp đối với bất cứ cá nhân hay các cá nhân nào để sử dụng, mặc ở Vương quốc Anh, trong bất cứ quần áo hay bất cứ đồ dùng nào, bất cứ vải hoa nào được in, vẽ, nhuộm màu hay nhuộm.” Mặc dù đạo luật này đã loại bỏ sự cạnh tranh từ châu Á đối với đồ len Anh, nó vẫn để một ngành công nghiệp dệt bông và lanh nội địa tích cực cạnh tranh với ngành len: sợi bông và lanh pha với nhau để tạo ra loại vải được nhân dân ưa chuộng gọi là vải fustian (bông thô). Sau khi đã loại bỏ sự cạnh tranh Á châu, ngành len bây giờ quay sang để ngăn chặn đồ lanh. Lanh được làm ra chủ yếu ở Scotland và Ireland, mà tạo một cơ hội nào đó cho một liên minh Anh để đòi loại các nước này ra khỏi các thị trường Anh. Tuy vậy, đã có các giới hạn cho quyền lực của các nhà sản xuất len. Các nỗ lực mới của họ vấp phải sự chống đối mạnh mẽ từ các nhà sản xuất vải fustian tại các trung tâm công nghiệp đang nảy nở ở Manchester, Lancaster, và Liverpool. Các thể chế chính trị đa nguyên đã ngụ ý rằng tất cả các nhóm khác nhau này bây giờ đã có sự tiếp cận đến quá trình chính sách ở Quốc hội thông qua bỏ phiếu và, quan trọng hơn, gửi đơn kiến nghị. Mặc dù các kiến nghị được cả hai bên soạn thảo và bay tới tấp, cóp nhặt chữ ký để ủng hộ hay chống đối, kết quả của cuộc xung đột này đã ủng hộ nhóm lợi ích mới và chống lại những người trong ngành len. Đạo luật Manchaster năm 1736 đã đồng ý rằng “một lượng lớn vật liệu được làm bằng sợi lanh và sợi bông giả len đã được chế tạo trong các năm qua, và đã được in và vẽ hoa ở bên trong Vương quốc Anh này.” Rồi nó tiếp tục để khẳng định rằng “không có gì trong Đạo luật [năm 1721] được nhắc đến này sẽ được gia hạn hay được hiểu là để cấm việc mặc hay sử dụng trong y phục, vật liệu nội trợ, đồ nội thất hay đồ khác, bất cứ loại vật liệu nào được làm bằng sợi lanh và sợi bông giả len, được sản xuất và in hay vẽ với bất cứ màu hay các màu nào bên trong Vương quốc Anh.” Đạo luật Manchaster đã là một thắng lợi quan trọng cho các nhà chế tạo bông mới ra đời. Nhưng tầm quan trọng lịch sử và kinh tế của nó thực ra là lớn hơn nhiều. Thứ nhất, nó đã giải thích các giới hạn của các rào cản gia nhập mà các thể chế chính trị đa nguyên của nước Anh có thể cho phép. Thứ hai, trong nửa thế kỷ tiếp theo, những đổi mới công nghệ trong công nghiệp vải bông sẽ đóng một vai trò trung tâm trong Cách mạng Công nghiệp và biến đổi xã hội một cách cơ bản bằng đưa vào hệ thống nhà máy.
  • 222. 202 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Sau 1688, mặc dù về mặt nội địa đã nổi lên một sân chơi bằng phẳng, về mặt quốc tế Quốc hội đã cố gắng làm nghiêng nó. Điều này đã là hiển nhiên không chỉ từ Đạo luật Vải in hoa mà cả từ các Đạo luật Hàng hải, mà đạo luật đầu tiên trong số đó được thông qua năm 1651, và chúng vẫn còn hiệu lực với những sửa đổi trong hai trăm năm tiếp theo. Mục đích của các đạo luật này đã là để tạo thuận lợi cho việc nước Anh độc quyền hóa thương mại quốc tế – mặc dù một cách quyết định đấy đã là sự độc quyền hóa không phải bởi nhà nước mà bởi khu vực tư nhân. Nguyên lý cơ bản đã là, [hàng hóa] thương mại Anh phải được chở trên các tàu bè Anh. Các đạo luật này làm cho việc các tàu nước ngoài chở hàng hóa từ bên ngoài châu Âu đến Anh và các thuộc địa của Anh là bất hợp pháp, cũng bất hợp pháp tương tự đối với các tàu của nước thứ ba để chở hàng hóa từ một nước châu Âu khác đến Anh. Lợi thế này đối với các thương gia và các nhà chế tạo Anh đã làm tăng một cách tự nhiên các khoản lợi nhuận của họ và có thể đã khuyến khích hơn nữa sự đổi mới trong các hoạt động mới hết sức sinh lời này. Vào năm 1760 sự kết hợp của tất cả các nhân tố này – các quyền tài sản được cải thiện và mới, hạ tầng cơ sở được cải thiện, một chế độ tài khóa được thay đổi, sự tiếp cận lớn hơn đến tài chính, và một sự bảo hộ hung hăng các nhà buôn và các nhà chế tác – đã bắt đầu có một tác động. Sau thời điểm này, đã có một sự nhảy vọt về số các đổi mới được cấp bằng sáng chế, và sự nở rộ hoa của sự thay đổi công nghệ mà đã là tâm điểm của Cách mạng Công nghiệp đã bắt đầu trở nên rõ rệt. Những đổi mới xảy ra trên nhiều lĩnh vực, phản ánh môi trường thể chế đã được cải thiện. Một lĩnh vực cốt yếu đã là lực năng lượng, nổi tiếng nhất đã là những biến đổi trong sử dụng động cơ hơi nước mà là kết quả của các ý tưởng của James Watt trong các năm 1760. Đột phá ban đầu của Watt đã là đưa vào một bình ngưng tụ tách biệt cho hơi nước sao cho cylinder mà chứa piston có thể được giữ nóng liên tục, thay cho việc phải được làm nóng lên và làm nguội đi. Sau đó ông đã phát triển nhiều ý tưởng khác, kể cả các phương pháp hiệu quả hơn nhiều để biến đổi chuyển động của động cơ hơi nước thành lực hữu ích, đặc biệt là hệ thống bánh răng truyền động “mặt trời và các hành tinh” của ông. Trong tất cả các lĩnh vực này những đổi mới công nghệ được xây dựng trên các công trình trước của những người khác. Trong ngữ cảnh của máy hơi nước, việc này bao
  • 223. ĐIỂM NGOẶT ● 203 gồm công trình trước của nhà sáng chế Anh Thomas Newcomen và cả của Dionysius Papin, một nhà vật lý học và nhà sáng chế Pháp. Câu chuyện về sáng chế của Papin là một thí dụ nữa về mối đe dọa của sự phá hủy sáng tạo đã cản trở sự thay đổi công nghệ như thế nào dưới các thể chế khai thác. Papin đã phát triển một thiết kế cho một “máy tiêu hóa hơi nước” trong năm 1679, và trong năm 1690 ông đã mở rộng máy này thành một động cơ có piston. Trong năm 1705, ông đã dùng động cơ thô sơ này để xây dựng tàu hơi nước đầu tiên trên thế giới. Papin khi đó là giáo sư toán học tại Đại học Marburg, ở bang Kessel của Đức. Ông đã quyết định châm hơi nước cho chiếc tàu dọc theo sông Fulda đến sông Weser. Bất cứ tàu thuyền nào đi tuyến này đều phải dừng ở thành phố Münden. Vào thời đó, giao thông đường thủy trên các sông Fulda và Weser đã là độc quyền của một phường hội chủ thuyền. Papin hẳn đã phải cảm thấy rằng có thể có rắc rối. Bạn và người hướng dẫn của ông, nhà vật lý học Đức nổi tiếng Gottfried Leibnitz, đã viết cho Tuyển hầu Kassel, thủ hiến bang, một kiến nghị rằng phải để cho Papin được “… đi mà không bị quấy nhiễu …” qua Kassel. Thế nhưng kiến nghị của Leibnitz đã bị khước từ và ông đã nhận được một câu trả lời cộc lốc rằng “Các ủy viên hội đồng Cử tri đã thấy những trở ngại nghiêm trọng trong cách công nhận kiến nghị trên, và, không đưa ra các lý do của họ, họ đã chỉ thị cho tôi để thông báo với ngài về quyết định của họ, và kết quả là Ngài Tuyển hầu đã không thừa nhận lời yêu cầu.” Không nao núng, Papin quyết định dù sao đi nữa vẫn tiến hành chuyến đi. Khi tàu hơi nước của ông đến Münden, phường hội chủ thuyền đầu tiên đã thử kiếm một thẩm phán địa phương để tịch thu chiếc tàu, nhưng đã không thành công. Sau đó các chủ thuyền đã tấn công tàu của Papin và đã đập tan chiếc thuyền và động cơ hơi nước thành từng mảnh. Papin đã chết trong cảnh nghèo túng và được chôn trong một nấm mồ không được đánh dấu. Trong nước Anh thời Tudor hay Stuart, Papin đã có thể nhận được sự đối xử tương tự, nhưng tất cả đã thay đổi sau 1688. Quả thực, Papin đã có ý định lái tàu của mình đến London trước khi nó bị phá hủy. Trong luyện kim, những đóng góp then chốt đã được đưa ra trong các năm 1780 bởi Henry Cort, người đã đưa ra các kỹ thuật mới để xử lý các tạp chất trong sắt, cho phép sản xuất sắt được gia công có chất lượng tốt hơn nhiều.
  • 224. 204 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Việc này có tính quyết định cho việc chế tạo các bộ phận máy, đinh, và các công cụ. Việc sản xuất lượng khổng lồ sắt được gia công sử dụng kỹ thuật của Cort đã được tạo thuận lợi bởi những đổi mới của Abraham Darby và các con ông, những người đã đi tiên phong trong sử dụng than để nung chảy sắt bắt đầu vào năm 1709. Phương pháp này được nâng cao trong năm 1762 bởi John Smeaton bằng cách thích nghi sức nước để vận hành các cylinder thổi trong sản xuất than coke. Sau đấy, than củi đã biến khỏi việc sản xuất sắt, được thay thế bằng than đá, mà đã rẻ hơn nhiều và sẵn có hơn nhiều. Cho dù sự đổi mới hiển nhiên mang tính tích lũy, đã có sự tăng tốc rõ rệt trong giữa thế kỷ thứ mười tám. Không có nơi nào có thể thấy rõ hơn trong sản xuất hàng dệt. Hoạt động cơ bản nhất trong sản xuất hàng dệt là là xe sợi, mà bao gồm việc lấy xơ thực vật hay động vật như bông và len, và xe chúng lại với nhau để tạo thành sợi. Sợi này được dệt thành vải, thành hàng dệt. Một trong những đổi mới vĩ đại của thời trung cổ đã là guồng xe sợi, mà đã thay thế việc xe bằng tay. Sáng chế này đã xuất hiện ở châu Âu năm 1280, có lẽ được truyền bá từ Trung Đông. Các phương pháp xe đã không thay đổi cho đến thế kỷ thứ mười tám. Các đổi mới đáng kể bắt đầu trong năm 1738, khi Lewis Paul đã lấy bằng sáng chế về phương pháp mới để xe sợi sử dụng các con lăn thay thế bàn tay người để kéo xơ được xe. Tuy vậy, máy đã không hoạt động tốt, và chính những đổi mới của Richard Arkwright và James Hargreaves đã thực sự cách mạng hóa việc xe sợi. Trong năm 1769 Arkwright, một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn của Cách mạng Công nghiệp, ông đã lấy được bằng sáng chế về “khung nước,” mà đã là một sự cải thiện khổng lồ so với máy của Lewis. Ông đã lập một hãng với Jedediah Strutt và Samuel Need, những người đã là các nhà chế tạo hàng dệt kim. Trong năm 1771 họ đã xây dựng một trong những nhà máy đầu tiên của thế giới ở Cromford. Các máy đã được cấp năng lượng bởi nước, nhưng Arkwright muộn hơn đã tiến hành bước chuyển quyết định sang năng lượng hơi nước. Vào năm 1774 hãng của ông đã sử dụng sáu trăm công nhân, và ông đã mở rộng một cách hùng hổ, cuối cùng đã dựng các nhà máy ở Manschaster, Matlock, Bath, và New Lanark tại Scotland. Những đổi mới của Arkwright đã được bổ sung bởi sáng chế của Hargreaves trong năm 1764 về máy kéo sợi cơ khí, mà đã được phát triển thêm bởi Samuel Crompton
  • 225. ĐIỂM NGOẶT ● 205 thành “mule-máy kéo sợi,” và muộn hơn bởi Richard Roberts thành “máy kéo sợi tự hoạt động.” Những tác động của các đổi mới này đã thật sự cách mạng: vào đầu thế kỷ, đã cần 50.000 giờ đối với những người xe sợi bằng tay để xe một trăm pound bông. Khung nước của Arkwright đã có thể làm việc đó trong 300 giờ, và máy kéo sợi tự hoạt động trong 135 giờ. Cùng với cơ giới hóa kéo sợi đến cơ giới hóa dệt. Một bước quan trọng đầu tiên đã là sáng chế ra chiếc thoi bay bởi Jonh Kay trong năm 1733. Mặc dù ban đầu nó đã chỉ làm tăng năng suất của các thợ dệt bằng tay, tác động lâu dài nhất của nó đã là trong việc mở cách để cơ giới hóa sự dệt. Dựa trên con thoi bay, Edmund Cartwright đã đưa ra khung cửi máy (power loom) trong năm 1785, một bước đầu tiên trong một loạt những đổi mới mà dẫn đến các máy thay thế những kỹ năng bằng tay trong việc dệt như chúng đã làm trong kéo sợi. Công nghiệp dệt Anh không chỉ đã là động lực đằng sau Cách mạng Công nghiệp mà cũng đã cách mạng hóa nền kinh tế thế giới. Hàng xuất khẩu Anh, dẫn đầu bởi hàng dệt bông, đã tăng gấp đôi giữa 1780 và 1800. Chính sự tăng trưởng trong khu vực này đã kéo toàn bộ nền kinh tế lên phía trước. Sự kết hợp của đổi mới công nghệ và đổi mới tổ chức đã cung cấp mô hình cho sự tiến bộ kinh tế mà đã biến đổi các nền kinh tế của thế giới trở thành các nền kinh tế giàu. Những người mới với các ý tưởng mới đã là thiết yếu cho sự biến đổi này. Hãy xem xét đổi mới về giao thông. Ở nước Anh đã có nhiều làn sóng của những đổi mới như vậy: đầu tiên là các kênh, rồi đường sá, và cuối cùng là đường sắt. Tại mỗi trong các làn sóng này các nhà đổi mới đã là những người mới. Các kênh đã bắt đầu được phát triển ở Anh sau 1770, và vào năm 1810 chúng đã kết nối nhiều trong các vùng chế tạo quan trọng nhất. Khi Cách mạng Công nghiệp mở ra, các kênh đã đóng một vai trò quan trọng trong làm giảm các chi phí vận tải để luân chuyển các hàng hóa công nghiệp cồng kềnh đã hoàn thành, như các mặt hàng dệt bông, và các đầu vào để tạo ra chúng, đặc biệt là bông thô và than cho các máy hơi nước. Các nhà đổi mới ban đầu trong xây dựng các kênh đã là những người như James Brindley, người đã được Công tước xứ Bridgewater tuyển dụng để xây dựng Kênh Bridgewater, mà đã kết thúc với việc kết nối thành phố công nghiệp then chốt Manchester
  • 226. 206 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI với cảng Liverpool. Sinh ra ở vùng nông thôn Derbyshire, Brindley vốn theo nghề thợ máy xay. Danh tiếng của ông về việc tìm ra các giải pháp sáng tạo cho các vấn đề kỹ thuật đã đến tai công tước. Ông đã không có kinh nghiệm trước nào với các vấn đề giao thông, mà cũng đã đúng với các kỹ sư kênh vĩ đại khác như Thomas Telford, người đã vào đời với tư cách một thợ xây đá, hay Jonh Smeaton, một nhà chế tạo công cụ và kỹ sư. Hệt như các kỹ sư kênh vĩ đại đã không có quan hệ trước nào với giao thông, các kỹ sư đường bộ và đường sắt vĩ đại cũng không. John McAdam, người đã sáng chế ra tarmac [phương pháp trải mặt đường bằng đá dăm trộn chất kết dính như nhựa đường sau này] vào khoảng 1816, đã là con trai thứ hai của một quý tộc nhỏ. Xe lửa hơi nước đầu tiên được xây dựng bởi Richard Trevithick trong năm 1804. Bố Trevithick đã dính líu đến việc khai mỏ ở Cornwall, và Richard đã tham gia cùng công việc kinh doanh khi tuổi còn non, trở nên bị mê hoặc bởi máy hơi nước được dùng để bơm [nước] khỏi mỏ. Đáng kể hơn đã là những đổi mới của George Stephenson, con trai của cha mẹ mù chữ và nhà sáng chế của xe lửa “Tên lửa” nổi tiếng, người đã bắt đầu làm việc như một thợ máy ở một mỏ than. Những người mới cũng đã thúc đẩy ngành dệt bông cốt yếu. Một số trong những người tiên phong của ngành mới này đã là những người trước đó đã dính líu sâu trong sản xuất và buôn bán vải len. John Foster, chẳng hạn, đã sử dụng bảy trăm thợ dệt khung cửi tay trong ngành len vào lúc ông chuyển sang dệt bông và mở Nhà máy Black Dyke trong năm 1835. Nhưng những người như Foster đã là thiểu số. Chỉ khoảng một phần năm của các nhà công nghiệp hàng đầu vào thời ấy đã có dính líu trước đó đến bất cứ thứ gì giống các hoạt động chế tạo. Điều này không gây ngạc nhiên. Một là, công nghiệp bông đã phát triển ở các thị trấn mới ở miền bắc nước Anh. Các nhà máy đã là một cách mới hoàn toàn để tổ chức sản xuất. Ngành len đã được tổ chức theo một cách rất khác, bằng cách “đưa” vật liệu cho các cá nhân ở nhà của họ, những người tự mình xe và dệt. Hầu hết những người trong ngành len vì thế đã được trang bị tồi để chuyển sang bông, như Foster đã chuyển. Đã cần đến những người mới để phát triển và sử dụng các công nghệ mới. Sự mở rộng nhanh chóng của ngành dệt bông đã sát hại công nghiệp len – sự phá hủy sáng tạo đang hoạt động.
  • 227. ĐIỂM NGOẶT ● 207 Sự phá hủy sáng tạo tái phân bổ không đơn giản chỉ thu nhập và của cải, mà cả quyền lực chính trị, như William Lee đã học được khi ông thấy các nhà chức trách đã hết sức không dễ tiếp thu sáng chế của ông bởi vì họ đã sợ các hệ quả chính trị của nó. Khi nền kinh tế công nghiệp đã mở rộng ở Manchester và Birmingham, các chủ nhà máy mới và các nhóm trung lưu nổi lên xung quanh họ đã bắt đầu phản đối sự tước quyền bầu cử của họ và các chính sách của chính phủ chống lại các quyền lợi của họ. Ứng viên hàng đầu của họ đã là các Luật Ngũ cốc, mà đã cấm nhập khẩu “ngũ cốc” – tất cả thóc lúa và ngũ cốc, nhưng chủ yếu là lúa mì – nếu giá xuống quá thấp, như thế đảm bảo rằng lợi nhuận của các địa chủ lớn được giữ ở mức cao. Chính sách này đã rất tốt cho các địa chủ lớn những người sản xuất lúa mì, nhưng xấu cho các nhà chế tạo, bởi vì họ phải trả lương cao hơn để bù cho giá bánh mì cao. Với công nhân được tập trung vào các nhà máy mới và các trung tâm công nghiệp, đã trở nên dể để tổ chức và gây náo loạn. Vào các năm 1820, việc không cho các nhà chế tạo và các trung tâm chế tác mới hưởng quyền chính trị đã trở nên không biện hộ được. Vào ngày 16-8-1819, một cuộc meeting để phản đối hệ thống chính trị và các chính sách của chính phủ đã được lên kế hoạch tổ chức ở Quảng trường St. Peter, Manchester. Người tổ chức đã là Joseph Johnson, một nhà sản xuất bàn chải địa phương và một trong những người sáng lập tờ báo cấp tiến Manchester Observer. Các nhà tổ chức khác đã bao gồm John Knight, nhà chế tạo bông và nhà cải cách, và John Thacker Saxton, chủ bút của Manchester Obverver. Sáu mươi ngàn người phản đối đã tụ tập, nhiều người đã mang các khẩu hiệu “Nói Không với Luật Ngũ cốc,” “Quyền đi bầu Phổ quát,” và “Bỏ bằng Phiếu” (có nghĩa bỏ phiếu kín, giữ bí mật, chứ không phải công khai như đã xảy ra năm 1819). Các nhà chức trách đã rất lo lắng về cuộc meeting, và một lực lượng sáu trăm kỵ binh của Đoàn Kỵ binh nhẹ Thứ mười lăm đã được tập họp. Khi các bài phát biểu bắt đầu, một thẩm phán địa phương đã quyết định ban hành một lệnh bắt những người phát biểu. Khi cảnh sát thử thi hành lệnh bắt, họ đã vấp phải sự chống đối của đám đông, và cuộc đánh nhau nổ ra. Tại điểm này các kỵ binh tấn công đám đông, Trong vài phút hỗn loạn, mười một người đã chết và có lẽ sáu trăm người đã bị thương. Tờ Manchester Observer đã gọi nó là Vụ Tàn sát Peterloo.
  • 228. 208 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Nhưng căn cứ vào những thay đổi về các thể chế kinh tế và chính trị, sự đàn áp dài hạn đã không là một giải pháp ở nước Anh. Vụ Tàn sát Peterloo vẫn là một sự cố cô lập. Tiếp sau cuộc náo loạn, các thể chế chính trị ở nước Anh đã nhường chỗ cho áp lực, và sự đe dọa gây bất ổn của tình trạng rối ren xã hội rộng hơn rất nhiều, đặc biệt sau cách mạng 1830 ở Pháp chống lại Charles X, người đã thử khôi phục chính thể chuyên chế đã bị Cách mạng Pháp 1789 phá hủy. Trong năm 1832 chính phủ đã thông qua Đạo luật Cải cách Thứ nhất. Nó đã cho Birmingham, Leeds, Manchester, và Sheffield quyền bầu cử, và đã mở rộng cơ sở bầu cử sao cho các nhà chế tạo có đại diện trong Quốc hội. Sự chuyển đổi do hậu quả về quyền lực chính trị đã chuyển dịch chính sách theo hướng ủng hộ các nhóm lợi ích mới được đại diện này; trong năm 1848 họ đã tìm được cách bãi bỏ các Luật Ngũ Cốc bị căm ghét, minh họa lại lần nữa rằng sự phá hủy sáng tạo đã có nghĩa là một sự tái phân bổ không chỉ thu nhập, mà cả quyền lực chính trị nữa. Và một cách tự nhiên, những thay đổi về phân bổ quyền lực chính trị theo thời gian sẽ dẫn đến một sự phân bổ lại thêm nữa về thu nhập. Chính là bản chất bao gồm của các thể chế Anh là những cái đã cho phép quá trình này xảy ra. Những người chịu thiệt hại và sợ sự phá hủy sáng tạo đã không còn có khả năng để chặn nó lại. VÌ SAO Ở NƯỚC ANH? Cách mạng Công nghiệp đã bắt đầu và đã tiến những bước dài ở nước Anh bởi vì các thể chế kinh tế bao gồm độc nhất của nó. Các thể chế này lần lượt lại được xây dựng trên nền móng được đặt bởi các thể chế chính trị bao gồm do Cách mạng Vinh quang gây ra. Cách mạng Vinh quang đã củng cố và hợp lý hóa các quyền tài sản, đã cải thiện các thị trường tài chính, đã làm xói mòn các độc quyền do nhà nước ban cho trong thương mại quốc tế, và đã dỡ bỏ các rào cản đối với sự mở rộng công nghiệp. Cách mạng Vinh quang đã làm cho hệ thống chính trị mở và sẵn sàng đáp lại với các nhu cầu kinh tế và những mong mỏi của xã hội. Các thể chế kinh tế bao gồm này đã cho những người tài giỏi và có tầm nhìn, như James Watt, cơ hội và những khuyến khích để phát triển tài nghệ và các ý tưởng của họ và ảnh hưởng đến hệ thống theo
  • 229. ĐIỂM NGOẶT ● 209 những cách có lợi cho họ và cho quốc gia. Một cách tự nhiên, những người này, một khi họ đã trở nên thành công, đã có cùng những thôi thúc như bất cứ cá nhân nào khác. Họ đã muốn ngăn chặn những người khác khỏi tham gia vào công việc kinh doanh của họ và cạnh tranh chống lại họ và đã sợ sự phá hủy sáng tạo mà có thể loại họ ra khỏi việc hinh doanh, như trước kia họ đã làm những người khác phá sản. Nhưng sau 1688 việc này đã trở nên khó hơn để đạt được. Trong năm 1775 Richard Arkwright đã được cấp một bằng sáng chế bao quát mà ông hy vọng trong tương lai sẽ cho ông một sự độc quyền trong ngành kéo sợi bông đang mở rộng nhanh chóng. Ông đã không thể khiến các tòa án thực thi nó. Vì sao quá trình độc nhất này đã bắt đầu ở nước Anh và vì sao trong thế kỷ thứ mười bảy? Vì sao nước Anh đã phát triển các thể chế chính trị đa nguyên và đã thoát khỏi các thể chế khai thác? Như chúng ta đã thấy, những diễn biến chính trị dẫn đến Cách mạng Vinh quang được định hình bởi nhiều quá trình được kết nối với nhau. Trung tâm đã là sự xung đột chính trị giữa chính thể chuyên chế và các địch thủ của nó. Kết quả của sự xung đột này đã không chỉ chấm dứt các nỗ lực để tạo ra một chính thể chuyên chế được làm mới và mạnh hơn ở nước Anh, mà cũng đã trao quyền cho những người mong muốn thay đổi một cách cơ bản các thể chế của xã hội. Các đối thủ của chính thể chuyên chế đã không đơn thuần muốn xây dựng một loại khác của chính thể chuyên chế. Đấy đã không đơn thuần là Nhà Lancaster đánh bại Nhà York trong Chiến tranh Hoa Hồng. Thay vào đó, Cách mạng Vinh quang đã kéo theo sự nổi lên của một chế độ mới dựa trên hiến trị [constitutional rule–sự cai trị bằng hệ thống pháp luật] và chủ nghĩa đa nguyên. Kết quả này đã là một hệ quả của sự trôi dạt trong các thể chế Anh và cách chúng tương tác với các bước ngoặt. Chúng ta đã thấy ở chương trước các thể chế phong kiến đã được tạo ra như thế nào ở Tây Âu sau sự sụp đổ của Đế chế Tây La Mã. Chủ nghĩa phong kiến đã lan khắp phần lớn châu Âu, ở miền Tây và miền Đông. Nhưng như chương 4 đã cho thấy, Tây và Đông Âu đã bắt đầu phân kỳ một cách căn bản sau Cái Chết Đen. Những khác biệt nhỏ trong các thể chế chính trị và kinh tế đã có nghĩa rằng ở Tây Âu sự cân bằng quyền lực đã dẫn đến sự cải thiện; trong khi ở Đông Âu đã dẫn đến sự sa đọa thể chế. Nhưng đấy đã không phải là một con đường mà sẽ nhất thiết và một
  • 230. 210 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI cách không thể lay chuyển được dẫn đến các thể chế bao gồm. Nhiều sự đổi hướng cốt yếu hơn còn phải được tiến hành trên đường đi. Mặc dù Magna Carta đã thử thiết lập một số nền tảng thể chế cơ bản cho hiến trị, nhiều phần khác của châu Âu, thậm chí Đông Âu, đã thấy những cuộc đấu tranh tương tự với các văn kiện tương tự. Thế nhưng, sau Cái Chết Đen, Tây Âu đã trôi xa đáng kể khỏi Đông Âu. Các văn kiện như Magna Carta đã bắt đầu có sự ăn sâu hơn ở Tây Âu. Ở Đông Âu, chúng trở nên ít có ý nghĩa. Ở nước Anh, ngay cả trước các cuộc xung đột của thế kỷ thứ mười bảy, chuẩn mực được thiết lập đã là, nhà vua đã không thể thu thuế mới mà không có sự đồng ý của Quốc hội. Cũng không kém quan trọng đã là sự trôi dạt chậm, từ từ của quyền lực khỏi giới elite sang các công dân nói chung hơn, như được minh họa bằng thí dụ bởi sự huy động chính trị của các cộng đồng nông thôn, được thấy ở nước Anh với các thời khắc như Khởi nghĩa Nông dân năm 1381. Sự trôi dạt này của các thể chế bây giờ đã tương tác với một bước ngoặt khác do sự mở rộng ồ ạt của thương mại Đại Tây Dương gây ra. Như chúng ta đã thấy ở chương 4, một cách quyết định mà theo đó điều này tác động đến động học thể chế tương lai phụ thuộc vào liệu Quốc vương đã có thể hay không thể độc quyền hóa sự buôn bán này. Tại nước Anh quyền lực lớn hơn một chút của Quốc hội đã có nghĩa rằng các quốc vương Tudor hay Stuart đã không thể làm vậy. Tình hình này đã tạo ra một tầng lớp mới của các nhà buôn và các nhà kinh doanh, những người đã hùng hổ chống lại kế hoạch để tạo ra chính thể chuyên chế ở nước Anh. Vào năm 1686 ở London, chẳng hạn, đã có 702 nhà buôn xuất khẩu sang vùng Caribe và 1.283 nhà nhập khẩu. Sang Bắc Mỹ đã có 691 nhà buôn xuất khẩu và 626 nhập khẩu. Họ đã thuê những người coi kho, các thủy thủ, các thuyền trưởng, các công nhân cảng, các thư ký – tất cả họ đại thể đều chia sẻ các quyền lợi của họ. Các cảng đầy sinh lực khác, như Bristol, Liverpool, và Portsmouth, cũng tương tự đầy các nhà buôn. Những người mới này đã muốn và đã đòi các thể chế kinh tế khác, và khi họ trở nên giàu có hơn qua thương mại, họ trở nên hùng mạnh hơn. Cùng các lực đó đã hoạt động ở Pháp, Tây Ban Nha, và Bồ Đào Nha. Nhưng ở đó các vua đã có khả năng hơn để kiểm soát thương mại và lợi nhuận của nó. Loại nhóm người mới mà đã biến đổi nước Anh cũng đã nổi lên ở các nước đó, nhưng họ đã nhỏ hơn và yếu hơn một cách đáng kể.
  • 231. ĐIỂM NGOẶT ● 211 Khi Quốc hội Dài họp và Nội Chiến nổ ra năm 1642, các nhà buôn này đã đứng về phe Quốc hội. Trong các năm 1670 họ đã dính líu sâu vào việc hình thành Đảng Whig, chống lại chính thể chuyên chế Stuart, và năm 1688 họ đã đóng vai trò then chốt trong việc hạ bệ James II. Như thế sự mở rộng các cơ hội buôn bán do châu Mỹ biếu tặng, sự tham gia đông đảo của các thương gia vào công việc buôn bán này và sự phát triển của các thuộc địa, và các khoản tiền kếch xù mà họ kiếm được trong quá trình này, đã lật nghiêng cán cân quyền lực trong cuộc đấu tranh giữa nền quân chủ và những người chống chính thể chuyên chế. Có lẽ cốt yếu nhất, sự nổi lên của, và sự trao quyền cho, các nhóm lợi ích khác nhau – trải từ tầng lớp gentry, các nông dân thương mại mà đã nổi lên trong thời kỳ Tudor, đến các loại khác nhau của các nhà chế tạo cho các nhà buôn xuyên Đại Tây Dương – đã có nghĩa rằng liên minh chống chính thể chuyên chế Sutart đã không chỉ mạnh mà cũng rộng. Liên minh này được tăng cường thậm chí hơn nữa bởi sự hình thành Đảng Whig trong các năm 1670, mà đã cung cấp một tổ chức để đẩy mạnh các quyền lợi của nó. Sự trao quyền cho nó đã làm trụ cột cho chủ nghĩa đa nguyên tiếp sau Cách mạng Vinh quang. Nếu giả như tất cả những người chiến đấu chống lại nhà Stuart đã có cùng quyền lợi và cùng bối cảnh, thì việc lật đổ nền quân chủ Stuart chắc đã có nhiều khả năng [chỉ] là một sự tái diễn của Nhà Lancaster đối lại Nhà York, đưa một nhóm lợi ích hẹp chọi lại một nhóm lợi ích hẹp khác, và cuối cùng thay thế hay tái tạo cùng hay hình thức khác của các thể chế khai thác. Một liên minh rộng có nghĩa rằng đã có những đòi hỏi lớn hơn cho việc tạo ra các thể chế chính trị đa nguyên. Không có một loại nào đó của chủ nghĩa đa nguyên, sẽ có một nguy cơ rằng một trong các nhóm lợi ích khác nhau này sẽ chiếm đoạt quyền lực gây tổn hại cho phần còn lại. Sự thực rằng Quốc hội sau 1688 đại diện cho một liên minh rộng như vậy đã là một nhân tố quyết định trong việc khiến cho các đại biểu Quốc hội lắng nghe các kiến nghị và khiếu nại, ngay cả khi chúng đến từ ngoài Quốc hội và thậm chí từ những người không có quyền bỏ phiếu. Đấy đã là một nhân tố quyết định để chặn các nỗ lực của một nhóm nhằm tạo ra một sự độc quyền gây tổn hại đến phần còn lại, như nhóm lợi ích len đã thử trước Đạo luật Manchester.
  • 232. 212 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Cách mạng Vinh quang là một sự kiện trọng đại chính xác bởi vì nó đã được lãnh đạo bởi một liên minh rộng đã bạo dạn hơn và đã được trao quyền hơn cho liên minh mày, mà đã tìm được cách để tạo một chế độ lập hiến với các giới hạn ràng buộc lên quyền lực của cả nhánh hành pháp và, cũng cốt yếu ngang thế, lên bất cứ thành viên nào của nó. Thí dụ, chính các ràng buộc hạn chế này đã ngăn các nhà chế tác len khỏi trở nên có khả năng nghiến nát sự cạnh tranh tiềm năng từ các nhà chế tác bông và vải fustian (bông thô pha lanh). Như thế liên minh rộng này đã là thiết yếu để dẫn đến một Quốc hội mạnh sau 1688, nhưng nó cũng đã có nghĩa rằng có sự kiểm soát (checks) bên trong Quốc hội chống lại bất cứ nhóm độc nhất nào trở nên quá mạnh và lạm dụng quyền lực của nó. Nó đã là nhân tố cốt yếu trong sự nổi lên của các thể chế chính trị đa nguyên. Sự trao quyền cho một liên minh rộng như vậy cũng đã đóng một vai trò quan trọng trong tính bền bỉ và sự tăng cường của các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm, như chúng ta sẽ thấy ở chương 11. Thế nhưng chẳng cái nào trong các nhân tố này đã khiến cho một chế độ đa nguyên thật sự chắc chắn xảy ra, và sự nổi lên của nó đã một phần là hậu quả của con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử. Một liên minh mà không quá khác đã có khả năng nổi lên như bên chiến thắng trong Nội Chiến Anh chống lại nhà Stuart, còn liên minh tương tự đã chỉ dẫn đến chế độ độc tài của Oliver Cromwell. Sức mạnh của liên minh này cũng đã không là cái đảm bảo rằng chính thể chuyên chế bị đánh bại. James II đã có thể đánh bại William xứ Orange. Con đường của sự thay đổi lớn về thể chế, như thường lệ, cũng không ít tùy thuộc ngẫu nhiên hơn kết quả của các xung đột chính trị khác. Điều này đã là thế cho dù con đường cụ thể của sự trôi dạt thể chế mà tạo ra liên minh rộng rãi chống lại chính thể chuyên chế và bước ngoặt của các cơ hội thương mại Đại Tây Dương đã sắp đặt trước các con bài chống lại nhà Stuart. Trong trường hợp này, vì thế, sự tùy thuộc ngẫu nhiên và một liên minh rộng đã là các nhân tố quyết định làm nòng cốt cho sự nổi lên của chủ nghĩa đa nguyên và các thể chế bao gồm.
  • 233. 8. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI: CÁC RÀO CẢN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KHÔNG CHO PHÉP IN RONG NĂM 1445 tại thành phố Đức Mainz, Johannes Gutenberg đã tiết lộ một đổi mới với các hệ quả sâu sắc cho lịch sử kinh tế tiếp sau: một máy in dựa trên con chữ động (movable type). Cho đến lúc đó, các cuốn sách hoặc được sao chép bằng tay bởi những người chép bản thảo, hay được in mộc bản với các bản khắc gỗ để in từng trang. Sách đã ít và thưa thớt, và rất đắt. Sau sáng chế của Gutenberg, tình hình đã bắt đầu thay đổi. Các sách đã được in và đã trở nên dễ kiếm hơn. Không có sáng chế này, sự biết đọc biết viết hàng loạt và giáo dục quần chúng đã là không thể. Ở Tây Âu tầm quan trọng của máy in đã được nhận ra mau chóng. Trong năm 1460 đã có máy in rồi ngang biên giới, ở Strasbourg, Pháp. Vào cuối các năm 1460 công nghệ đã lan ra khắp Italy, với các máy in ở Rome và Venice, không lâu sau ở Florence, Milan, và Turin. Vào năm 1476 William Caxton đã lắp đặt một máy in ở London, và hai năm sau đã có một máy ở Oxford. Trong cùng thời kỳ, nghành in đã lan khắp các Nước Thấp (Luxemburg, Bỉ, Hà Lan) sang Tây Ban Nha, và thậm chí sang Đông Âu, với một máy in mở ở Budapest năm 1473 và ở Cracow một năm sau. Không phải tất cả mọi người đều thấy việc in như một đổi mới đáng mong muốn. Ngay từ 1485, Sultan Ottoman Bayezid II đã ban một chỉ dụ rằng những người Muslim bị tuyệt đối cấm in bằng tiếng Arab. Quy tắc này còn được thực thi thêm nữa bởi Sultan Selim I trong năm 1515. Đã chỉ đến 1727 thì máy in đầu tiên mới được phép trên đất Ottoman. Sultan khi đó Ahmed III T
  • 234. 214 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI đã ban hành một sắc lệnh cấp phép cho Ibrahim Müteferrika để lắp đặt một máy in. Ngay cả bước đi muộn màng này đã bị bao vây bởi các ràng buộc hạn chế. Mặc dù sắc lệnh đã lưu ý, “ngày may mắn kỹ thuật này của phương Tây sẽ được bỏ mạng che mặt giống một cô dâu và sẽ không bị che dấu nữa,” máy in của Müteferrika đã bị giám sát chặt chẽ. Sắc lệnh nói rõ: để cho các sách không in các lỗi, các học giả tôn giáo thông minh, được tôn trọng và xứng đáng, chuyên môn hóa về luật Islamic, pháp quan xuất sắc của Instanbul, Mevlana Ishak, và pháp quan của Seleniki, Mevlana Sahib, và pháp quan của Galata, Mevlana Asad, cầu mong cho công trạng của họ được tăng lên, và từ các trật tự tôn giáo vinh quang, rường cột của các học giả tôn giáo ngay thẳng, Đạo trưởng (Sheykh) của Kasim Paşa Mevlevihane, Mevlana Musa, cầu mong cho sự sáng suốt và hiểu biết của ngài được tăng lên, sẽ giám sát việc đọc bản in thử. Müteferrika đã được phép lắp đặt một máy in, nhưng bất cứ thứ gì ông in đều phải được hiệu đính bởi một ban gồm ba học giả tôn giáo và pháp lý, các pháp quan. Có thể sự khôn ngoan và hiểu biết của các pháp quan, giống như của bất cứ ai khác, đã có thể tăng nhanh hơn nhiều giả như máy in đã sẵn có để dùng dễ dàng hơn. Nhưng đã không phải thế, ngay cả sau khi Müteferrika đã được phép để lắp đặt máy in của ông. Không ngạc nhiên Müteferrika cuối cùng đã in ít sách, chỉ mười bảy cuốn giữa năm 1729, khi máy in bắt đầu hoạt động, và 1743, khi ông ngừng làm việc. Gia đình ông đã thử tiếp tục truyền thống, nhưng họ đã xoay xở để in chỉ được bảy cuốn sách nữa cho đến lúc cuối cùng họ đã phải bỏ cuộc vào năm 1797. Bên ngoài lõi của Đế chế Ottoman, ngoài Thổ Nhĩ Kỳ, ngành in còn đã tụt hậu xa hơn. Thí dụ, ở Ai Cập, máy in đầu tiên được lắp đặt chỉ trong năm 1798, bởi những người Pháp những người đã là phần của sự cố gắng bởi Napoleon Bonaparte để chiếm nước này. Cho đến mãi quá nửa thứ hai của thế kỷ thứ mười chín, sản xuất sách ở Đế chế Ottoman vẫn chủ yếu do những người chép sách thực hiện sao chép bằng tay các sách đã có. Vào đầu thế kỷ thứ mười tám, được cho là đã có tám mươi ngàn người chép tay như vậy hoạt động ở Istanbul.
  • 235. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 215 Sự chống đối này đối với máy in đã có các hệ quả hiển nhiên cho sự biết đọc biết viết, giáo dục, và thành công kinh tế. Trong năm 1800 đã có lẽ chỉ 2 đến 3 phần trăm công dân của Đế chế Ottoman biết đọc biết viết, so với 60 phần trăm của đàn ông và 40 phần trăm cho đàn bà ở Anh. Tại Hà Lan và Đức, tỷ lệ biết đọc biết viết còn cao hơn. Các vùng Ottoman đã tụt hậu rất xa ở đằng sau các nước Âu châu đạt mức giáo dục thấp nhất, như Bồ Đào Nha, nơi chỉ có khoảng 20 phần trăm người lớn biết đọc biết viết. Căn cứ vào các thể chế Ottoman hết sức chuyên chế và khai thác, sự thù nghịch của sultan đối với máy in là dễ hiểu. Sách truyền bá các ý tưởng và làm cho rất khó để kiểm soát dân cư. Một số trong các ý tưởng này có thể là những cách mới có giá trị để làm tăng sự tăng trưởng kinh tế, nhưng các ý tưởng khác có thể có tính chất lật đổ và thách thức hiện trạng chính trị và xã hội. Sách cũng làm xói mòn quyền lực của những người kiểm soát sự hiểu biết bằng lời nói, vì chúng làm cho tri thức đó sẵn có dễ dàng hơn cho bất cứ ai biết đọc. Việc này đã đe dọa làm xói mòn hiện trạng, nơi tri thức được kiểm soát bởi các elite. Các sultan Ottoman và giới quyền uy tôn giáo đã sợ sự phá hủy sáng tạo mà có thể xảy ra do sách. Giải pháp của họ đã là cấm in. CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP đã tạo ra một bước ngoặt mà đã tác động đến hầu như mọi nước. Một số quốc gia, như Anh, không chỉ đã cho phép, mà đã khuyến khích một cách tích cực thương mại, công nghiệp hóa, và tinh thần kinh doanh khởi nghiệp, và đã phát triển nhanh. Nhiều quốc gia, như Đế chế Ottoman, Trung Quốc, và các chế độ chuyên chế khác, đã tụt lại phía sau vì họ đã ngăn chặn, hoặc nói nhẹ đi đã chẳng làm gì để khuyến khích sự mở rộng công nghiệp. Các thể chế chính trị và kinh tế đã định hình các phản ứng đối với đổi mới công nghệ, một lần nữa tạo ra hình mẫu quen thuộc về sự tương tác giữa các thể chế hiện tồn và các bước ngoặt dẫn đến sự phân kỳ về các thể chế và kết quả kinh tế. Đế chế Ottoman đã vẫn là chuyên chế cho đến khi nó sụp đổ vào cuối Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, và như thế nó đã có khả năng chống đối một cách thành công hay cản trở các đổi mới như máy in và sự phá hủy sáng tạo mà sự đổi mới đã có thể gây ra. Lý do của việc những thay đổi kinh tế đã xảy ra tại Anh lại đã không xảy ra trong Đế chế Ottoman, là mối quan hệ tự nhiên giữa các thể chế
  • 236. 216 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI chính trị chuyên chế khai thác và các thể chế kinh tế khai thác. Chính thể chuyên chế là sự cai trị không bị ràng buộc bởi luật hay nguyện vọng của những người khác, mặc dù trên thực tế các nhà chuyên chế cai trị với sự với sự ủng hộ của một nhóm nhỏ nào đó hay elite. Tại nước Nga thế kỷ thứ mười chín, chẳng hạn, các sa hoàng đã là các nhà cai trị chuyên chế được ủng hộ bởi một giới quý tộc đại diện cho khoảng 1 phần trăm toàn bộ dân cư. Nhóm hẹp này đã tổ chức các thể chế chính trị để làm cho họ vĩnh viễn giữ được quyền lực. Đã không có Quốc hội hay sự đại diện chính trị nào của các nhóm khác ở nước Nga cho đến 1905, khi sa hoàng lập ra Duma, mặc dù ông đã nhanh chóng làm xói mòn một vài quyền hạn mà ông đã ban cho nó. Không ngạc nhiên, các thể chế kinh tế đã là khai thác, được tổ chức để làm cho sa hoàng và giới quý tộc càng giàu càng tốt. Cơ sở của hệ thống này, như của nhiều hệ thống kinh tế khai thác, đã là một hệ thống cưỡng bức và kiểm soát lao động đông đảo, dưới hình thức đặc biệt tàn ác của chế độ nông nô Nga. Chính thể chuyên chế đã không là loại duy nhất của thể chế chính trị ngăn cản công nghiệp hóa. Mặc dù các chế độ chuyên chế đã không là đa nguyên và đã sợ sự phá hủy sáng tạo, nhiều chế độ đã có các nhà nước tập trung, hay chí ít các nhà nước đủ tập trung để áp đặt những sự cấm đoán đối với các đổi mới, như cấm máy in. Ngay cả ngày nay, các nước như Afghanistan, Haiti, và Nepal có các nhà nước quốc gia mà thiếu sự tập trung chính trị. Ở châu Phi hạ-Sahara tình hình còn tồi tệ hơn. Như chúng ta đã lập luận trước đây, không có một nhà nước tập trung để mang lại trật tự và thực thi các quy tắc và các quyền tài sản, các thể chế bao gồm không thể nổi lên. Chúng ta sẽ thấy trong chương này rằng trong nhiều phần của châu Phi hạ-Sahara (thí dụ Somalia và nam Sudan) một rào cản chính đối với công nghiệp hóa đã là sự thiếu bất cứ hình thức nào của sự tập trung hóa chính trị. Không có những điều kiện tiên quyết tự nhiên này, công nghiệp hóa không có cơ hội nào để cất cánh. Chính thể chuyên chế và sự thiếu tập trung chính trị hay sự tập trung chính trị yếu là hai rào cản đối với sự mở rộng công nghiệp. Nhưng chúng cũng liên hệ với nhau; cả hai được giữ tại vị trí bởi nỗi sợ phá hủy sáng tạo và bởi vì quá trình tập trung hóa chính trị thường tạo ra chính thể chuyên chế. Sự kháng cự đối với sự tập trung hóa chính trị được thúc đẩy bởi các lý do giống như sự kháng cự đối với các thể chế chính trị bao gồm: sợ mất quyền lực chính trị, lần này, cho nhà nước tập
  • 237. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 217 trung mới và những người kiểm soát nó. Chúng ta đã thấy ở chương trước, quá trình tập trung hóa chính trị dưới thời Tudor ở nước Anh đã làm tăng thế nào các đòi hỏi cho tiếng nói và sự đại diện bởi các giới elite địa phương khác nhau trong các thể chế chính trị quốc gia như một cách để ngăn chặn sự mất quyền lực chính trị này. Một Quốc hội mạnh hơn đã được tạo ra, cuối cùng đã làm cho sự nổi lên của các thể chế chính trị bao gồm là có thể. Nhưng trong nhiều trường hợp khác, đúng là điều ngược lại xảy ra, và quá trình tập trung hóa chính trị cũng mở ra một thời đại của chính thể chuyên chế lớn hơn. Điều này được minh họa bởi các nguồn gốc của chính thể chuyên chế Nga, mà đã được Peter Đại Đế tạo dựng giữa 1682 và năm ông mất 1725. Peter đã xây dựng một thủ đô mới ở Saint Peterburg, tước đoạt quyền lực từ giới quý tộc cũ, nhà Boyar, để tạo ra một nhà nước quan liêu hiện đại và quân đội hiện đại. Ông thậm chí đã giải tán Duma Boyar mà đã biến ông thành sa hoàng. Peter đã đưa ra Bảng Cấp bậc, một hệ thống thứ bậc xã hội hoàn toàn mới mà bản chất của nó đã là phục vụ sa hoàng. Ông cũng đã nắm quyền kiểm soát Giáo hội, hệt như Henry VIII đã làm khi tập trung hóa nhà nước ở Anh. Với quá trình này của tập trung hóa chính trị, Peter đã lấy đi quyền lực từ những người khác và chuyển hướng nó về cho chính mình. Các cuộc cải cách quân sự của ông đã khiến cho đội quân hoàng gia truyền thống, Streltsy, thành quân phiến loạn. Cuộc nổi loạn của họ được tiếp nối bởi các cuộc khác, như những người Bashkir ở Trung Á và cuộc Nổi loạn Bulavin. Chẳng cuộc nào thành công. Mặc dù dự án tập trung hóa chính trị của Peter Đại Đế đã thành công và đã thắng phe đối lập, các loại lực lượng mà đã phản đối sự tập trung hóa nhà nước, như Streltsy, những người thấy quyền lực của họ bị thách thức, đã chiến thắng ở nhiều phần của thế giới, và sự thiếu tập trung hóa nhà nước do nó gây ra đã có nghĩa là sự tồn tại dai dẳng của một loại khác của các thể chế khai thác. Trong chương này, chúng ta sẽ thấy trong bước ngoặt do Cách mạng Công nghiệp tạo ra, nhiều quốc gia đã lỡ chuyến tàu thế nào và đã không tận dụng được sự mở rộng công nghiệp ra sao. Hoặc họ đã có các thể chế chính trị chuyên chế và các thể chế kinh tế khai thác, như ở Đế chế Ottoman, hay họ đã thiếu sự tập trung hóa chính trị, như ở Somalia.
  • 238. 218 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI MỘT SỰ KHÁC BIỆT NHỎ MÀ LÀ QUAN TRỌNG Chính thể chuyên chế đã sụp đổ ở nước Anh trong thế kỷ thứ mười bảy nhưng đã trở nên mạnh hơn ở Tây Ban Nha. Cái tương đương ở Tây Ban Nha với Quốc hội Anh, là Cortes, đã chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Tây Ban Nha được tạo dựng trong năm 1492 với sự sáp nhập của các vương quốc Castile và Aragon, thông qua hôn nhân của Nữ hoàng Isabella và Vua Ferdinand. Thời điểm đó đã trùng với sự kết thúc của cuộc Chinh phục lại, một quá trình dài để đuổi những người Arab những người đã chiếm đóng miền nam Tây Ban Nha, và đã xây dựng các thành phố lớn Granada, Cordova, và Serville, từ thế kỷ thứ tám. Nhà nước Arab cuối cùng trên Bán đảo Iberian, Granada, đã rơi vào tay Tây Ban Nha vào cùng thời gian Christopher Columbus đến châu Mỹ và bắt đầu đòi các vùng đất này cho Nữ hoàng Isabella và Vua Ferdinand, những người đã tài trợ chuyến đi của ông. Sự sáp nhập các quốc vương Castile và Aragon và các cuộc hôn nhân và sự thừa kế vương triều tiếp sau đã tạo ra một siêu nhà nước Âu châu. Isabella chết năm 1504, con gái bà Joanna được phong làm nữ hoàng Castile. Joanna đã kết hôn với Philip của Nhà Habsburg, con trai của hoàng đế Maximilian I của Đế chế La Mã Thần thánh. Trong năm 1516, Charles con trai của Joanna và Philip, được tôn lên làm vua Charles I của Castile và Aragon. Khi cha ông chết, Charles thừa kế Hà Lan và Franche-Comté [một vùng gồm 4 tỉnh phía đông nước Pháp], mà ông thêm vào các vùng lãnh thổ của mình ở Iberia và châu Mỹ. Trong năm 1519, khi Maximilian I chết, Charles cũng thừa kế các lãnh thổ Hubsburg ở Đức và trở thành Hoàng đế Charles V của Đế chế La Mã Thần thánh. Cái đã là một sự sáp nhập của hai vương quốc Tây Ban Nha, đã trở thành một đế chế đa đại lục, và Charles đã tiếp tục dự án tăng cường nhà nước chuyên chế mà Isabella và Ferdinand đã khởi động. Nỗ lực để xây dựng và củng cố chính thể chuyên chế ở Tây Ban Nha được sự giúp đỡ khổng lồ bởi việc phát hiện ra các kim loại quý ở châu Mỹ. Bạc đã được phát hiện ra rồi với số lượng lớn tại Guanajuato, ở Mexico, vào các năm 1520, và không lâu sau ở Zacatecas, Mexico. Việc chinh phục Peru sau 1532 thậm chí đã tạo ra nhiều của cải hơn cho nền quân chủ. Khoản này đến dưới dạng một khoản chia phần, “một phần năm thuộc nhà vua”, trong mọi của cướp bóc được từ sự chinh phục và cả từ các mỏ. Như chúng ta đã thấy ở chương 1, một núi bạc đã
  • 239. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 219 được phát hiện ở Potosí vào các năm 1540, đổ nhiều của cải hơn vào kho bạc của nhà vua Tây Ban Nha. Vào thời gian sáp nhập Castile và Aragon, Tây Ban Nha đã là giữa các phần thành công nhất về mặt kinh tế của châu Âu. Sau khi hệ thống chính trị chuyên chế của nó đã được củng cố, nó đã bước vào sa sút tương đối và sau đó, sau năm 1600, vào sự sa sút tuyệt đối. Hầu như hành động đầu tiên của Isabella và Ferdinand sau Tái Chinh phục đã là tước đoạt những người Do Thái. Khoảng hai trăm ngàn người Do Thái ở Tây Ban Nha đã được cho bốn tháng để rời đi. Họ đã phải bán tống bán tháo đất và các tài sản của họ với giá rẻ mạt và đã không được phép mang một chút vàng hay bạc nào ra khỏi nước. Một thảm họa con người tương tự đã được tiến hành chỉ hơn một trăm năm sau. Giữa 1609 và 1614, Philip III đã trục xuất những người Morisco, các hậu duệ của các công dân của các nhà nước Arab trước kia ở miền nam Tây Ban Nha. Hệt như với những người Do Thái, những người Morisco đã phải ra đi với cái gì họ đã có thể mang và đã không được phép mang bất cứ lượng vàng, bạc hay kim loại quý nào theo mình. Các quyền tài sản đã không an toàn theo các chiều kích khác dưới sự cai trị Habsburg ở Tây Ban Nha. Philip II, người nối ngôi cha mình, Charles V, vào năm 1556, đã không trả được các khoản nợ của mình trong năm 1557, và lần nữa trong năm 1560, đã làm phá sản các gia đình Fugger và Welser kinh doanh ngân hàng. Vai trò của các gia đình Đức kinh doanh ngân hàng sau đó được đảm nhiệm bởi các gia đình người xứ Genoese kinh doanh ngân hàng, những người đến lượt lại bị làm cho phá sản bởi những sự vỡ nợ Tây Ban Nha dưới triều đại của họ Habsburg trong các năm 1575, 1596, 1607, 1627, 1647, 1652, 1660, và 1662. Cũng cốt yếu đúng như sự bất ổn định của các quyền tài sản ở Tây Ban Nha chuyên chế đã là tác động của chính thể chuyên chế lên các thể chế kinh tế của thương mại và sự phát triển của đế chế thuộc địa Tây Ban Nha. Như chúng ta đã thấy ở chương trước, thành công kinh tế của nước Anh đã dựa trên sự mở rộng buôn bán nhanh chóng. Mặc dù, so với Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, nước Anh đã là người đến sau với thương mại Đại Tây Dương, nó đã cho phép sự tham gia có cơ sở tương đối rộng vào buôn bán và các cơ hội thuộc địa. Cái đã nhồi đầy kho bạc của Quốc vương ở Tây Ban Nha đã làm giàu cho tầng lớp nhà buôn mới nổi ở nước Anh. Chính tầng lớp nhà buôn này đã tạo thành cơ sở của tính năng
  • 240. 220 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI động kinh tế của nước Anh lúc ban đầu và đã trở thành bức tường thành của liên minh chính trị chống chuyên chế. Ở Tây Ban Nha các quá trình này, mà đã dẫn đến tiến bộ kinh tế và thay đổi thể chế, đã không diễn ra. Sau khi châu Mỹ được khám phá ra, Isabella và Ferdinand đã tổ chức thương mại giữa các thuộc địa mới của họ và Tây Ban Nha thông qua một phường hội của các nhà buôn ở Serville. Cơ sở hẹp, được độc quyền buôn bán này đã có nghĩa rằng không có tầng lớp rộng nào của các nhà buôn đã có thể nổi lên qua các cơ hội buôn bán với các thuộc địa. Ngay cả thương mại ở bên trong châu Mỹ cũng đã bị điều tiết một cách nặng nề. Thí dụ, một nhà buôn ở một thuộc địa như Tây Ban Nha Mới, đại thể là Mexico hiện đại, đã không thể buôn bán trực tiếp với bất cứ ai ở Grenada Mới, Colombia hiện đại. Những hạn chế này lên thương mại ở bên trong Đế chế Tây Ban Nha đã làm giảm sự thịnh vượng kinh tế của nó và, một cách gián tiếp, đã làm giảm các ích lợi tiềm tàng mà Tây Ban Nha đã có thể có được qua buôn bán với đế chế khác, thịnh vượng hơn. Tuy nhiên, chúng [các thể chế] đã là khai thác bởi vì chúng đã đảm bảo rằng bạc và vàng tiếp tục chảy về Tây Ban Nha. Các thể chế kinh tế khai thác của Tây Ban Nha đã là kết quả trực tiếp của sự xây dựng chính thể chuyên chế và con đường khác, so với nước Anh, mà các thể chế chính trị đã đi. Cả Vương quốc Castile lẫn Vương quốc Aragon đã đều có Cortes của mình, một quốc hội đại diện cho các nhóm khác nhau, hay các “estaste-đẳng cấp” khác nhau, của vương quốc. Như với Quốc hội Anh, Cortes xứ Castile phải được triệu tập để chuẩn y các loại thuế mới. Tuy nhiên, Cortes ở Castile và Aragon chủ yếu đã đại diện cho các thành phố lớn, hơn là các vùng cả đô thị lẫn nông thôn, như Quốc hội Anh đã đại diện. Vào thế kỷ thứ mười lăm, nó đã đại diện chỉ cho mười tám thành phố, mỗi thành phố cử hai đại biểu. Hệ quả là, Cortes đã không đại diện cho một tập hợp của các nhóm rộng như Quốc hội Anh đã đại diện, và nó đã chẳng bao giờ phát triển như một mối liên hệ của các nhóm lợi ích đa dạng ganh đua để đặt các ràng buộc hạn chế lên chính thể chuyên chế. Nó đã không thể làm luật, và thậm chí phạm vi của các quyền hạn của nó liên quan đến đánh thuế đã bị hạn chế. Tất cả điều này đã làm cho dễ hơn đối với nền quân chủ Tây Ban Nha để cho Cortes ra ngoài lề trong quá trình củng cố chính thể chuyên chế riêng của nó. Ngay cả với số bạc đến từ châu Mỹ, Charles V và Philip II đã đòi hỏi thu nhập thuế ngày càng tăng để chi cho một loạt các cuộc chiến
  • 241. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 221 tranh tốn kém. Trong năm 1520 Charles V đã quyết định để trình ra Cortes đòi hỏi tăng thuế. Các elite thành thị đã tận dụng thời điểm để đòi sự thay đổi rộng hơn trong Cortes và quyền hạn của nó. Sự chống đối này đã trở nên mãnh liệt và mau chóng trở thành cái được biết đến như cuộc Nổi loạn Comunero. Charles đã có khả năng dẹp tan cuộc nổi loạn với quân lính hoàng gia. Suốt phần còn lại của thế kỷ thứ mười sáu, tuy vậy, đã có một cuộc chiến đấu liên tục vì Quốc vương đã thử cố giành cho được từ Cortes các quyền để thu các loại thuế mới và tăng các loại thuế cũ mà nó đã có quyền. Mặc dù cuộc chiến đấu này đã lúc lên lúc xuống, cuối cùng phần thắng đã thuộc về nền quân chủ. Sau 1664, Cortes đã không họp nữa cho đến khi nó được tổ chức lại trong các cuộc xâm lấn của Napoleon gần 150 năm sau. Ở nước Anh sự thất bại của chính thể chuyên chế đã dẫn không chỉ đến các thể chế chính trị đa nguyên mà cũng đến sự phát triển thêm nữa của một nhà nước tập trung hiệu quả hơn nhiều. Ở Tây Ban Nha điều ngược lại đã xảy ra khi chính thể chuyên chế thắng lợi. Mặc dù nền quân chủ đã hoạn Cortes và đã dỡ bỏ bất cứ ràng buộc hạn chế nào lên ứng xử của nó, nó đã ngày càng trở nên khó để thu thuế, ngay cả khi nó đã thử bằng thương lượng trực tiếp với các thành phố. Trong khi nhà nước Anh đã tạo ra một bộ máy thuế vụ hiện đại và hiệu quả, nhà nước Tây Ban Nha đã lại di chuyển theo hướng ngược lại. Nền quân chủ đã không chỉ thất bại để tạo ra các quyền tài sản an toàn cho các doanh nhân khởi nghiệp và đã độc quyền hóa thương mại, mà nó cũng đã bán các chức vụ, thường biến chúng thành các chức cha truyền con nối, ham mê sự thầu thuế, và thậm chí bán sự được miễn xét xử. Các hệ quả của các thể chế chính trị và kinh tế khai thác này ở Tây Ban Nha đã có thể tiên đoán được. Trong thế kỷ thứ mười bảy, trong khi nước Anh đang di chuyển theo hướng tăng trưởng thương mại và sau đó công nghiệp hóa nhanh chóng, thì Tây Ban Nha sa theo hướng suy thoái kinh tế lan rộng. Vào đầu thế kỷ, một trong năm người Tây Ban Nha đã sống ở các vùng đô thị. Vào cuối thế kỷ, con số này đã giảm đi một nửa xuống còn một trong mười người, trong một quá trình mà tương ứng với sự ngày càng nghèo đi của dân cư Tây Ban Nha. Thu nhập Tây Ban Nha đã giảm sút, trong khi nước Anh dần trở nên giàu có. Sự tồn tại dai dẳng của chính thể chuyên chế ở Tây Ban Nha, trong khi nó bị trốc tận rễ ở nước Anh, là một thí dụ nữa về những khác biệt nhỏ là có ý nghĩa
  • 242. 222 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI trong các bước ngoặt. Những sự khác biệt nhỏ đã là về sức mạnh và bản chất của các thể chế đại diện; bước ngoặt đã là sự khám phá ra châu Mỹ. Sự tương tác của những thứ này đã đưa Tây Ban Nha lên một con đường thể chế rất khác với nước Anh. Các thể chế kinh tế tương đối bao gồm mà đã nảy sinh ở nước Anh đã tạo ra tính năng động kinh tế chưa từng thấy, lên đỉnh điểm trong Cách mạng Công nghiệp, trong khi công nghiệp hóa đã không có cơ hội nào ở Tây Ban Nha. Vào lúc công nghệ công nghiệp đã lan ra nhiều phần của thế giới, nền kinh tế Tây Ban Nha đã suy sụp nhiều đến mức thậm chí đã không có nhu cầu đối với Quốc vương hay các elite chủ sở hữu đất ở Tây Ban Nha để ngăn chặn công nghiệp hóa. SỢ CÔNG NGHIỆP Không có những thay đổi về các thể chế chính trị và quyền lực chính trị tương tự như những thay đổi đã nổi lên ở Anh sau 1688, thì đã có ít cơ hội cho các nước chuyên chế để hưởng lợi từ những đổi mới và những công nghệ mới của Cách mạng Công nghiệp. Ở Tây Ban Nha, chẳng hạn, sự thiếu các quyền tài sản an toàn và sự sa sút kinh tế phổ biến đã có nghĩa rằng người dân đơn giản đã không có khuyến khích để tiến hành các khoản đầu tư và những sự hy sinh cần thiết. Ở Nga và Áo-Hungary, đã không đơn giản là sự sao lãng và sự quản lý tồi của các elite và sự trượt kinh tế quỷ quyệt vào dưới các thể chế khai thác là những cái đã cản trở công nghiệp hóa; thay vào đó, các nhà cai trị đã tích cực ngăn chặn bất cứ nỗ lực nào để đưa các công nghệ này và các khoản đầu tư cơ bản vào cơ sở hạ tầng như đường sắt mà đã có thể hoạt động như các máng dẫn của chúng. Vào thời gian của Cách mạng Công nghiệp, trong thế kỷ thứ mười tám và đầu thế kỷ thứ mười chín, bản đồ chính trị của châu Âu đã rất khác với bản đồ chính trị hiện nay. Đế chế La Mã Thần thánh, một chiếc chăn chắp vá của hơn bốn trăm chính thể, mà đa số chúng cuối cùng sẽ hợp lại thành nước Đức, đã chiếm hầu hết Trung Âu. Triều đại Habsgurg đã vẫn là một lực lượng chính trị chủ yếu, và đế chế của nó, được biết đến như nhà Habsburg hay Đế chế Áo-Hungary, đã trải ra trên một vùng mênh mông khoảng 250.000 dặm vuông, cho dù nó không còn bao gồm Tây Ban Nha, sau khi nhà Bourbon đã tiếp quản ngai vàng Tây Ban Nha trong năm 1700. Về mặt dân số nó đã là nhà nước lớn thứ ba ở châu Âu và đã chiếm một phần bảy dân số châu Âu. Vào cuối thế kỷ thứ mười tám đất đai
  • 243. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 223 Habsburg đã bao gồm, ở phía tây, phần ngày nay là Bỉ, khi đó là Hà Lan thuộc Áo. Phần lớn nhất, tuy vậy, đã là khối đất đai liên tục xung quanh Áo và Hungary, bao gồm Cộng hòa Czech, Slovakia về phía bắc, Slovenia, Croatia, và phần lớn Italia và Serbia ở phía nam. Về phía đông nó đã bao gồm phần lớn của Rumani và Ba Lan ngày nay. Các nhà buôn ở các lãnh thổ Habsburg đã ít quan trọng hơn nhiều so với ở Anh, và chế độ nông nô đã chiếm ưu thế tại các vùng đất ở Đông Âu. Như chúng ta đã thấy ở chương 4, Ba Lan và Hungary đã ở trung tâm của Chế độ Nông nô thứ Hai của Đông Âu. Nhà Habsburg, không giống nhà Stuart, đã thành công duy trì sự cai trị chuyên chế mạnh. Francis I, người đã cai trị với tư cách hoàng đế cuối cùng của Đế chế La Mã Thần thánh, giữa 1792 và 1806, và sau đó hoàng đế Áo-Hungary cho đến khi ông chết năm 1835, đã là một nhà chuyên chế tột bực. Ông đã không công nhận bất cứ hạn chế nào về quyền lực của mình và, trên hết, ông đã muốn duy trì hiện trạng chính trị. Chiến lược cơ bản của ông đã là chống đối sự thay đổi, bất cứ loại thay đổi nào. Trong năm 1821 ông đã làm rõ điều này trong một bài phát biểu đặc trưng cho các nhà cai trị Habsburg, được trình bày cho các giáo viên tại một trường học ở Laibach, khẳng định, “ta không cần những người hầu, mà cần các công dân tốt, trung thực. Nhiệm vụ của các vị là dạy dỗ những người trẻ thành các công dân như vậy. Ai phục vụ ta phải dạy cái ta ra lệnh cho. Nếu bất cứ ai không thể làm được điều này, hay đến với những ý tưởng mới, người đó có thể đi, hoặc ta sẽ đuổi.” Nữ hoàng Maria Theresa, người đã trị vì giữa 1740 và 1780, đã thường xuyên trả lời cho các gợi ý về làm thế nào để cải thiện hay thay đổi các thể chế bằng lời nhận xét, “Hãy để mọi thứ như nó là.” Tuy nhiên, bà và con trai bà Joseph II, người đã là hoàng đế giữa 1780 và 1790, đã chịu trách nhiệm về một nỗ lực để xây dựng một nhà nước tập trung hùng mạnh hơn và một hệ thống hành chính hiệu quả hơn. Thế nhưng họ đã làm việc này trong bối cảnh của một hệ thống chính trị với không ràng buộc hạn chế nào lên các hành động của họ và với ít yếu tố của chủ nghĩa đa nguyên. Đã không có quốc hội toàn quốc mà có thể đưa ra ngay chỉ một chút kiểm soát lên quốc vương, chỉ có một hệ thống của các đẳng cấp và các nghị viện địa phương, mà về mặt lịch sử đã có những quyền hạn nào đó liên quan đến đánh thuế và tuyển mộ lính. Thậm chí đã có ít sự kiểm soát hơn
  • 244. 224 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI lên cái nhà Habsburg Áo-Hungary có thể làm so với các quốc vương Tây Ban Nha, và quyền lực chính trị đã được tập trung hẹp. Khi chính thể chuyên chế Habsburg được tăng cường trong thế kỷ thứ mười tám, sức mạnh của tất cả các thể chế không-quân chủ đã bị yếu thêm. Khi một phái đoàn công dân từ tỉnh Tyrol ở Áo đưa kiến nghị lên Francis cho một hiến pháp, ông đã trả lời, “Được, các ngươi muốn có một hiến pháp! … Xem này, ta không ngại cái đó. Ta sẽ cho các ngươi một hiến pháp nhưng các ngươi phải biết rằng binh sĩ vâng lời ta, và ta sẽ không bảo các ngươi hai lần nếu ta cần tiền … Trong mọi trường hợp ta khuyên các ngươi nên thận trọng với cái các ngươi sắp nói.” Căn cứ vào câu trả lời này, các nhà lãnh đạo Tyrol đã trả lời, “Nếu bệ hạ nghĩ như vậy, thì tốt hơn là không có hiến pháp nào cả,” mà Francis đáp lại, “Đó cũng là ý của ta.” Francis đã giải tán Hội đồng Nhà nước mà Maria Theresa đã sử dụng như một diễn đàn cho việc tham vấn với các bộ trưởng của bà. Từ đó trở đi đã không có sự tham vấn nào hay sự thảo luận nào về các quyết định của Quốc vương. Francis đã tạo ra một nhà nước cảnh sát và đã kiểm duyệt một cách tàn nhẫn bất cứ thứ gì mà đã có thể được coi như cấp tiến ôn hòa. Triết lý của ông về cai trị đã được mô tả đặc trưng bởi Bá tước Hartig, một phụ tá lâu đời của ông, như “sự duy trì không giảm sút quyền của quốc vương, và từ chối mọi đòi hỏi từ phía nhân dân cho một sự tham gia vào quyền đó.” Ông đã được giúp đỡ trong tất cả chuyện này bởi Hoàng thân von Metternich, được chỉ định làm bộ trưởng ngoại giao trong năm 1809. Quyền lực và ảnh hưởng của Metternich thực sự tồn tại lâu hơn quyền lực và ảnh hưởng của Francis, và ông vẫn đã là bộ trưởng ngoại giao gần bốn mươi năm. Đứng ở trung tâm của các thể chế kinh tế Habsburg đã là trật tự phong kiến và chế độ nông nô. Khi di chuyển sang phía đông bên trong đế chế, chủ nghĩa phong kiến trở nên mãnh liệt hơn, một sự phản ánh về độ dốc phổ biến hơn trong các thể chế kinh tế chúng ta đã thấy ở chương 4, khi di chuyển từ Tây sang Đông Âu. Tính linh động lao động đã hết sức hạn chế, và sự di cư đã là bất hợp pháp. Khi nhà từ thiện Anh Robert Owen thử thuyết phục chính phủ Áo để chấp nhận những cải cách xã hội nào đó nhằm cải thiện hoàn cảnh của những người nghèo, một trong các trợ lý của Metternich, Friedrich von Gentz, đã trả lời, “Chúng tôi không
  • 245. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 225 hề mong muốn rằng các đám đông to lớn sẽ trở nên khá giả và độc lập … Khác đi thì làm sao chúng tôi có thể cai trị họ?” Thêm vào chế độ nông nô, mà đã ngăn chặn hoàn toàn sự nổi lên của một thị trường lao động và xóa bỏ các khuyến khích hay các sáng kiến kinh tế từ quần chúng dân cư nông thôn, chính thể chuyên chế Habsburg đã phát đạt nhờ các độc quyền và những hạn chế khác về thương mại. Nền kinh tế đô thị bị áp đảo bởi các phường hội, mà đã hạn chế sự tham gia vào các nghề. Cho đến 1775 đã có thuế quan nội địa bên trong bản thân nước Áo, và ở Hungary cho đến năm 1784. Thuế quan đã rất cao đối với hàng hóa nhập khẩu, với nhiều lệnh cấm rành mạch về các hàng hóa nhập và xuất khẩu. Sự kiềm chế các thị trường và sự tạo ra các thể chế kinh tế khai thác tất nhiên là đặc trưng hoàn toàn của chính thể chuyên chế, nhưng Francis đã đi xa hơn. Đã không đơn giản là các thể chế kinh tế khai thác đã xóa bỏ các khuyến khích cho các cá nhân để đổi mới hay chấp nhận công nghệ mới. Chúng ta đã thấy ở chương 2, ở Vương quốc Kongo các nỗ lực để thúc đẩy việc sử dụng cày đã thất bại như thế nào bởi vì người dân đã thiếu bất cứ khuyến khích nào, căn cứ vào bản chất khai thác của các thể chế kinh tế. Nhà vua Kongo đã nhận ra rằng nếu ông có thể khiến nhân dân sử dụng cày, thì năng suất nông nghiệp sẽ cao hơn, tạo ra nhiều của cải hơn, mà ông đã có thể hưởng lợi từ đó. Đấy là một khuyến khích tiềm năng cho tất cả các chính phủ, ngay cả cho các chính phủ chuyên chế. Vấn đề ở Kongo đã là, nhân dân thì lại đã hiểu rằng bất cứ thứ gì họ sản xuất ra đều bị tịch thu bởi một quốc vương chuyên chế, và vì thế họ đã không có khuyến khích nào để đầu tư hay sử dụng công nghệ tốt hơn. Trong các vùng đất Habsburg, Francis đã không khuyến khích các công dân của ông chấp nhận làm theo công nghệ tốt hơn; ngược lại, ông thực sự chống lại nó, và đã ngăn chặn sự phổ biến các công nghệ mà khác đi thì nhân dân đã có thể sẵn sàng chấp nhận với các thể chế kinh tế hiện tồn. Sự chống đối đổi mới đã được thể hiện theo hai cách. Thứ nhất, Francis I đã chống sự phát triển công nghiệp. Công nghiệp dẫn đến các nhà máy, và các nhà máy có thể tập trung những người lao động nghèo trong thành phố, đặc biệt ở thủ đô Vienna. Những người lao động đó rồi có thể trở thành những người ủng hộ các đối thủ của chính thể chuyên chế. Các chính sách của ông đã nhằm siết chặt các elite truyền thống và hiện trạng chính trị và kinh tế vào đúng chỗ. Ông đã muốn
  • 246. 226 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI giữ xã hội chủ yếu là nông nghiệp. Cách tốt nhất để làm việc này, Francis tin, đã là cản việc xây dựng các nhà máy ngay từ đầu. Việc này ông đã trực tiếp làm – thí dụ, trong năm 1802, cấm việc tạo ra các nhà máy mới ở Vienna. Thay cho việc khuyến khích nhập khẩu và sự chấp nhận dùng máy móc mới, ông đã cấm cho đến tận 1811. Thứ hai, ông đã chống lại việc xây dựng đường sắt, một trong những công nghệ mới then chốt mà đã đến cùng Cách mạng Công nghiệp. Khi một kế hoạch để xây dựng một đường sắt phía bắc được đệ trình lên Francis, ông đã trả lời, “Không, không, ta không dính líu gì với nó, e rằng cách mạng có thể lẻn vào đất nước này.” Vì chính phủ đã không nhân nhượng cho việc xây dựng một đường sắt hơi nước, đường sắt đầu tiên được xây dựng trong đế chế đã phải dùng các toa xe ngựa kéo. Tuyến chạy giữa thành phố Linz, bên sông Danube, và thành phố Budweise xứ Bohem, bên sông Moldau, đã được xây dựng với độ dốc và các góc, mà đã có nghĩa rằng không thể để chuyển đổi sang đầu máy hơi nước. Cho nên nó đã tiếp tục dùng sức ngựa cho đến các năm 1860. Tiềm năng cho sự phát triển đường sắt trong đế chế đã được cảm nhận từ sớm bởi nhà ngân hàng Salomon Rothschild, đại diện ở Vienna của gia đình lớn kinh doanh ngân hàng. Anh của Salomon, Nathan, người đóng ở London, đã rất bị ấn tượng bởi động cơ “Tên Lửa” của George Stephenson và tiềm năng cho đầu tàu hơi nước. Ông đã liên hệ với em mình để khuyến khích anh ta tìm kiếm cơ hội để phát triển đường sắt ở Áo, vì ông đã tin rằng gia đình có thể kiếm được lợi nhuận lớn bằng cách tài trợ cho sự phát triển đường sắt. Nathan đã đồng ý, nhưng sơ đồ đã chẳng đi đến đâu, bởi vì Hoàng đế Francis lại đơn giản đã nói không. Sự phản đối công nghiệp và máy hơi nước đã xuất phát từ nỗi lo của Francis về sự phá hủy sáng tạo mà đi cùng với sự phát triển của một nền kinh tế hiện đại. Các ưu tiên chính của ông đã là đảm bảo sự ổn định của các thể chế khai thác mà trên đó ông cai trị và bảo vệ các lợi thế của các elite truyền thống những người đã ủng hộ ông. Không chỉ là, đã có ít để được lợi thêm từ công nghiệp hóa, mà có thể làm xói mòn trật tự phong kiến bằng cách thu hút lao động từ nông thôn ra thành thị, mà Francis cũng đã nhận ra sự đe dọa mà những thay đổi kinh tế lớn có thể đặt ra cho quyền lực chính trị của ông. Như một kết quả, ông đã chặn công nghiệp và tiến bộ kinh tế, nhốt đất nước trong tình trạng lạc hậu kinh tế, mà đã thể hiện
  • 247. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 227 mình theo nhiều cách. Thí dụ, mãi đến 1883, khi 90 phần trăm của sản lượng sắt thế giới đã được sản xuất bằng sử dụng than đá, thì hơn nửa sản lượng trong các lãnh thổ Habsburg vẫn sử dụng than củi kém hiệu quả hơn nhiều. Tương tự, cho đến tận Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất, khi đế chế sụp đổ, việc dệt vải đã chẳng bao giờ được cơ giới hóa hoàn toàn mà vẫn được tiến hành bằng tay. Áo-Hungary đã không đơn độc trong nỗi sợ công nghiệp. Xa hơn ở phía đông, Nga đã có một tập hợp chuyên chế ngang thế của các thể chế chính trị, được rèn bởi Peter Đại Đế, như chúng ta đã thấy trước đây trong chương này. Giống Áo- Hungary, các thể chế kinh tế của Nga đã hết sức khai thác, dựa trên chế độ nông nô, giữ ít nhất một nửa dân cư gắn với đất. Các nông nô đã phải làm việc không công ba ngày một tuần trên đất của chủ nô. Họ đã không thể di chuyển, họ đã thiếu quyền tự do nghề nghiệp, và họ đã có thể bị bán tùy ý của chủ nô của họ và chủ nô khác. Nhà triết học cấp tiến Peter Kropotkin, một trong các nhà sáng lập của chủ nghĩa vô chính phủ, đã để lại sự mô tả sống động về cách chế độ nông nô đã hoạt động dưới triều của Sa hoàng Nicolas I, người đã cai trị Nga từ 1825 đến 1855. Ông đã nhớ lại thời thơ ấu của mình những câu chuyện về những người đàn ông và đàn bà bị lôi khỏi gia đình và làng xóm của họ và bị bán, bị thua cờ bạc, hay bị đổi lấy một cặp chó săn, bị đưa đi nơi hẻo lánh nào đó của nước Nga … về những đứa trẻ bị giằng khỏi cha mẹ chúng và bị bán cho các ông chủ tàn ác hay phóng đãng; về sự đánh bằng roi “trong chuồng ngựa,” mà xảy ra hàng ngày với sự tàn ác không ai để ý tới; về một cô gái người đã tìm thấy sự cứu rỗi duy nhất của cô trong việc để mình chết đuối; về một người già tóc đã hoa râm vì đã phục vụ chủ mình từ lâu và cuối cùng đã treo cổ mình dưới cửa sổ của ông chủ; và về các cuộc nổi loạn của nông nô, mà đã bị đàn áp bởi các tướng của Nicholas I bằng cách đánh đòn cho đến chết mỗi người thứ mười hay thứ năm bị nhấc ra khỏi hàng, và bằng cách tàn phá làng mạc … Về sự nghèo khó mà tôi đã thấy trong các chuyến đi của chúng tôi ở một số làng, đặc biệt ở các làng thuộc về gia đình đế chế, không có lời nào là đủ để mô tả sự khốn khổ cho các bạn đọc chưa từng thấy nó. Chính xác như ở Áo-Hungary, chính thể chuyên chế đã không chỉ tạo ra một tập hợp các thể chế kinh tế cản trở sự thịnh vượng của xã hội. Đã có một sự sợ
  • 248. 228 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI tương tự về sự phá hủy sáng tạo và một nỗi sợ công nghiệp và đường sắt. Tại tâm điểm của chuyện này dưới thời triều Nicholas I đã là Bá tước Egor Kankrin, người đã phục vụ với tư cách bộ trưởng tài chính giữa 1823 và 1844 và đã đóng vai trò then chốt trong chống lại những thay đổi xã hội cần thiết cho sự thúc đẩy thịnh vượng kinh tế. Các chính sách của Kankrin đã nhắm tới việc củng cổ các trụ cột chính trị truyển thống của chế độ, đặc biệt giới quý tộc sở hữu đất, và giữ cho xã hội là xã hội nông thôn và nông nghiệp. Vào lúc trở thành bộ trưởng tài chính, Kankrin đã nhanh chóng chống lại và đảo ngược một đề xuất bởi bộ trưởng tài chính trước, Gurev, để phát triển một Ngân hàng Thương mại do Chính phủ sở hữu để cho công nghiệp vay tiền. Thay vào đó, Kankrin đã mở lại Ngân hàng Cho vay Nhà nước mà đã bị đóng cửa trong các cuộc Chiến tranh Napoleon. Ngân hàng này được tạo ra ban đầu để cho các địa chủ lớn vay với lãi suất được trợ cấp, một chính sách Kankrin chấp thuận. Các khoản vay đòi hỏi những người muốn vay phải đưa các nông nô như “vật đảm bảo,” hay tài sản thế chấp, cho nên chỉ có các địa chủ phong kiến mới có thể kiếm được các khoản vay như vậy. Để cấp tài chính cho Ngân hàng Cho vay Nhà nước, Kankrin đã chuyển các tài sản từ Ngân hàng Thương mại, giết hai con chim bằng một hòn đá: bây giờ có ít tiền để lại cho công nghiệp. Thái độ của Kankrin đã bị định hình một cách nhìn thấy trước bởi nỗi sợ rằng sự thay đổi kinh tế sẽ kéo theo sự thay đổi chính trị, và các nỗi sợ của Sa hoàng Nicholas cũng đã thế. Sự lên nắm quyền của Nichlas trong tháng Mười hai năm 1825 đã gần như bị hủy bởi một âm mưu đảo chính bởi các sĩ quan quân đội, cái được gọi là những người Tháng Mười Hai, những người đã có một chương trình cấp tiến về thay đổi xã hội. Nicholas đã viết cho Đại Công tước Mikhail: “Cách mạng ở trước ngưỡng cửa nước Nga, nhưng tôi thề rằng nó sẽ không xâm nhập vào đất nước này trong khi còn hơi thở trong thân thể tôi.” Nicholas đã sợ những thay đổi xã hội mà việc tạo ra một nền kinh tế hiện đại sẽ mang lại. Như ông đã diễn đạt trong một bài phát biểu ông đã nói cho một cuộc gặp mặt của các nhà chế tạo tại một triển lãm công nghiệp ở Moscow: cả nhà nước và các nhà chế tạo phải hướng sự chú ý vào một chủ đề, mà không có nó thì chính các nhà máy sẽ trở thành một tai họa hơn là
  • 249. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 229 một phước lành; đấy là sự cẩn trọng về những người lao động tăng lên về số lượng hàng năm. Họ cần sự giám sát mạnh mẽ và gia trưởng về đạo đức của họ; không có nó thì khối quần chúng này của nhân dân sẽ dần dần bị đồi bại và cuối cùng sẽ biến thành giai cấp cũng cùng khổ ngang như như nguy hiểm cho các ông chủ của họ. Hệt như với Francis I, Nicholas đã sợ rằng sự phá hủy sáng tạo được tháo ra bởi một nền kinh tế công nghiệp hiện đại sẽ làm xói mòn hiện trạng chính trị ở Nga. Được Nicholas thúc giục, Kankrin đã đưa ra các bước cụ thể để làm chậm tiềm năng cho công nghiệp. Ông đã cấm nhiều cuộc triển lãm công nghiệp, mà trước đó đã được tổ chức định kỳ để giới thiệu công nghệ mới và tạo thuận lợi cho việc thích nghi công nghệ. Trong năm 1848 châu Âu bị rung chuyển bởi một loạt các cuộc cách mạng nổ ra. Đáp lại, A. A, Zakrevskii, thống đốc quân sự của Moscow, người chịu trách nhiệm duy trì trật tự công, đã viết cho Nicholas: “Để duy trì sự bình yên và thịnh vượng, mà hiện thời chỉ Nga được hưởng, chính phủ không được cho phép sự tụ tập của những người vô gia cư và những kẻ phóng đãng, những người sẽ dễ dàng tham gia mọi phong trào, phá hoại sự bình yên xã hội và sự yên bình riêng.” Lời khuyên của ông đã được đưa ra trước các bộ trưởng của Nicholas, và trong năm 1849 một luật mới đã được ban hành đặt ra những hạn chế nghiêm ngặt về số nhà máy có thể được mở ở bất cứ phần nào của Moscow. Nó đặc biệt đã cấm mở bất cứ xưởng kéo sợi bông và len mới nào và các xưởng đúc sắt. Các ngành khác, như dệt và nhuộm, đã phải kiến nghị lên thống đốc quân sự nếu họ muốn mở các nhà máy mới. Cuối cùng kéo sợi bông đã bị cấm một cách tường minh. Luật đã có ý định ngừng bất cứ sự tập trung thêm nào của các công nhân có tiềm năng nổi loạn trong thành phố. Sự chống đối đường sắt đi cùng với sự chống đối công nghiệp, chính xác như ở Áo-Hungary. Trước 1842 đã chỉ có một tuyến đường sắt ở Nga. Đấy là Đường sắt Tsarskoe Selo, mà đã chạy mười bảy dặm từ Saint Peterburg đến các dinh thự đế chế ở Tsarskoe Selo và Pavlosk. Hệt như Kankrin đã chống lại công nghiệp, ông đã không thấy lý do nào để đẩy mạnh đường sắt, mà ông đã cho rằng sẽ mang lại một sự linh động nguy hiểm về mặt xã hội, lưu ý rằng, “đường sắt không luôn luôn là kết quả từ sự cần thiết tự nhiên, mà nhiều hơn là một đối tượng của nhu
  • 250. 230 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI cầu nhân tạo hay sự xa hoa. Chúng khuyến khích sự đi lại không cần thiết từ nơi này sang nơi khác, mà hoàn toàn là điển hình của thời đại chúng ta.” Kankrin đã bác bỏ rất nhiều cuộc bỏ thầu để xây dựng đường sắt, và chỉ đến 1851 mới có một tuyến được xây dựng nối Moscow và Saint Peterburg. Chính sách của Kankrin được tiếp tục bởi Bá tước Kleinmichel, người được cử đứng đầu cơ quan hành chính quản lý chính về Giao Thông và Công Thự. Tổ chức này đã trở thành trọng tài chính của việc xây dựng đường sắt, và Kleinmichel đã sử dụng nó như một cái bệ để làm nản lòng việc xây dựng chúng. Sau 1849 ông thậm chí đã còn dùng quyền lực của mình để kiểm duyệt sự thảo luận về phát triển đường sắt trên báo chí.
  • 251. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 231 Bản đồ 13 cho thấy các hệ quả của logic này. Trong khi Vương quốc Anh và hầu hết Tây bắc châu Âu đã chằng chịt đường sắt trong năm 1870, rất ít đã thâm nhập vào lãnh thổ mênh mông của Nga. Chính sách chống đường sắt đã chỉ đảo ngược sau khi Nga bị các lực lượng Anh, Pháp, và Ottoman đánh bại một cách dứt khoát trong Chiến tranh Crime, 1853-1856, khi sự lạc hậu của mạng lưới giao thông của nó đã được hiểu là cái gây khó khăn trở ngại cho an ninh của Nga. Cũng đã có ít sự phát triển đường sắt ở Áo-Hungary, bên ngoài Áo và phần phía Tây của đế chế, mặc dù các cuộc Cách mạng 1848 đã mang lại những thay đổi cho các lãnh thổ này, đặc biệt là sự xóa bỏ chế độ nông nô. KHÔNG TÀU BÈ NÀO ĐƯỢC PHÉP Chính thể chuyên chế đã ngự trị không chỉ ở phần lớn châu Âu mà cả ở châu Á nữa, và một cách tương tự đã ngăn cản sự công nghiệp hóa trong bước ngoặt do Cách mạng Công nghiệp tạo ra. Các triều đại Minh và Thanh ở Trung Quốc và chính thể chuyên chế của Đế chế Ottoman minh họa điều này. Dưới triều Tống, giữa 960 và 1279, Trung Quốc đã dẫn đầu thế giới về nhiều đổi mới công nghệ. Những người Trung Quốc đã sáng chế ra đồng hồ, la bàn, thuốc súng, giấy và tiền giấy, đồ sứ, và lò nung thổi để chế tạo gang trước khi châu Âu đã sáng chế ra. Họ đã phát triển một cách độc lập guồng xe sợi và sức nước ít nhiều cùng thời gian mà những công nghệ này nổi lên ở đầu bên kia của đại lục Á-Âu. Kết quả là, trong năm 1500 mức sống ở Trung Quốc ít nhất cũng cao như ở châu Âu. Trong nhiều thế kỷ Trung Quốc cũng đã có một nhà nước tập trung với một bộ máy công vụ được tuyển theo công trạng. Thế nhưng Trung Quốc đã là chuyên chế, và sự tăng trưởng dưới triều Tống đã là sự tăng trưởng dưới các thể chế khai thác. Đã không có sự đại diện chính trị cho các nhóm khác với nền quân chủ trong xã hội, đã chẳng có gì giống với Quốc hội hay Cortes cả. Các nhà buôn đã luôn luôn có địa vị bấp bênh ở Trung Quốc, và những sáng chế vĩ đại của nhà Tống đã không được kích thích bởi những khuyến khích thị trường mà đã được sinh ra dưới sự bảo trợ, thậm chí dưới các mệnh lệnh của chính phủ. Ít trong số này được thương mại hóa. Sự nắm chặt của nhà nước được siết chặt trong các triều Minh và Thanh mà đã tiếp sau nhà Tống. Tại gốc rễ của tất cả việc này là logic thông thường của các thể chế khai thác.
  • 252. 232 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Như hầu hết các nhà cai trị đứng đầu các thể chế khai thác, các hoàng đế chuyên chế của Trung Quốc đã chống sự thay đổi, tìm kiếm sự ổn định, và về bản chất sợ sự phá hủy sáng tạo. Điều này được minh họa tốt nhất bằng lịch sử của thương mại quốc tế. Như chúng ta đã thấy việc phát hiện ra châu Mỹ và cách thương mại quốc tế được tổ chức đã đóng một vai trò then chốt trong các xung đột chính trị và những thay đổi thể chế của châu Âu hiện đại lúc ban đầu. Tại Trung Quốc, trong khi các nhà buôn đã dính líu thông thường vào buôn bán trong nước, còn nhà nước đã độc quyền buôn bán với nước ngoài. Khi nhà Minh lên nắm quyền năm 1368, Hoàng đế Hồng Vũ người đã cai trị đầu tiên, trong ba mươi năm. Hồng Vũ đã lo rằng thương mại quốc tế sẽ gây bất ổn chính trị và xã hội và ông đã cho phép thương mại quốc tế xảy ra chỉ nếu nó được tổ chức bởi chính phủ và chỉ nếu nó dính dáng đến triều cống, chứ không phải hoạt động thương mại. Hồng Vũ thậm chí đã hành quyết hàng trăm người bị kết án thử biến các đợt công cán triều cống thành các vụ kinh doanh thương mại. Giữa 1377 và 1397 không đợt công cán triều cống bằng đường biển nào được cho phép. Ông đã cấm các cá nhân buôn bán với người nước ngoài và đã không cho phép người Trung Quốc đi thuyền ra nước ngoài. Trong năm 1402, Hoàng đế Vĩnh Lạc lên ngôi và đã khởi xướng một giai đoạn nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc bằng cách khởi động ngoại thương do nhà nước tài trợ trên quy mô lớn. Vĩnh Lạc đã tài trợ Đô đốc Trịnh Hòa để tiến hành sáu đợt công cán khổng lồ đến Đông Nam và Nam Á, Arabia, và châu Phi. Những người Trung Quốc đã biết về các địa điểm này từ một lịch sử lâu đời về các mối quan hệ thương mại, nhưng đã chẳng có gì từng xảy ra trước đây với quy mô này. Đoàn thuyền đầu tiên đã gồm 27.800 người và 62 thuyền kho báu lớn, được hộ tống bởi 190 thuyền nhỏ hơn, kể cả các thuyền dành riêng cho việc chở nước ngọt, các thuyền khác cho việc cung ứng, và các thuyền khác nữa cho binh lính. Thế nhưng Hoàng đế Vĩnh Lạc đã tạm ngưng sau chuyến thứ sáu trong năm 1422. Việc ngừng được biến thành lâu dài bởi người kế vị ông, Hồng Hi, người đã cai trị từ 1424 đến 1425. Cái chết sớm của Hồng Hi đã đưa Hoàng đế Tuyên Đức lên ngôi, người đầu tiên đã cho phép Trịnh Hòa một chuyến cuối cùng, trong năm 1433. Nhưng sau chuyến này, tất cả ngoại thương đã bị cấm. Vào năm 1436 việc xây dựng tàu thuyền đi biển đã thậm chí bị coi là bất hợp pháp. Việc cấm ngoại thương đã không được dỡ bỏ cho đến 1567.
  • 253. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 233 Các sự kiện này, mặc dù chỉ là đỉnh nổi của tảng băng khai thác mà đã ngăn chặn nhiều hoạt động kinh tế được cho là có tiềm năng gây bất ổn định, đã có một tác động cơ bản lên sự phát triển kinh tế Trung Quốc. Đúng vào lúc khi thương mại quốc tế và sự khám phá ra châu Mỹ đã làm biến đổi các thể chế của nước Anh, Trung Quốc đã cô lập mình khỏi bước ngoặt này và quay theo hướng nội. Việc quay hướng nội này đã không chấm dứt trong năm 1567. Triều đình nhà Minh đã bị những người Jurchen, người Mãn châu bên trong châu Á, tràn ngập chiếm, những người đã tạo ra triều đại nhà Thanh. Một thời kỳ bất ổn chính trị gay gắt sau đó đã kéo theo. Những người Thanh đã tiến hành chiếm đoạt hàng loạt bất động sản và tài sản. Trong các năm 1690, Đường Chân, một học giả Trung Quốc đã về hưu, một nhà buôn thất bại, đã viết: Hơn năm mươi năm đã trôi qua kể từ khi thành lập triều đại nhà Thanh, và đế chế đã nghèo dần từng ngày. Các nông dân cơ cực, các thợ thủ công cơ cực, các nhà buôn cơ cực, và các quan chức cũng cơ cực. Ngũ cốc rẻ, thế nhưng khó để ăn no. Quần áo rẻ, thế nhưng khó để che thân. Thuyền chất hàng hóa đi từ nơi họp chợ này đến nơi kia, nhưng hàng phải bán lỗ. Các quan chức lúc rời vị trí của mình mới phát hiện ra không có số tiền cần thiết nào để hỗ trợ gia đình họ. Quả thực cả bốn nghề đều bị bần cùng hóa. Trong năm 1661 hoàng đế Khang Hy đã ra lệnh rằng tất cả người dân sống ở bờ biển từ Việt Nam đến Chiết Giang – về cơ bản toàn bộ bờ biển phía nam, một thời là phần tích cực nhất về mặt thương mại của Trung Quốc – phải chuyển vào bên trong đất liền mười bảy dặm. Bờ biển được tuần tra bởi binh lính để thực thi biện pháp đó, và cho đến 1693 đã có lệnh cấm tàu bè ở mọi nơi trên bờ biển. Sự cấm này đã được áp đặt định kỳ trong thế kỷ thứ mười tám, trên thực tế làm còi cọc sự nổi lên của thương mại quốc tế của Trung Quốc. Mặc dù một số người đã đầu tư, ít người đã sẵn sàng đầu tư khi hoàng đế có thể đột ngột thay đổi ý của ông và cấm thương mại, làm cho các khoản đầu tư vào tàu thuyền, trang thiết bị, và các quan hệ thương mại thành vô dụng hay thậm chí tồi hơn. Lập luận của các nhà nước Minh và Thanh cho việc chống đối ngoại thương bây giờ là quen thuộc: nỗi sợ sự phá hủy sáng tạo. Mục đích chủ yếu của các nhà lãnh đạo là ổn định chính trị. Thương mại quốc tế đã có tiềm năng gây bất ổn định vì các nhà buôn trở nên giàu có và mạnh bạo hơn, như họ đã thế ở nước Anh
  • 254. 234 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI trong thời kỳ mở rộng thương mại Đại Tây Dương. Đấy đã không chỉ là cái mà các nhà cai trị đã tin trong các triều đại Minh và Thanh, mà cũng đã là thái độ của các nhà cai trị của triều Tống, cho dù họ đã sẵn sàng tài trợ cho những đổi mới công nghệ và cho phép quyền tự do thương mại lớn hơn, với điều kiện rằng điều này dưới sự kiểm soát của họ. Tình hình trở nên tồi tệ hơn dưới các triều Minh và Thanh vì sự kiểm soát của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế được siết chặt và ngoại thương bị cấm. Chắc chắn đã có các thị trường ở Trung Quốc thời Minh và thời Thanh, và chính phủ đã đánh thuế nền kinh tế nội địa khá nhẹ. Tuy vậy, nó đã làm ít để hỗ trợ sự đổi mới sáng tạo, và nó đã đánh đổi sự phát triển buôn bán hay sự thịnh vượng công nghiệp lấy sự ổn định chính trị. Hệ quả của tất cả sự kiểm soát chuyên chế này đối với nền kinh tế đã là có thể tiên đoán được: nền kinh tế Trung Quốc đã trì trệ suốt thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi, trong khi các nền kinh tế khác đang công nghiệp hóa. Vào lúc Mao dựng lên chế độ cộng sản của ông năm 1949, Trung Quốc đã trở thành một trong những nước nghèo nhất thế giới. CHÍNH THỂ CHUYÊN CHẾ CỦA PRESTER JOHN Chính thể chuyên chế với tư cách một tập hợp của các thể chế chính trị và các hệ quả kinh tế nảy sinh từ nó đã không hạn chế ở châu Âu và châu Á. Nó đã hiện diện ở châu Phi, chẳng hạn, với Vương quốc Kongo, như chúng ta đã thấy ở chương 2. Một thí dụ thậm chí còn kéo dài hơn về chính thể chuyên chế Phi châu là Ethiopia, hay Abyssinia, mà gốc rễ của nó chúng ta đã bắt gặp ở chương 6, khi chúng ta thảo luận về sự nổi lên của chủ nghĩa phong kiến sau sự suy sụp của Aksum. Chính thể chuyên chế Abyssinia thậm chí đã sống lâu hơn chính thể chuyên chế Âu châu, bởi vì nó đã đối mặt với những thách thức rất khác trong các bước ngoặt. Sau khi vua Ezana xứ Aksum cải đạo sang Kitô giáo, những người Ethiopia vẫn theo Kitô giáo, và vào thế kỷ thứ mười bốn họ đã trở thành tiêu điểm của huyền thoại về nhà Vua Prester John. Prester John đã là một nhà vua theo Kitô giáo người đã bị cắt rời khỏi châu Âu bởi sự trỗi dậy của Hồi giáo ở Trung Đông. Ban đầu vương quốc của ông được cho là ở Ấn Độ. Tuy vậy, khi sự hiểu biết Âu châu về Ấn Độ tăng lên, đã hóa ra là không phải vậy. Vua Ethiopia, vì ông theo
  • 255. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 235 Kitô giáo, nên sau đó đã trở thành một mục tiêu tự nhiên cho huyền thoại này. Các vua của Ethiopia thực ra đã cật lực thử tạo các liên minh với các quốc vương Âu châu để chống lại các cuộc xâm lấn của người Arab, gửi các phái đoàn ngoại giao đến châu Âu chí ít từ 1300 trở đi, thậm chí thuyết phục vua Bồ Đào Nha gửi binh lính đến. Những người lính này, cùng với các nhà ngoại giao, các giáo sĩ dòng Jesuit, và các khách lữ hành muốn gặp Prester John, đã để lại nhiều tường thuật về Ethiopia. Một số lý thú nhất từ quan điểm kinh tế học là các tường thuật của Francisco Álvares, một cha tuyên úy đi cùng với một phái đoàn ngoại giao Bồ Đào Nha, người đã ở Ethiopia từ 1520 đến 1527. Ngoài ra, có các tường thuật bởi giáo sĩ dòng Jesuit Manoel de Almeida, người đã sống ở Ethiopia từ 1624, và bởi John Bruce, một khách lữ hành người đã ở đó giữa 1768 và 1773. Các bài viết của những người này cho một tường thuật phong phú về các thể chế chính trị và kinh tế vào thời đó ở Ethiopia và không để lại nghi ngờ nào rằng Ethiopia đã là một mẫu hoàn hảo của chính thể chuyên chế. Đã không có các thể chế đa nguyên thuộc bất cứ loại nào, cũng đã chẳng có sự kiểm soát và ràng buộc lên quyền lực của hoàng đế, người đòi quyền để cai trị trên cơ sở được cho là hậu duệ từ đức Vua Solomon và Hoàng hậu Sheba nổi tiếng. Hệ quả của chính thể chuyên chế đã là sự hết sức không an toàn của các quyền tài sản bị dẫn dắt bởi chiến lược chính trị của hoàng đế. Bruce, chẳng hạn, đã lưu ý rằng tất cả đất đai đều của nhà vua; ngài cho ai đó ngài thích trong lúc vui, và lấy lại khi ngài muốn. Và ngay khi ông chết toàn bộ đất đai trong vương quốc thuộc Quốc vương tùy ý sử dụng; và không chỉ có thế, với cái chết của chủ sở hữu hiện hành, các tài sản của người đó dẫu đã được hưởng lâu đến đâu, đều trở về nhà vua, chứ không thuộc về con trai cả. Álvares đã cho rằng có nhiều “trái cây và sự trồng trọt” hơn rất nhiều “nếu những người vĩ đại đã không đối xử tồi với nhân dân”. Tường thuật của Almeida về xã hội đã hoạt động thế nào là rất nhất quán. Ông đã nhận xét:
  • 256. 236 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Hết sức thông thường đối với hoàng đế để trao đổi, thay đổi và lấy đi đất mà mỗi người nắm giữ mỗi hai hay ba năm, đôi khi mỗi năm và thậm chí nhiều lần trong một năm, điều đó không gây ra sự ngạc nhiên nào. Thường một người cày ruộng, người khác gieo hạt và người khác nữa thu hoạch. Vì thế chẳng ai chăm lo cho đất mà họ được hưởng; thậm chí chẳng có ai trồng cây bởi vì anh ta biết rằng người trồng hiếm khi hái quả. Đối với nhà vua, tuy vậy, là hữu ích rằng họ phải hết sức lệ thuộc vào ông. Những mô tả này gợi ý những sự giống nhau chính giữa các cấu trúc chính trị và kinh tế của Ethiopia và cấu trúc của các chính thể chuyên chế Âu châu, mặc dù chúng cũng làm rõ là, chính thể chuyên chế là gay gắt hơn ở Ethiopia, và các thể chế kinh tế thậm chí còn khai thác hơn. Ngoài ra, như chúng ta đã nhấn mạnh trong chương 6, Ethiopia đã không chịu cùng bước ngoặt mà đã giúp làm xói mòn chế độ chuyên chế ở nước Anh. Nó đã bị cô lập khỏi nhiều quá trình mà đã định hình thế giới hiện đại. Cho dù điều này có không phải vậy, cường độ của chính thể chuyên chế của nó có lẽ đã dẫn chính thể chuyên chế củng cố thậm chí hơn nữa. Thí dụ, như ở Tây Ban Nha, thương mại quốc tế ở Ethiopia, kể cả việc buôn bán nô lệ béo bở, đã được quốc vương kiểm soát. Ethiopia đã không hoàn toàn cô độc: những người Âu châu đã tìm kiếm Prester John, và nó đã phải chiến đấu trong các cuộc chiến tranh chống lại các chính thể Islamic bao quanh. Tuy nhiên, sử gia Edward Gibbon đã nhận xét với sự chính xác nào đó rằng “bị bao quanh từ mọi phía bởi các kẻ thù tôn giáo của họ, những người Ethiopia đã ngủ gần một ngàn năm, quên thế giới bởi những người mà họ đã quên.” Khi sự thuộc địa hóa châu Phi của những người Âu châu bắt đầu trong thế kỷ thứ mười chín, Ethiopia đã là một vương quốc độc lập dưới thời Ras (Công tước) Kassa, người đã được phong làm Hoàng đế Tewodros II trong năm 1855. Tewodros đã bắt đầu một công cuộc hiện đại hóa nhà nước, tạo ra bộ máy hành chính quan liêu và tư pháp tập trung hơn, và một quân đội có khả năng kiểm soát đất nước và có lẽ chiến đấu chống những người Âu châu. Ông đã đặt ra các thống đốc quân sự, chịu trách nhiệm thu thuế và chuyển cho ông, phụ trách tất cả các tỉnh. Các cuộc thương thuyết của ông với các cường quốc Âu châu đã khó khăn, và trong lúc điên tiết ông đã tống giam lãnh sự Anh. Trong năm 1868 những
  • 257. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 237 người Anh đã cử một lực lượng viễn chinh, mà đã cướp phá thủ đô của ông. Tewodros đã tự vẫn. Dẫu sao, chính phủ được xây dựng lại của Tewodros đã xoay xở để có được một trong những thắng lợi lớn chống thực dân của thế kỷ thứ mười chín, chống lại những người Italy. Trong năm 1889 ngai vàng được chuyển cho Menelik II, người ngay lập tức phải đối mặt với sự quan tâm của Italy để lập một thuộc địa ở đó. Năm 1885 thủ tướng Đức Bismarck đã triệu tập một hội nghị tại Berlin nơi các cường quốc Âu châu đã ngấm ngầm dự tính “Tranh giành châu Phi” – tức là, họ đã quyết định chia châu Phi như thế nào thành các lĩnh vực lợi ích khác nhau. Tại hội nghị đó Italy đã đạt được các quyền của mình đối với các thuộc địa ở Eritrea, dọc bờ biển Ethiopia và Somalia. Ethiopia, mặc dù đã không được đại diện tại hội nghị, bằng cách nào đó đã tìm được cách để sống sót nguyên vẹn. Nhưng những người Italy vẫn giữ các ý đồ, và trong năm 1896 họ tiến quân về phía nam từ Eritrea. Sự đáp trả của Menelik đã giống như sự đáp trả của một nhà vua Âu châu thời trung cổ; đông đã lập ra một quân đội bằng cách sai các quý tộc gọi những người được vũ trang của họ nhập ngũ. Cách tiếp cận này đã không thể đưa một quân đội ra chiến trường trong thời gian dài, nhưng đã có thể huy động một đội quân khổng lồ lại với nhau trong thời gian ngắn. Thời gian ngắn này đã vừa đủ để đánh bại những người Italy, mà mười lăm ngàn quân của họ bị áp đảo tràn ngập bởi một trăm ngàn quân của Menelik trong Trận Adowa năm 1896. Đó đã là thất bại quân sự nghiêm trọng nhất mà một nước tiền thuộc địa Phi châu đã có thể giáng xuống một cường quốc Âu châu, và đã giữ được sự độc lập của Ethiopia thêm bốn mươi năm nữa. Hoàng đế cuối cùng của Ethiopia, Ras Tafari, được phong làm hoàng đế Haile Selassie trong năm 1930. Haile Selassie đã cai trị cho đến khi ông bị lật đổ bởi cuộc xâm chiếm lần thứ hai của Italy, mà bắt đầu năm 1935, nhưng ông đã quay trở lại từ chốn lưu đày với sự giúp đỡ của người Anh trong năm 1941. Sau đó ông đã cai trị cho đến khi bị lật đổ trong một cuộc đảo chính năm 1974 bởi Derg, “Ủy ban”, một nhóm Marxist là các sĩ quan quân đội, những người sau đó đã tiếp tục bần cùng hóa và tàn phá đất nước. Các thể chế kinh tế khai thác cơ bản của đế chế Ethiopia chuyên chế, như gult (trang 178), và chủ nghĩa phong kiến được tạo ra sau sự suy tàn của Aksum, đã kéo dài cho đến khi chúng bị xóa bỏ sau cách mạng 1974.
  • 258. 238 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Ngày nay Ethiopia là một trong những nước nghèo nhất thế giới. Thu nhập của một người Ethiopia trung bình bằng khoảng một phần bốn mươi thu nhập của một công dân Anh trung bình. Hầu hết người dân sống ở nông thôn và thực hành nền nông nghiệp đủ sống qua ngày. Họ thiếu nước sạch, điện, và sự tiếp cận đến trường học hay chăm sóc sức khỏe thích hợp. Ước tính tuổi thọ là khoảng năm mươi lăm tuổi và chỉ một phần ba người lớn biết đọc biết viết. Một sự so sánh giữa Anh và Ethiopia bao quát sự bất bình đẳng thế giới. Lý do Ethiopia ở nơi nó ở ngày nay là, không giống ở nước Anh, ở Ethiopia chính thể chuyên chế đã tồn tại dai dẳng cho đến gần đây. Với chính thể chuyên chế, các thể chế kinh tế khai thác và sự nghèo khó đến với quần chúng nhân dân Ethiopia, mặc dù tất nhiên các hoàng đế và giới quý tộc đã hưởng lợi khổng lồ. Nhưng hệ lụy lâu dài nhất của chính thể chuyên chế đã là, xã hội Ethiopia đã không tận dụng được những cơ hội công nghiệp hóa trong thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi, và đấy là nguyên nhân chính của sự nghèo xác nghèo xơ của các công dân của nó hôm nay. NHỮNG ĐỨA CON CỦA SOMAALE Các thể chế chính trị chuyên chế quanh thế giới đã cản trở công nghiệp hóa hoặc một cách gián tiếp, theo cách chúng tổ chức các thể chế kinh tế, hoặc một cách trực tiếp, như chúng ta đã thấy ở Áo-Hungary và Nga. Nhưng chính thể chuyên chế đã không là vật cản trở duy nhất cho sự nổi lên của các thể chế kinh tế bao gồm. Vào buổi ban đầu của thế kỷ thứ mười chín, nhiều phần của thế giới, đặc biệt ở châu Phi, đã thiếu một nhà nước mà có thể cung cấp ngay cả mức tối thiểu luật và trật tự, mà là điều kiện tiên quyết để có một nền kinh tế hiện đại. Đã không có người tương đương của một Peter Đại Đế ở Nga bắt đầu quá trình tập trung hóa chính trị và sau đó tạo dựng chính thể chuyên chế Nga, nói chi đến những người tương đương của nhà Tudor ở nước Anh tập trung hóa nhà nước mà không hoàn toàn phá hủy – hay, chính xác hơn, mà không hoàn toàn có khả năng phá hủy – Quốc hội và các ràng buộc khác lên quyền lực của họ. Không có một mức độ nào đó của sự tập trung chính trị, cho dù các elite của các chính thể Phi châu này đã có muốn chào đón công nghiệp hóa với những cánh tay rộng mở, họ cũng đã chẳng làm được mấy.
  • 259. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 239 Somalia, nằm ở Sừng châu Phi, minh họa các tác động tàn phá ghê gớm của việc thiếu sự tập trung hóa chính trị. Somalia đã bị cai trị về mặt lịch sử bởi những người được tổ chức thành sáu họ thị tộc. Bốn họ thị tộc lớn nhất là, Dir, Darod, Isaq, và Hawiye, tất cả đều truy nguyên tổ tiên của họ về một tổ tiên huyền bí Samaale. Các họ thị tộc này có xuất xứ ở bắc Somalia và dần dần đã lan xuống miền nam và sang miền đông, và ngay cả ngày nay chủ yếu là dân mục đồng, những người di cư với các đàn dê, cừu, và lạc đà của họ. Ở miền nam, những người Digil và Rahanweyn, định cư làm nông nghiệp, tạo thành hai họ thị tộc còn lại. Các lãnh thổ của các họ thị tộc này được vẽ trên Bản đồ 12 (trang 177). Những người Somali đồng nhất mình trước tiên với họ thị tộc của mình, nhưng các họ thị tộc này là rất lớn và chứa nhiều nhóm con. Đầu tiên giữa các nhóm này là các thị tộc mà truy dòng dõi của họ về một trong các họ thị tộc lớn hơn. Quan trọng hơn là các nhóm bên trong các thị tộc được gọi là các nhóm trả-diya, mà gồm có những người bà con họ hàng có quan hệ mật thiết những người trả và thu diya, hay “tài sản máu-blood wealth,” sự đền bù đối với việc giết một thành viên của họ. Các thị tộc Somali và các nhóm trả-diya về mặt lịch sử đã bị khóa chặt vào xung đột hầu như liên miên vì các nguồn lực khan hiếm để tùy họ sử dụng, đặc biệt là các nguồn nước và đất đồng cỏ cho súc vật của họ. Họ cũng liên tục đột kích các bầy của các thị tộc láng giềng và các nhóm trả-diya. Mặc dù các thị tộc có các lãnh đạo gọi là các sultan, và cả những người già, những người này không có quyền lực thực sự. Quyền lực chính trị được phân tán rất rộng, với mỗi người lớn Somali đều có khả năng có tiếng nói của mình về các quyết định mà có thể tác động đến thị tộc hay nhóm. Điều này đạt được thông qua một hội đồng phi hình thức bao gồm tất cả những người đàn ông trưởng thành. Đã không có luật thành văn, không có cảnh sát, và không có hệ thống pháp lý để nói đến, trừ luật Sharia được dùng như một khung khổ mà trong đó các luật phi chính thức được nhúng vào. Các luật phi chính thức đối với một nhóm trả-diya được mã hóa trong cái được gọi là heer (tộc ước), một bộ các nghĩa vụ, các quyền, và các trách nhiệm được trình bày một cách rõ ràng mà nhóm đòi hỏi những người khác tuân theo trong các tương tác của họ với nhóm. Với sự đến của sự cai trị thuộc địa, các heer này bắt đầu được viết thành văn. Thí dụ, dòng dõi Hassan Ugaas đã tạo thành một nhóm trả-diya của khoảng một ngàn năm trăm đàn ông và là một tiểu thị tộc của họ thị tộc Dir ở Somaliland thuộc Anh. Ngày 8-3-1950, heer của họ được nghi lại bởi ủy viên quận Anh, ba điều khoản đầu tiên của nó có nghĩa là
  • 260. 240 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI 1. Khi một người đàn ông Hassan Ugaas bị giết bởi một nhóm bên ngoài, thì hai mươi con lạc đà trong số tài sản máu (100) của anh ta sẽ được bà con gần nhất của anh ta lấy và tám mươi con lạc đà còn lại được chia giữa tất cả những người Hassan Ugaas. 2. Nếu một người đàn ông Hassan Ugaas bị một người ngoài làm bị thương và thương tật của anh ta được đánh giá là ba mươi ba và một phần ba con lạc đà, thì mười con được đưa cho anh ta và số còn lại cho nhóm-jiffo của anh ta (nhóm con của nhóm trả-diya). 3. Tội giết người giữa các thành viên Hassan Ugaas phải chịu một khoản đền bù ở mức ba mươi ba và một phần ba con lạc đà, được trả chỉ cho bà con thân thiết nhất của người đã mất. Nếu thủ phạm không có khả năng trả toàn bộ hay một phần, anh ta sẽ được dòng dõi giúp đỡ. Sự chú tâm mạnh của heer vào việc giết và làm bị thương phản ánh trạng thái chiến tranh hầu như liên miên giữa các nhóm trả-diya và các thị tộc. Trung tâm của việc này đã là tài sản máu và hận thù máu. Một tội chống lại một cá nhân cá biệt là một tội chống lại cả nhóm trả-diya, và đòi hỏi phải đền bù tập thể, tài sản máu. Nếu tài sản máu như vậy không được trả, nhóm trả-diya của kẻ đã giết người đối mặt với sự trừng phạt tập thể của nạn nhân. Khi giao thông hiện đại đến Somalia, tài sản máu được mở rộng ra cho những người bị chết hay bị thương trong các tai nạn giao thông. Heer của Hassan Ugaas đã không chỉ dẫn chiếu đến sự giết người; điều 6 đã là “nếu một người Hassan Ugaas lăng mạ người khác tại một hội đồng Hassan Ugaas anh ta sẽ trả 150 shilling cho bên bị xúc phạm.” Đầu năm 1955, các đàn của hai thị tộc, Habar Tol Ja’lo và Habar Yuunis, đang ăn cỏ gần nhau ở vùng Domberelly. Một người từ thị tộc Yuunis đã bị thương sau một cuộc tranh cãi với một thành viên của thị tộc Tol Ja’lo về chăn lạc đà. Thị tộc Yuunis lập tức trừng phạt, tấn công thị tộc Tol Ja’lo và giết một người. Cái chết này đã dẫn, theo luật tài sản máu, đến việc thị tộc Yunnis đề nghị đền bù cho thị tộc Tol Ja’lo, mà đã được chấp nhận. Người Yuunis đã phải đích thân đưa tài sản máu, như thường lệ bằng lạc đà. Trong lễ trao, một thành viên Tol Ja’lo đã giết một thành viên Yuunis, nhầm anh ta với thành viên của nhóm trả-diya của kẻ giết người. Việc này đã dẫn đến chiến tranh toàn lực, và trong vòng bốn mươi tám giờ
  • 261. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 241 mười ba người Yuunis và hai mươi sáu người Tol Ja’lo đã bị giết. Chiến tranh kéo dài thêm một năm nữa trước khi các già làng từ cả hai thị tộc, do chính quyền thuộc địa Anh dàn hòa, đã tìm được cách môi giới một thương vụ (trao đổi tài sản máu) mà thỏa mãn cả hai phía và được trả trong ba năm tiếp theo. Việc trả tài sản máu đã xảy ra dưới cái bóng của sự đe dọa sức mạnh và sự hận thù, và ngay cả khi nó được trả, nó đã không nhất thiết ngừng xung đột. Thường xung đột lắng xuống và rồi lại bùng lên. Quyền lực chính trị như thế được phân tán rộng trong xã hội Somali, hầu như một cách đa nguyên. Nhưng không có quyền lực của một nhà nước tập trung để thực thi trật tự, nói chi đến các quyền tài sản, thì việc này dẫn không đến các thể chế bao gồm. Chẳng ai tôn trọng quyền hạn của người khác, và chẳng ai, kể cả nhà nước thuộc địa Anh khi cuối cùng nó đã đến, đã có khả năng áp đặt trật tự. Sự thiếu tập trung hóa chính trị đã làm cho là không thể đối với người Somali để hưởng lợi từ Cách mạng Công nghiệp. Trong một bầu không khí như vậy là không thể tưởng tượng nổi để đầu tư vào hay chấp nhận các công nghệ mới bắt nguồn từ Anh, hay quả thực để tạo ra loại tổ chức cần thiết để làm vậy. Hoạt động chính trị phức tạp của Somalia đã thậm chí có các hệ lụy tế nhị hơn đối với tiến bộ kinh tế. Chúng ta đã nhắc tới ở trước một vài trong số các câu đố công nghệ lớn của lịch sử châu Phi. Trước sự mở rộng của sự cai trị thuộc địa vào cuối thế kỷ thứ mười chín, các xã hội Phi châu đã không sử dụng bánh xe trong giao thông hay cày trong nông nghiệp, và ít xã hội có chữ viết. Ethiopia đã có như chúng ta đã thấy. Những người Somali cũng đã có chữ viết, nhưng không giống những người Ethiopia, họ đã không sử dụng nó. Chúng ta đã thấy rồi các trường hợp thế này trong lịch sử Phi châu. Các xã hội Phi châu đã có thể không sử dụng bánh xe hay cày, nhưng chắc chắn họ biết về chúng. Trong trường hợp của vương quốc Kongo mà chúng ta đã thấy, đấy đã cơ bản là do sự thực rằng các thể chế kinh tế đã không tạo ra các khuyến khích nào cho người dân để chấp nhận làm theo các công nghệ này. Liệu cùng các vấn đề có thể nảy sinh với sự chấp nhận chữ viết hay không? Chúng ta có thể có được cảm nhận nào đó về điều này từ Vương quốc Taqali, nằm ở tây bắc Somalia, ở Nuba Hills của nam Sudan. Vương quốc Taqali được hình thành trong cuối thế kỷ thứ mười tám bởi một băng nhóm chiến binh đứng
  • 262. 242 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI đầu bởi một người gọi là Isma’il, và nó đã vẫn độc lập cho đến khi được hợp nhất vào Đế chế Anh trong năm 1884. Các vua và nhân dân Taqali đã biết đến chữ viết Arab, nhưng nó đã không được sử dụng – trừ bởi các vua, cho việc liên lạc bên ngoài với các chính thể khác và thư từ ngoại giao. Đầu tiên tình hình này có vẻ rất khó hiểu. Tường thuật truyền thống về nguồn gốc của chữ viết ở Mesopotamia là, nó đã được phát triển bởi nhà nước để ghi thông tin, kiểm soát người dân, và thu thuế. Chẳng phải nhà nước Taqali đã không quan tâm đến việc này? Những vấn đề này được nghiên cứu bởi sử gia Janet Ewald vào cuối các năm 1970 khi bà đã thử tái dựng lịch sử của nhà nước Taqali. Một phần của câu chuyện là, các công dân đã chống lại việc sử dụng chữ viết bởi vì họ đã sợ rằng nó được dùng để kiểm soát các nguồn lực, như đất đai có giá trị, bằng cách cho phép nhà nước đòi quyền sở hữu. Họ cũng đã sợ rằng nó sẽ dẫn đến sự đánh thuế có hệ thống hơn. Triều đại mà Isma’il khởi động đã không quện lại thành một nhà nước hùng mạnh. Cho dù ông đã có muốn, nhà nước đã không đủ mạnh để áp đặt ý chí của nó lên trên những sự phản đối của các công dân. Nhưng đã có các nhân tố khác, tế nhị hơn, đang tác động. Các elite khác nhau cũng chống đối sự tập trung hóa chính trị, chẳng hạn, thích giao tiếp bằng lời hơn bằng văn bản với các công dân, bởi vì việc này đã cho phép họ tự do định đoạt một cách tối đa. Khó có thể rút lại hay từ chối các luật hay các mệnh lệnh thành văn và cũng khó để thay đổi chúng; chúng tạo ra các điểm mốc chuẩn mà các elite cai trị có thể muốn đảo ngược. Như thế cả những người bị trị lẫn những kẻ cai trị của Taqali đều không thấy việc đưa chữ viết vào là có lợi cho họ. Kẻ bị trị đã sợ những người cai trị sẽ dùng nó ra sao, và bản thân những người cai trị thấy sự thiếu chữ viết như sự giúp đỡ cho sự nắm quyền lực khá bấp bênh của họ. Chính trị của Taqali đã là cái giữ chữ viết không được đưa vào. Thế nhưng những người Somali thậm chí đã có ít giới elite được xác định rõ, khi so với vương quốc Taqali, nên hoàn toàn có vẻ hợp lý rằng cùng các lực đã kiềm chế việc họ sử dụng chữ viết và các công nghệ cơ bản khác. Trường hợp Somali cho thấy các hệ quả của sự thiếu tập trung hóa chính trị đối với tăng trưởng kinh tế. Tài liệu lịch sử không ghi lại các trường hợp về các nỗ lực để tạo ra sự tập trung hóa như vậy ở Somalia. Tuy nhiên, là rõ vì sao việc này đã rất khó. Để tập trung hóa về mặt chính trị đã phải có nghĩa rằng thị tộc nào đó phải chịu sự kiểm soát của các thị tộc khác. Nhưng họ đã từ chối bất cứ sự thống
  • 263. KHÔNG TRÊN LÃNH THỔ CỦA CHÚNG TÔI ● 243 trị nào như vậy, và sự từ bỏ quyền lực của họ mà điều này đòi hỏi; sự cân bằng sức mạnh quân sự trong xã hội cũng làm cho khó để tạo ra các thể chế tập trung như vậy. Thực ra, rất có khả năng là bất cứ nhóm hay thị tộc nào thử tập trung quyền lực sẽ không chỉ phải đối mặt với sự chống đối khốc liệt mà cũng sẽ mất quyền lực và đặc quyền hiện tồn của nó. Như một hệ quả của sự thiếu tập trung hóa chính trị và sự thiếu an toàn cơ bản của các quyền tài sản bị kéo theo, xã hội Somali đã chẳng bao giờ tạo ra các khuyến khích để đầu tư vào các công nghệ nâng cao năng suất. Khi quá trình công nghiệp hóa đã đang tiến triển ở các phần khác của thế giới trong thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi, thì những người Somali mang mối thù hận và tự lo liệu cho cuộc sống của họ, và sự lạc hậu kinh tế của họ đã trở nên ăn sâu thêm. SỰ LẠC HẬU KÉO DÀI Cách mạng Công nghiệp đã tạo ra một bước ngoặt biến đổi cho toàn bộ thế giới trong thế kỷ thứ mười chín và xa hơn: các xã hội, mà đã cho phép và đã tạo khuyến khích cho các công dân của mình đầu tư vào các công nghệ mới, đã có thể phát triển nhanh chóng. Nhưng nhiều xã hội quanh thế giới đã không làm được thế – hay đã chọn một cách tường minh để không làm thế. Các quốc gia dưới ách của các thể chế chính trị và kinh tế khai thác đã không tạo ra các khuyến khích như vậy. Tây Ban Nha và Ethiopia cung cấp các thí dụ nơi sự kiểm soát chuyên chế đối với các thể chế chính trị và các thể chế kinh tế khai thác bị kéo theo đã bóp nghẹt các khuyến khích kinh tế trước xa buổi bình minh của thế kỷ thứ mười chín. Kết quả đã giống nhau trong các chế độ chuyên chế khác – thí dụ, ở Áo- Hungary, Nga, Đế chế Ottoman, và Trung Quốc, mặc dù trong các trường hợp này các nhà cai trị, bởi vì nỗi sợ sự phá hủy sáng tạo, đã không chỉ sao lãng cổ vũ tiến bộ kinh tế mà còn đưa ra các bước cụ thể để cản trở sự mở rộng công nghiệp và việc đưa các công nghệ mới vào mà sẽ dẫn đến công nghiệp hóa. Chính thể chuyên chế không phải là hình thức duy nhất của các thể chế chính trị khai thác và đã không là nhân tố duy nhất ngăn công nghiệp hóa. Các thể chế chính trị và kinh tế bao gồm cần đến mức độ nào đó của sự tập trung hóa chính trị sao cho nhà nước có thể thực thi luật pháp và trật tự, ủng hộ các quyền tài sản, và cổ vũ hoạt động kinh tế khi cần thiết bằng đầu tư vào các dịch vụ công. Thế
  • 264. 244 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI nhưng ngay cả hiện nay, nhiều quốc gia, như Afghanistan, Haiti, Nepal, và Somalia, có các nhà nước mà không có khả năng duy trì trật tự thô sơ nhất, và các khuyến khích kinh tế hầu như bị hủy hoại. Trường hợp của Somalia minh họa bằng cách nào quá trình công nghiệp hóa cũng đã bỏ qua các xã hội như vậy. Sự tập trung hóa chính trị bị chống lại vì cùng lý do mà các chế độ chuyên chế chống lại sự thay đổi: nỗi sợ thường được đặt đúng chỗ rằng sự thay đổi sẽ phân bổ lại quyền lực từ những người đang thống trị hôm nay sang các cá nhân và các nhóm mới. Như thế, một chính thể chuyên chế cản các bước đi theo hướng chủ nghĩa đa nguyên và sự thay đổi kinh tế, các elite truyền thống và các thị tộc thống trị các xã hội mà không có nhà nước tập trung cũng làm vậy. Như một hệ quả, các xã hội vẫn thiếu sự tập trung hóa như vậy trong các thế kỷ thứ mười tám và mười chín đã đặc biệt bất lợi trong thời đại công nghiệp. Trong khi nhiều thứ khác nhau của các thể chế khai thác trải từ chính thể chuyên chế đến các nhà nước với ít tập trung hóa đã không tận dụng được lợi thế của sự mở rộng công nghiệp, bước ngoặt của Cách mạng Công nghiệp đã có những tác động rất khác trong các phần khác của thế giới. Như chúng ta sẽ thấy trong chương 10, các xã hội mà đã có các bước theo hướng các thể chế bao gồm, như Hoa Kỳ và Australia, và các xã hội nơi chính thể chuyên chế đã bị thách thức nghiêm trọng hơn, như Pháp và Nhật Bản, đã tận dụng được các cơ hội kinh tế mới này và đã bắt đầu một quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh. Như thế, hình mẫu thông thường của sự tương tác giữa một bước ngoặt và những khác biệt thể chế hiện tồn dẫn đến sự phân kỳ thêm nữa về thể chế chính trị và kinh tế đã diễn ra lần nữa trong thế kỷ thứ mười chín, và lần này với một tiếng nổ thậm chí còn lớn hơn và các tác động cơ bản hơn lên sự thịnh vượng và nghèo khó của các quốc gia.
  • 283. 9. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC GIA VỊ VÀ TỘI DIỆT CHỦNG UẦN ĐẢO MOLUCCA ở Indonesia hiện đại gồm ba nhóm đảo. Đầu thế kỷ thứ mười bảy, bắc Molucca đã là chỗ ở cho ba vương quốc độc lập, các vương quốc Tidore, Ternate, và Bacan. Giữa Molucca đã là xứ sở của vương quốc đảo Ambon. Ở phía nam là các đảo Banda, một quần đảo nhỏ chưa được thống nhất về mặt chính trị. Mặc dù có vẻ xa lạ đối với chúng ta hiện nay, quần đảo Molucca khi đó đã là trung tâm đối với thương mại thế giới với tư cách là những nhà sản xuất duy nhất các gia vị có giá trị đinh hương, mace (gia vị làm từ vỏ khô của hạt nhục đậu khấu), và nutmeg (nhục đậu khấu). Trong các thứ này nutmeg và mace chỉ trồng ở các đảo Banda. Dân cư của các đảo này đã sản xuất và xuất khẩu các gia vị hiếm này để đổi lấy thực phẩm và các hàng hóa chế tác đến từ đảo Java, từ trung tâm xuất nhập khẩu Melaka ở Bán đảo Malaysia, và từ Ấn Độ, Trung Quốc, và Arabia. Tiếp xúc đầu tiên mà các cư dân đã có với những người Âu châu đã là trong thế kỷ thứ mười sáu, với các thủy thủ Bồ Đào Nha những người đến mua gia vị. Trước đó gia vị đã phải chuyển qua Trung Đông, qua các con đường thương mại bị Đế chế Ottoman kiểm soát. Những người Âu châu đã tìm kiếm một lối quanh châu Phi hay qua Đại Tây Dương để có được sự tiếp cận trực tiếp đến các Đảo Gia Vị và việc buôn bán gia vị. Thủy thủ Bồ Đào Nha Bartolemeu Dias đã đi vòng quanh Mũi Hảo Vọng năm 1488, và Vasco de Gama đã tới Ấn Độ cùng bằng con đường đó trong năm 1498. Bây giờ lần đầu tiên những người Âu châu đã có con đường độc lập của họ đến các Đảo Gia Vị. Những người Bồ Đào Nha đã ngay lập tức bắt đầu nhiệm vụ thử kiểm soát buôn bán gia vị. Họ đã chiếm Melaka năm 1511. Nằm ở vị trí chiến lược bên phía Q
  • 284. 246 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI tây của Bán đảo Malaysia, các nhà buôn từ khắp Đông Nam Á đã đến đây để bán gia vị của họ cho các nhà buôn khác, các nhà buôn Ấn Độ, Trung Quốc, Arab, những người sau đó chuyển chúng đi nơi khác, đến phương Tây. Như khách lữ hành Bồ Đào Nha diễn đạt trong năm 1515: “Thương mại và sự buôn bán giữa các quốc gia suốt cả ngàn hải lý ở mọi nơi đều phải đến Melaka … Bất kể ai là chúa tể của Melaka người đó để tay lên cổ họng Venice.” Với Melaka trong tay họ, những người Bồ Đào Nha đã thử một cách có hệ thống để có được một sự độc quyền về buôn bán gia vị có giá trị. Họ đã thất bại.
  • 285. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 247 Các đối thủ mà họ đối mặt đã không phải là không đáng kể. Giữa các thế kỷ thứ mười bốn và mười sáu, đã có nhiều phát triển kinh tế ở Đông Nam Á dựa trên buôn bán gia vị. Các thành-quốc như Aceh, Banten, Melaka, Makassar, Pengu, và Brunei đã mở rộng nhanh chóng, sản xuất và xuất khẩu gia vị cùng với các sản phẩm khác như gỗ cứng. Các nhà nước này đã có các hình thức chính phủ chuyên chế giống như ở châu Âu trong cùng thời kỳ. Sự phát triển của các thể chế chính trị đã được kích thích bởi các quá trình tương tự, kể cả sự thay đổi công nghệ trong các phương pháp chiến tranh và thương mại quốc tế. Các thể chế nhà nước đã trở nên tập trung hơn, với một vị vua ở trung tâm đòi quyền lực tuyệt đối. Giống các nhà cai trị chuyên chế ở châu Âu, các vị vua Đông Nam Á đã dựa nhiều vào thu nhập từ buôn bán, cả tự mình tham gia buôn bán lẫn cấp độc quyền cho các elite địa phương và nước ngoài. Như ở châu Âu chuyên chế, việc này đã tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nào đó, nhưng đã là một tập hợp còn xa mới lý tưởng của các thể chế kinh tế cho sự thịnh vượng kinh tế, với các rào cản tham gia đáng kể và nhất là các quyền tài sản không an toàn. Nhưng quá trình thương mại hóa được tiến hành ngay cả khi người Bồ Đào Nha đã thử thiết lập thế thống trị ở Ấn Độ Dương. Sự hiện diện của những người Âu châu đã phình lên và đã có tác động lớn hơn nhiều với sự đến của người Hà Lan. Những người Hà Lan đã mau chóng nhận ra rằng sự độc quyền cung ứng các gia vị có giá trị của Molucca sẽ có lợi nhuận hơn rất nhiều so với việc cạnh tranh với các nhà buôn địa phương hay Âu châu khác. Trong năm 1600 họ đã thuyết phục nhà cai trị của Ambon để ký một thỏa thuận độc quyền mà đã cho họ độc quyền về buôn bán đinh hương ở Ambon. Với việc thành lập Công ty Đông Ấn Hà Lan trong năm 1602, những người Hà Lan thử chiếm toàn bộ việc buôn bán gia vị và loại bỏ các đối thủ của họ, bằng đủ mọi cách, đã có chiều hướng tốt lên cho những người Hà Lan và tồi đi cho Đông Nam Á. Công ty Đông Ấn Hà Lan đã là công ty cổ phần Âu châu thứ hai, tiếp sau Công ty Đông Ấn Anh, các cột mốc chính của sự phát triển công ty hiện đại, mà rồi sau đó sẽ đóng một vai trò lớn trong tăng trưởng công nghiệp Âu châu. Nó cũng đã là công ty thứ hai có quân đội riêng của mình và có sức mạnh để tiến hành chiến tranh và thuộc địa hóa các vùng đất nước ngoài. Với sức mạnh quân sự của công ty được sử dụng bây giờ, những người Hà Lan đã tiếp tục để loại tất cả những kẻ xen ngang tiềm năng để thực thi thỏa ước của họ với nhà cai trị
  • 286. 248 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Ambon. Họ đã chiếm một pháo đài then chốt do những người Bồ Đào Nha giữ trong năm 1605 và bằng vũ lực đã đuổi tất cả các nhà buôn khác. Sau đó họ đã mở rộng lên bắc Molucca, buộc các nhà cai trị Tidore, Ternate, và Bacan thống nhất rằng không đinh hương nào được trồng hay buôn bán trong các lãnh thổ của họ. Thỏa ước mà họ áp đặt lên Ternate thậm chí đã cho phép những người Hà Lan đến và phá hủy bất cứ cây đinh hương nào họ thấy ở đó. Ambon đã được cai trị theo cách giống phần lớn châu Âu và châu Mỹ trong thời đó. Các công dân Ambon đã cống nạp cho nhà cai trị và phải chịu làm việc cưỡng bức. Những người Hà Lan đã tiếp quản và tăng cường các hệ thống này để khai thác nhiều lao động và đinh hương hơn từ hòn đảo. Trước khi những người Hà Lan đến, các đại gia đình đã nộp đồ cống bằng đinh hương cho các elite Ambon. Những người Hà Lan bây giờ quy định rằng mỗi hộ gia đình gắn với đất và phải trồng một số cây đinh hương nhất định. Các hộ gia đình cũng bắt buộc phải lao động cưỡng bức cho những người Hà Lan. Những người Hà Lan cũng đã nắm quyền kiểm soát các Đảo Banda, dự định lần này để độc quyền mace và nutmeg. Nhưng các Đảo Banda đã được tổ chức rất khác với Ambon. Chúng bao gồm nhiều thành-quốc tự trị nhỏ, và đã không có cấu trúc thứ bậc xã hội hay cấu trúc chính trị. Các nhà nước nhỏ này, trong thực tế không hơn các thị trấn nhỏ, được vận hành bởi các cuộc họp làng của các công dân. Đã không có nhà chức trách trung ương người mà những người Hà Lan đã có thể ép buộc ký một thỏa ước độc quyền và đã không có hệ thống cống nạp nào để họ tiếp quản và chiếm toàn bộ cung nutmeg và mace. Đầu tiên điều này đã có nghĩa rằng những người Hà Lan đã phải cạnh tranh với các nhà buôn Anh, Bồ Đào Nha, Ấn Độ, và Trung Quốc, để mất gia vị cho các đối thủ cạnh tranh khi họ đã không trả giá đủ cao. Các kế hoạch ban đầu về dựng lên một sự độc quyền về mace và nutmeg đã bị tan vỡ, thống đốc Hà Lan của Batavia, Jan Pieterszoon Coen, đã nghĩ ra một kế hoạch khác. Coen đã lập ra Batavia, trên đảo Java, như thủ đô mới của Công ty Đông Ấn Hà Lan trong năm 1618. Trong năm 1621 ông ta đã đi đến Banda với một đội tàu và tiến hành tàn sát hầu như toàn bộ dân cư của các đảo, có lẽ khoảng mười lăm ngàn người. Tất cả các nhà lãnh đạo của họ đã bị hành hình với những người còn lại, và chỉ để lại vài người còn sống, đủ để duy trì know-how cần thiết cho sản xuất mace và nutmeg. Sau khi cuộc diệt chủng này hoàn tất, rồi Coen đã tiếp tục tạo ra cấu trúc chính trị và kinh tế cần thiết cho
  • 287. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 249 kế hoạch của ông ta: một xã hội đồn điền. Các hòn đảo được chia ra thành sáu mươi tám mảnh, mà được trao cho sáu mươi tám người Hà Lan, hầu hết là những người đã hay đang là nhân viên của Công ty Đông Ấn Hà Lan. Những chủ đồn điền này được số ít những người Banda sống sót dạy làm thế nào để sản xuất gia vị và đã có thể mua nô lệ từ Công ty Đông Ấn đến ở các đảo bây giờ trống không để sản xuất gia vị, mà sẽ phải bán lại cho công ty với giá cố định. Các thể chế khai thác được những người Hà Lan tạo ra ở các Đảo Gia Vị đã có các kết quả mong muốn, mặc dù, ở Banda với cái giá của mười lăm ngàn sinh mạng vô tội và việc thiết lập một tập các thể chế chính trị và kinh tế mà buộc các đảo này không phát triển được. Vào cuối thế kỷ thứ mười bảy, những người Hà Lan đã làm giảm cung của các gia vị này khoảng 60 phần trăm và giá nutmeg đã tăng gấp đôi. Những người Hà Lan đã mở rộng chiến lược được họ hoàn thiện ở Molucca ra toàn vùng, với những hệ lụy sâu sắc cho các thể chế chính trị và kinh tế của phần còn lại của Đông Nam Á. Sự mở rộng thương mại lâu đời của nhiều nhà nước trong vùng, mà đã bắt đầu từ thế kỷ thứ mười bốn, đã bị đảo ngược. Ngay cả các chính thể, mà đã không bị thuộc địa hóa trực tiếp và bị đè nát bởi Công ty Đông Ấn Hà Lan, cũng đã quay sang hướng nội và từ bỏ thương mại. Sự thay đổi kinh tế và chính trị vừa mới nảy sinh ở Đông Nam Á đã bị tạm dừng trên con đường của nó. Để tránh sự đe dọa của Công ty Đông Ấn Hà Lan, nhiều nhà nước đã từ bỏ sản xuất các cây trồng cho xuất khẩu và ngừng hoạt động thương mại. Sự tự cấp tự túc là an toàn hơn sự đối mặt với người Hà Lan. Trong năm 1620 nhà nước Banten, trên đảo Java, đã đẵn những cây hồ tiêu của nó với hy vọng rằng việc này sẽ khiến những người Hà Lan để cho nó yên. Khi một nhà buôn Hà Lan đến thăm Maguindanao, ở nam Phillipines, trong năm 1686, người ta bảo ông, “Nutmeg và đinh hương có thể mọc ở đây hệt như ở Malaku. Chúng không có ở đó bây giờ bởi vì Rajna già đã phá sạch chúng trước khi ông chết. Ông đã sợ Công ty Hà Lan sẽ đến để dánh nhau với họ về nó.” Điều mà một nhà buôn đã nghe được về nhà cai trị Maguindanao trong năm 1699 cũng tương tự: “Ông đã cấm tiếp tục trồng hồ tiêu để cho ông không thể bị dính líu vào chiến tranh dù với công ty [Hà Lan] hay với kẻ thống trị khác.” Đã có sự thoái-đô thị hóa và thậm chí sự giảm dân số.
  • 288. 250 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Trong năm 1635 những người Miến Điện đã chuyển thủ đô của họ từ Pegu, ở gần bờ biển, đến Ava, sâu vào trong đất liền trên Sông Irrawaddy. Chúng ta không biết con đường phát triển của các nước Đông Nam Á đã là con đường nào giả như không có sự xâm lược của Hà Lan. Họ có thể đã phát triển nhãn mác chính thể chuyên chế của riêng họ, họ có thể vẫn ở trong cùng trạng thái mà họ đã ở vào cuối thế kỷ thứ mười sáu, hay họ đã có thể tiếp tục sự thương mại hóa của họ bằng cách dần dần chấp nhận các thể chế ngày càng bao gồm hơn. Nhưng như ở Molucca, chủ nghĩa thuộc địa Hà Lan đã làm thay đổi cơ bản sự phát triển kinh tế và chính trị của họ. Người dân ở Đông Nam Á đã ngừng buôn bán, chuyển sang hướng nội, và trở nên chuyên chế hơn. Trong hai thế kỷ tiếp theo, họ đã không ở trong vị thế nào để tận dụng lợi thế của những đổi mới mà sẽ xuất hiện trong Cách mạng Công nghiệp. Và cuối cùng sự rút lui của họ khỏi thương mại đã không cứu được họ khỏi những người Âu châu; vào cuối thế kỷ thứ mười tám, gần như tất cả đã là phần của các đế chế thuộc địa Âu châu. CHÚNG TA ĐÃ THẤY ở chương 7 sự mở rộng của châu Âu vào Đại Tây Dương đã tiếp nhiên liệu ra sao cho sự nổi lên của các thể chế bao gồm ở Anh. Nhưng như được minh họa bởi kinh nghiệm của Molucca dưới thời Hà Lan, sự mở rộng này đã gieo các hạt chậm phát triển ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới bằng cách áp đặt các thể chế khai thác, hay tăng cường thêm các thể chế khai thác hiện tồn. Những việc này hoặc một cách trực tiếp hay một cách gián tiếp đã tiêu diệt hoạt động thương mại và công nghiệp manh nha trên khắp thế giới hay chúng đã duy trì mãi các thể chế ngăn chặn công nghiệp hóa. Như một kết quả, khi công nghiệp hóa lan ra một số phần của thế giới, các nơi đã là bộ phận của các đế chế thuộc địa Âu châu đã chẳng có cơ hội nào để hưởng lợi từ những công nghệ mới này. THỂ CHẾ QUÁ THÔNG THƯỜNG Ở Đông Nam Á, sự mở rộng của sức mạnh hải quân và thương mại Âu châu trong thời kỳ đầu hiện đại đã tước mất một thời kỳ hứa hẹn về mở rộng kinh tế và thay đổi thể chế. Trong cùng thời kỳ khi Công ty Đông Ấn Hà Lan mở rộng, một loại buôn bán rất khác đang tăng cường ở châu Phi: buôn bán nô lệ.
  • 289. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 251 Ở Hoa Kỳ, chế độ nô lệ miền nam đã thường được nhắc đến như “thể chế đặc biệt.” Nhưng về mặt lịch sử, như học giả kinh điển vĩ đại Moses Findlay đã chỉ ra, chế độ nô lệ chẳng hề đặc biệt chút nào, nó đã hiện diện hầu như trong mọi xã hội. Nó đã, như chúng ta đã thấy ở trước, là căn bệnh địa phương ở La Mã cổ xưa và ở châu Phi, một nguồn nô lệ lâu đời cho châu Âu, mặc dù không phải là nguồn duy nhất. Trong thời kỳ La Mã các nô lệ đến từ những người Slavic quanh Biển Đen, từ Trung Đông, và cũng từ Bắc Âu. Nhưng vào năm 1400 những người Âu châu đã chấm dứt bắt nhau làm nô lệ. Châu Phi, tuy vậy, như chúng ta đã thấy ở chương 6, đã không trải qua sự chuyển đổi từ chế độ nô lệ sang chế độ nông nô như châu Âu trung cổ đã chuyển. Trước đầu thời kỳ hiện đại, đã có sự buôn bán nô lệ sôi động ở Đông Phi, và số đông nô lệ đã được vận chuyển ngang Sahara đến Bán đảo Arabia. Hơn nữa, các quốc gia Tây Phi trung cổ lớn, Mali, Ghana, và Songhai đã sử dụng nhiều nô lệ trong chính phủ, quân đội, và nông nghiệp, chấp nhận theo các mô hình từ các quốc gia Hồi giáo Bắc Phi mà họ buôn bán với. Sự phát triển của các thuộc địa đồn điền mía ở Caribe bắt đầu vào đầu thế kỷ thứ mười bảy đã là cái dẫn đến một sự leo thang đầy kịch tính của sự buôn bán nô lệ quốc tế và đến một sự gia tăng chưa từng có về tầm quan trọng của chế độ nô lệ ở bên trong bản thân châu Phi. Trong thế kỷ thứ mười sáu, có lẽ khoảng 300.000 nô lệ đã được bán qua Đại Tây Dương. Họ đến chủ yếu từ Trung Phi, với sự dính líu sâu của Kongo và những người Bồ Đào Nha đóng xa hơn về phía nam ở Luanda, bây giờ là thủ đô của Angola. Trong thời gian này, buôn bán xuyên Sahara vẫn đã lớn hơn, có lẽ với khoảng 550.000 người châu Phi chuyển lên phương bắc làm nô lệ. Trong thế kỷ thứ mười bảy, tình hình đã đảo ngược. Khoảng 1.350.000 người châu Phi đã được bán như nô lệ trong thương mại Đại Tây Dương, đa số bây giờ được chuyển sang châu Mỹ. Con số liên quan đến buôn bán xuyên Sahara đã không thay đổi một cách tương đối. Thế kỷ thứ mười tám đã thấy một sự gia tăng đột ngột nữa, với khoảng 6.000.000 nô lệ được chuyển qua Đại Tây Dương và có thể 700.000 qua Sahara. Cộng các số trong các thời kỳ và các phần của châu Phi, hơn 10.000.000 người châu Phi đã bị chuyển ra khỏi châu lục như các nô lệ. Bản đồ 15 (trang sau) cho một cảm nhận nào đó về quy mô của buôn bán nô lệ. Sử dụng các đường biên giới hiện đại, nó miêu tả sự ước lượng mức độ tích lũy
  • 290. 252 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI của tình trạng nô lệ giữa năm 1400 và 1900 như phần trăm của dân số trong năm 1400. Các màu thẫm hơn cho thấy tình trạng nô lệ mạnh hơn. Thí dụ, ở Angola, Benin, Ghana, và Togo, tổng tích lũy của xuất khẩu nô lệ lớn hơn toàn bộ dân số của nước đó trong năm 1400. Sự xuất hiện đột ngột của những người Âu châu khắp vùng ven biển Tây và Trung Phi hăm hở mua nô lệ không còn cách nào khác đã có một tác động biến đổi lên các xã hội Phi châu. Hầu hết nô lệ, mà được chở sang châu Mỹ, đã là những người bị bắt trong chiến tranh và rồi được chở ra ven biển. Sự tăng lên của
  • 291. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 253 chiến tranh đã được thổi bùng bởi lượng nhập khẩu khổng lồ về súng và đạn dược, mà những người Âu châu đổi lấy nô lệ. Vào năm 1730 khoảng 180.000 súng đã được nhập khẩu mỗi năm chỉ dọc theo duyên hải Tây Phi, và giữa 1750 và đầu thế kỷ mười tám, riêng những người Anh đã bán giữa 283.000 và 394.000 súng một năm. Giữa năm 1750 và 1807, người Anh đã bán một lượng đặc biệt 22.000 tấn thuốc súng, khiến cho trung bình là 384.000 kg một năm, cùng với 91.000 kg chì mỗi năm. Xa hơn xuống phía nam, việc buôn bán cũng sôi động như thế. Bên bờ Loango, bắc Vương quốc Kongo, những người Âu châu đã bán 50.000 súng mỗi năm. Tất cả các cuộc chiến tranh và xung đột này đã không chỉ gây ra những thiệt hại to lớn về sinh mệnh và sự đau khổ con người mà cũng khởi động một con đường đặc biệt của sự phát triển thể chế ở châu Phi. Trước đầu thời kỳ hiện đại, các xã hội Phi châu đã ít tập trung về mặt chính trị hơn các xã hội Á-Âu. Hầu hết các chính thể đã có quy mô nhỏ, với các thủ lĩnh bộ lạc và có lẽ các ông vua kiểm soát đất và các nguồn lực. Nhiều xã hội, như chúng ta đã thấy ở Somalia, đã không hề có cấu trúc quyền lực chính trị có thứ bậc nào cả. Sự buôn bán nô lệ đã khởi động hai quá trình chính trị có hại. Thứ nhất, nhiều chính thể ban đầu đã trở nên chuyên chế hơn, được tổ chức xung quanh một mục đích duy nhất: nô lệ hóa và bán những người khác cho bọn buôn nô lệ Âu châu. Thứ hai, như một hệ quả nhưng, nghịch lý thay, đối nghịch với quá trình thứ nhất, việc đánh nhau và bắt nhau làm nô lệ cuối cùng đã phá hủy bất cứ trật tự và quyền lực nhà nước hợp pháp nào đã tồn tại ở châu Phi hạ-Sahara. Trừ chiến tranh ra, các nô lệ cũng đã bị bắt cóc và bắt bởi các cuộc đột kích cướp bóc nhỏ. Luật cũng đã trở thành một công cụ của sự nô dịch hóa. Bất luận phạm tội gì, hình phạt đã là bắt làm nô lệ. Nhà buôn Anh Francis Moore đã quan sát các hậu quả của tình trạng này dọc bờ biển Senegambia ở Tây Phi năm trong các năm 1730: Kể từ khi việc buôn bán nô lệ này được sử dụng, mọi sự trừng phạt bị biến thành sự nô lệ; có một lợi thế về những sự kết tội như vậy, chúng làm căng đối với các tội phạm rất khắc nghiệt, nhằm được lợi từ việc bán phạm nhân. Không chỉ tội giết người, trộm cắp và tội ngoại tình bị trừng phát bằng cách bán kẻ phạm tội làm nô lệ, mà mọi vụ lặt vặt cũng bị trừng phạt theo cùng cách.
  • 292. 254 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Các thể chế, ngay cả các thể chế tôn giáo, đã trở nên đồi bại bởi mong muốn để bắt và bán các nô lệ. Một thí dụ là bậc thánh nổi tiếng tại Archukwa, ở đông Nigeria. Bậc thánh được tin một cách rộng rãi rằng ngài nói thay một một vị thần quan trọng trong vùng được kính trọng bởi các nhóm sắc tộc chính ở địa phương, những người ljaw, lbibio và lgbo. Người ta đã tiếp cận bậc thánh để giải quyết các tranh chấp và xét xử những bất đồng. Các nguyên đơn, những người đi đến Archukwa để gặp bậc thánh, đã phải từ thị trấn xuống một hẻm núi của Sông Cross, nơi bậc thánh ở trong một hang cao, mà mặt trước hang được xếp bằng các sọ người. Các giáo sĩ của bậc thánh, liên minh với những kẻ buôn nô lệ và các nhà buôn Aro, sẽ thực thi quyết định của bậc thánh. Thường việc này dính líu đến họ bị bậc thánh “nuốt”, mà thực ra đã có nghĩa rằng một khi họ đã qua hang, họ bị dẫn xuống Sông Cross và xuống các tàu của những người Âu châu đang đợi. Quá trình này, mà trong đó mọi luật và tập quán bị bóp méo và bị vi phạm để bắt các nô lệ và nhiều nô lệ hơn, đã có các tác động tàn phá ghê gớm lên sự tập trung hóa chính trị, mặc dù tại một số nơi nó đã dẫn đến sự nổi lên của các nhà nước hùng mạnh mà raison d’être (lý do tồn tại) chủ yếu của nó đã là cướp bóc và bắt làm nô lệ. Bản thân Vương quốc Kongo có lẽ đã là nhà nước Phi châu đầu tiên trải nghiệm một sự biến hóa thành một nhà nước nô lệ hóa, cho đến khi nó bị phá hủy bởi nội chiến. Các nhà nước nô lệ hóa khác nảy sinh một cách nổi bật ở Tây Phi và đã bao gồm Oyo ở Nigeria, Dahomey ở Benin, và sau đó Asante ở Ghana. Sự mở rộng của nhà nước Oyo giữa thế kỷ thứ mười bảy, chẳng hạn, đã liên quan trực tiếp đến sự gia tăng của xuất khẩu nô lệ ở miền duyên hải. Sức mạnh của nhà nước đã là kết quả của một cuộc cách mạng quân sự mà đã dính líu đến nhập khẩu ngựa từ phương bắc và sự hình thành của một đội kỵ binh hùng mạnh mà đã có thể sát hại các quân đội đối lập. Khi nhà nước Oyo bành trướng về phía nam theo hướng bờ biển, nó đã nghiền nát các chính thể ở giữa và đã bán nhiều cư dân của chúng làm nô lệ. Trong giai đoạn giữa 1690 và 1740, Oyo đã xác lập độc quyền của nó ở bên trong cái được biết đến như Duyên hải Nô lệ. Được ước lượng là 80 đến 90 phần trăm nô lệ được bán trên miền duyên hải đã là kết quả của những cuộc chinh phục này. Một mối liên hệ đầy kịch tính tương tự giữa chiến tranh và cung ứng nô lệ đã đến từ miền tây xa hơn trong thế kỷ thứ mười tám, trên Duyên hải Vàng, vùng là Ghana hiện nay. Sau năm 1700 nhà nước Asante đã bành trướng từ nội địa, phần lớn theo cùng cách như nhà nước Oyo đã bành trướng trước đó. Trong nửa đầu thế kỷ thứ mười tám, sự bành trướng này đã
  • 293. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 255 kích động cái gọi là các cuộc chiến tranh Akan, khi Asante lần lượt đánh bại hết nhà nước độc lập này đến nhà nước khác. Nhà nước cuối cùng, Gyaman, đã bị chinh phục năm 1747. Phần lớn trong số 375.000 nô lệ được xuất khẩu từ Duyên hải Vàng đã là những người bị bắt trong các cuộc chiến này. Có lẽ tác động rõ rệt nhất của sự khai thác ồ ạt sức người này đã mang tính nhân khẩu học. Khó để biết với bất cứ sự chắc chắn nào về dân số của châu Phi đã là bao nhiêu trước giai đoạn hiện đại, nhưng các học giả đã đưa ra các ước lượng có vẻ hợp lý khác nhau về tác động của buôn bán nô lệ lên dân số. Sử gia Patrick Maning ước lượng rằng dân số của các vùng của Tây và Trung-Tây châu Phi mà đã cung ứng nô lệ cho xuất khẩu đã là khoảng hai mươi hai đến hai mươi lăm triệu người trong đầu thế kỷ thứ mười tám. Với giả thiết bảo thủ rằng trong thế kỷ thứ mười tám và đầu thế kỷ thứ mười chín các vùng này đã có tỷ lệ tăng dân số khoảng một nửa phần trăm một năm mà không có buôn bán nô lệ, Maning đã ước lượng rằng dân số của vùng này trong năm 1850 đã phải ít nhất là bốn mươi sáu đến năm mươi ba triệu. Trên thực tế, dân số đã là khoảng một nửa của con số này. Sự chênh lệch rất lớn này đã không chỉ là về khoảng tám triệu người đã được xuất khẩu làm nô lệ từ khu vực này giữa 1700 và 1850, mà hàng triệu người có khả năng đã bị giết bởi chiến tranh nội bộ liên miên nhằm bắt nô lệ. Tình trạng nô lệ và buôn bán nô lệ ở châu Phi đã gây hỗn loạn thêm các cấu trúc gia đình và hôn nhân và cũng đã có thể làm giảm khả năng sinh sản. Bắt đầu trong cuối thế kỷ thứ mười tám, một phong trào mạnh mẽ đòi bãi bỏ sự buôn bán nô lệ bắt đầu lấy được đà ở Anh, dẫn đầu bởi nhân vật có sức thuyết phục quần chúng lớn William Wilberforce. Sau những thất bại lặp đi lặp lại, những người đòi xóa bỏ đã thuyết phục được Quốc hội thông qua một dự luật làm cho buôn bán nô lệ trở nên bất hợp pháp. Hoa Kỳ đã đi theo với biện pháp tương tự trong năm tiếp theo. Tuy vậy, chính phủ Anh đã đi xa hơn: nó đã tìm cách tích cực để thực thi biện pháp này bằng đóng hạm đội đặc biệt ở Đại Tây Dương để diệt trừ sự buôn bán nô lệ. Mặc dù đã cần thời gian để cho biện pháp này thực sự hữu hiệu, và mãi cho đến 1834 thì bản thân tình trạng nô lệ mới bị bãi bỏ hết trên đế chế Anh, những ngày của sự buôn bán nô lệ qua Đại Tây Dương, mà là phần lớn của toàn bộ việc buôn bán nô lệ, đã điểm.
  • 294. 256 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Mặc dù sự chấm dứt của nạn buôn bán nô lệ sau 1807 đã làm giảm cầu bên ngoài đối với các nô lệ từ châu Phi, việc này đã không có nghĩa rằng tác động của tình trạng nô lệ lên các xã hội và các thể chế Phi châu tan biến đi một cách như ma thuật. Nhiều nhà nước Phi châu đã được tổ chức xung quanh việc nô lệ hóa, và việc nước Anh chấm dứt sự buôn bán nô lệ đã không làm thay đổi thực tế này. Hơn nữa, tình trạng nô lệ đã trở nên phổ biến hơn nhiều ở bên trong bản thân châu Phi. Những nhân tố này cuối cùng đã định hình sự phát triển của châu Phi không chỉ trước mà cả sau 1807 nữa. Khi xứ sở nô lệ tiến đến “thương mại hợp pháp,” một cụm từ được đặt ra cho việc xuất khẩu các mặt hàng mới không gắn với buôn bán nô lệ từ châu Phi. Các mặt hàng này bao gồm dầu cọ, nhân, lạc, ngà voi, cao su, và gum Arabic (nhựa cây acacia). Khi thu nhập Âu châu và Bắc Mỹ tăng lên với sự mở rộng của Cách mạng Công nghiệp, cầu về nhiều mặt hàng nhiệt đới này đã tăng đột ngột. Hệt như các xã hội Phi châu đã năng nổ tận dụng những cơ hội do buôn bán nô lệ tạo ra, họ đã cũng làm thế với thương mại hợp pháp. Nhưng họ đã làm như vậy trong một bối cảnh đặc biệt, bối cảnh mà trong đó tình cảnh nô lệ là một cách sống nhưng cầu bên ngoài đối với các nô lệ đã đột ngột cạn kiệt. Tất cả những nô lệ này bây giờ làm gì khi không thể bán họ cho những người Âu châu? Câu trả lời đã đơn giản: đã có thể đưa họ vào làm việc sinh lời, dưới sự cưỡng bức, ở châu Phi, tạo ra các món mới của thương mại hợp pháp. Một trong những thí dụ được ghi lại kỹ làm tư liệu đã là ở Asante, ở Ghana hiện đại. Trước năm 1807, Đế chế Asante đã dính líu sâu vào việc bắt và xuất khẩu nô lệ, mang họ xuống bờ biển để bán tại các lâu đài bán nô lệ lớn ở Cape Coast và Elmina. Sau 1807, với sự lựa chọn này bị đóng lại, elite chính trị Asante đã tổ chức lại nền kinh tế của họ. Thế nhưng việc bắt làm nô lệ và tình trạng nô lệ đã không chấm dứt. Đúng hơn, các nô lệ được định cư ở các đồn điền lớn, ban đầu xung quanh thủ đô Kumase, nhưng muôn hơn đã lan ra khắp đế chế (tương ứng với hầu hết nội địa Ghana). Họ được sử dụng trong sản xuất vàng và quả hạch kola để xuất khẩu, nhưng cũng nuôi trồng số lượng lớn thực phẩm và đã được sử dụng nhiều như những người mang vác, vì Asante đã không sử dụng giao thông có bánh xe. Xa hơn về phía đông, những sự thích nghi tương tự đã xảy ra. Thí dụ, ở Dahomay nhà vua đã có các đồn điền cọ dầu lớn gần các cảng biển Whydah và Porto Novo, tất cả đều dựa vào lao động nô lệ.
  • 295. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 257 Cho nên việc bãi bỏ buôn bán nô lệ, thay cho việc khiến cho tình trạng nô lệ ở châu Phi teo đi, thì đơn giản lại đã dẫn đến sự tái triển khai các nô lệ, những người bây giờ được dùng ở bên trong châu Phi hơn là ở châu Mỹ. Hơn nữa, nhiều thể chế chính trị, mà sự buôn bán nô lệ đã gây ra trong hai thế kỷ trước, đã không thay đổi và các hình mẫu ứng xử vẫn còn dai dẳng. Thí dụ, ở Nigeria trong các năm 1820 và 1830 Vương quốc Oyo một thời vĩ đại đã bị sụp đổ. Nó đã bị làm cho xói mòn bởi các cuộc nội chiến và sự nổi lên của các thành-quốc Yoruba, như Illorin và Ibadan, mà đã dính dáng trực tiếp đến buôn bán nô lệ, ở phía nam của nó. Trong các năm 1830, thủ đô của Oyo bị cướp phá, và sau đó các thành phố Yoruba đã tranh giành quyền lực với Dahomey vì sự thống trị khu vực. Chúng đã chiến đấu một loạt các cuộc chiến tranh hầu như liên tục trong nửa đầu của thế kỷ, mà đã gây ra cung nô lệ rất lớn. Cùng với việc này đã xảy ra các vòng bình thường của sự bắt cóc và sự xử phạt bởi các bậc thần và sự cướp bóc quy mô nhỏ. Sự bắt cóc đã là vấn đề đến mức ở một số phần của Nigeria các bậc cha mẹ đã không dám để con mình chơi ở bên ngoài vì sợ chúng bị bắt và bị bán làm nô lệ. Như một kết quả, tình trạng nô lệ, thay cho co lại, có vẻ đã mở rộng ở châu Phi suốt thế kỷ thứ mười chín. Mặc dù khó kiếm được các số liệu chính xác, nhiều tường thuật được viết bởi các khách lữ hành và các nhà buôn trong thời gian này gợi ý rằng trong các vương quốc Tây Phi Ansante và Dahomey và trong các thành-quốc Yoruba hơn nửa dân số đã là nô lệ. Có số liệu chính xác hơn từ các hồ sơ thuộc địa Pháp ban đầu cho tây Sudan, một dải lớn của miền tây châu Phi, trải từ Senegal, qua Mali và Burkina Faso, đến Niger và Chad. Tại vùng này 30 phần trăm dân số đã bị bắt làm nô lệ trong năm 1900. Hệt như với sự nổi lên của thương mại hợp pháp, sự đến của thuộc địa hóa sau cuộc Tranh giành châu Phi đã không phá hủy tình trạng nô lệ ở châu Phi. Mặc dù phần lớn sự thâm nhập Âu châu vào châu Phi đã được biện minh với lý do rằng phải đấu tranh chống và xóa bỏ tình trạng nô lệ, thực tế đã là khác. Trong hầu hết các phần của châu Phi thuộc địa, tình trạng nô lệ đã tiếp tục đáng kể vào thế kỷ thứ hai mươi. Ở Sierra Leone, chẳng hạn, chỉ đến 1928 thì tình trạng nô lệ cuối cùng mới bị xóa bỏ, cho dù thủ đô Freetown với cái tên Thành phố Tự do ban đầu được thành lập vào cuối thế kỷ thứ mười tám như nơi trú của các nô lệ được hồi hương từ châu Mỹ về. Sau đó nó đã trở thành một căn cứ quan trọng cho hạm đội chống nô lệ của Anh và một xứ sở mới cho các nô lệ được giải phóng từ các tàu chở nô lệ bị hải quân Anh bắt giữ. Ngay cả với biểu tượng này, tình trạng nô lệ
  • 296. 258 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI vẫn còn kéo dài ở Sierra Leone trong 130 năm. Liberia, ngay nam Sierra Leone, cũng thế đã được thành lập cho các nô lệ Mỹ được giải phóng trong các năm 1840. Thế nhưng ở đó, cũng thế, tình trạng nô lệ đã kéo dài vào thế kỷ thứ hai mươi, mãi đến tận các năm 1960, đã được ước lượng rằng một phần tư của lực lượng lao động đã bị cưỡng bức, sống và làm việc dưới các điều kiện gần với tình trạng nô lệ. Căn cứ vào các thể chế kinh tế và chính trị khai thác dựa trên buôn bán nô lệ, công nghiệp hóa đã không lan ra châu Phi hạ-Sahara, mà đã trì trệ hay thậm chí đã trải qua sự chậm phát triển kinh tế khi các phần khác của thế giới đang biến đổi nền kinh tế của họ. TẠO RA MỘT NỀN KINH TẾ KÉP Hệ thuyết “nền kinh tế kép” (“dual economy” paradigm), ban đầu được Sir Athur Lewis đề xuất năm 1955, vẫn định hình cách mà hầu hết các nhà khoa học xã hội nghĩ về các vấn đề kinh tế của các nước kém-phát triển. Theo Lewis, nhiều nền kinh tế kém-phát triển hay chậm-phát triển có một cấu trúc kép và được chia thành một khu vực hiện đại và một khu vực truyền thống. Khu vực hiện đại, tương ứng với phần phát triển hơn của nền kinh tế, gắn liền với cuộc sống đô thị, công nghiệp hiện đại, và việc sử dụng các công nghệ tiên tiến. Khu vực truyền thống gắn với cuộc sống nông thôn, nông nghiệp, và các thể chế và công nghệ “lạc hậu”. Các thể chế nông nghiệp lạc hậu bao gồm sở hữu chung về đất, mà ngụ ý rằng thiếu quyền sở hữu tư nhân về đất. Lao động được sử dụng không hiệu quả trong khu vực truyền thống đến mức, theo Lewis, nó đã có thể được phân bổ lại sang khu vực hiện đại mà không làm giảm lượng mà khu vực nông thôn có thể tạo ra. Đối với các thế hệ của các nhà kinh tế học phát triển, dựa trên những thấu hiểu của Lewis, “vấn đề phát triển” đã có nghĩa rằng chuyển người dân và các nguồn lực khỏi khu vực truyền thống, khỏi nông nghiệp và nông thôn, sang khu vực hiện đại, công nghiệp và các đô thị. Năm 1979 Lewis đã được giải Nobel vì công trình của ông về phát triển kinh tế. Lewis và các nhà kinh tế học phát triển dựa trên công trình của ông đã chắc chắn đúng trong nhận diện các nền kinh tế kép. Nam Phi đã là một trong các thí dụ rõ nhất, tách thành một khu vực truyền thống lạc hậu và nghèo nàn và một khu vực hiện đại sôi động và thịnh vượng. Ngay cả ngày nay nền kinh tế kép do Lewis
  • 297. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 259 nhận diện vẫn ở khắp nơi tại Nam Phi. Một trong những cách đầy kịch tính nhất để nhận thấy điều này là bằng cách đi ngang ranh giới giữa bang KwaZulu-Natal, Natal trước kia, và bang Transkei. Đường ranh giới chạy theo con Sông Lớn Kei. Bên phía đông con sông, ở Natal, dọc bờ biển, là các bất động sản giàu có nhìn ra bãi biển trên dải rộng bãi biển đầy cát đẹp lộng lẫy. Nội địa được phủ bằng các đồn điền mía xanh tươi tốt. Đường sá thật đẹp; toàn bộ vùng sặc mùi thịnh vượng. Ngang qua sông, cứ như là một thời khác và một nước khác. Cả vùng bị tàn phá trên quy mô lớn. Đất không được phủ màu xanh, mà là màu nâu và rừng bị tàn phá nặng. Thay cho các căn nhà hiện đại giàu sang với nước máy, phòng vệ sinh, và tất cả các tiện nghi hiện đại, người dân sống trong các lều tạm bợ và nấu nướng ở ngoài trời. Cuộc sống chắc chắn là truyền thống, rất xa với sự tồn tại hiện đại ở bên phía đông của dòng sông. Đến bây giờ bạn sẽ không ngạc nhiên rằng những sự khác biệt này liên kết với những sự khác biệt lớn về các thể chế kinh tế giữa hai bên của con sông. Bên phía đông, ở Natal, chúng ta có các quyền tài sản tư nhân, có các hệ thống pháp luật hoạt động, có các thị trường, nền nông nghiệp thương mại và công nghiệp. Bên phía tây, những người Transkei đã có sở hữu chung về đất và các thủ lĩnh truyền thống có quyền vô hạn cho đến tận gần đây. Nhìn theo lăng kính lý thuyết của Lewis về nền kinh tế kép, sự tương phản giữa Transkei và Natal minh họa các vấn đề của sự phát triển Phi châu. Thực ra, chúng ta có thể đi xa hơn, và lưu ý rằng, về mặt lịch sử, tất cả châu Phi đã giống Transkei, nghèo nàn với các thể chế kinh tế tiền hiện đại, công nghệ lạc hậu, và sự cai trị bởi các thủ lĩnh. Theo phối cảnh này, thì, sự phát triển kinh tế đơn giản là về đảm bảo rằng Transkei cuối cùng chuyển thành Natal. Phối cảnh này có nhiều sự thật về phần nó, nhưng nó bỏ sót toàn bộ logic về nền kinh tế kép sinh ra như thế nào và mối quan hệ của nó với nền kinh tế hiện đại. Sự lạc hậu của Transkei không phải đơn giản là một tàn dư lịch sử của sự lạc hậu tự nhiên của châu Phi. Nền kinh tế kép giữa Transkei và Natal thực sự là khá gần đây, và chẳng hề tự nhiên chút nào. Nó đã được tạo ra bởi các elite Nam Phi da trắng nhằm tạo ra một kho dự trữ lao động rẻ mạt cho các doanh nghiệp của họ và để làm giảm sự cạnh tranh từ những người Phi châu da đen. Nền kinh tế kép là một thí dụ khác về sự chậm phát triển được tạo ra, chứ không phải về sự chậm
  • 298. 260 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI phát triển như nó đã nổi lên và kéo dài dai dẳng một cách tự nhiên trong hàng thế kỷ. Nam Phi và Botswana, như chúng ta sẽ thấy muộn hơn, đã tránh được hầu hết những tác động có hại của sự buôn bán nô lệ và những cuộc chiến tranh do nó gây ra. Sự tương tác lớn đầu tiên của Nam Phi với những người Âu châu đã xảy ra khi Công ty Đông Ấn Hà Lan thành lập một cơ sở tại Vịnh Table, bây giờ là cảng Cape Town, năm 1652. Vào thời này bờ tây của Nam Phi đã được định cư thưa thớt, hầu hết bởi những người săn bắt hái lượm được gọi là những người Khoikhoi. Xa sang phía đông, ở nơi bây giờ là Ciskei và Transkei, đã có các xã hội Phi châu cư trú đông đúc chuyên môn hóa về nông nghiệp. Ban đầu họ đã không tương tác mạnh với thuộc địa mới của những người Hà Lan, họ cũng đã chẳng dính líu đến sự nô lệ hóa. Bờ biển Nam Phi đã xa các thị trường nô lệ, và các cư dân Ciskei và Transkei, được biết đến như những người Xhosa, đã ở đủ xa trong nội địa để không thu hút sự chú ý của bất cứ ai. Như một hệ quả, các xã hội này đã không cảm thấy tác động chính của nhiều trào lưu có hại đã giáng xuống Tây và Trung Phi. Sự cô lập của các địa điểm này đã thay đổi trong thế kỷ thứ mười chín. Đối với những người Âu châu đã có cái gì đó rất hấp dẫn về khí hậu và môi trường bệnh tật của Nam Phi. Không giống Tây Phi, chẳng hạn, Nam Phi có khí hậu ôn hòa mà không có các bệnh nhiệt đới như bệnh sốt rét và bệnh sốt vàng mà đã biến nhiều phần của châu Phi thành “nghĩa địa của người da trắng” và đã cản trở những người Âu châu định cư hay thậm chí dựng lên các đơn vị đóng thường xuyên ở tiền đồn. Nam Phi đã là viễn cảnh tốt hơn nhiều cho sự định cư Âu châu. Sự bành trướng Âu châu vào trong nội địa đã bắt đầu không lâu sau khi những người Anh tiếp quản Cape Town từ những người Hà Lan trong các cuộc Chiến tranh Napoleon. Việc này đã đẩy nhanh một loạt cuộc chiến tranh Xhosa vì vùng biên cương định cư đã mở rộng sâu vào nội địa. Sự thâm nhập vào nội địa Nam Phi đã tăng lên trong năm 1835, khi những người Âu châu thuộc dòng dõi Hà Lan, những người được biết đến như các Afrikaner hay các Boer, đã bắt đầu cuộc di cư hàng loạt nổi tiếng của họ được biết đến như cuộc Di cư Lớn (Great Trek) khỏi những người Anh kiểm soát miền duyên hải và vùng Cape Town. Các Afrikaner sau đó đã thành lập hai nhà nước độc lập trong nội địa châu Phi, Nhà nước Orange Freee và Transvaal.
  • 299. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 261 Giai đoạn tiếp theo của sự phát triển của Nam Phi đến với sự khám phá ra những khu mỏ kim cương khổng lồ ở Kimberly năm 1867 và những mỏ giàu vàng tại Johannesburg năm 1886. Sự giàu có khoáng sản khổng lồ này trong nội địa đã ngay lập tức thuyết phục những người Anh để mở rộng sự kiểm soát của họ ra toàn Nam Phi. Sự kháng cự của Nhà nước Orange Free và Transvaal đã dẫn đến các cuộc Chiến tranh Boer nổi tiếng trong các năm 1880–1881 và 1899–1902. Sau sự thất bại bất ngờ ban đầu, những người Anh đã tìm được cách sáp nhập các nhà nước Afrikaner với Tỉnh Cape và Natal, để tạo ra Liên Hiệp Nam Phi trong năm 1910. Vượt quá sự đánh nhau giữa những người Afrikaner và những người Anh, sự phát triển của nền kinh tế khai mỏ và sự mở rộng của sự định cư Âu châu đã có những hệ lụy khác đối với sự phát triển của vùng này. Nổi bật nhất, chúng đã tạo ra cầu đối với thực phẩm và các sản phẩm nông nghiệp khác và đã tạo ra các cơ hội kinh tế mới cho những người Phi châu bản địa trong cả nông nghiệp và thương mại. Những người Xhosa, ở Ciskei và Transkei, đã nhanh chóng phản ứng lại với những cơ hội kinh tế này, như sử gia Colin Bundy đã ghi chép lại. Ngay từ 1832, thậm chí trước sự hưng thịnh bột phát về khai mỏ, một nhà truyền giáo Moravian ở Transkei đã quan sát thấy sự năng động kinh tế mới trong các vùng này và đã nhắc đến cầu từ những người Phi châu đối với những hàng hóa tiêu dùng mới mà sự mở rộng của những người Âu châu đã bắt đầu bộc lộ ra cho họ. Ông đã viết, “Để có được các đồ vật này, họ tìm cách … để kiếm tiền bằng bàn tay lao động của họ, và mua quần áo, các chiếc mai, cày, xe ngựa và các mặt hàng hữu ích khác.” Sự mô tả của ủy viên ủy ban dân sự, John Hemming, về cuộc viếng thăm của ông đến Fingoland ở Ciskei trong năm 1876 cũng tiết lộ ngang thế. Ông viết rằng ông đã bị ấn tượng với sự tiến bộ rất lớn do những người Fingoe tạo ra trong vài năm … Bất cứ đâu, mà tôi đi, tôi đã thấy các lều chắc chắn và các nhà ở bằng gạch và bằng đá. Trong nhiều trường hợp, các nhà gạch chắc nịch đã được dựng lên … và các cây ăn quả đã được trồng; bất cứ nơi nào sẵn có một dòng nước nó đã được dẫn ra và đất được canh tác trong chừng mực mà nó có thể được tưới; các sườn đồi và thậm chí các đỉnh núi đã được canh tác ở nơi đã có thể mang cày đến. Quy
  • 300. 262 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI mô đất được cày ải đã làm tôi ngạc nhiên; Tôi đã không thấy một vùng lớn như vậy của đất được canh tác trong nhiều năm. Vì trong các phần khác của châu Phi hạ-Sahara, việc sử dụng cày đã là mới trong nông nghiệp, nhưng khi cho trước cơ hội, các nông dân Phi châu đã có vẻ rất sẵn sàng để chấp nhận và làm theo công nghệ. Họ cũng đã sẵn sàng đầu tư vào xe ngựa và các công trình thủy lợi. Khi nền kinh tế nông nghiệp phát triển, các thể chế bộ lạc cứng nhắc đã bắt đầu bị thay thế. Có rất nhiều bằng chứng rằng những thay đổi về các quyền tài sản đối với đất đã xảy ra. Năm 1879 quan tòa tại Umzimkulu của Đông Griqualand, ở Transkei, đã lưu ý đến “mong muốn ngày càng tăng về phía những người bản địa để trở thành các chủ sở hữu đất – họ đã mua 38.000 mẫu.” Ba năm sau đông đã ghi nhận rằng khoảng tám ngàn nông dân Phi châu ở trong quận đã mua và đã bắt đầu làm việc trên chín mươi ngàn mẫu đất. Châu Phi chắc chắn đã không gần một cuộc Cách mạng Công nghiệp, nhưng sự thay đổi thực đã đang xảy ra. Tài sản tư nhân về đất đã làm yếu các thủ lĩnh và đã cho phép những người mới mua đất và làm giàu, cái gì đó đã không thể tưởng tượng nổi chỉ vài thập kỷ trước đó. Điều này cũng minh họa việc làm suy yếu nhanh chóng đến thế nào của các thể chế khai thác và các hệ thống kiểm soát chuyên chế có thể dẫn đến sự năng động kinh tế mới tìm thấy. Một trong những câu chuyện thành công đã là Stephen Sonjica ở Ciskei, một nông dân tự tay gây dựng cơ đồ từ cảnh nghèo. Trong một bài diễn văn năm 1911, Sonjica nhận thấy thế nào khi lần đầu tiên anh bày tỏ với bố mình mong muốn của anh để mua đất, bố anh đã đáp lại: “Mua đất ư? Làm sao con có thể muốn mua đất? Con không biết rằng tất cả đất là của Chúa và ngài trao nó chỉ cho các thủ lĩnh?” Phản ứng của cha Sonjica đã có thể hiểu được. Nhưng Sonjica đã không chùn bước. Anh đã có một việc làm trong Thành phố của Vua William và đã ghi chép: Tôi đã láu cá mở một tài khoản riêng ở ngân hàng mà tôi đã chuyển vào đó một phần tiết kiệm của mình … Việc này đã xảy ra chỉ đến khi tôi đã tiết kiệm được tám mươi bảng … [Tôi đã mua] một cặp bò với những cái ách, dụng cụ, cày và những thứ còn lại của phụ tùng nông nghiệp linh tinh … Bây giờ tôi đã mua một trang trại nhỏ … Tôi không thể giới thiệu quá mạnh [việc trồng trọt] như một nghề đối với
  • 301. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 263 đồng bào mình … Họ, tuy vậy, phải làm theo các phương pháp làm ra lợi nhuận. Một mẩu bằng chứng lạ thường trụ đỡ cho sự năng động kinh tế và sự thịnh vượng của các nông dân Phi châu trong thời kỳ này được tiết lộ trong một bức thư gửi năm 1869 bởi một nhà truyền giáo Methodist, W. J. Davis. Viết cho nước Anh, ông ghi nhận với niềm vui rằng ông đã thu được bốn mươi sáu bảng tiền mặt “cho Quỹ Cứu tế Bông Lancashire.” Trong thời kỳ này các nông dân Phi châu phát đạt đã quyên tiền cứu tế cho các công nhân dệt nghèo ở Anh! Sự năng động kinh tế mới này, không ngạc nhiên, đã không làm vừa lòng các thủ lĩnh truyền thống, những người, theo hình mẫu mà bây giờ là quen thuộc với chúng ta, đã thấy việc này làm xói mòn sự giàu có và quyền lực của họ. Trong năm 1879 Matthew Blyth, quan tòa chính của Transkei, đã nhận xét rằng đã có sự chống đối việc đo đạc đất sao cho nó có thể được chia thành các tài sản tư. Ông đã ghi lại rằng “một số thủ lĩnh … đã phản đối, nhưng hầu hết người dân đã hài lòng … các thủ lĩnh thấy rằng việc cấp các quyền sở hữu cá thể sẽ phá hủy ảnh hưởng của họ giữa các tộc trưởng.” Các thủ lĩnh cũng đã chống lại những sự cải thiện được tiến hành trên đất, như đào các mương thủy lợi hay xây dựng hàng rào. Họ đã nhận ra rằng những sự cải thiện này chỉ là một bước dạo đầu cho các quyền tài sản cá nhân đối với đất, sự bắt đầu của sự kết thúc đối với họ. Các nhà quan sát Âu châu thậm chí đã lưu ý rằng các thủ lĩnh và các bậc quyền uy truyền thống, như các thầy lang phù thủy, đã thử ngăn cấm tất cả “những cách Âu châu,” mà bao gồm các cây trồng mới, các công cụ như cày, và các món thương mại. Nhưng sự hội nhập của Ciskei và Transkei vào nhà nước thuộc địa Anh đã làm suy yếu quyền lực của các thủ lĩnh và các bậc quyền uy truyền thống, và sự phản kháng của họ sẽ không đủ để chặn sự năng động kinh tế mới ở Nam Phi. Ở Fingoland trong năm 1884, một nhà quan sát Âu châu đã lưu ý rằng người dân đã chuyển lòng trung thành của họ cho chúng ta. Các thủ lĩnh của họ đã biến thành một loại chủ đất có quyền sở hữu … mà không có quyền lực chính trị. Không còn sợ sự ghen tị của thủ lĩnh hay của vũ khí chết người … thầy lang phù thủy, mà giáng xuống chủ sở hữu gia súc giàu có, cố vấn có tài, sự đưa vào các tục lệ mới, người làm nông nghiệp
  • 302. 264 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI khéo tay, đã biến tất cả họ thành mức đồng đều của sự xoàng xĩnh – không còn sợ hãi điều này nữa, thành viên thị tộc Fingo … là một người tiến bộ. Vẫn còn là một nông dân chủ trang trại … anh ta sở hữu các xe bò và những chiếc cày; anh ta mở các rãnh nước để tưới; anh ta là chủ của một đàn cừu. Ngay cả một chút các thể chế bao gồm và sự xói mòn quyền lực của các thủ lĩnh và những hạn chế của họ đã là đủ để khởi động một đợt bột phát kinh tế Phi châu đầy sinh khí. Chao ôi, nó đã thật ngắn ngủi. Giữa 1890 và 1913 nó đi đến một sự kết thúc đột ngột và đảo ngược. Trong thời kỳ này hai lực đã hoạt động để phá hủy sự thịnh vượng thôn quê và sự năng động mà những người Phi châu đã tạo ra trong năm mươi năm trước. Thứ nhất đã là sự phản đối của các nông dân Âu châu những người đã cạnh tranh với những người Phi châu. Những nông dân Phi châu thành công đã kéo giá cây trồng xuống mà những người Âu châu cũng sản xuất. Sự đáp lại của những người Âu châu đã là hất cẳng những người Phi châu ra khỏi việc kinh doanh. Lực thứ hai thậm chí còn nham hiểm hơn. Những người Âu châu đã muốn một lực lượng lao động rẻ mạt để sử dụng vào nền kinh tế khai mỏ đang nảy nở, và họ đã có thể đảm bảo cung lao động rẻ này chỉ bằng cách bần cùng hóa những người Phi châu. Họ đã làm việc này một cách có phương pháp trong nhiều thập niên tiếp theo. Lời khai làm chứng năm 1897 của George Albu, chủ tịch Hội Mỏ, được trình bày cho một Ủy ban Điều tra, mô tả một cách mạnh mẽ logic của việc bần cùng hóa những người Phi châu để có được lao động rẻ mạt. Ông ta đã giải thích bằng cách nào ông ta đã kiến nghị làm rẻ sức lao động bằng “đơn giản nói cho lũ trẻ rằng lương của họ bị giảm xuống.” Lời chứng của ông ta diễn ra như sau: Ủy ban: Giả sử các kaffir [người Phi châu da đen] bỏ về kraal [chỗ quây gia súc] của họ? Ông có ủng hộ việc yêu cầu Chính phủ để ép buộc lao động? Albu: Chắc chắn … tôi muốn biến nó thành bắt buộc … Vì sao một người da đen lại được phép không làm gì? Tôi nghĩ một kaffir phải bị buộc làm việc để kiếm sống.
  • 303. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 265 Ủy ban: Nếu một người có thể sống mà không làm việc, làm sao ông có thể buộc anh ta làm việc? Albu: Đánh thuế anh ta, rồi … Ủy ban: Rồi ông sẽ không cho phép kaffir nắm giữ đất ở trong nước, nhưng hắn phải làm việc cho người da trắng để làm giàu cho anh ta? Albu: Hắn phải làm phần việc của hắn để giúp láng giềng của hắn. Cả hai mục tiêu về loại bỏ sự cạnh tranh với các nông dân da trắng và phát triển một lực lượng lao động lương thấp đã đồng thời được thực hiện bởi Bộ Luật Đất Bản địa năm 1913. Bộ luật, tiên liệu trước quan niệm của Lewis về nền kinh tế kép, đã chia Nam Phi thành hai phần, một phần hiện đại thịnh vượng và một phần truyền thống nghèo. Trừ việc sự thịnh vượng và nghèo khó thực ra sẽ được tạo ra bởi bản thân bộ luật. Nó tuyên bố rằng 87 phần trăm đất được giao cho những người Âu châu, những người đại diện cho khoảng 20 phần trăm dân số. Phần 13 phần trăm còn lại được giao cho những người Phi châu. Tất nhiên, Bộ luật Đất đai đã có nhiều tiền đề từ trước bởi vì dần dần những người Âu châu đã hạn chế những người Phi châu trong các miếng đất nhỏ hơn và nhỏ hơn. Nhưng chính Bộ luật 1913 đã là cái thể chế hóa một cách dứt khoát tình trạng và đã dựng vũ đài cho sự hình thành của chế độ Apartheid Nam Phi, với thiểu số da trắng có cả các quyền chính trị và kinh tế và đa số da đen bị loại trừ khỏi cả hai. Bộ luật đã quy định rằng nhiều vùng đất, bao gồm Transkei và Ciskei, trở thành “các Xứ sở Phi châu.” Muộn hơn những vùng này trở thành cái được biết đến như các Bantustan, một phần khác của nghệ thuật hùng biện của chế độ Apartheid ở Nam Phi, vì nó cho rằng những người Phi châu của miền Nam châu Phi đã không là những người dân bản xứ của vùng này mà là hậu duệ của những người Bantu đã di cư từ Đông Nigeria sang khoảng một ngàn năm trước. Họ như thế đã không có nhiều hơn – và tất nhiên, trên thực tế, có ít hơn – quyền đối với đất so với những người định cư Âu châu. Bản đồ 16 (trang sau) cho thấy số lượng đất đáng làm trò cười đã được giao cho những người Phi châu theo Đạo luật Đất đai 1913 và đạo luật kế vị nó năm 1936. Nó cũng ghi lại thông tin từ 1970 về mức độ của sự phân bổ đất tương tự
  • 304. 266 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI mà đã xảy ra trong việc xây dựng một nền kinh tế kép khác nữa ở Zimbabwe, mà chúng ta sẽ thảo luận ở chương 13. Pháp luật 1913 cũng đã bao gồm các điều khoản dự trù để chặn những người lĩnh canh và những người chiếm đất da đen khỏi việc canh tác trên đất do người da trắng sở hữu trong bất cứ tư cách nào khác với tư cách tá điền làm thuê. Như bộ trưởng về các vấn đề địa phương đã giải thích, “Tác động của bộ luật đã là ngừng, trong tương lai, mọi giao dịch dính líu đến bất cứ thứ gì theo bản chất của một sự chung phần giữa những người Âu châu và những người bản địa liên quan đến đất hay thành quả của đất. Tất các các hợp đồng mới với những người bản địa phải là các hợp đồng dịch vụ. Miễn là có một hợp đồng thành thật thuộc bản chất này thì không có gì ngăn cản một người chủ trả một người bản địa bằng hiện vật, hay bằng đặc ân canh tác một miếng đất được xác định … Nhưng người bản địa không thể trả ông chủ bất cứ thứ gì cho quyền của anh ta để chiếm đất.”
  • 305. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 267 Đối với các nhà kinh tế học phát triển, những người đã thăm Nam Phi trong các năm 1950 và 1960, khi môn học lý thuyết hình thành và các ý tưởng của Arthur Lewis đang truyền bá, sự tương phản giữa các Xứ sở và nền kinh tế Âu châu da trắng hiện đại thịnh vượng đã dường như là chính xác cái mà lý thuyết nền kinh tế kép nói về. Phần Âu châu của nền kinh tế đã là đô thị và được giáo dục, và đã sử dụng công nghệ hiện đại. Các Xứ sở đã nghèo, nông thôn, và lạc hậu; lao động ở đó đã rất không sinh lợi; người dân không được giáo dục. Nó đã có vẻ là bản chất của châu Phi lạc hậu muôn thủa. Trừ chuyện nền kinh tế kép đã không phải là tự nhiên hay không thể tránh khỏi. Nó đã được tạo ra bởi chủ nghĩa thuộc địa Âu châu. Đúng vậy, các Xứ sở đã nghèo và lạc hậu về mặt công nghệ, và người dân đã không được giáo dục. Nhưng tất cả điều này là một kết quả của chính sách của chính phủ, mà đã hủy diệt bằng vũ lực lao động Phi châu để sử dụng trong các mỏ và đất do người Âu châu kiểm soát. Sau 1913 rất đông người Phi châu đã bị đuổi khỏi đất của họ, mà đã được tiếp quản bởi những người da trắng, và bị dồn chật ních vào các Xứ sở, mà đã là quá nhỏ đối với họ để kiếm sống một cách độc lập từ đó. Như được dự tính, vì thế, họ sẽ buộc phải kiếm sinh kế trong nền kinh tế da trắng, cung ứng lao động của họ một cách rẻ mạt. Khi các khuyến khích kinh tế của họ đã sụp đổ, sự tiến bộ mà xảy ra trong năm mươi năm trước tất cả đã bị đảo ngược. Người dân bỏ cày của mình và đã trở lại canh tác với cuốc – tức là, nếu họ có canh tác chút nào. Thường xuyên hơn họ chỉ sẵn có như lao động rẻ mạt, mà các Xứ sở đã được cấu trúc để đảm bảo. Đã không chỉ là các khuyến khích kinh tế bị há hủy. Những sự thay đổi chính trị mà bắt đầu xảy ra cũng đã đi theo chiều ngược lại. Quyền lực của các thủ lĩnh và những kẻ cai trị truyền thống, mà trước đây trong suy tàn, thì được củng cố, bởi vì phần của dự án để tạo ra một lực lượng lao động rẻ mạt đã là xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân về đất. Cho nên sự kiểm soát của các thủ lĩnh đối với đất đã được tái khẳng định. Các biện pháp này đã đạt đỉnh điểm của chúng trong năm 1951, khi chính phủ thông qua Đạo luật Nhà chức trách Bantu. Ngay từ năm 1940, G. Findlay đã chỉ ra đúng vấn đề: Đất phát canh bộ lạc là một đảm bảo rằng đất sẽ chẳng bao giờ được khai thác một cách thích hợp và sẽ chẳng bao giờ thực sự thuộc về những người bản xứ. Lao động rẻ mạt phải có chỗ gây giống rẻ mạt,
  • 306. 268 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI và như thế nó được cung cấp cho những người Phi châu với phí tổn của riêng của họ. Sự tước quyền sở hữu của các nông dân Phi châu đã dẫn đến sự bần cùng hóa hàng loạt của họ. Nó đã tạo ra không chỉ các nền tảng thể chế của một nền kinh tế lạc hậu, mà đã tạo ra những người nghèo để cung ứng cho nó. Bằng chứng sẵn có chứng minh sự đảo ngược về mức sống trong các Xứ Sở sau Luật Đất đai Bản xứ năm 1913. Transkei và Ciskei đã lâm vào sự sa sút kinh tế kéo dài. Các hồ sơ việc làm từ các công ty khai mỏ vàng được thu thập bởi sử gia Francis Wilson cho thấy rằng sự sa sút này đã phổ biến trong toàn bộ nền kinh tế Nam Phi. Tiếp sau Bộ luật Đất đai Bản xứ và các quy định luật khác, lương của các thợ mỏ đã rớt 30 phần trăm giữa 1911 và 1921. Trong năm 1961, bất chấp sự tăng trưởng đều đặn tương đối trong nền kinh tế Nam Phi, các mức lương này đã vẫn thấp hơn 12 phần trăm so với lương trong năm 1911. Không có gì ngạc nhiên rằng trong giai đoạn này Nam Phi đã trở thành nước bất bình đẳng nhất trên thế giới. Nhưng ngay cả trong những hoàn cảnh này, chẳng phải những người Phi châu da đen đã có thể làm ăn thịnh vượng trong nền kinh tế Âu châu hiện đại, đã khởi động một doanh nghiệp, hay đã trở nên có giáo dục và bắt đầu một sự nghiệp? Chính phủ đã đảm bảo chắc chắn rằng những việc này không thể xảy ra. Không người Phi châu nào được phép sở hữu tài sản hay bắt đầu một doanh nghiệp trong phần Âu châu của nền kinh tế – chiếm 87 phần trăm đất đai. Chế độ Apartheid cũng đã nhận ra rằng những người Phi châu có giáo dục đã cạnh tranh với những người da trắng hơn là cung cấp lao động rẻ mạt cho các mỏ và nền nông nghiệp do người da trắng sở hữu. Ngay từ năm 1904 một hệ thống đặt chỗ làm việc cho những người Âu châu đã được đưa ra trong nền kinh tế khai mỏ. Không người Phi châu nào được phép làm một người đứng máy hỗn hống, một người xét nghiệm, một người cai mỏ lộ thiên, một thợ rèn, một người làm nồi hơi, một người sửa ống lót sau cùng, một người làm khuôn ống lót, một người thợ nề … và danh sách tiếp tục và tiếp tục, cho đến tận thợ máy gia công gỗ. Bằng một cú duy nhất, những người Phi châu bị cấm làm bất cứ công việc có kỹ năng nào trong khu vực khai mỏ. Đấy đã là sự hiện thân đầu tiên của “vạch màu” nổi tiếng, một trong nhiều sáng chế phân biệt chủng tộc của chế độ Nam Phi. Vạch màu đã được mở rộng ra toàn bộ nền kinh tế trong năm 1926, và đã kéo dài cho đến các năm 1980.
  • 307. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 269 Không ngạc nhiên là những người Phi châu da đen đã không được giáo dục; nhà nước Nam Phi không chỉ đã loại bỏ khả năng của những người Phi châu để hưởng lợi về mặt kinh tế từ sự giáo dục mà cũng đã từ chối đầu tư vào các trường học da đen và làm nản lòng sự giáo dục người da đen. Chính sách này đã đạt đỉnh điểm của nó trong các năm 1950, khi, dưới sự lãnh đạo của Hendrik Verwoerd, một trong những kiến trúc sư của chế độ Apartheid mà đã kéo dài đến 1994, chính phủ đã thông qua Đạo luật Giáo dục Bantu. Triết lý của đạo luật này đã được giải thích rõ ràng một cách toạc móng heo bởi bản thân Verwoerd trong một bài phát biểu năm 1954: Người Bantu phải được hướng dẫn để phục vụ cộng đồng riêng của anh ta trong mọi khía cạnh. Không có chỗ nào cho anh ta trong cộng đồng người Âu châu trên mức các hình thức nhất định của lao động … Vì lý do đó không có ích gì đối với anh ta để nhận được một sự đào tạo mà như mục tiêu của nó có sự hấp thu vào cộng đồng người Âu châu trong khi anh ta không thể và sẽ không được hấp thu vào đó. Một cách tự nhiên, loại nền kinh tế kép được phát biểu rõ ràng trong bài nói chuyện của Verwoerd là khá khác với lý thuyết nền kinh tế kép của Lewis. Ở Nam Phi nền kinh tế kép đã không phải là một kết quả không thể tránh khỏi của quá trình phát triển. Nó được tạo ra bởi nhà nước. Ở Nam Phi đã không có sự dịch chuyển trơn tru nào của những người nghèo từ khu vực lạc hậu sang khu vực hiện đại khi nền kinh tế tiến triển. Ngược lại, sự thành công của khu vực hiện đại đã dựa vào sự tồn tại của khu vực lạc hậu, mà đã cho phép các ông chủ da trắng kiếm được lợi nhuận khổng lồ bằng trả những đồng lương rất thấp cho các công nhân da đen không có kỹ năng. Ở Nam Phi đã không có một quá trình của những công nhân không có kỹ năng từ khu vực truyền thống dần dần trở nên được đào tạo và có kỹ năng, như cách tiếp cận của Lewis đã dự tính. Thực ra, các công nhân da đen đã được giữ không có kỹ năng một cách có chủ ý và đã bị cản trở khỏi các nghề nghiệp có kỹ năng cao, sao cho các công nhân da trắng có kỹ năng không phải đối mặt với sự cạnh tranh và có thể hưởng lương cao. Ở Nam Phi những người Phi châu da đen quả thực đã bị “sập bẫy” trong nền kinh tế truyền thống, ở các Xứ sở. Nhưng đấy đã không là vấn đề phát triển mà sự tăng trưởng có thể tạo ra cái thiện. Các Xứ sở đã là cái cho phép sự phát triển của nền kinh tế da trắng.
  • 308. 270 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Cũng không có sự ngạc nhiên nào rằng loại phát triển kinh tế mà Nam Phi da trắng đạt được cuối cùng đã bị hạn chế, do dựa vào các thể chế khai thác mà những người da trắng đã xây dựng lên để bóc lột những người da đen. Những người da trắng Nam Phi đã có các quyền tài sản, họ đã đầu tư vào giáo dục, và họ đã có thể khai thác vàng và kim cương và bán chúng rất có lời trên thị trường thế giới. Nhưng hơn 80 phần trăm của dân số Nam Phi đã bị đẩy ra bên lề và bị loại trừ khỏi tuyệt đại đa số các hoạt động kinh tế đáng mong mỏi. Những người da đen đã không thể sử dụng tài năng của họ; họ đã không thể trở thành các công nhân có kỹ năng, các nhà kinh doanh, các doanh nhân khởi nghiệp, các kỹ sư, hay các nhà khoa học. Các thể chế kinh tế đã là khai thác; những người da trắng trở nên giàu bằng bòn rút từ những người da đen. Quả thực, những người Nam Phi da trắng đã chia sẻ mức sống của những người ở các nước Tây Âu, trong khi những người Nam Phi da đen hầu như đã không giàu hơn những người ở phần còn lại của châu Phi hạ-Sahara. Sự tăng trưởng kinh tế này không có sự phá hủy sáng tạo, mà từ đó chỉ có những người da trắng được hưởng lợi, đã tiếp tục chừng nào các khoản thu từ vàng và kim cương đã còn tăng. Vào các năm 1970, tuy vậy, nền kinh tế đã ngừng tăng. Và lại sẽ không có ngạc nhiên gì rằng tập hợp này của các thể chế kinh tế khai thác đã được xây dựng trên nền tảng được sắp đặt bởi một tập của các thể chế chính trị hết sức khai thác. Trước khi bị lật đổ trong năm 1994, hệ thống chính trị Nam Phi đã trao mọi quyền lực cho những người da trắng, những người đã là những người duy nhất được phép bỏ phiếu bầu và ứng cử vào chức vụ. Những người da trắng đã áp đảo lực lượng cảnh sát, quân đội, và tất cả các tổ chức chính trị. Các thể chế này đã được cấu trúc dưới sự thống trị quân sự bởi những người định cư da trắng. Vào thời gian thành lập Liên hiệp Nam Phi năm 1910, các chính thể Afrikaner của Nhà nước Orange Free và Transvaal đã có các đặc quyền chủng tộc tường minh, ngăn cản những người da đen hoàn toàn khỏi sự tham gia chính trị. Natal và Khu Cape đã cho phép những người da đen bỏ phiếu nếu họ đã có đủ tài sản, mà một cách điển hình họ đã không có. Hiện trạng của Natal và Khu Cape đã được giữ trong năm 1910, nhưng vào các năm 1930, những người da đen đã bị tước quyền bầu cử một cách tường minh ở mọi nơi tại Nam Phi. Nền kinh tế kép của Nam Phi đã có đi đến một kết thúc trong năm 1994. Nhưng không phải bởi vì các lý do mà Sir Arthur Lewis đã bàn lý luận về. Đã
  • 309. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 271 không phải là sự diễn tiến tự nhiên của sự phát triển kinh tế đã chấm dứt vạch màu và các Xứ sở. Những người Nam Phi da đen đã phản đối và đã đứng lên chống lại chế độ mà đã không công nhận các quyền cơ bản của họ và đã không chia sẻ các lợi ích của sự tăng trưởng kinh tế với họ. Sau cuộc khởi nghĩa Soweto năm 1976, những cuộc phản kháng đã trở nên có tổ chức hơn và mạnh hơn, cuối cùng đã lật đổ nhà nước Apartheid. Chính sự trao quyền của những người da đen, những người đã tìm được cách để tổ chức và đứng lên, là cái cuối cùng đã chấm dứt nền kinh tế kép của Nam Phi theo cùng cách mà lực lượng chính trị của những người da trắng Nam Phi đã tạo ra nó trước hết. SỰ PHÁT TRIỂN BỊ ĐẢO NGƯỢC Sự bất bình đẳng thế giới ngày nay tồn tại bởi vì trong các thế kỷ thứ mười chín và hai mươi một số quốc gia đã có khả năng tận dụng lợi thế của Cách mạng Công nghiệp và các công nghệ và các phương pháp tổ chức mà nó mang lại, trong khi các quốc gia khác đã không có khả năng làm vậy. Sự thay đổi công nghệ chỉ là một động cơ của sự thịnh vượng, nhưng nó có lẽ là động cơ quyết định nhất. Các nước mà đã không tận dụng được lợi thế của các công nghệ mới cũng đã chẳng hưởng lợi được từ các động cơ khác của sự thịnh vượng. Như chúng ta đã cho thấy trong chương này và chương trước, sự thất bại này đã là do các thể chế khai thác, hoặc như một hệ quả của sự tồn tại dai dẳng của các chế độ chuyên chế của họ hay bởi vì chúng thiếu các nhà nước tập trung. Nhưng chương này cũng cho thấy rằng trong nhiều trường hợp các thể chế khai thác, mà đã là nòng cốt của sự nghèo khó của các quốc gia này, đã được áp đặt, hay nói nhẹ đi đã được củng cố, bởi chính cùng quá trình mà đã tiếp nhiên liệu cho sự tăng trưởng Âu châu: sự bành trướng thương mại và thuộc địa Âu châu. Trên thực tế, tính sinh lời của các đế chế thuộc địa Âu châu đã thường dựa vào sự phá hủy các chính thể độc lập và các nền kinh tế bản địa quanh thế giới, hay dựa vào sự tạo ra các thể chế khai thác một cách thực chất từ cơ sở lên, như ở các đảo Caribe, nơi, tiếp theo sự sụp đổ hầu như hoàn toàn của các dân cư bản địa, những người Âu châu đã nhập khẩu các nô lệ Phi châu và dựng lên các hệ thống đồn điền. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ biết các quỹ đạo nào của các thành-quốc độc lập như các thành quốc ở các Đảo Banda, ở Aceh, hay ở Burma (Myanmar) đã có thể
  • 310. 272 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI là giả như không có sự can thiệp Âu châu. Họ có thể đã có Cách mạng Vinh quang bản địa riêng của họ, hay đã chuyển một cách chậm đến các thể chế chính trị và kinh tế bao gồm hơn dựa trên thương mại gia tăng về các gia vị và các hàng hóa có giá trị khác. Nhưng khả năng này đã bị loại bỏ bởi sự mở rộng của Công ty Đông Ấn Hà Lan. Công ty đã tiệt trừ bất cứ hy vọng nào của sự phát triển bản địa ở các Đảo Banda bằng việc thực hiện sự diệt chủng của nó. Mối đe dọa của nó cũng đã làm cho các thành-quốc ở nhiều phần khác của Đông Nam Á rút lui khỏi thương mại. Câu chuyện của một trong những nền văn minh cổ xưa nhất ở châu Á, Ấn Độ, là tương tự, mặc dù sự đảo ngược phát triển đã không do người Hà Lan mà do người Anh gây ra. Ấn Độ đã là nhà sản xuất và xuất khẩu hàng dệt lớn nhất thế giới trong thế kỷ thứ mười tám. Vải in hoa và vải muslin Ấn Độ đã tràn ngập các thị trường Âu châu và đã được buôn bán khắp châu Á và thậm chí miền đông châu Phi. Đại lý chính mà đã mang chúng đến các Đảo Anh đã là Công ty Đông Ấn Anh. Được thành lập năm 1600, hai năm trước phiên bản Hà Lan, Công ty Đông Ấn Anh đã sử dụng thế kỷ thứ mười bảy để thử thiết lập một độc quyền về các hàng xuất khẩu có giá trị từ Ấn Độ. Nó đã phải cạnh tranh với những người Bồ Đào Nha, những người đã có cơ sở ở Goa, Chittagong, và Bombay, và những người Pháp với các cơ sở ở Pondicherry, Chvàernagore, Yanam, và Karaikal. Cách mạng Vinh quang đã còn tồi tệ hơn cho Công ty Đông Ấn, như chúng ta đã thấy trong chương 7. Sự độc quyền của Công ty Đông Ấn đã được các vua Stuart ban cho và đã bị thách thức ngay lập tức sau 1688, và thậm chí bị bãi bỏ trong hơn một thập kỷ. Sự mất quyền lực đã là đáng kể, như chúng ta đã thấy ở trước (trang 199-200), bởi vì các nhà sản xuất hàng dệt ở Anh đã có khả năng xui khiến Quốc hội cấm nhập khẩu vải in hoa, món hàng sinh lợi nhất của Công ty Đông Ấn. Trong thế kỷ thứ mười tám, dưới sự lãnh đạo của Robert Clive, Công ty Đông Ấn đã thay đổi chiến lược và đã bắt đầu phát triển một đế chế thuộc địa. Vào lúc đó, Ấn Độ đã bị tách thành nhiều chính thể cạnh tranh, mặc dù trên danh nghĩa nhiều chính thể đã vẫn dưới sự kiểm soát của hoàng đế Mughal ở Delhi. Công ty Đông Ấn đầu tiên đã mở rộng ở Bengal bên miền đông, đánh bại các cường quốc địa phương tại các trận Plassey năm 1757 và Buxar năm 1764. Công ty Đông Ấn đã cướp bóc của cải địa phương và đã tiếp quản, và có lẽ thậm chí đã tăng cường, các thể chế đánh thuế khai thác của các nhà cai trị Mughal của Ấn Độ. Sự mở rộng này đã trùng với sự co lại ồ ạt của ngành dệt Ấn Độ, vì, rốt cuộc, đã không
  • 311. SỰ PHÁT TRIỂN ĐẢO NGƯỢC ● 273 còn thị trường cho các mặt hàng này ở Anh. Sự co lại đã đi cùng với thoái-đô thị hóa và sự nghèo khó gia tăng. Nó đã khởi xướng một giai đoạn dài của sự phát triển bị đảo ngược ở Ấn Độ. Chẳng bao lâu sau, thay cho sản xuất hàng dệt, những người Ấn Độ đã mua chúng từ Anh và trồng thuốc phiện cho Công ty Đông Ấn để bán ở Trung Quốc. Sự buôn bán nô lệ qua Đại Tây Dương đã lặp lại cùng hình mẫu ở châu Phi, cho dù bắt đầu từ những điều kiện ít phát triển hơn ở Đông Nam Á và Ấn Độ. Nhiều nhà nước Phi châu đã biến thành các bộ máy chiến tranh có mục đích bắt và bán các nô lệ cho những người Âu châu. Khi xung đột giữa các chính thể và các nhà nước khác nhau đã biến thành chiến tranh liên tục, các thể chế nhà nước, mà trong nhiều trường hợp đã chưa đạt nhiều sự tập trung hóa chính trị trong bất cứ tình huống nào, đã đổ nát trong các phần lớn của châu Phi, mở đường cho các thể chế khai thác dai dẳng và các nhà nước thất bại ngày nay mà chúng ta sẽ nghiên cứu muộn hơn. Trong vài phần của châu Phi mà đã tránh được sự buôn bán nô lệ, như Nam Phi, những người Âu châu đã áp đặt một tập hợp khác của các thể chế, lần này được thiết kế để tạo ra một nguồn lao động rẻ mạt cho các mỏ và các trang trại của họ. Nhà nước Nam Phi đã tạo ra một nền kinh tế kép, ngăn 80 phần trăm dân cư khỏi việc tham gia vào các nghề có kỹ năng, canh tác thương mại, và tinh thần kinh doanh. Tất cả điều này không chỉ giải thích vì sao công nghiệp hóa đã bỏ qua các phần lớn của thế giới mà cũng bao gọn như thế nào sự phát triển kinh tế đôi khi có thể dựa vào, và thậm chí tạo ra, sự chậm phát triển ở phần khác nào đó của nền kinh tế nội địa hay thế giới.
  • 312. 10. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG VINH DỰ GIỮA NHỮNG KẺ CẮP ƯỚC ANH THẾ KỶ THỨ MƯỜI TÁM – hay thỏa đáng hơn, Vương quốc Anh sau sự hợp nhất 1708 của Anh, xứ Wales và Scotland – đã có một giải pháp đơn giản để xử lý các phạm nhân: xa mặt cách lòng, hay chí ít khỏi rắc rối. Họ đã đày nhiều [phạm nhân] đến các thuộc địa hình phạt trong đế chế. Trước Chiến tranh Độc lập, các phạm nhân đã bị kết án, các tù nhân, chủ yếu đã được gửi sang các thuộc địa Mỹ. Sau 1783, Hợp chủng Quốc Hoa Kỳ độc lập đã không còn hoan nghênh các tù nhân Anh, và các nhà chức trách Anh đã phải tìm xứ sở khác cho họ. Đầu tiên họ đã nghĩ đến Tây Phi. Nhưng khí hậu, với các bệnh địa phương như sốt rét và sốt vàng, mà những người Âu châu đã không có sự miễn dịch nào chống lại chúng, đã gây chết người đến mức các nhà chức trách đã quyết định rằng là không thể chấp nhận được để gửi ngay cả các tù nhân đến “nghĩa địa của người da trắng.” Sự lựa chọn tiếp theo của họ đã là Australia. Vùng bờ biển phía đông của nó đã được khám phá bởi nhà đi biển vĩ đại Thuyền trưởng James Cook. Ngày 29 tháng Tư năm 1770, Cook đã cập bến ở một vịnh nhỏ tuyệt vời, mà ông đã gọi là Vịnh Botany (Thực vật học) để tỏ lòng tôn vinh các loài phong phú được tìm thấy ở đó bởi các nhà tự nhiên học đi cùng với ông. Đấy đã có vẻ là một địa điểm lý tưởng cho các quan chức chính phủ Anh. Khí hậu ôn hòa, và chỗ này đã xa con mắt và xa tâm trí (xa mặt cách lòng) ở mức có thể tưởng tượng được. Một đội gồm mười một chiếc tàu nhồi đầy các tù nhân đã trên đường đến Vịnh Botany trong tháng Giêng năm 1788 dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Arthur Phillip. Vào ngày 26 tháng Giêng, bây giờ được kỷ niệm như Ngày Australia, họ đã dựng trại ở Vũng Sydney, trái tim của thành phố Sydney hiện đại. Họ đã gọi N
  • 313. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 275 thuộc địa mới là New South Wales. Trên boong một trong những chiếc tàu, chiếc Alexander, do Duncan Sinclair làm thuyền trưởng, đã có một cặp vợ chồng tù nhân, Henry và Susannah Cable. Susannah đã được xác minh và tuyên bố có tội ăn trộm và ban đầu đã bị tuyên án tử hình. Bản án này muộn hơn được giảm xuống mười bốn năm và đày đi các thuộc địa Mỹ. Kế hoạch đó đã thất bại với sự độc lập của Hoa Kỳ. Trong lúc ấy, ở Nhà tù Norwich Castle, Susannah đã gặp và phải lòng Henry, một bạn tù. Trong năm 1787 cô bị chọn để đày sang thuộc địa tù mới ở Australia với đội tàu đầu tiên hướng về phía đó. Nhưng Henry đã không. Vào thời gian này Susannah và Henry đã có một con trai nhỏ, cũng được gọi là Henry. Quyết định này đã có nghĩa là gia đình bị ly tán. Susannah đã được chuyển đến một chiếc tàu tù thả neo trên sông Thames, nhưng tin tức đã lộ ra về sự kiện gây đau đớn khổ sở này và đã đến tai một người nhân đức, Lady Cadogan. Lady Cadogan đã tổ chức một chiến dịch thành công để đoàn tụ gia đình nhà Cable. Bây giờ cả hai được chở cùng với Henry nhỏ sang Australia. Lady Cadogan cũng đã thu được £20 để mua hàng hóa cho họ, mà họ sẽ nhận ở Australia. Họ đã đi trên chiếc Alexander, nhưng khi họ đến Vịnh Botany, kiện hàng đã biến mất, hay chí ít đó là cái Thuyền trưởng Sinclair đã xác nhận. Nhà Cable đã có thể làm gì? Không nhiều, theo luật Anh. Cho dù trong năm 1787, Anh đã có các thể chế chính trị và kinh tế bao gồm, tính bao gồm này đã không mở rộng ra cho các tù nhân, những người hầu như đã chẳng có quyền gì. Họ đã không thể sở hữu tài sản. Họ chắc chắn đã không thể kiện bất kỳ ai ở tòa án. Thực ra, họ thậm chí đã không thể cung cấp bằng chứng ở tòa án. Sinclair đã biết điều này và có lẽ đã lấy cắp kiện hàng. Mặc dù ông đã chẳng bao giờ thừa nhận việc đó, ông đã có khoác lác rằng ông không thể bị nhà Cable kiện. Ông đã đúng theo luật Anh. Và ở Anh toàn bộ vụ việc đã kết thúc ở đó. Nhưng không phải ở Australia. Một trát đã được phát ra cho David Collins, luật sư công tố (judge advocate) ở đó, như sau: Xét rằng Henry Cable và vợ ông ta, những người định cư mới của nơi này, trước khi họ rời nước Anh đã có một kiện hàng nào đó được chuyển bằng tàu Alexander chở Thuyền trưởng Duncan Sinclair, gồm có quần áo và nhiều đồ khác thích hợp cho tình hình hiện tại của họ, mà đã được gom góp và mua với phí tổn của nhiều cá nhân có lòng từ thiện cho việc sử dụng của Henry Cable được nhắc tới ở trên, vợ và
  • 314. 276 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI con ông. Nhiều đơn đã được làm ra cho mục đích rõ ràng để nhận được kiện hàng được nói tới ở trên từ Thuyền trưởng tàu Alexander bây giờ đang nằm tại cảng này, và rằng không có kết quả (ngoại trừ) một phần nhỏ của kiện hàng được nói tới đó chứa vài cuốn sách, phần còn lại và phần dư, mà có giá trị đáng kể hơn vẫn còn ở trên tàu Alexander được nhắc tới ở trên, Thuyền trưởng của nó, có vẻ rất cẩu thả trong việc không khiến cho cùng thứ đó được giao cho các chủ tương ứng của nó như đã nói ở trên. Henry và Susannah, vì cả hai đều không biết đọc biết viết, đã không thể ký trát và chỉ đánh “dấu chéo” của họ ở dưới cùng. Các từ “những người định cư mới của nơi này” muộn hơn đã bị gạch đi, nhưng đã hết sức quan trọng. Một người nào đó đã lường trước rằng nếu Henry Cable và vợ ông được mô tả như các tù nhân, thì vụ việc sẽ không có hy vọng gì được tiến hành. Thay vào đó người nào đó đã tìm ra ý tưởng gọi họ là những người định cư mới. Đấy có lẽ đã là hơi quá nhiều đối với Quan tòa Collins để chấp nhận, và rất có thể ông đã gạch các từ này đi. Nhưng trát đã có kết quả. Collins đã không bác vụ việc, và đã triệu tập phiên tòa, với một bội thẩm đoàn hoàn toàn gồm những người lính. Sinclair được triệu ra trước tòa. Mặc dù Collins đã ít nhiệt tình về vụ việc, và bội thẩm đoàn đã gồm những người được cử đến Australia để canh giữ các tù nhân như vợ chồng Cable, nhà Cable đã thắng. Sinclair đã tranh cãi không thừa nhận toàn bộ vụ việc với lý do rằng vợ chồng Cable đã là các tội phạm. Nhưng lời tuyên án đã có giá trị, và ông ta đã phải trả mười lăm bảng. Để đi đến phán quyết này Quan tòa Collins đã không áp dụng luật Anh; ông đã bỏ qua nó. Đây là vụ kiện dân sự đầu tiên được xét xử ở Australia. Vụ hình sự đầu tiên có thể đã tỏ ra kỳ quái ngang thế đối với các vụ ở Anh. Một tù nhân đã được xác minh và tuyên là có tội ăn cắp bánh mỳ của một tù nhân khác, mà đã đáng giá hai xu (pence). Vào thời đó, một vụ như vậy không phải đến tòa án, vì các tù nhân đã không được phép sở hữu bất cứ thứ gì. Australia đã không phải là Anh, và luật của nó sẽ không hệt như luật Anh. Và chẳng bao lâu Australia khác với Anh về luật hình sự và dân sự cũng như về một loạt các thể chế kinh tế và chính trị. Thuộc địa tù New South Wales ban đầu gồm các tù nhân và những người canh giữ họ, phần lớn là lính. Đã có ít “người định cư tự do” ở Australia cho đến các năm 1820, và việc đày tù nhân, dù đã ngừng ở New South Wales trong năm 1840,
  • 315. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 277 đã tiếp tục cho đến 1868 ở Tây Australia. Các tù nhân đã phải thực hiện “công việc ép buộc,” về bản chất chỉ là một cái tên khác cho lao động cưỡng bức, và những người canh giữ đã có ý định kiếm tiền từ việc đó. Ban đầu các tù nhân đã không có tiền công. Họ chỉ được nhận thức ăn đổi lại lao động họ đã thực hiện. Những người canh đã giữ sản phẩm họ sản xuất ra. Nhưng hệ thống này, giống các hệ thống mà Công ty Virginia đã thử nghiệm ở Jamestown, đã không hoạt động rất tốt, bởi vì các tù nhân đã không có những khuyến khích để làm việc siêng năng hay làm công việc tốt. Họ đã bị quất bằng roi hay bị đày đi Đảo Norfolk, lãnh thổ chỉ có mười ba dặm vuông nằm cách Australia hơn một ngàn dặm về phía phía đông trong Thái Bình Dương. Nhưng vì cả việc đày đi lẫn việc đánh bằng roi đã không có kết quả, lựa chọn khả dĩ khác đã là tạo cho họ các khuyến khích. Đấy đã không phải là một ý tưởng tự nhiên đối với những người lính và những người canh giữ. Tù nhân là tù nhân, và họ đã không được cho là để bán lao động của họ hay sở hữu tài sản. Nhưng ở Australia đã không có ai khác để làm việc. Tất nhiên đã có những người Aboriginal, có lẽ đông đến một triệu vào thời thành lập New South Wales. Nhưng họ đã ở rải rác khắp một lục địa mênh mông, và mật độ của họ ở New South Wales đã không đủ cho việc tạo ra một nền kinh tế dựa trên sự bóc lột họ. Đã không có lựa chọn Mỹ Latin nào ở Australia. Những người canh giữ như thế đã lao vào một con đường mà cuối cùng dẫn đến các thể chế mà thậm chí còn bao gồm hơn các thể chế ở bên Anh. Các tù nhân được giao một số nhiệm vụ để làm, và nếu họ có thời gian thêm, họ đã có thể làm cho chính mình và bán cái họ sản xuất ra. Những người canh giữ cũng được hưởng lợi từ quyền tự do kinh tế mới của các tù nhân. Sản xuất đã tăng lên, và những người canh giữ đã dựng lên các độc quyền để bán hàng hóa cho các tù nhân. Món hàng béo bở nhất trong số này đã là rượu rum. New South Wales vào lúc đó, giống hệt các thuộc địa Anh khác, đã được vận hành bởi một thống đốc, do chính phủ Anh chỉ định. Năm 1806 Vương quốc Anh đã chỉ định William Bligh, người mà mười bảy năm trước, năm 1789, đã là thuyền trưởng của tàu H.M.S. Bounty, trong cuộc “Nổi loạn trên tàu Bounty” nổi tiếng. Bligh đã là một người giữ kỷ luật nghiêm ngặt, một nét có lẽ đã chịu trách nhiệm phần lớn về cuộc nổi loạn. Cung cách của ông đã không thay đổi, và ngay lập tức ông đã thách thức các nhà độc quyền rum. Việc này đã dẫn đến một cuộc nổi loạn khác, lần này của các nhà độc quyền, đứng đầu bởi một cựu quân nhân, John Macarthur. Các sự kiện, mà được biết đến như cuộc Phiến loạn Rum,
  • 316. 278 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI lần nữa lại đã dẫn Bligh bị những kẻ phiến loạn chế ngự, lần này trên mặt đất chứ không phải trên tàu Bounty. Macarthur đã sai nhốt Bligh lại. Các nhà chức trách Anh sau đó đã cử nhiều lính đến để giải quyết vụ nổi loạn. Macarthur đã bị bắt và bị đày về Anh. Nhưng không bao lâu sau ông được thả, và ông đã quay lại Australia để đóng một vai trò lớn trong cả chính trị lẫn kinh tế của thuộc địa. Gốc rễ của cuộc Phiến loạn Rum đã là kinh tế. Chiến lược trao cho các tù nhân các khuyến khích đã làm ra rất nhiều tiền cho những người như Macarthur, người đã đến Australia như một người lính trong nhóm tàu thứ hai cập bến năm 1790. Năm 1796 ông giải ngũ rời quân đội để tập trung vào kinh doanh. Vào thời đó ông đã có con cừu đầu tiên của mình, và đã nhận ra rằng có thể kiếm được rất nhiều tiền trong chăn nuôi cừu và xuất khẩu len. Bên trong nội địa từ Sydney là dãy núi Blue Mountains, mà cuối cùng đã được băng qua trong năm 1813, để lộ ra những dải mênh mông đồng cỏ thoáng rộng ở sườn bên kia. Đã là thiên đường của cừu. Macarthur chẳng bao lâu đã là người giàu nhất Australia, và ông và các ông trùm cừu bạn ông đã được biết đến như những Kẻ Chiếm Đất (Squatter), vì đất mà trên đó họ cho cừu ăn cỏ đã không phải là đất của họ. Nó là đất do chính phủ Anh sở hữu. Nhưng lúc đầu đấy đã là một chi tiết nhỏ. Những Kẻ Chiếm Đất đã là giới elite của Australia, hay, thỏa đáng hơn, Chế độ Chiếm đất (Squattocracy). Ngay cả với một Chế độ Chiếm đất, New South Wales đã không giống chút nào với các chế độ chuyên chế của Đông Âu hay của các thuộc địa Nam Mỹ. Đã không có các nông nô như ở Áo-Hungary và Nga, và không có đông dân bản địa để bóc lột như ở Mexico và Peru. Thay vào đó, New South Wales đã giống Jamestown, Virginia, theo nhiều cách: giới elite cuối cùng đã thấy hợp với lợi ích của họ để tạo ra các thể chế kinh tế mang tính bao gồm hơn đáng kể so với các thể chế ở Áo-Hungary, Nga, Mexico, và Peru. Các tù nhân đã là lực lượng lao động duy nhất, và cách duy nhất đến khuyến khích họ đã là trả lương cho họ đối với công việc họ làm. Không bao lâu sau các tù nhân đã được phép trở thành các doanh nhân khởi nghiệp và thuê các tù nhân khác. Đáng chú ý hơn, thậm chí họ đã được trao đất sau khi mãn hạn tù, và tất cả các quyền của họ đã được phục hồi. Một vài trong số họ đã trở nên giàu có, ngay cả Henry Cable mù chữ nữa. Vào năm 1798 ông đã sở hữu một khách sạn được gọi là Ramping Horse, và ông cũng đã có một cửa hàng. Ông đã mua một chiếc
  • 317. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 279 tàu và lao vào buôn da chó biển. Vào năm 1809 ông đã sở hữu ít nhất chín trang trại rộng khoảng 470 mẫu và cả nhiều cửa hàng và nhà ở Sydney. Xung đột tiếp theo ở New South Wales đã là giữa elite và phần còn lại của xã hội, gồm có các tù nhân, các cựu tù nhân, và gia đình họ. Elite, dẫn đầu bởi những người canh giữ trước kia và các binh lính như Macarthur, kể cả một số người định cư tự do những người đã bị hấp dẫn đến thuộc địa bởi vì sự hưng thịnh bột phát trong ngành len. Hầu hết tài sản đã vẫn ở trong tay elite, và các cựu tù nhân và các hậu duệ của họ đã muốn chấm dứt sự lưu đày, muốn cơ hội được xử bởi một bội thẩm đoàn của những người cùng địa vị như họ, và sự tiếp cận đến đất miễn phí. Elite đã chẳng muốn thứ nào trong các thứ này. Mối quan tâm chính của họ là xác lập chứng thư pháp lý về quyền sở hữu đối với đất mà họ đã chiếm. Tình hình lại đã giống với các sự kiện mà đã diễn ra ở Bắc Mỹ hơn hai thế kỷ trước. Như chúng ta đã thấy ở chương 1, thắng lợi của những người hầu được mang từ nước ngoài vào chống lại Công ty Virginia đã được kế tiếp bởi các cuộc đấu tranh ở Maryland và Carolina. Ở New South Wales, các vai của Lord Baltimore và Sir Anthony Ashley-Cooper đã được đóng bởi Macarthur và những Kẻ Chiếm Đất. Chính phủ Anh lần nữa đã lại ở bên elite, mặc dù họ cũng đã sợ rằng một ngày nào đó Macarthur và những Kẻ Chiếm Đất có thể bị cám dỗ để tuyên bố độc lập. Chính phủ Anh đã cử John Bigge đến thuộc địa vào năm 1819 để đứng đầu một ủy ban điều tra về những sự phát triển ở đó. Bigge đã bị sốc bởi các quyền mà các tù nhân được hưởng và đã ngạc nhiên bởi bản chất bao gồm căn bản của các thể chế kinh tế của thuộc địa tù này. Ông đã kiến nghị một sự xem xét lại triệt để: các tù nhân không thể sở hữu đất, không ai được phép trả lương cho các tù nhân nữa, sự xá tội đã phải hạn chế, không được cấp đất cho các cựu tù nhân, và sự trừng phạt phải khắc nghiệt hơn nhiều. Bigge đã coi những Kẻ Chiếm Đất như tầng lớp quý tộc tự nhiên của Australia và đã hình dung một xã hội chuyên quyền do họ thống trị. Điều này đã không xảy ra. Trong lúc Bigge đã thử vặn lại đồng hồ, các cựu tù nhân và con trai và con gái họ đã đòi hỏi nhiều quyền hơn. Quan trọng nhất, họ đã nhận ra, lại hệt như ở Hoa Kỳ, rằng để củng cố các quyền kinh tế và chính trị của họ một cách đầy đủ họ cần đến các thể chế chính trị mà sẽ bao hàm họ trong quá trình ra quyết định. Họ đã đòi hỏi các cuộc bầu cử mà trong đó họ có thể tham gia như những người ngang
  • 318. 280 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI hàng và các thể chế đại diện và các hội đồng mà trong đó họ có thể giữ các chức vụ. Các cựu tù nhân và các con trai và con gái của họ đã được lãnh đạo bởi nhà văn sôi nổi, nhà thám hiểm, và nhà báo William Wentworth. Wentworth đã là một trong các nhà lãnh đạo của đoàn thám hiểm vượt qua núi Blue Mountains, mà đã mở ra các đồng cỏ mênh mông cho những Kẻ Chiếm Đất; một thị trấn trên các núi này vẫn được đặt tên ông. Sự thương cảm của ông đã dành cho các tù nhân, có lẽ bởi vì cha ông, người đã bị tố cáo cướp đường và đã chấp nhận sự lưu đày sang Australia để tránh sự xét xử và sự kết án có thể xảy ra. Vào lúc này, Wentworth đã là một người ủng hộ mạnh mẽ các thể chế chính trị bao gồm hơn, một quốc hội được bầu, sự xét xử bởi bội thẩm đoàn đối với các cựu tù nhân và gia đình của họ, và một sự chấm dứt lưu đày sang New South Wales. Ông đã bắt đầu một tờ báo, tờ Australian, mà từ đó trở đi hướng dẫn cuộc tấn công lên các thể chế chính trị hiện tồn. Macarthur đã không thích Wentworth và chắc chắn đã không thích cái ông đòi. Ông đã xem xét kỹ một danh sách những người ủng hộ Wentworth, mô tả đặc điểm họ như sau: đã bị kết án treo cổ từ khi hắn đến đây bị đánh đòn lặp đi lặp lại ở đằng sau xe bò một người Do Thái London chủ quán Do Thái mới bị tước giấy phép gần đây người bán đấu giá bị đày vì buôn bán nô lệ thường bị đánh đòn ở đây con trai của hai tù nhân một kẻ lừa đảo – bị nợ nần chồng chất một người Mỹ phiêu lưu một luật sư với tính cách không ra gì một kẻ lạ vừa thất bại ở đây trong một tiệm âm nhạc
  • 319. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 281 người lấy con gái của hai tù nhân người lấy một tù nhân mà trước đây là một cô gái đánh trống tambourine. Sự phản đối mãnh liệt của Macarthur và những Kẻ Chiếm Đất, tuy vậy, đã không thể chặn trào lưu ở Australia. Việc đòi các thể chế đại diện đã mạnh mẽ và đã không thể bị dập tắt. Cho đến 1823 thống đốc đã ít nhiều tự mình cai trị New South Wales. Trong năm đó các quyền hạn của ông ta đã bị hạn chế bởi việc tạo ra một hội đồng do chính phủ Anh chỉ định. Ban đầu những người được chỉ định đã từ những Kẻ Chiếm Đất và elite không-tù nhân, Macarthur là giữa trong số họ, nhưng điều này đã không thể kéo dài. Năm 1831 thống đốc Richard Bourke đã chịu khuất phục trước áp lực và lần đầu tiên đã cho phép các cựu tù nhân ngồi trong bội thẩm đoàn. Các cựu tù nhân và thực ra nhiều người định cư tự do cũng đã muốn ngừng việc đày các tù nhân từ Anh, bởi vì nó đã tạo ra sự cạnh tranh trong thị trường lao động và đã đẩy lương xuống. Những Kẻ Chiếm Đất đã thích lương thấp, nhưng họ đã thua. Trong năm 1840 việc đày sang New South Wales đã ngừng, và trong năm 1842 một hội đồng lập pháp đã được tạo ra với hai-phần- ba các thành viên của nó được bầu (số còn lại được chỉ định). Các cựu tù nhân đã có thể tranh cử vào chức vụ và bỏ phiếu nếu họ có đủ tài sản, và nhiều người đã có. Vào các năm 1850, Australia đã đưa ra quyền đi bầu cho người da trắng trưởng thành. Các đòi hỏi của các công dân, các cựu tù nhân và gia đình của họ, bây giờ đã vượt xa mức mà William Wentworth đầu tiên đã hình dung. Thực ra, vào lúc này đông đã ở phía của những người bảo thủ khăng khăng về một Hội đồng Lập pháp không được bầu. Nhưng hoàn toàn giống Macarthur trước đó, Wentworth đã không có khả năng để ngừng trào lưu tiến đến các thể chế chính trị bao gồm hơn. Trong năm 1856 bang Victoria, mà đã được cắt ra từ New South Wales năm 1851, và bang Tasmania đã trở thành các nơi đầu tiên trên thế giới để đưa việc bỏ phiếu kín bí mật hiệu quả trong các đợt bầu cử, mà đã chặn việc mua phiếu và ép buộc. Ngày nay chúng ta vẫn gọi phương pháp chuẩn để đạt sự bí mật trong bỏ phiếu ở các cuộc bầu cử là bỏ phiếu Australian. Hoàn cảnh ban đầu ở Sydney, New South Wales, đã rất giống hoàn cảnh ở Jamestown, Virginia, 181 năm trước, mặc dù những người định cư ở Jamestown
  • 320. 282 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI phần lớn đã là những người lao động được đưa từ nước ngoài đến, hơn là các tù nhân. Trong cả hai trường hợp hoàn cảnh ban đầu đã không cho phép việc tạo ra các thể chế thuộc địa khai thác. Cả hai đều đã không có dân cư bản xứ đông đúc để bóc lột, đã không có sự tiếp cận dễ dàng đến các kim loại quý như vàng hay bạc, hay đất và cây trồng mà đã có thể làm cho các đồn điền nô lệ có thể tồn tại về mặt kinh tế. Việc buôn bán nô lệ vẫn còn sống động trong các năm 1780, và New South Wales đã có thể tràn đầy nô lệ giả như nó đã sinh lời. Nó đã không. Cả Công ty Virginia và những người lính và các nhà định cư tự do những người chạy đến New South Wales đã chịu khuất phục trước những áp lực, từ từ tạo ra các thể chế kinh tế bao gồm mà đã phát triển cùng với các thể chế chính trị bao gồm. Việc này đã xảy ra thậm chí với ít đấu tranh hơn ở New South Wales so với ở Virginia, và các mưu toan tiếp sau để đảo ngược xu hướng này đã thất bại. AUSTRALIA, GIỐNG HOA KỲ, đã trải qua một con đường khác đến các thể chế bao gồm so với con đường Anh đã đi. Cùng các cuộc cách mạng mà đã làm rung chuyển nước Anh trong Nội Chiến và sau đó Cách mạng Vinh quang đã không cần đến ở Hoa Kỳ hay Australia bởi vì chính các hoàn cảnh rất khác mà trong đó các nước này dựa vào – mặc dù điều này tất nhiên không có nghĩa rằng các thể chế bao gồm đã được thiết lập mà không có xung đột nào, và, trong quá trình, Hoa Kỳ đã phải lật đổ chủ nghĩa thuộc địa Anh. Ở nước Anh đã có một lịch sử dài về sự cai trị chuyên chế mà đã bám sâu và đã cần đến một cuộc cách mạng để xóa bỏ nó. Ở Hoa Kỳ và Australia, đã không có thứ như vậy. Mặc dù Lord Baltimore ở Maryland và John Macarthur ở New South Wales đã có thể mong mỏi một vai trò như vậy, họ đã không thể thiết lập một sự kìm kẹp đủ mạnh lên xã hội để cho các kế hoạch của họ ra quả. Các thể chế bao gồm được thiết lập ở Hoa Kỳ và Australia đã có nghĩa rằng Cách mạng Công nghiệp lan nhanh chóng đến các miền đất này và chúng bắt đầu trở nên giàu. Con đường mà các nước này đi đã được các thuộc địa như Canada và New Zealand noi theo. Đã vẫn có những con đường khác đến các thể chế bao gồm. Các phần lớn của Tây Âu đã đi một con đường thứ ba đến các thể chế bao gồm dưới sự thúc đẩy của Cách mạng Pháp, mà đã lật đổ chính thể chuyên chế ở Pháp và rồi đã gây ra một chuỗi các xung đột giữa các quốc gia mà đã truyền bá cải cách thể chế ngang qua phần lớn Tây Âu. Hệ quả kinh tế của những cải cách này đã là sự nổi lên của
  • 321. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 283 các thể chế kinh tế bao gồm ở hầu hết Tây Âu, Cách mạng Công nghiệp, và tăng trưởng kinh tế. PHÁ VỠ CÁC RÀO CẢN: CÁCH MẠNG PHÁP Trong ba thế kỷ trước năm 1789, Pháp đã được cai trị bởi một nền quân chủ chuyên chế. Xã hội Pháp đã được chia thành ba mảng, thành cái được gọi là các đẳng cấp (estate). Các nhà quý tộc (giới quý tộc) tạo thành Đẳng Cấp Thứ Nhất, giới tăng lữ Đẳng Cấp Thứ Hai, và tất cả những người khác Đẳng Cấp Thứ Ba. Các đẳng cấp khác nhau đã phải chịu các luật khác nhau, và hai đẳng cấp đầu tiên đã có các quyền mà phần còn lại của dân cư đã không có. Giới quý tộc và tăng lữ đã không đóng thuế, trong khi các công dân đã phải đóng nhiều loại thuế khác nhau, như chúng ta có thể kỳ vọng từ một chế độ mang tính khai thác trên quy mô lớn. Thực ra, đã không chỉ Giáo hội được miễn thuế, mà nó cũng đã sở hữu các dải lớn đất đai và đã có thể áp đặt các loại thuế riêng của nó lên các nông dân. Quốc vương, giới quý tộc, và giới tăng lữ đã hưởng thụ lối sống xa hoa, trong khi phần lớn Đẳng Cấp Thứ Ba sống trong sự nghèo nàn kinh khủng. Các luật khác nhau không chỉ đã đảm bảo một vị thế kinh tế hết sức thuận lợi cho giới quý tộc và tăng lữ, mà nó cũng trao cho họ quyền lực chính trị. Đời sống trong các thành phố Pháp thế kỷ thứ mười tám đã khắc nghiệt và có hại cho sức khỏe. Sự sản xuất đã bị điều tiết bởi các phường hội hùng mạnh, mà đã tạo ra thu nhập tốt cho các thành viên của chúng nhưng đã ngăn cản những người khác tham gia vào các nghề này hay khởi động các doanh nghiệp mới. Cái gọi là ancien régime (chế độ cũ) đã tự kiêu hãnh về tính liên tục và ổn định của nó. Sự tham gia của các doanh nhân khởi nghiệp và các cá nhân tài giỏi vào các nghề mới sẽ tạo ra sự bất ổn định và đã không được dung thứ. Nếu cuộc sống trong các thành phố đã là khắc nghiệt, cuộc sống ở các làng có lẽ đã còn tồi hơn. Như chúng ta đã thấy, vào thời gian này hình thức cực đoan nhất của chế độ nông nô, mà gắn chặt người dân vào đất và buộc họ phải làm việc và trả thuế cho các chúa phong kiến, đã suy tàn lâu ở nước Pháp. Tuy nhiên, đã có những hạn chế về
  • 322. 284 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI tính di động và trạng thái quá nhiều thuế mà các nông dân Pháp đã phải trả cho quốc vương, giới quý tộc, và Giáo hội. Tương phản với bối cảnh này, Cách mạng Pháp đã là một việc cấp tiến. Ngày 4 tháng Tám năm 1789, Quốc hội Lập hiến đã thay đổi hoàn toàn các luật của Pháp bằng kiến nghị một hiến pháp mới. Điều thứ nhất nói rõ: Quốc hội bằng cách này xóa bỏ hoàn toàn hệ thống phong kiến. Nó ra sắc lệnh rằng, giữa các quyền và thuế hiện tồn, cả phong kiến và địa tô, tất cả những thứ hình thành trong hay tượng trưng cho thân phận nông nô thực hay cá nhân sẽ bị xóa bỏ mà không có sự bồi thường nào. Rồi điều thứ chín của nó tiếp tục: Các đặc quyền về tiền tài, cá nhân hay thực tế, trong nộp thuế bị xóa bỏ vĩnh viễn. Thuế sẽ được thu từ tất cả các công dân, và từ mọi tài sản, theo cùng cách và trong cùng hình thức. Các kế hoạch sẽ được xem xét mà theo đó các loại thuế sẽ được trả một cách tỷ lệ bởi tất cả mọi người, ngay cả cho sáu tháng cuối cùng của năm này. Như thế, trong một cú đột kích, Cách mạng Pháp đã xóa bỏ hệ thống phong kiến và mọi giao ước và thuế mà nó đã đòi hỏi, và nó đã bãi bỏ toàn bộ những sự miễn thuế của giới quý tộc và tăng lữ. Nhưng có lẽ cái đã là cấp tiến nhất, thậm chí không thể tưởng tượng nổi vào thời ấy, đã là điều thứ mười một, mà nói rõ: Tất cả mọi công dân, không phân biệt dòng dõi, đều có quyền đối với bất cứ chức vụ hay chức tước cao nào, bất luận tu sĩ, dân sự, hay quân sự; và không nghề nào sẽ ngụ ý bất cứ sự xúc phạm nào. Như thế bây giờ đã có sự bình đẳng trước pháp luật cho tất cả mọi người, không chỉ trong đời sống hàng ngày và trong kinh doanh, mà cả trong chính trị. Những cải cách của cách mạng đã tiếp tục sau ngày 4 tháng Tám. Rồi sau đó nó đã bãi bỏ quyền của Giáo hội để thu các loại thuế đặc biệt và biến giới tăng lữ thành các viên chức nhà nước. Cùng với việc xóa bỏ các vai trò chính trị và xã hội cứng nhắc, các rào cản cơ bản chống lại các hoạt động kinh tế đã bị nghiền nát.
  • 323. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 285 Các phường hội và mọi hạn chế nghề nghiệp đã bị hủy bỏ, tạo ra một sân chơi bằng phẳng hơn trong các thành phố. Những cải cách này đã là bước đầu tiên theo hướng chấm dứt thế lực của các quốc vương Pháp chuyên chế. Nhiều thập niên bất ổn định và chiến tranh đã tiếp theo các tuyên bố ngày 4 tháng Tám. Nhưng một bước không thể đảo ngược đã được lấy đi khỏi chính thể chuyên chế và các thể chế khai thác và hướng tới các thể chế chính trị và kinh tế bao gồm. Những thay đổi này được tiếp theo bởi những cải cách khác trong nền kinh tế và trong chính trị, cuối cùng lên đến đỉnh điểm trong nền Cộng hòa Thứ ba vào năm 1870, mà đã mang đến cho nước Pháp loại hệ thống nghị viện mà Cách mạng Vinh quang đã khởi động ở nước Anh. Cách mạng Pháp đã tạo ra nhiều bạo lực, sự đau khổ, sự bất ổn định, và chiến tranh. Tuy nhiên, nhờ nó, mà nước Pháp đã không bị sập bẫy với các thể chế khai thác ngăn cản tăng trưởng kinh tế và thịnh vượng, như các chế độ chuyên chế của Đông Âu như Áo-Hungary và Nga. Làm thế nào mà nền quân chủ Pháp chuyên chế đã đến bờ vực của cách mạng 1789? Rốt cuộc, chúng ta đã thấy nhiều chế độ chuyên chế đã có khả năng sống sót trong các thời kỳ dài, ngay cả giữa sự trì trệ kinh tế và chấn động xã hội. Như với hầu hết các trường hợp của các cuộc cách mạng và những thay đổi triệt để, nó đã là một sự hợp lưu của các nhân tố mở đường đến Cách mạng Pháp, và các nhân tố này đã quan hệ mật thiết với sự thực rằng Anh đang công nghiệp hóa nhanh chóng. Và tất nhiên con đường đã là, như thường lệ, tùy thuộc ngẫu nhiên, vì nhiều mưu toan của nền quân chủ để ổn định hóa chế độ đã thất bại và cách mạng đã hóa ra thành công hơn trong thay đổi các thể chế ở Pháp và ở các nơi khác ở châu Âu so với mức nhiều người đã có thể hình dung trong năm 1789. Nhiều luật và đặc quyền ở Pháp đã là các tàn dư của thời trung cổ. Chúng không chỉ đã ưu ái cho các Đẳng Cấp Thứ nhất và Thứ hai tương đối so với đa số dân cư mà cũng đã trao cho họ các đặc quyền vis-à-vis (so với) Quốc vương. Louis XIV, Vua Mặt trời, đã cai trị Pháp trong năm mươi tư năm, giữa 1661 đến lúc ông chết năm 1715, mặc dù ông thực sự đã lên ngôi trong năm 1643, vào lúc năm tuổi. Ông đã củng cố quyền lực của nền quân chủ, đẩy mạnh quá trình hướng tới chính thể chuyên chế lớn hơn mà đã bắt đầu hàng thế kỷ trước. Nhiều quốc vương thường đã tham vấn cái gọi là Hội Đồng Nhân Sĩ, gồm các quý tộc chủ chốt do Quốc vương chọn lọc. Mặc dù phần lớn mang tính tham vấn, Hội Đồng
  • 324. 286 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI đã vẫn hoạt động như một ràng buộc nhẹ lên quyền lực của quốc vương. Vì lý do này, Louis XIV đã cai trị mà không triệu tập Hội Đồng. Dưới triều ông, Pháp đã đạt sự tăng trưởng kinh tế nào đó – thí dụ, qua tham gia vào thương mại Đại Tây Dương và thuộc địa. Bộ trưởng tài chính có tài của Louis, Jean-Baptiste Colbert, cũng đã trông coi việc phát triển công nghiệp do chính phủ tài trợ và do chính phủ kiểm soát, một loại của sự tăng trưởng khai thác. Lượng hạn chế này của sự tăng trưởng đã làm lợi hầu như chỉ riêng cho các Đẳng Cấp Thứ Nhất và Thứ Hai. Louis XIV cũng đã muốn hợp lý hóa hệ thống thuế của Pháp, bởi vì nhà nước thường đã có các vấn đề về cấp tài chính cho các cuộc chiến tranh thường xuyên của nó, quân đội thường trực lớn của nó, và đoàn tùy tùng, sự tiêu thụ, và các lâu đài xa hoa của riêng nhà Vua. Sự bất lực để đánh thuế ngay cả giới quý tộc nhỏ đặt các giới hạn nghiêm ngặt lên các khoản thu của nó. Mặc dù đã có một chút tăng trưởng kinh tế, vào thời Louis XVI lên nắm quyền trong năm 1774, tuy nhiên đã có những thay đổi lớn trong xã hội. Hơn nữa, các vấn đề tài khóa trước đây đã biến thành một khủng hoảng tài khóa, và Chiến tranh Bảy Năm với Anh giữa 1756 và 1763, trong đó Pháp đã mất Canada, đã đặc biệt tốn kém. Nhiều nhân vật quan trọng đã thử cân bằng ngân sách hoàng gia bằng cách tái cấu trúc nợ và tăng các loại thuế; giữa họ đã có Anne-Robert-Jacques Turgot, một trong những nhà kinh tế học nổi tiếng nhất thời đó; Jacques Necker, người cũng đóng một vai trò quan trọng sau cách mạng; và Charles Alexandre de Calonne. Nhưng đã chẳng ai thành công. Calonne, như phần của chiến lược của ông, đã thuyết phục Louis XVI để triệu tập Hội Đồng Nhân Sĩ. Nhà vua và các cố vấn của ông đã kỳ vọng Hội Đồng ủng hộ các cải cách của ông hầu như theo cùng cách như Charles I đã kỳ vọng Quốc hội Anh để đơn giản đồng ý chi trả cho một quân đội để đánh những người Scottish khi ông triệu tập nó năm 1640. Hội đồng đã đi một bước bất ngờ và đã ra sắc lệnh rằng chỉ có một cơ quan đại diện, Estates-General, đã có thể ủng hộ các cải cách như vậy. Estates-General đã là một cơ quan rất khác với Hội Đồng Nhân Sĩ. Trong khi tổ chức sau bao gồm giới quý tộc và phần lớn được chọn bởi Quốc vương từ các quý tộc lớn, thì tổ chức trước đã bao gồm các đại diện của cả ba đẳng cấp. Nó đã được triệu tập lần cuối cùng trong năm 1614. Khi Estates-General tụ tập năm 1789 ở Versailles, đã trở nên rõ ràng là, không thể đạt được thỏa thuận nào cả. Đã có những sự khác biệt không thể hòa giải được, vì Estate (Đẳng Cấp) Thứ Ba đã
  • 325. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 287 coi đây như cơ hội của nó để tăng quyền lực chính trị của mình và đã muốn có nhiều phiếu bầu hơn trong Estates-General, mà giới quý tộc và tăng lữ đã kiên quyết phản đối. Cuộc họp kết thúc ngày 5 tháng Năm, 1789, mà không có nghị quyết nào, trừ quyết định để triệu tập một cơ quan hùng mạnh hơn, Quốc hội, làm sâu sắc cuộc khủng hoảng chính trị. Estate Thứ Ba, nhất là các nhà buôn, các nhà kinh doanh, các nhà chuyên môn, và các thợ thủ công, những người đều đã có những đòi hỏi để có quyền lực lớn hơn, đã thấy những diễn tiến này như là bằng chứng của quyền lực ngày càng tăng của họ. Trong Quốc hội, vì thế họ đã đòi thậm chí nhiều tiếng nói hơn trong những cách tiến hành và nhiều quyền hơn nói chung. Sự ủng hộ của họ trên đường phố khắp đất nước bởi các công dân được làm cho bạo dạn bởi những diễn biến này đã dẫn đến việc tổ chức lại Quốc hội như Quốc hội Lập hiến ngày 9 tháng Bảy. Trong thời gian đó, tâm trạng trong nước, và đặc biệt ở Paris, đã trở nên cấp tiến hơn. Đáp lại, các giới bảo thủ xung quanh Louis XVI đã thuyết phục ông sa thải Necker, bộ trưởng tài chính theo đường lối cải cách. Việc này đã dẫn đến sự cấp tiến hóa hơn trên đường phố. Kết quả đã là sự kiện nổi tiếng đột chiếm Bastille ngày 14 tháng Bảy, 1789. Từ thời điểm này trở đi, cách mạng đã bắt đầu dữ dội. Necker đã được phục hồi chức, và nhà cách mạng Marquis de Lafayette được cử phụ trách Vệ binh Quốc gia Paris. Thậm chí đáng chú ý hơn việc đột chiếm Bastille đã là sự năng động của Quốc hội Lập hiến, mà ngày 4 tháng Tám, 1789, với sự tự tin mới được tìn thấy của nó, đã thông qua hiến pháp mới, xóa bỏ chủ nghĩa phong kiến và các đặc quyền đặc biệt của các Estate thứ Nhất và thứ Hai. Nhưng sự cấp tiến hóa này đã dẫn đến sự bè phái hóa ở bên trong Quốc hội, vì đã có nhiều quan điểm xung đột nhau về hình thù mà xã hội nên có. Bước đầu tiên đã là sự hình thành của các hội (club) địa phương, đáng chú ý nhất là Hội Jacobin [Club] cấp tiến, mà muộn hơn nắm quyền kiểm soát cuộc cách mạng. Đồng thời, các quý tộc chạy trốn khỏi đất nước với số lượng lớn – cái gọi là émigrés (những người di tản). Nhiều người đã cũng cổ vũ nhà vua để tuyệt giao với Quốc hội và hành động, hoặc tự mình hay với sự giúp đỡ của các cường quốc nước ngoài, như Áo, đất nước quê hương của Hoàng hậu Marie Antoinette và nơi hầu hết émigrés đã trốn sang. Vì nhiều người trên đường phố đã bắt đầu thấy một mối đe dọa sắp xảy ra chống lại các thành quả cách mạng trong hai năm qua, sự cấp tiến hóa đã lấy được nhịp độ. Quốc hội Lập
  • 326. 288 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Hiến đã thông qua phiên bản cuối cùng của hiến pháp ngày 29 tháng Chín, 1791, biến Pháp thành một nền quân chủ lập hiến, với sự bình đẳng về các quyền cho tất cả những người đàn ông, không có các nghĩa vụ hay thuế phong kiến, và chấm dứt mọi hạn chế buôn bán được áp đặt bởi các phường hội. Pháp đã vẫn là một nền quân chủ, nhưng nhà vua bây giờ đã có ít vai trò và, thực ra, không có ngay cả quyền tự do của mình. Nhưng sự năng động của cách mạng sau đó đã bị thay đổi một cách không thể đảo ngược bởi cuộc chiến tranh nổ ra năm 1792 giữa Pháp và “liên minh đầu tiên,” do Áo dẫn đầu. Chiến tranh đã làm tăng quyết tâm và chủ nghĩa cấp tiến của các nhà cách mạng và của quần chúng (cái gọi là sans-culottes, mà được dịch ra như “không có quần ống túm ở đầu gối,” bởi vì họ đã không thể có đủ khả năng mặc kiểu quần đang mốt khi đó). Kết quả của quá trình này đã là giai đoạn được biết đến như Khủng bố, dưới sự chỉ huy của phe Jacobin do Robespierre và Saint- Just lãnh đạo, được tháo tung ra sau việc hành quyết Louis XVI và Marie Antoinette. Nó đã dẫn đến các vụ hành quyết không chỉ nhiều nhà quý tộc và phản cách mạng mà cả nhiều nhân vật chủ chốt của cách mạng, kể cả các cựu lãnh tụ được lòng dân Brissot, Danton, và Desmoulins. Nhưng Khủng bố đã chẳng mấy chốc vượt khỏi vòng kiểm soát và cuối cùng đã đi đến kết thúc vào tháng Bảy năm 1794 với việc tử hình các lãnh tụ của chính nó, kể cả Robespierre và Saint-Just. Tiếp theo đã là một thời kỳ ổn định tương đối, đầu tiên dưới thời của Hội đồng Đốc chính (Directory) hơi kém hiệu quả, giữa 1795 và 1799, và sau đó với quyền lực được tập trung hơn dưới dạng một Chế độ tổng tài (Consulate) ba người, gồm có Ducos, Sieyès, và Napoleon Bonaparte. Ngay dưới thời Hội đồng Đốc chính, vị tướng trẻ Napoleon Bonaparte đã trở nên nổi tiếng rồi vì các thành công quân sự của ông, và ảnh hưởng của ông đã chỉ tăng lên sau 1799. Chế độ tổng tài chẳng bao lâu sau đã biến thành sự cai trị cá nhân của Napoleon. Các năm giữa 1799 và sự kết thúc của triều đại Napoleon, 1815, đã chứng kiến một chuỗi chiến thắng quân sự vĩ đại cho nước Pháp, kể cả chiến thắng tại Austerlitz, Jena-Auerstadt, và Wagram, bắt châu Âu lục địa quỳ gối. Chúng cũng đã cho phép Napoleon áp đặt ý chí của mình, các cuộc cải cách của mình, và bộ luật của mình ngang một vùng lãnh thổ rộng lớn. Sự sụp đổ của Napoleon sau thất bại cuối cùng của ông năm 1815 cũng mang lại một thời kỳ cắt giảm, các quyền
  • 327. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 289 chính trị bị hạn chế hơn, và sự khôi phục của nền quân chủ Pháp dưới thời Louis XVII. Nhưng tất cả những thứ này đã đơn thuần chỉ làm chậm sự nổi lên cuối cùng của các thể chế chính trị bao gồm. Các lực được tháo ra bởi cách mạng 1789 đã chấm dứt chính thể chuyên chế Pháp và một cách không thể tránh khỏi, cho dù chậm chạp, đã dẫn đến sự nổi lên của các thể chế bao gồm. Pháp, và các phần của châu Âu nơi các cuộc cải cách cách mạng đã được xuất khẩu sang, sẽ tham gia vào quá trình công nghiệp hóa đang tiến triển trong thế kỷ thứ mười chín. XUẤT KHẨU CÁCH MẠNG Trước Cách mạng Pháp năm 1789, đã có những hạn chế nghiêm ngặt đối với những người Do thái khắp châu Âu. Ở thành phố Đức Frankfurt, chẳng hạn, cuộc sống của họ đã bị điều tiết bởi các lệnh được trình bày trong một quy chế từ thời Trung Cổ. Đã không thể có nhiều hơn năm trăm gia đình Do Thái ở Frankfurt, và tất cả họ đã phải sống trong một khu nhỏ được xây tường bao quanh của thành phố, Judengasse, ghetto (khu riêng cho người) Do Thái. Họ đã không thể rời ghetto vào ban đêm, vào các ngày Chủ nhật, hay trong bất cứ ngày hội Christian nào. Judengasse đã bị cản trở một cách không thể tin được. Nó dài một phần tư dặm nhưng không rộng hơn mười hai bộ (3,66 m) và ở một số nơi rộng ít hơn mười bộ. Những người Do Thái sống dưới sự đàn áp và quy định liên miên. Mỗi năm, nhiều nhất hai gia đình được nhận vào ghetto, và nhiều nhất mười hai cặp Do Thái có thể được kết hôn, và chỉ nếu cả hai đã trên tuổi hai mươi lăm. Những người Do Thái đã không thể canh tác chăn nuôi; họ cũng đã không thể buôn bán về vũ khí, gia vị, rượu, hay ngũ cốc. Cho đến 1726 họ đã phải mang các dấu hiệu đặc biệt, hai vòng tròn vàng đồng tâm cho những người đàn ông và một mạng che mặt có sọc cho phụ nữ. Tất cả những người Do Thái đã phải đóng thuế thân đặc biệt. Khi Cách mạng Pháp nổ ra, một nhà kinh doanh trẻ thành công, Mayer Amschel Rothschild, đã sống tại Judengasse ở Frankfurt. Vào đầu các năm 1780, Rothschild đã xác lập mình như một thương nhân hàng đầu về tiền đúc, kim loại, và đồ cổ ở Frankfurt. Nhưng giống tất cả những người Do Thái trong thành phố,
  • 328. 290 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI ông đã không thể mở một doanh nghiệp bên ngoài ghetto hay thậm chí sống ở ngoài ghetto. Tất cả điều này sắp thay đổi chẳng bao lâu nữa. Năm 1791 Quốc hội Pháp đã giải phóng dân Do Thái Pháp. Các đội quân Pháp chiếm đóng Rhineland (vùng sông Rhine) và đã giải phóng những người Do Thái ở miền Tây nước Đức. Ở Frankfurt tác động của chúng đột ngột hơn và có lẽ hơi không chủ tâm. Năm 1796 những người Pháp đã oanh tạc Frankfurt, phá hủy một nửa Judengasse trong quá trình đó. Khoảng hai ngàn người Do Thái đã bị bỏ vô gia cư và đã phải chuyển ra ngoài ghetto. Nhà Rothschild đã ở trong số những người này. Một khi đã ở bên ngoài ghetto, và bây giờ được giải thoát khỏi vô số các quy chế ngăn cản họ khỏi tinh thần kinh doanh khởi nghiệp, họ đã có thể chớp lấy những cơ hội kinh doanh mới. Điều này bao gồm cả một hợp đồng cung ứng ngũ cốc cho quân đội Áo, việc mà trước đây họ đã không thể được phép làm. Vào cuối thập kỷ, Rothschild đã là một trong những người Do Thái giàu nhất Frankfurt và đã là một nhà kinh doanh có uy tín lâu rồi. Sự giải phóng toàn bộ đã còn phải đợi đến 1811; nó cuối cùng đã được thực hiện bởi Karl von Dalberg, người đã được phong là Đại Công tước Frankfurt trong việc tổ chức lại nước Đức năm 1806 của Napoleon. Mayer Amschel đã bảo con trai mình, “Con bây giờ là một công dân.” Những sự kiện như vậy đã không chấm dứt cuộc chiến đấu vì sự giải phóng người Do Thái, vì đã có những sự đảo ngược sau đó, đặc biệt tại Hội nghị Vienna năm 1815, mà đã thành hình sự dàn xếp chính trị hậu-Napoleonic. Nhưng đã không có chuyện quay lại ghetto đối với nhà Rothschild. Mayer Amschel và con trai ông chẳng bao lâu sau đã có ngân hàng lớn nhất châu Âu thế kỷ thứ mười chín, với các chi nhánh ở Frankfurt, London, Paris, Naples, và Vienna. Đây đã không là một sự kiện cô lập. Đầu tiên các Đội quân Cách mạng Pháp và rồi Napoleon đã xâm chiếm các phần lớn của châu Âu lục địa, và trong hầu như tất cả các vùng mà họ xâm chiếm, các thể chế hiện tồn đã là các tàn dư của thời trung cổ, trao quyền cho các vua, các hoàng tử, và giới quý tộc và hạn chế thương mại cả ở các thành phố và ở vùng nông thôn. Chế độ nông nô và chủ nghĩa phong kiến đã quan trọng ở nhiều vùng này hơn ở bản thân nước Pháp rất nhiều. Ở Đông Âu, kể cả Phổ và phần Hungary của Áo-Hungary, các nông nô đã
  • 329. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 291 bị gắn với đất. Ở phương Tây hình thái nghiêm ngặt này của chế độ nông nô đã biến mất rồi, nhưng các nông dân đã nợ các chúa phong kiến nhiều loại phí lãnh chúa, thuế, và các nghĩa vụ lao động. Thí dụ, ở chính thể Nassau-Usingen, các nông dân đã phải chịu 230 loại đóng góp, thuế, và dịch vụ khác nhau. Thuế đã bao gồm cả một loại mà phải trả sau khi một súc vật bị giết thịt, được gọi là thuế sát sinh (blood tithe); đã cũng có thuế ong và thuế sáp ong. Nếu một tài sản được mua hay bán, phải đóng phí cho chúa. Các phường hội điều tiết mọi loại hoạt động kinh tế ở các thành phố đã cũng mạnh hơn một cách điển hình ở các nơi này hơn là ở Pháp. Ở các thành phố Cologne và Aachen miền tây nước Đức, việc chấp nhận các máy kéo sợi và dệt đã bị các phường hội ngăn chặn. Nhiều thành phố, từ Berne ở Thụy Sĩ đến Florence ở Italy, đã bị vài gia đình kiểm soát. Các lãnh tụ của Cách mạng Pháp và, sau đó, Napoleon đã xuất khẩu cách mạng sang các vùng đất này, tiêu diệt chính thể chuyên chế, chấm dứt các quan hệ đất đai phong kiến, xóa bỏ các phường hội, và áp đặt sự bình đẳng trước luật – quan niệm quan trọng nhất về pháp trị, mà chúng ta sẽ thảo luận kỹ hơn nhiều ở chương tiếp theo. Cách mạng Pháp như thế đã chuẩn bị không chỉ nước Pháp mà phần lớn của phần còn lại của châu Âu cho các thể chế bao gồm và sự tăng trưởng kinh tế mà những thể chế này khích lệ.
  • 330. 292 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Như chúng ta đã thấy, hoảng sợ bởi những diễn biến ở Pháp, nhiều cường quốc Âu châu đã tổ chức xung quanh Áo năm 1792 để tấn công Pháp, bề ngoài là để giải thoát Vua Louis XVI, nhưng trên thực tế là để nghiền nát Cách mạng Pháp. Sự kỳ vọng đã là, các đội quân thay thế tạm thời được cách mạng đưa ra chiến trường sẽ mau chóng tan rã. Nhưng sau vài thất bại ban đầu, các đội quân của Cộng hòa Pháp mới đã chiến thắng trong một cuộc chiến tranh tự vệ lúc ban đầu. Đã có những vấn đề tổ chức quan trọng phải khắc phục. Nhưng Pháp đã đi trước các nước khác về một đổi mới chủ yếu: chế độ cưỡng bách tòng quân hàng loạt. Được đưa ra trong tháng Tám 1793, chế độ cưỡng bách tòng quân hàng loạt đã cho phép những người Pháp đưa ra chiến trường các đội quân lớn và tạo một lợi thế quân sự sắp đạt ưu thế tối cao ngay cả trước khi tài năng quân sự nổi tiếng của Napoleon xuất hiện. Thành công quân sự ban đầu đã khuyến khích ban lãnh đạo của nền Cộng hòa để mở rộng biên giới của Pháp, với một con mắt hướng tới việc tạo ra một vùng đệm hữu hiệu giữa nền cộng hòa mới và các quốc vương thù địch của Phổ và Áo. Những người Pháp nhanh chóng chiếm Hà lan thuộc Áo và các Tỉnh Hợp nhất, về cơ bản là Bỉ và Hà Lan ngày nay. Những người Pháp cũng đã tiếp quản phần lớn của Thụy Sĩ hiện đại ngày nay. Ở cả ba nơi, những người Pháp đã có sự kiểm soát mạnh mẽ suốt các năm 1790. Đức ban đầu đã bị tranh giành một cách nóng bỏng. Nhưng vào 1795, những người Pháp đã có sự kiểm soát vững vàng trên vùng Rhineland, phần phía tây của nước Đức nằm bên bờ trái của Sông Rhine. Những người Phổ đã buộc phải thừa nhận sự thực này dưới Hiệp ước Basel. Giữa 1795 và 1802, những người Pháp đã giữ Rhineland, nhưng không giữ bất cứ phần nào khác của Đức. Trong năm 1802 Rhineland đã chính thức hợp nhất vào Pháp. Italy đã vẫn là trung tâm chính của chiến tranh trong nửa thứ hai của các năm 1790, với những người Áo như các địch thủ. Savoy bị sáp nhập vào Pháp năm 1792, và đã dẫn đến một sự bế tắc cho đến cuộc xâm lấn của Napoleon vào tháng Tư 1796. Trong chiến dịch lớn trên đại lục đầu tiên của mình, vào đầu năm 1797, Napoleon đã chinh phục hầu như toàn bộ Bắc Italy, trừ Venice, mà đã bị những người Áo chiếm. Hiệp ước Campo Formio, được ký với những người Áo trong tháng Mười 1797, đã chấm dứt Chiến tranh của Liên Minh Thứ nhất và đã công nhận nhiều nền cộng hòa do Pháp kiểm soát ở Bắc Italy. Tuy vậy, những người
  • 331. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 293 Pháp đã tiếp tục để mở rộng sự kiểm soát của họ trên Italy ngay cả sau hiệp ước này, xâm chiếm Các Lãnh địa Giáo hoàng (Papal State) và thiết lập Cộng hòa Roman tháng Ba 1798. Tháng Giêng 1799, Naples bị chinh phục và Cộng hòa Parthenopean được tạo ra. Với sự ngoại lệ của Venice, mà vẫn thuộc Áo, những người Pháp bây giờ đã kiểm soát toàn bộ bán đảo Italy hoặc một cách trực tiếp, như trong trường hợp của Savoy, hay thông qua các quốc gia chư hầu, như các nền cộng hòa Cisalpine, Ligurian, Roman, và Parthenopean. Đã có thêm sự tới lui trong Chiến tranh Liên Minh Thứ Hai, giữa 1798 và 1801, nhưng cuộc này đã chấm dứt với người Pháp về cơ bản vẫn giữ sự kiểm soát. Các đội quân Cách mạng Pháp mau chóng đã bắt đầu thực hiện một quá trình cải cách triệt để trong các vùng mà họ đã chinh phục, xóa bỏ các vết tích còn lại của chế độ nông nô và các quan hệ đất đai phong kiến và áp đặt sự bình đẳng trước luật. Giới tăng lữ bị tước mất địa vị đặc biệt và quyền lực, và các phường hội ở các vùng đô thị bị tiệt trừ hay nói nhẹ đi là bị làm yếu đi rất nhiều. Việc này đã xảy ra ở Hà Lan thuộc Áo ngay sau cuộc xâm lấn của Pháp năm 1795 và ở các Tỉnh Hợp nhất, nơi người Pháp đã lập ra Cộng hòa Batavia, với các thể chế chính trị rất giống các thể chế ở Pháp. Ở Thụy Sỹ tình hình đã tương tự, và các phường hội cũng như các chúa phong kiến và Giáo Hội đã bị đánh bại, các đặc quyền phong kiến bị xóa bỏ, và các phường hội bị bãi bỏ và sung công. Cái đã được bắt đầu bởi các Đội quân Cách mạng Pháp đã được tiếp tục, dưới hình thức này hay hình thức khác, bởi Napoleon. Napoleon đầu tiên và trên hết đã quan tâm đến việc xác lập sự kiểm soát chặt chẽ trên các lãnh thổ ông đã chinh phục. Việc này đôi khi đã dính líu đến việc dàn xếp một thỏa thuận với các elite địa phương hay đặt gia đình và các đồng minh của ông phụ trách, như trong thời gian kiểm soát ngắn Tây Ban Nha và Ba Lan. Nhưng Napoleon cũng đã có một mong muốn chân thật để tiếp tục và làm sâu sắc các cuộc cải cách của cách mạng. Quan trọng nhất, ông đã hệ thống hóa luật La Mã và các tư tưởng về bình đẳng trước luật vào một hệ thống pháp luật mà được biết đến như Bộ Luật [Code] Napoleon. Napoleon đã coi bộ luật này như di sản lớn nhất của ông và đã muốn áp đặt nó ở mọi lãnh thổ ông kiểm soát. Tất nhiên, những cải cách được áp đặt bởi Cách mạng Pháp và Napoleon đã không phải là không thể bị đảo ngược. Ở một số nơi, như ở Hanover, Đức, các elite cũ đã được phục hồi không lâu sau sự sụp đổ của Napoleon và phần lớn cái
  • 332. 294 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI những người Pháp đạt được đã bị mất vĩnh viễn. Nhưng ở nhiều nơi khác, chủ nghĩa phong kiến, các phường hội, và giới quý tộc đã bị triệt phá vĩnh viễn hay đã bị làm yếu đi. Thí dụ, ngay cả sau khi người Pháp bỏ đi, trong nhiều trường hợp Code Napoleon vẫn còn hiệu lực. Xét cho cùng, các đội quân Pháp đã gây ra nhiều đau khổ ở châu Âu, nhưng chúng cũng đã làm thay đổi triệt để tình hình (địa hình địa thế). Trong phần lớn châu Âu đã biến mất các quan hệ phong kiến; quyền lực của các phường hội; sự kiểm soát chuyên chế của các quốc vương và các hoàng thân; sự kìm kẹp của giới tăng lữ đối với quyền lực kinh tế, xã hội, và chính trị; và nền tảng của ancien régime (chế độ cũ), mà đối xử với những người khác nhau theo cách không ngang bằng dựa trên địa vị dòng dõi của họ. Những thay đổi này đã tạo ra loại của các thể chế kinh tế bao gồm mà sau đó cho phép công nghiệp hóa bén rễ ở những nơi này. Vào giữa thế kỷ thứ mười chín, công nghiệp hóa đã tiến triển nhanh trong hầu hết các nơi mà người Pháp kiểm soát, trong khi những nơi như Áo-Hungary và Nga, mà người Pháp đã không chinh phục, hay Ba Lan và Tây Ban Nha, nơi ảnh hưởng Pháp đã là tạm thời và hạn chế, nhìn chung đã vẫn trì trệ. TÌM KIẾM TÍNH HIỆN ĐẠI Vào mùa thu 1867, Ōkubo Toshimichi, một cận thần hàng đầu của lãnh địa phong kiến Satsuma, Nhật bản, đã đi từ thủ đô Edo, Tokyo bây giờ, đến thành phố khu vực Yamaguchi. Ngày 14 tháng Mười ông đã gặp các lãnh đạo của lãnh địa Chōshū. Ông đã có một kiến nghị đơn giản: họ phải kết hợp lực lượng, hành quân về Edo, và lật đổ shogun, nhà cai trị Nhật Bản. Vào lúc này Ōkubo Toshimichi đã thuyết phục được các lãnh đạo của các lãnh địa Tosa và Aki rồi. Một khi các lãnh đạo của Chōshū hùng mạnh đồng ý, một Liên minh Satcho bí mật hình thành. Trong năm 1868 Nhật Bản đã là một nước chậm phát triển về mặt kinh tế mà đã bị kiểm soát từ 1600 bởi gia đình Tokugawa, mà kẻ cai trị của nó đã lấy tước hiệu shogun (người chỉ huy) trong năm 1603. Hoàng đế Nhật Bản đã bị cho ra ngoài lề và chỉ đảm đương vai trò nghi thức thuần túy. Các sogun Tokugawa đã là các thành viên vượt trội của một tầng lớp chúa phong kiến những người đã cai trị và thu thuế các lãnh địa riêng của họ, giữa chúng là Satsuma, được cai trị bởi gia
  • 333. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 295 đình Shimazu. Các lãnh chúa này, cùng với các tùy tùng quân sự của họ, các samurai nổi tiếng, đã vận hành một xã hội mà tương tự như xã hội Âu châu trung cổ, với các loại nghề nghiêm ngặt, những hạn chế thương mại, và các suất thuế cao đối với nông dân. Shogun đã cai trì từ Edo, nơi ông ta độc quyền và kiểm soát ngoại thương và đã cấm những người nước ngoài khỏi đất nước. Các thể chế chính trị và kinh tế đã là khai thác, và Nhật Bản đã nghèo. Nhưng sự thống trị của shogun đã không hoàn toàn. Ngay cả khi nhà Tokugawa đã tiếp quản đất nước năm 1600, họ đã không thể kiểm soát mọi người. Ở miền nam, lãnh địa Satsuma đã vẫn khá tự trị và thậm chí đã được phép buôn bán với thế giới bên ngoài một cách độc lập qua các Đảo Ryūkyū. Chính là ở thủ đô Satsuma, Kagoshima, nơi Ōkubo Toshimichi đã sinh ra năm 1830. Với tư cách là con trai một samurai, ông cũng đã trở thành một samurai. Tài năng của ông đã được phát hiện ra từ sớm bởi Shimazu Nariakira, lãnh chúa của Satsuma, người đã nhanh chóng cất nhắc ông trong bộ máy quan liêu. Vào lúc đó, Shimazu Nariakira đã đề ra rồi một kế hoạch dùng quân lính Satsuma để lật đổ shogun. Ông đã muốn mở rộng buôn bán với châu Á và châu Âu, xóa bỏ các thể chế kinh tế phong kiến cũ kỹ, và xây dựng một nhà nước hiện đại ở Nhật Bản. Kế hoạch mới sinh của ông đã bị kết liễu sớm bởi cái chết của ông năm 1858. Người kế vị ông, Shimazu Hisamitsu, đã thận trọng hơn, chí ít lúc ban đầu. Ōkubo Toshimichi bây giờ đã ngày càng được thuyết phục rằng Nhật Bản cần lật đổ chế độ shogun phong kiến, và cuối cùng ông đã thuyết phục được Shimazu Hisamitsu. Để tập hợp sự ủng hộ cho sự nghiệp của họ, họ đã gói ghém nó trong sự phẫn uất cao độ vì việc đẩy hoàng đế ra ngoài lề. Thỏa ước Ōkubo Toshimichi đã ký rồi với lãnh địa Tosa khẳng định rằng “một nước không có hai quốc vương, một nhà không có hai chủ; chính phủ ủy thác cho một nhà cai trị.” Nhưng ý định thực sự đã không đơn giản để khôi phục lại quyền lực cho hoàng đế mà để thay đổi hoàn toàn các thể chế kinh tế và chính trị. Về phía Tosa, một trong những người ký thỏa ước đã là Sakamoto Ryūma. Khi Satsuma và Chōshū đã huy động quân đội của họ, Sakamoto Ryūma đã trình shogun một kế hoạch tám điểm, thúc giục ông từ chức để tránh nội chiến. Kế hoạch đã là cấp tiến, và mặc dù điều 1 tuyên bố rằng “quyền lực chính trị của đất nước phải được trả lại cho Triều Đình Hoàng đế, và mọi sắc lệnh được ban hành bởi Triều Đình,” nó đã bao gồm nhiều hơn chỉ sự khôi phục hoàng đế rất nhiều. Các điều 2, 3, 4, và 5 tuyên bố:
  • 334. 296 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI 2. Hai cơ quan lập pháp, Thượng viện và Hạ viện, phải được thiết lập, và mọi biện pháp của chính phủ phải được quyết định trên cơ sở ý kiến chung. 3. Những người có năng lực giữa các lãnh chúa, các quý tộc và nhân dân nói chung phải được dùng như các ủy viên hội đồng, và các chức vụ truyền thống của quá khứ mà đã mất mục đích của chúng phải bị bãi bỏ. 4. Công việc đối ngoại phải được thực hiện theo các quy chế thích hợp được soạn ra trên cơ sở ý kiến chung. 5. Luật pháp và các quy định của các thời trước phải được xếp sang một bên và một bộ luật mới và phù hợp phải được chọn. Shogun Yoshinobu đã đồng ý từ chức, và vào ngày 3 tháng Giêng, 1868, Minh Trị Duy Tân (Meiji Restoration) đã được tuyên bố; Hoàng đế Kōmei và, một tháng sau, sau khi Kōmei chết, con trai ông Meiji đã được phục hồi quyền lực. Mặc dù các lực lượng Satsuma và Chōshū bây giờ đã chiếm Edo và thủ đô đế chế Kyōto, họ đã sợ nhà Tokugawas sẽ thử lấy lại quyền lực và tái lập chế độ shogun. Ōkubo Toshimichi đã muốn nhà Tokugawas bị nghiền nát vĩnh viễn. Ông đã thuyết phục hoàng đế bãi bỏ lãnh địa Tokugawa và sung công đất của họ. Ngày 27 tháng Giêng cựu shogun Yoshinobu đã tấn công các lực lượng Satsuma và Chōshū, và nội chiến đã nổ ra; nó đã diễn ra ác liệt cho đến mùa hè, khi cuối cùng nhà Tokugawa bị đánh bại. Tiếp sau Minh Trị Duy Tân đã có một quá trình cải cách biến đổi ở Nhật Bản. Năm 1869 chế độ phong kiến bị bãi bỏ, và ba trăm thái ấp đã đầu hàng chính phủ và biến thành các quận, dưới sự kiểm soát của một thủ hiến được chỉ định. Thu thuế được tập trung hóa, và một nhà nước quan liêu hiện đại đã thay thế nhà nước phong kiến cũ. Năm 1869 sự bình đẳng trước luật của mọi tầng lớp xã hội được đưa ra, và các hạn chế về di cư nội địa và thương mại bị bãi bỏ. Tầng lớp samurai được bãi bỏ, mặc dù đã phải đàn áp một số cuộc nổi loạn. Các quyền sở hữu tư nhân về đất đai được đưa ra, và người dân đã được quyền tự do để tham gia và thực hành bất cứ nghề gì. Nhà nước đã trở nên dính líu sâu vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Trái ngược với thái độ của các chế độ chuyên chế đối với đường sắt, trong năm 1869 chế độ Nhật Bản đã thiết lập tuyến tàu thủy hơi nước giữa Tokyo và Osaka và đã xây dựng tuyến đường sắt đầu tiên giữa Tokyo và Yokohama. Nó
  • 335. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 297 cũng đã bắt đầu phát triển công nghiệp chế tác, và Ōkubo Toshimichi, với tư cách bộ trưởng tài chính, đã trông coi phần đầu của một nỗ lực được phối hợp của công nghiệp hóa. Lãnh chúa của lãnh địa Satsuma đã là một nhà lãnh đạo trong việc này, xây dựng các nhà máy cho gốm, súng đại bác, và sợi bông và nhập khẩu máy móc của Anh để tạo ra xưởng kéo sợi bông hiện đại đầu tiên ở Nhật Bản trong năm 1861. Ông cũng đã xây dựng hai xưởng đóng tàu hiện đại. Vào năm 1890 Nhật Bản đã là nước Á châu đầu tiên chấp nhận một hiến pháp thành văn, và nó đã tạo ra một nền quân chủ lập hiến với một quốc hội, Diet, được bầu và một ngành tư pháp độc lập. Những thay đổi này đã là các nhân tố quyết định cho phép Nhật Bản trở thành người hưởng lợi đầu tiên từ Cách mạng Công nghiệp ở châu Á. GIỮA THẾ KỶ THỨ MƯỜI CHÍN cả Trung Quốc và Nhật Bản đã là các quốc gia nghèo, tiều tụy dưới các chế độ chuyên chế. Chế độ chuyên chế ở Trung Quốc đã tỏ vẻ nghi ngờ sự thay đổi trong hàng thế kỷ. Mặc dù đã có nhiều sự giống nhau giữa Trung Quốc và Nhật Bản – chế độ shogun Tokugawa cũng đã cấm ngoại thương trong thế kỷ thứ mười bảy, như các hoàng đế Trung Quốc đã cấm trước đó, và đã chống đối sự thay đổi kinh tế và chính trị – cũng đã có những khác biệt chính trị đáng chú ý. Trung Quốc đã là một đế chế quan liêu tập trung được cai trị bởi một hoàng đế chuyên chế. Hoàng đế chắc chắn đã đối mặt với các ràng buộc lên quyền lực của ông ta, mà ràng buộc quan trọng nhất trong số đó đã là sự đe dọa nổi loạn. Trong thời kỳ từ 1850 đến 1864, toàn bộ miền nam Trung Quốc đã bị tàn phá bởi Nổi loạn Thái Bình, trong đó hàng triệu người đã chết hoặc trong xung đột hay qua chết đói hàng loạt. Nhưng sự đối lập với hoàng đế đã không được thể chế hóa. Cấu trúc của các thể chế chính trị Nhật Bản đã là khác. Chế độ shogun đã dẹp hoàng đế sang bên lề, nhưng như chúng ta đã thấy, quyền lực của nhà Tokugawa đã không phải là tuyệt đối, và các lãnh địa như lãnh địa Satsumas đã duy trì sự độc lập, thậm chí cả khả năng để tiến hành buôn bán với nước ngoài nhân danh chính họ. Như với Pháp, một hệ quả quan trọng của Cách mạng Công nghiệp Anh đối với Trung Quốc và Nhật Bản đã là tính dễ bị tổn thương quân sự. Trung Quốc đã
  • 336. 298 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI bị sỉ nhục bởi sức mạnh hải quân Anh trong Chiến tranh Thuốc Phiện Đầu tiên, giữa 1839 và 1842, và cùng mối đe dọa đã trở nên đáng tiếc quá thực tế đối với người Nhật khi các tàu chiến Hoa Kỳ, do Commodore Matthew Perry chỉ huy, đã vào Vịnh Edo trong năm 1853. Thực tế rằng sự lạc hậu kinh tế đã tạo ra sự lạc hậu quân sự đã là một phần của sự thúc đẩy ở đằng sau kế hoạch của Shimazu Nariakira để lật đổ chế độ shogun và khởi động những thay đổi mà cuối cùng đã dẫn đến Minh Trị Duy Tân. Các lãnh đạo của lãnh địa Satsuma đã nhận ra rằng sự tăng trưởng kinh tế – có lẽ thậm chí sự sống sót Nhật Bản – đã có thể đạt được chỉ bằng những cải cách thể chế, nhưng shogun đã chống đối việc này bởi vì quyền lực của ông ta đã gắn với tập hiện tồn của các thể chế. Để đòi hỏi các cuộc cải cách, shogun đã phải bị đánh đổ, và ông đã bị. Tình hình đã tương tự ở Trung Quốc, nhưng các thể chế chính trị ban đầu khác biệt đã làm cho việc lật đổ hoàng đế khó hơn nhiều, việc này đã xảy ra chỉ trong năm 1911. Thay cho cải cách các thể chế, người Trung Quốc đã thử cân sức với người Anh về mặt quân sự bằng cách nhập khẩu vũ khí hiện đại. Những người Nhật đã xây dựng công nghiệp vũ khí của riêng họ. Như một hệ quả của những khác biệt ban đầu này, mỗi nước đã đáp lại một cách khác nhau đối với những thách thức của thế kỷ thứ mười chín, và Nhật Bản và Trung Quốc đã phân kỳ một cách đầy kịch tính khi đối mặt với bước ngoặt do Cách mạng Công nghiệp tạo ra. Trong khi các thể chế Nhật Bản đã được biến đổi và nền kinh tế đã bước lên con đường tăng trưởng nhanh, thì ở Trung Quốc các lực thúc đẩy sự thay đổi thể chế đã không đủ mạnh, và các thể chế khai thác đã tồn tại dai dẳng phần lớn không giảm sút cho đến khi chúng đổi sang hướng tồi tệ với cách mạng cộng sản của Mao trong năm 1949. GỐC RỄ CỦA SỰ BẤT BÌNH ĐẲNG THẾ GIỚI Chương này và ba chương trước đã kể câu chuyện về các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm đã nổi lên như thế nào ở nước Anh để làm cho Cách mạng Công nghiệp là có thể, và vì sao một số nước nào đó đã được lợi từ Cách mạng Công nghiệp và đã bước lên con đường tăng trưởng, trong khi các nước khác đã không hay, thực ra, đã kiên quyết từ chối việc cho phép thậm chí sự bắt đầu công nghiệp hóa. Liệu một nước đã có bắt đầu công nghiệp hóa hay không phần lớn đã là một
  • 337. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 299 chức năng của các thể chế của nó. Hoa Kỳ, mà đã trải qua một sự biến đổi giống như Cách mạng Vinh quang Anh, đã phát triển rồi kiểu riêng của mình về các thể chế chính trị và kinh tế bao gồm vào cuối thế kỷ thứ mười tám. Nó như thế trở thành quốc gia đầu tiên để lợi dụng các công nghệ mới đến từ các Đảo Anh, và chẳng bao lâu sau vượt qua Anh và trở thành người mở đường của công nghiệp hóa và thay đổi công nghệ. Australia đã đi theo một con đường tương tự đến các thể chế bao gồm, cho dù hơi muộn hơn và hơi ít được chú ý. Các công dân của nó, hệt như các công dân ở Anh và Hoa Kỳ, đã phải chiến đấu để có được các thể chế bao gồm. Một khi các thể chế này ở đúng vị trí, Australia đã có thể khởi đầu quá trình riêng của mình về tăng trưởng kinh tế. Australia và Hoa Kỳ đã có thể công nghiệp hóa và phát triển nhanh bởi vì các thể chế tương đối bao gồm của họ đã không ngăn chặn các công nghệ mới, sự đổi mới, hay sự phá hủy sáng tạo. Không phải vậy ở hầu hết các thuộc địa Âu châu khác. Sự năng động của họ là hoàn toàn ngược với sự năng động ở Australia và Hoa Kỳ. Thiếu cư dân bản địa hay tài nguyên để khai thác đã làm cho chủ nghĩa thuộc địa ở Australia và Hoa Kỳ là một loại vấn đề rất khác, cho dù các công dân của chúng đã phải chiến đấu gian khổ cho các quyền chính trị của họ và các thể chế bao gồm. Ở Molucca như ở nhiều nơi khác những người Âu châu đã thuộc địa hóa ở châu Á, ở vùng Caribe, và Nam Mỹ, các công dân đã có ít cơ hội thắng trong một cuộc chiến đấu như vậy. Ở những nơi này, các nhà thuộc địa Âu châu đã áp đặt một kiểu hoàn toàn mới của các thể chế khai thác, hay đã tiếp quản bất cứ các thể chế khai thác nào mà họ tìm thấy, nhằm có khả năng để khai thác các tài nguyên có giá trị, trải từ gia vị, mía đường đến bạc và vàng. Trong nhiều nơi này, họ đã khởi động một tập những thay đổi thể chế mà đã làm cho việc nổi lên của các thể chế bao gồm là rất ít có khả năng. Tại một số trong các nơi này họ đã tiệt trừ một cách tường minh bất cứ ngành công nghiệp đang đâm chồi nào hay các thể chế kinh tế bao gồm nào đã tồn tại. Hầu hết các nơi này không ở trong trạng thái để được lợi từ sự công nghiệp hóa trong thế kỷ thứ mười chín hay thậm chí trong thế kỷ thứ hai mươi. Sự năng động trong phần còn lại của châu Âu đã cũng hoàn toàn khác với sự năng động ở Australia và Hoa Kỳ. Khi Cách mạng Công nghiệp ở Anh lấy tốc độ vào cuối thế kỷ thứ mười tám, thì hầu hết các nước Âu châu đã bị cai trị bởi các chế độ chuyên chế, được kiểm soát bởi các quốc vương và bởi các giới quý tộc mà nguồn thu nhập chính của họ đã là từ sự chiếm hữu đất đai hay từ các đặc
  • 338. 300 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI quyền mà họ được hưởng nhờ các rào cản tham gia hết sức cao. Sự phá hủy sáng tạo mà được gây ra bởi quá trình công nghiệp hóa làm xói mòn các khoản lợi nhuận thương mại của các nhà lãnh đạo và lấy đi nguồn lực và lao động khỏi đất đai của họ. Các giới quý tộc cũng là những kẻ thua từ công nghiệp hóa. Quan trọng hơn, họ cũng là những kẻ thua chính trị, vì quá trình công nghiệp hóa không nghi ngờ gì sẽ tạo ra bất ổn định và các thách thức chính trị đối với sự độc quyền của họ về quyền lực chính trị. Nhưng những sự chuyển đổi thể chế ở Anh và Cách mạng Công nghiệp đã tạo ra các cơ hội và những thách thức mới cho các nhà nước Âu châu. Mặc dù đã có chính thể chuyên chế ở Tây Âu, khu vực này cũng đã chia sẻ nhiều sự trôi dạt thể chế mà đã tác động đến Anh trong thiên niên kỷ trước. Nhưng tình hình đã rất khác ở Đông Âu, Đế chế Ottoman, và Trung Quốc. Những sự khác biệt này đã là quan trọng cho việc phổ biến công nghiệp hóa. Hệt như Cái Chết Đen hay sự nổi lên của thương mại Đại Tây Dương, bước ngoặt do công nghiệp hóa tạo ra đã làm sâu sắc thêm sự xung đột từng luôn hiện diện về các thể chế ở nhiều quốc gia Âu châu. Một nhân tố chủ yếu đã là Cách mạng Pháp năm 1789. Sự chấm dứt chính thể chuyên chế ở Pháp đã mở đường cho các thể chế bao gồm, và những người Pháp cuối cùng đã bước lên con đường công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế nhanh. Cách mạng Pháp thực ra đã làm nhiều hơn thế. Nó đã xuất khẩu các thể chế của mình bằng cách xâm chiếm và cải cách bằng vũ lực các thể chế khai thác của nhiều nước láng giềng. Nó như thế đã mở đường cho công nghiệp hóa không chỉ ở Pháp, mà ở Bỉ, Hà Lan, Thụy Sĩ, và các phần của Đức và Italy. Xa hơn sang phía đông sự phản ứng đã giống với phản ứng sau Cái Chết Đen, khi, thay cho sụp đổ, chế độ phong kiến đã được tăng cường. Áo-Hungary, Nga, và Đế chế Ottoman đã tụt hậu thậm chí thêm về kinh tế, nhưng các nền quân chủ chuyên chế của họ đã tìm được cách để tồn tại cho đến Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất. Ở nơi khác trên thế giới, chính thể chuyên chế đã có sức bật như ở Đông Âu. Điều này đã đặc biệt đúng ở Trung Quốc, nơi sự chuyển tiếp Minh-Thanh đã dẫn đến một nhà nước cam kết xây dựng một xã hội nông nghiệp ổn định và thù địch với thương mại quốc tế. Nhưng cũng đã có những sự khác biệt thể chế mà đã là quan trọng ở châu Á. Nếu Trung Quốc đã phản ứng lại với Cách mạng Công nghiệp như Đông Âu đã phản ứng, thì Nhật Bản đã phả ứng theo cùng cách như Tây Âu. Hệt như ở Pháp, nó đã cần đến một cuộc cách mạng để thay đổi hệ thống,
  • 339. SỰ TRUYỀN BÁ THỊNH VƯỢNG ● 301 lần này là cuộc cách mạng được lãnh đạo bởi các lãnh chúa phản đạo của các lãnh địa Satsuma, Chōshū, Tosa, và Aki. Các lãnh chúa này đã lật đổ shogun, tạo ra Minh Trị Duy Tân, và đã chuyển Nhật Bản lên con đường cải cách thể chế và tăng trưởng kinh tế. Chúng ta cũng đã thấy rằng chính thể chuyên chế đã có sức bật ở Ethiopia cô lập. Ở nơi khác trên lục địa, chính cùng lực của thương mại quốc tế mà đã giúp biến đổi các thể chế Anh trong thế kỷ thứ mười bảy, lại đã siết chặt các phần lớn của miền tây và trung châu Phi vào các thể chế hết sức khai thác thông qua buôn bán nô lệ. Việc này đã phá hủy các xã hội ở một số nơi và đã dẫn đến việc tạo ra các nhà nước nô dịch khai thác ở một số nơi khác. Động học thể chế mà chúng ta mô tả cuối cùng đã xác định những nước nào tận dụng được lợi thế của các cơ hội hiện diện trong thế kỷ thứ mười chín trở đi và những nước nào đã không làm như vậy. Gốc rễ của sự bất bình đẳng thế giới mà chúng ta quan sát thấy ngày nay có thể thấy trong sự phân kỳ này. Với vài ngoại lệ, các nước giàu ngày nay là các nước đã bước chân vào quá trình công nghiệp hóa và thay đổi công nghiệp bắt đầu trong thế kỷ thứ mười chín, và các nước nghèo là các nước đã không làm vậy.
  • 340. 11. VÒNG THIỆN BỘ LUẬT ĐEN ÂU ĐÀI WINDSOR, nằm đúng tây London, là một trong những dinh thự hoàng gia lớn của nước Anh. Đầu thế kỷ thứ mười tám, lâu đài đã được bao quanh bởi một rừng lớn, đầy nai, mặc đù cảnh này chẳng còn mấy ngày nay. Một trong những người gác rừng trong năm 1722, Baptist Nunn, đã bị kẹt vào một xung đột hung tợn. Ngày 27 tháng Sáu, ông đã ghi chép, Những kẻ mặt đen đến vào ban đêm đã bắn về phí tôi 3 lần 2 viên đạn vào cửa sổ phòng tôi và [tôi] đã đồng ý trả chúng 5 guinea tại Crowthorne vào ngày 30. Một mục khác trong nhật ký của Nunn ghi, “Một sự ngạc nhiên mới. Đã xuất hiện một người được cải trang với một thông điệp phá hoại.” Ai đã là những “Kẻ Mặt Đen [Black]” bí ẩn này gây ra những đe dọa, bắn vào phía Nunn, và đòi tiền? Các Black đã là các nhóm các đàn ông địa phương những người đã bôi đen mặt mình để che giấu diện mạo của họ vào ban đêm. Chúng đã xuất hiện rộng ngang miền nam nước Anh trong thời kỳ này, giết và làm tàn tật nai và các thú vật khác, đốt các đống rơm và các kho thóc, và phá hoại hàng rào và các hồ cá. Theo bề ngoài đã là tình trạng vô luật pháp hoàn toàn, nhưng không phải. Việc săn (săn trộm) bất hợp pháp nai ở các vùng đất sở hữu bởi nhà vua và các thành viên khác của giới quý tộc đã xảy ra từ lâu. Trong các năm 1640, trong Nội Chiến, toàn bộ số nai ở Lâu đài Windsor đã bị giết. Sau sự Khôi phục năm 1660, khi Charles II lên ngôi, nai đã được nuôi lại ở công viên. Nhưng các Black đã không chỉ săn trộm nai để ăn; chúng cũng đã cố tình phá hoại. Vì mục đích gì? L
  • 341. VÒNG THIỆN ● 303 Một khối xây dựng (building block) cốt yếu của Cách mạng Vinh quang năm 1688 đã là bản chất đa nguyên của các lợi ích được đại diện trong Quốc hội. Chẳng ai trong giới các nhà buôn, nhà công nghiệp, quý tộc nhỏ, hay quý tộc đã liên minh với William xứ Orange và sau đó với các quốc vương Hanoverian, người đã kế vị Nữ hoàng Anne năm 1714, đã đủ mạnh để áp đặt ý chí của họ một cách đơn phương. Các nỗ lực để phôi phục nền quân chủ Stuart đã tiếp tục suốt phần lớn thế kỷ thứ mười tám. Sau cái chết của James II năm 1701, con trai ông, James Francis Edward Stuart, “Người Đòi [kế vị] Già,” đã được công nhận là người thừa kế hợp pháp ngôi Vua Anh bởi Pháp, Tây Ban Nha, giáo hoàng, và những người ủng hộ nền quân chủ Stuart ở nước Anh và Scotland, những người được gọi là các Jacobite. Năm 1708 Người Đòi Già đã thử lấy lại ngai vàng với sự giúp đỡ của binh lính Pháp, nhưng đã không thành công. Trong các thập niên tiếp sau đã có nhiều cuộc nổi loạn Jacobite, kể cả các cuộc lớn trong các năm 1715 và 1719. Trong các năm 1745–46, con trai của Người Đòi Già, Charles Edward Stuart, “Người Đòi Trẻ,” đã thử chiếm lại ngai vàng, nhưng các lực lượng của ông đã bị quân đội Anh đánh bại. Đảng chính trị Whig, mà như chúng ta đã thấy (trang 210-211), được thành lập trong các năm 1670 để đại diện cho các lợi ích buôn bán và kinh tế mới, đã là tổ chức chính ở đằng sau Cách mạng Vinh quang, và các đảng viên Whig đã chi phối Quốc hội từ 1714 đến 1760. Một khi đã nắm quyền lực, họ đã thử sử dụng vị trí mới kiếm được của mình để (săn) làm hại các quyền của những người khác, để cũng có miếng bánh của mình để ăn. Họ đã chẳng khác các vua Stuart, nhưng quyền lực của họ đã còn xa mới tuyệt đối. Nó đã bị ràng buộc cả bởi các nhóm cạnh tranh ở Quốc hội, đặc biệt Đảng Tory mà đã được thành lập để đối lại Đảng Whig, lẫn bởi chính các thể chế mà họ đã chiến đấu để đưa vào nhằm củng cố Quốc hội và ngăn chặn sự nổi lên của chính thể chuyên chế mới và sự quay lại của nhà Stuart. Bản chất đa nguyên của xã hội mà đã nổi lên từ Cách mạng Vinh quang cũng đã có nghĩa rằng dân cư nói chung, ngay cả những người không có sự đại diện chính thức trong Quốc hội, đã được trao quyền, và “sự bôi đen mặt- blacking” đã chính xác là một phản ứng bởi người dân thường đối với cảm nhận rằng các đảng viên Whig đã lợi dụng địa vị của họ.
  • 342. 304 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Vụ của William Cadogan, một tướng thành công trong Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha giữa 1701 và 1714 và trong đàn áp các cuộc nổi loạn Jacobite, minh họa loại xâm phạm các quyền của người dân thường bởi các đảng viên Whig mà đã dẫn đến sự bôi đen mặt. George I đã phong Cadogan làm một nam tước năm 1716 và rồi một bá tước năm 1718. Ông cũng đã là một thành viên có ảnh hưởng của Hội đồng Nhiếp chính Thượng Thẩm (Regency Council of Lords Justices), mà chủ trì công việc chính của nhà nước, và ông đã phục vụ với tư cách quyền tổng chỉ huy. Ông đã mua một bất động sản lớn khoảng một ngàn mẫu (acre) tại Caversham, khoảng hai mươi dặm phía tây Windsor. Ở đó ông đã xây một tòa nhà lớn và các vườn trang trí công phu và đã sắp đặt một vườn nai 240-mẫu. Thế nhưng tài sản này đã được củng cố bằng việc vi phạm các quyền của những người ở xung quanh. Người dân bị đuổi, và các quyền truyền thống của họ để chăn súc vật và thu gom than bùn và củi đã bị hủy bỏ. Cadogan đã đối mặt với sự phẫn nộ của Những Kẻ Mặt Đen. Ngày 1 tháng Giêng, 1722, và lần nữa trong tháng Bảy, vườn nai đã bị tấn công bất ngờ bởi những Kẻ Mặt Đen (Black) cưỡi ngựa và có vũ trang. Cuộc tấn công đầu tiên giết chết mười sáu con nai. Bá tước Cadogan đã không đơn độc. Bất động sản của nhiều địa chủ có tiếng và các chính trị gia cũng đã bị các Black tấn công. Chính phủ của đảng Whig đã không để cho việc này yên. Tháng Năm 1723, Quốc hội đã thông qua Đạo luật Đen (Black Act), đã tạo ra năm mươi tội mới đặc biệt mà đã có thể bị trừng phạt bằng treo cổ. Đạo luật Đen đã quy là tội không chỉ việc mang vũ khí mà cả việc bôi đen mặt. Luật thực ra không lâu sau đã được sửa để khiến cho tội bôi đen mặt có thể bị trừng phạt bằng treo cổ. Các elite Whig đã bắt đầu thực thi luật với sự khoái trá. Baptist Nunn đã tổ chức một mạng lưới những người cung cấp thông tin (kẻ chỉ điểm) ở Rừng Windsor để nhận dạng các Black. Không lâu sau nhiều người đã bị bắt. Sự chuyển tiếp từ việc bắt giữ đến việc treo cổ là chuyện không rắc rối. Rốt cuộc, Đạo luật Đen đã được ban hành rồi, các đảng viên Whig đã chịu trách nhiệm về Quốc hội, Quốc hội đã chịu trách nhiệm về đất nước, và các Black đã hành động ngược trực tiếp với các lợi ích của một số đảng viên Whig hùng mạnh. Thậm chí Sir Robert Walpole, bộ trưởng, rồi thủ tướng – và giống Cadogan, một thành viên khác của Hội đồng Nhiếp chính Thượng Thẩm – đã dính líu vào. Ông đã có lợi ích trong Vườn Richmond ở tây nam London, mà đã được Charles I tạo ra từ đất công. Vườn này cũng đã vi phạm các quyền truyền thống của các cư dân địa phương để chăn súc vật của họ, để săn
  • 343. VÒNG THIỆN ● 305 thỏ rừng và thỏ, và kiếm củi. Nhưng việc chấm dứt các quyền này có vẻ đã được thi hành khá lỏng lẻo, và việc cho súc vật ăn cỏ và săn thú đã vẫn tiếp tục, cho đến khi Walpole đã dàn xếp để con ông trở thành người bảo vệ vườn. Vào lúc này, vườn đã bị đóng, một bức tường mới được dựng lên, và các bẫy người được lắp đặt. Walpole đã thích săn nai, và ông đã có một nhà nghỉ được xây cho bản thân mình tại Houghton, bên trong vườn. Sự hận thù của các Black địa phương mau chóng được châm ngòi. Ngày 10 tháng Mười Một, 1724, một cư dân địa phương ở bên ngoài vườn, John Huntridge, đã bị buộc tội giúp đỡ những kẻ đánh cắp nai và xúi bẩy các Black quen biết, cả hai tội có thể bị trừng phạt bằng treo cổ. Việc khởi tố Huntridge đã đến từ trên đỉnh, được khởi xướng bởi Hội đồng Nhiếp chính Thượng Thẩm, mà Walpole và Cadogan đã chi phối. Walpole đã đi xa đến mức đích thân ông đã lôi ra bằng chứng về sự phạm tội của Huntridge từ một người cung cấp thông tin, Richard Blackburn. Sự kết tội phải đã là một kết luận bỏ túi được định trước, nhưng đã không thế. Sau một phiên xử kéo dài tám hay chín tiếng đồng hồ, bội thẩm đoàn đã xác minh và tuyên bố Huntridge vô tội, một phần vì lý do thủ tục, vì đã có những sự không theo quy tắc với cách chứng cứ được thu thập. Không phải tất cả các Black hay những người có cảm tình với họ đã may mắn như Huntridge. Mặc dù một số người khác cũng đã được tha bổng hay đã được giảm hình phạt, nhiều người đã bị treo cổ hay bị đày sang thuộc địa tù được chọn khi đó, Bắc Mỹ; luật thực ra đã lưu lại trên sách luật cho đến khi nó bị hủy bỏ năm 1824. Thế nhưng chiến thắng của Huntridge là đáng chú ý. Bội thẩm đoàn hẳn đã đồng cảm với Walpole. Nhưng đây không còn là thế kỷ thứ mười bảy nữa, nơi Tòa Phòng Ngôi Sao (Court of Star Chamber) đơn thuần theo ý muốn của các quốc vương Stuart và hoạt động như một công cụ đàn áp công khai chống lại các đối thủ của họ, và nơi các vua đã có thể loại bỏ các thẩm phán mà các quyết định của họ đã không được vua thích. Bây giờ các đảng viên Whig cũng đã phải tuân theo pháp trị (rule of law), nguyên lý rằng luật không được áp dụng một cách chọn lọc hay một cách tùy tiện và rằng không ai ở trên pháp luật.
  • 344. 306 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI CÁC SỰ KIỆN bao quanh Bộ Luật Đen cho thấy rằng Cách mạng Vinh quang đã tạo ra pháp trị, và rằng quan niệm này đã mạnh hơn ở Anh và Vương quốc Anh, các elite đã bị ràng buộc bởi nó hơn nhiều mức bản thân họ hình dung. Nhất là, pháp trị (rule of law) không phải cùng một thứ như cai trị bằng pháp luật (rule by law). Cho dù các đảng viên Whig đã có thể thông qua một luật hà khắc, đàn áp tàn bạo để dập tắt các trở lực từ người dân thường, họ đã phải đấu tranh với các ràng buộc thêm bởi vì pháp trị. Luật của họ đã vi phạm các quyền, mà Cách mạng Vinh quang và những thay đổi về các thể chế chính trị, mà tất yếu xảy ra từ nó, đã xác lập rồi, cho tất cả mọi người bằng cách phá bỏ các quyền “thiêng liêng” của các vua và các đặc quyền của các elite. Pháp trị sau đó đã ngụ ý rằng cả các elite lẫn không-elite như nhau đều chống lại sự thi hành nó. Pháp trị là một khái niệm rất lạ khi bạn nghĩ về nó trong viễn cảnh lịch sử. Vì sao luật phải được áp dụng ngang nhau cho tất cả mọi người? Nếu nhà vua và giới quý tộc có quyền lực chính trị và phần còn lại không có, thật tự nhiên rằng bất cứ gì là trò chơi ngay thẳng đối với vua và giới quý tộc phải bị cấm và có thể bị trừng phạt đối với những người còn lại. Thực vậy, pháp trị là không thể tưởng tượng nổi dưới các thể chế chính trị chuyên chế. Nó là một tác phẩm của các thể chế chính trị đa nguyên và của các liên minh rộng rãi ủng hộ chủ nghĩa đa nguyên như vậy. Nó đáng xem xét nhất khi nhiều cá nhân và nhóm có một tiếng nói trong các quyết định, và quyền lực chính trị để có một chỗ ngồi quanh bàn, mà ý tưởng rằng họ phải được đối xử một cách công bằng bắt đầu có nghĩa. Vào đầu thế kỷ thứ mười tám, Anh đã trở nên khá đa nguyên, và các elite của đảng Whig nhận ra rằng, vì đã được trân trọng lưu giữ trong quan niệm về pháp trị, luật và các thể chế sẽ ràng buộc cả họ nữa. Nhưng vì sao các đảng viên Whigs và các nghị sĩ lại tuân thủ những sự kiềm chế như vậy? Vì sao họ đã không dùng quyền kiểm soát của mình đối với Quốc hội và nhà nước để áp đặt việc thi hành không thỏa hiệp Bộ Luật Đen và lật đổ các tòa án khi các quyết định không đi theo cách họ thích? Câu trả lời tiết lộ nhiều về bản chất của Cách mạng Vinh quang – mối liên kết giữa chủ nghĩa đa nguyên và pháp trị, và động học của các vòng thiện (virtuous circle). Như chúng ta đã thấy ở chương 7, Cách mạng Vinh quang đã không phải là sự lật đổ của một giới elite bởi một giới khác, mà là một cuộc cách mạng chống lại chính thể chuyên chế bởi một liên minh rộng bao gồm giới quý tộc nhỏ (gentry), các nhà buôn, và các
  • 345. VÒNG THIỆN ● 307 nhà chế tác cũng như các nhóm của các đảng viên các đảng Whig và Tory. Sự nổi lên của các thể chế chính trị đa nguyên đã là một hệ quả của cuộc cách mạng này. Pháp trị cũng đã nổi lên như một sản phẩm phụ của quá trình này. Với nhiều bên ngồi cạnh bàn chia sẻ quyền lực, đã là tự nhiên để có các luật và các ràng buộc áp dụng cho tất cả họ, để không một bên nào bắt đầu tích lũy quá nhiều quyền lực và cuối cùng làm xói mòn chính các nền tảng của chủ nghĩa đa nguyên. Như thế quan niệm rằng có các giới hạn và các ràng buộc lên những người cai trị, bản chất của pháp trị, đã là phần của logic của chủ nghĩa đa nguyên được sinh ra bởi liên minh rộng rãi mà đã tạo thành phe đối lập với chính thể chuyên chế Stuart. Dưới ánh sáng này, không ngạc nhiên rằng nguyên lý của pháp trị, kết đôi với quan niệm rằng các vua không có các quyền thiêng liêng nào, đã thực sự là một lý lẽ chủ chốt chống lại chính thể chuyên chế Stuart. Như sử gia Anh E. P. Thompson diễn đạt, trong cuộc đấu tranh chống các vua Stuart: các nỗ lực phi thường đã được tiến hành … để phóng chiếu hình ảnh của một giai cấp cai trị mà bản thân nó đã buộc phải tuân thủ pháp trị, và mà tính hợp pháp chính đáng của họ đã dựa trên sự bình đẳng và tính phổ quát của các hình thức pháp lý đó. Và những người cai trị, theo ý nghĩa nghiêm túc, bất luận muốn hay không muốn, đã là các tù nhân của rhetoric (từ chương) của chính họ; họ đã chơi các trò chơi quyền lực theo các quy tắc mà hợp với họ, nhưng họ đã không thể phá vỡ các quy tắc đó hoặc toàn bộ trò chơi bị vứt bỏ. Vứt bỏ trò chơi sẽ làm hệ thống mất ổn định và mở đường cho chính thể chuyên chế bởi một tập con của liên minh rộng rãi hay thậm chí chịu rủi ro của sự quay lại của nhà Stuart. Theo cách nói của Thompson, cái đã ngăn chặn Quốc hội khỏi tạo ra một chính thể chuyên chế mới đã là lấy luật đi, và đặc quyền hoàng gia … có thể ồ ạt quay lại với các tài sản và cuộc sống của họ. Hơn nữa, đã vốn có trong chính bản chất của môi trường mà họ [các quý tộc, các nhà buôn, vân vân chiến đấu với Quốc vương] đã lựa chọn cho sự tự-bảo vệ của chính họ rằng nó đã không thể được dành cho việc sử
  • 346. 308 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI dụng độc quyền của giai cấp riêng của họ. Luật, trong các hình thức và truyền thống của nó, đã đưa đến các nguyên lý bình đẳng và phổ quát mà … đã phải được mở rộng ra mọi loại và mọi địa vị của những đàn ông. Một khi đã ở đúng vị trí, quan niệm về pháp trị không chỉ giữ không để cho chính thể chuyên chế lại gần mà cũng đã tạo ra một loại vòng thiện: nếu luật áp dụng một cách bình đẳng cho tất cả mọi người, thì không cá nhân hay nhóm nào, không ngay cả Cadogan hay Walpole, đã có thể leo lên trên luật, và những người dân thường bị buộc tội xâm phạm tài sản tư nhân vẫn đã có quyền đối với một sự xét xử công bằng. CHÚNG TA ĐÃ THẤY các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm nổi lên thế nào. Nhưng vì sao chúng tồn tại dai dẳng theo thời gian? Lịch sử của Bộ Luật Đen và các giới hạn cho việc thi hành nó minh họa vòng thiện, một quá trình mạnh mẽ của phản hồi dương mà duy trì các thể chế này đối mặt với các mưu toan làm xói mòn chúng và, thực ra, khởi động các lực dẫn đến tính bao gồm lớn hơn. Logic của các vòng thiện xuất phát một phần từ sự thực rằng các thể chế bao gồm dựa trên các ràng buộc đối với việc sử dụng quyền lực và đối với sự phân chia mang tính đa nguyên của quyền lực chính trị trong xã hội, được lưu giữ một cách linh thiêng trong pháp trị. Khả năng của một tập con để áp đặt ý chí của mình lên những người khác mà không có ràng buộc nào, cho dù những người khác là các công dân bình thường, như Huntridge, đe dọa chính sự cân bằng này. Nếu giả như nó tạm thời bị đình chỉ trong trường hợp các nông dân phản đối chống lại các elite xâm phạm đất công chung của họ, cái gì đảm bảo rằng nó không bị đình chỉ nữa? Và thời gian tiếp theo nó bị đình chỉ, cái gì sẽ ngăn Quốc vương và giới quý tộc khỏi lấy lại cái mà các nhà buôn, các nhà kinh doanh, và giới quý tộc nhỏ đã giành được trong nửa thế kỷ ở giữa? Thực ra, thời gian tiếp theo nó bị đình chỉ, có lẽ toàn bộ dự án của chủ nghĩa đa nguyên bị sụp đổ, bởi vì một tập hẹp của các lợi ích có thể chiếm quyền kiểm soát với sự tổn hại của liên minh rộng. Hệ thống chính trị không thể chịu rủi ro này. Nhưng điều này đã làm cho chủ nghĩa đa nguyên, và pháp trị mà nó ngụ ý, thành các nét đặc trưng bền bỉ của các thể chế chính trị Anh. Và chúng ta sẽ thấy rằng một khi chủ nghĩa đa nguyên và pháp trị
  • 347. VÒNG THIỆN ● 309 đã được xác lập, sẽ có đòi hỏi cho thậm chí chủ nghĩa đa nguyên lớn hơn và sự tham gia lớn hơn vào quá trình chính trị. Vòng thiện nảy sinh không chỉ từ logic vốn có của chủ nghĩa đa nguyên và pháp trị, mà cũng bởi vì các thể chế chính trị bao gồm có xu hướng ủng hộ các thể chế kinh tế bao gồm. Việc này rồi dẫn đến một sự phân phối thu nhập bình đẳng hơn, trao quyền cho một mảng rộng của xã hội và làm cho sân chơi chính trị còn bằng phẳng hơn. Điều này hạn chế cái một người có thể đạt được bằng cách chiếm đoạt quyền lực chính trị và làm giảm các khuyến khích để tái tạo các thể chế chính trị khai thác. Các nhân tố này đã quan trọng trong sự nổi lên của các thể chế chính trị dân chủ thực sự ở vương quốc Anh. Chủ nghĩa đa nguyên cũng tạo ra một hệ thống mở hơn và cho phép các phương tiện truyền thông (media) độc lập hưng thịnh, làm cho dễ hơn đối với các nhóm quan tâm đến sự tiếp tục của các thể chế bao gồm để biết và tổ chức chống lại các mối đe dọa đối với các thể chế này. Là hết sức quan trọng rằng nhà nước Anh đã ngừng kiểm duyệt báo chí sau năm 1688. Báo chí đã đóng một vai trò quan trọng tương tự trong trao quyền cho nhân dân nói chung và trong sự tiếp tục vòng thiện của sự phát triển thể chế ở Hoa Kỳ, như chúng ta sẽ thấy trong chương này. Trong khi vòng thiện tạo ra một xu hướng cho các thể chế bao gồm tồn tại bền bỉ, nó chẳng là không thể tránh khỏi cũng không phải không thể bị đảo ngược. Cả ở vương quốc Anh và ở Hoa Kỳ, các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm đã phải chịu nhiều thách thức. Năm 1745 Người Đòi Trẻ đã đi suốt đến tận Derby, chỉ cách London một trăm dặm, với một đội quân để thủ tiêu các thể chế chính trị đã được rèn đúc trong Cách mạng Vinh quang. Nhưng ông đã bị đánh bại. Quan trọng hơn các thách thức từ bên ngoài, đã là các thách thức tiềm tàng từ bên trong mà có thể cũng đã dẫn đến việc tháo rời các thể chế bao gồm. Như chúng ta đã thấy trong bối cảnh của cuộc Tàn sát Peterloo (trang 207) ở Manchester năm 1819, và như chúng ta sẽ thấy chi tiết hơn tiếp sau, các elite chính trị Anh đã nghĩ đến việc sử dụng sự đàn áp để tránh phải mở thêm hệ thống chính trị, nhưng họ đã rút lui khỏi bờ vực. Tương tự, các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm ở Hoa Kỳ đã đối mặt với các thách thức nghiêm trọng, mà đã có thể tưởng tượng được là thành công, nhưng đã không. Và tất nhiên đã không phải được quyết định trước rằng các thách thức này phải bị thất bại. Nó là nhờ không chỉ vòng thiện mà cũng
  • 348. 310 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI nhờ sự nhận ra con đường tùy thuộc ngẫu nhiên của lịch sử mà các thể chế bao gồm Anh và Hoa Kỳ đã sống sót và trở nên mạnh hơn theo thời gian. SỰ TIẾN TRIỂN CHẬM CHẠP CỦA DÂN CHỦ Sự phản ứng với Bộ Luật Đen đã cho người dân Anh bình thường thấy rằng họ đã có nhiều quyền hơn họ đã nhận ra trước kia. Họ đã có thể bảo vệ các quyền truyền thống và các lợi ích kinh tế của mình trong các tòa án và trong Quốc hội thông qua việc sử dụng các kiến nghị và vận động hành lang. Nhưng chủ nghĩa đa nguyên này đã vẫn chưa mang lại một nền dân chủ hiệu quả. Hầu hết những người đàn ông đã không thể bầu cử; những người đàn bà cũng không; và đã có nhiều sự bất bình đẳng trong những cấu trúc dân chủ hiện hành. Tất cả điều này đã phải thay đổi. Vòng thiện của các thể chế bao gồm không chỉ bảo tồn cái đã đạt được rồi mà cũng mở cửa cho sự bao gồm lớn hơn. Cơ may đã chống lại elite Anh của thế kỷ thứ mười tám duy trì sự kìm kẹp của họ lên quyền lực chính trị mà không có các thách thức nghiêm trọng. Giới elite này đã lên nắm quyền bằng thách thức quyền thiêng liêng của các vua và mở cửa cho sự tham gia của nhân dân vào chính trị, nhưng rồi họ đã trao quyền này chỉ cho một thiểu số nhỏ. Chỉ còn là vấn đề thời gian cho đến khi ngày càng nhiều người dân đòi hỏi quyền tham gia vào các quá trình chính trị. Và trong các năm dẫn tới 1831, họ đã được. Ba thập niên đầu tiên của thế kỷ thứ mười chín đã chứng kiến sự náo động xã hội gia tăng ở Anh, hầu hết đáp lại những bất bình đẳng kinh tế gia tăng và những đòi hỏi từ quần chúng bị tước quyền bầu cử đòi sự đại diện chính trị lớn hơn. Các cuộc nổi loạn Luddite trong các năm 1811–1816, nơi các công nhân đã đấu tranh chống lại việc đưa các công nghệ mới vào mà họ tin sẽ làm giảm lương của họ, đã được kế tiếp bởi các cuộc nổi loạn đòi các quyền chính trị một cách tường minh, các cuộc Nổi loạn Spa Fields năm 1816 ở London và vụ Thảm sát Peterloo năm 1819 ở Manchester. Trong các cuộc Nổi loạn Swing năm 1830, những người lao động nông nghiệp đã phản đối chống lại mức sống giảm sút cũng như việc đưa công nghệ mới vào. Trong lúc đó, ở Paris, Cách mạng tháng Bảy 1830 đã nổ ra. Sự đồng thuận giữa các elite đã bắt đầu được hình thành rằng sự bất mãn đang lên đến điểm sôi, và cách duy nhất để tháo ngòi nổ náo loạn xã hội, và đẩy lui một
  • 349. VÒNG THIỆN ● 311 cuộc cách mạng, đã là bằng cách thỏa mãn các đòi hỏi của quần chúng và tiến hành cải cách quốc hội. Sau đó đã không ngạc nhiên rằng cuộc bầu cử 1831 đã hầu như là về một vấn đề duy nhất: cải cách chính trị. Các đảng viên đảng Whig, gần một trăm năm sau Sir Robert Walpole, đã sẵn sàng đáp lại hơn rất nhiều đối với những mong muốn của những người dân thường và đã mở cuộc vận động mở rộng các quyền bầu cử. Nhưng việc này đã chỉ có ý định cho một sự tăng nhỏ về cử tri. Phổ thông đầu phiếu, cho dù chỉ cho đàn ông, đã không có trên chương trình nghị sự. Các đảng viên đảng Whig đã thắng cuộc bầu cử, và lãnh tụ của họ, Earl Grey, trở thành thủ tướng. Earl Grey đã không cấp tiến – còn xa mới vậy. Ông và các đảng viên đảng Whig đã thúc đẩy cải cách không phải bởi vì họ đã nghĩ một quyền bầu cử rộng hơn là công bằng hơn hay bởi vì họ đã muốn chia sẻ quyền lực. Dân chủ Anh đã không được giới elite ban cho. Nó chủ yếu được nắm lấy bởi quần chúng, những người đã được trao quyền bởi các quá trình chính trị xảy ra ở nước Anh và phần còn lại của Vương quốc Anh trong vài thế kỷ qua. Họ đã trở nên bạo dạn hơn bởi những thay đổi về bản chất của các thể chế chính trị do Cách mạng Vinh quang tháo ra. Các cuộc cải cách đã được công nhận bởi vì giới elite đã nghĩ rằng cải cách đã là cách duy nhất để đảm bảo sự tiếp tục cai trị của họ, dẫu cho dưới một hình thức bị bớt đi một chút. Earl Grey, trong bài phát biểu nổi tiếng của ông với Quốc hội ủng hộ cải cách chính trị, đã nói điều này rất rõ: Không có ai kiên quyết chống lại các Quốc hội từng năm, quyền bầu cử phổ quát và phổ thông đầu phiếu, nhiều hơn tôi. Mục tiêu của tôi không phải là để ủng hộ, mà là để chấm dứt những hy vọng và các dự án như vậy … Nguyên lý cải cách của tôi là, để ngăn chặn sự tất yếu của cách mạng … cải cách để duy trì và không phải để lật đổ. Nhân dân đã không chỉ muốn bỏ phiếu vì bản thân sự bỏ phiếu mà đã muốn có một chỗ ngồi quanh chiếc bàn để có thể bảo vệ các lợi ích của họ. Điều này đã được hiểu kỹ bởi phong trào Chartist, mà đã lãnh đạo phong trào đòi quyền bầu cử phổ quát sau 1838, lấy tên phong trào từ sự chấp nhận và đòi thực hiện Charter, Hiến Chương của Nhân dân (People’s Charter), được đặt tên để gợi lại một sự tương tự với Magna Carta. J. R. Stephens, một chartist, đã diễn đạt rõ vì sao quyền bầu cử phổ quát, và phiếu bầu cho tất cả công dân, đã là then chốt đối với nhân dân:
  • 350. 312 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Vấn đề quyền bầu cử phổ quát … là một vấn đề dao và nĩa, là vấn đề bánh mỳ và phó mát … bằng quyền bầu cử phổ quát ý tôi muốn nói rằng tất cả mọi người đàn ông làm việc trên đồng ruộng có một quyền đối với một chiếc áo choàng tử tế trên lưng mình, một chiếc mũ tốt trên đầu mình, một cái mái tươm tất để che nhà của mình, một bữa ăn tối ngon trên bàn của mình. Stephens đã hiểu kỹ rằng quyền bầu cử phổ quát đã là cách lâu bền nhất để trao quyền cho nhân dân Anh thêm nữa và đảm bảo một chiếc áo choàng, một cái mũ, một mái nhà, và một bữa ăn tử tế cho người lao động. Cuối cùng, Earl Grey đã thành công cả trong bảo đảm việc thông qua Bộ Luật Cải cách Thứ Nhất và trong tháo ngòi nổ của các trào lưu cách mạng mà không phải đi bất cứ bước dài lớn nào theo hướng quyền bầu cử phổ quát của quần chúng. Những cải cách 1832 đã khiêm tốn, chỉ tăng gấp đôi quyền bỏ phiếu từ 8 phần trăm lên khoảng 16 phần trăm của số dân đàn ông (từ khoảng 2 đến 4 phần trăm của toàn bộ dân số). Họ cũng đã thoát khỏi các thành phố tối nát và đã trao sự đại diện độc lập cho các thành phố công nghiệp mới như Manchester, Leeds, và Sheffield. Nhưng việc này vẫn để lại nhiều vấn đề chưa được giải quyết. Vì thế chẳng bao lâu sau đã có những đòi hỏi thêm về các quyền bầu cử lớn hơn và đã có náo loạn xã hội thêm nữa. Để đáp lại, cải cách thêm sẽ kế tiếp. Vì sao các elite Anh đã chịu nhượng bộ các đòi hỏi? Vì sao Earl Grey đã cảm thấy rằng cải cách một phần – quả thực một phần rất nhỏ – đã là cách duy nhất để duy trì hệ thống? Vì sao họ đã phải chịu đựng cái xấu ít hơn trong hai cái xấu, cải cách và cách mạng, hơn là duy trì quyền lực của họ mà không có bất cứ cải cách nào? Chẳng phải họ đã có thể làm đúng cái mà các nhà chinh phục Tây Ban Nha đã làm ở Nam Mỹ, cái các quốc vương Áo-Hungary và Nga đã có thể làm trong nhiều thập niên tiếp theo khi những đòi hỏi cải cách đã đến các vùng đất đó, và cái bản thân những người Anh đã làm ở vùng Caribe và ở Ấn Độ: sử dụng vũ lực để dẹp những đòi hỏi? Câu trả lời cho câu hỏi này đến từ vòng thiện. Những thay đổi kinh tế và chính trị mà đã xảy ra rồi ở vương quốc Anh đã làm cho việc sử dụng vũ lực để đàn áp các đòi hỏi này cả là không hấp dẫn đối với elite và ngày càng không khả thi. Như E. P. Thompson đã viết:
  • 351. VÒNG THIỆN ● 313 Khi các cuộc đấu tranh của các năm 1790–1832 đã báo hiệu rằng sự cân bằng này đã thay đổi, các nhà cai trị của nước Anh đã đối mặt với các lựa chọn khả dĩ gây hoảng sợ. Họ đã có thể hoặc bỏ qua pháp trị, phá hủy các kết cấu hợp hiến tinh vi của họ, hủy bỏ rhetoric (từ chương) của chính họ và cai trị bằng vũ lực; hoặc họ chịu phục tùng các quy tắc của chính họ và từ bỏ quyền lãnh đạo của họ … họ đã đi các bước tập tễnh theo hướng thứ nhất. Nhưng cuối cùng, thay cho việc làm tan self-image (hình tượng về, sự tự nhận thức về bản thân mình) của chính họ và từ chối 150 năm của tính hợp hiến, họ đã đầu hàng luật pháp. Diễn đạt theo cách khác, cùng các lực mà đã làm cho elite Anh không muốn giật đổ tòa lâu đài pháp trị trong thời Đạo Luật Đen cũng đã làm cho họ lảng xa sự đàn áp và cai trị bằng vũ lực, mà sẽ lại gây rủi ro cho sự ổn định của toàn bộ hệ thống. Nếu sự làm xói mòn luật pháp trong sự cố thử thực thi Bộ Luật Đen đã có thể làm yếu hệ thống mà các nhà buôn, các nhà kinh doanh, và tầng lớp quý tộc nhỏ đã xây dựng trong Cách mạng Vinh quang, thì việc dựng lên một chế độ độc tài đàn áp trong năm 1832 có thể đã làm xói mòn nó hoàn toàn. Thực ra, những người tổ chức các cuộc phản đối đòi cải cách quốc hội đã biết kỹ về tầm quan trọng của pháp trị và tính tượng trưng của nó đối với các thể chế chính trị Anh trong thời kỳ này. Họ đã sử dụng lối tu từ của nó để làm cho điểm này được hiểu thật rõ. Một trong những tổ chức đầu tiên tìm kiếm cải cách quốc hội đã được gọi là Hampden Club, theo tên của thành viên Quốc hội người đầu tiên chống lại Charles I về thuế tiền tàu thủy, một sự kiện quyết định dẫn đến cuộc khởi nghĩa lớn đầu tiên chống lại chính thể chuyên chế Stuart, như chúng ta đã thấy ở chương 7. Cũng đã có sự phản hồi dương năng động giữa các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm làm cho một tiến trình hành động như vậy là hấp dẫn. Các thể chế kinh tế bao gồm đã dẫn đến sự phát triển của các thị trường bao gồm, đem lại một sự phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn, sự khuyến khích lớn hơn để có được giáo dục và các kỹ năng, và thúc đẩy những đổi mới về công nghệ. Tất cả các lực này đã hoạt động ở Anh vào năm 1831. Kiểm soát chặt chẽ những đòi hỏi của nhân dân và làm một cú chống lại các thể chế chính trị bao gồm cũng sẽ phá hủy những lợi ích
  • 352. 314 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI này, và các elite phản đối sự dân chủ hóa lớn hơn và tính bao gồm lớn hơn có thể thấy mình giữa những người mất gia tài từ sự phá hủy này. Một khía cạnh khác nữa của sự phản hồi dương này là, dưới các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm, quyền lực kiểm soát đã trở nên ít tập trung hơn. Ở Áo- Hungary và ở Nga, như chúng ta đã thấy ở chương 8, các quốc vương và giới quý tộc đã có nhiều để mất do công nghiệp hóa và cải cách. Ngược lại, ở Anh vào đầu thế kỷ thứ mười chín, nhờ sự phát triển của các thể chế kinh tế bao gồm, cái bị đe dọa đã ít hơn nhiều: đã không có nông nô, tương đối ít sự ép buộc trong thị trường lao động, và ít các độc quyền được bảo vệ bằng các rào cản tham gia. Bám lấy quyền lực như thế đã là ít có giá trị đối với elite Anh. Logic của vòng thiện cũng đã có nghĩa rằng các bước đàn áp như vậy có thể ngày càng không khả thi, lại bởi vì phản hồi dương giữa các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm. Các thể chế kinh tế bao gồm dẫn đến một sự phân bổ bình đẳng hơn của các nguồn lực so với các thể chế khai thác. Vì thế, chúng trao quyền cho công dân nói chung và như thế tạo ra một sân chơi ngang bằng hơn, ngay cả khi phải đấu tranh vì quyền lực. Việc này làm cho khó hơn đối với một giới elite nhỏ để đè bẹp nhân dân hơn là nhượng bộ các đòi hỏi của họ, hay chí ít một số trong các đòi hỏi ấy. Các thể chế bao gồm của Anh đã cũng gây ra Cách mạng Công nghiệp rồi, và Anh đã được đô thị hóa ở mức cao. Sử dụng đàn áp chống lại một nhóm người đô thị, tập trung, và được tổ chức một phần và được trao quyền là khó hơn rất nhiều so với việc đàn áp nông dân hay các nông nô lệ thuộc. Vòng thiện như thế đã mang lại cho Anh Bộ Luật Cải cách Thứ Nhất năm 1832. Nhưng đấy đã chỉ là bước đầu. Vẫn còn một con đường dài để đi đến dân chủ thực sự, bởi vì trong năm 1832 elite đã chỉ đưa ra cái họ nghĩ là họ phải và không hơn. Vấn đề cải cách quốc hội đã được tiếp tục bởi phong trào Chartist, mà Hiến chương của Nhân dân năm 1838 đã bao gồm các điều Một lá phiếu cho mỗi người đàn ông có tuổi từ hai mươi mốt, có đầu óc lành mạnh và không đang chịu hình phạt vì phạm tội. Sự bỏ phiếu kín. – Để bảo vệ người bỏ phiếu trong thi hành việc bỏ phiếu của mình.
  • 353. VÒNG THIỆN ● 315 Không có điều kiện tài sản nào cho các thành viên Quốc hội – như thế cho phép các cử tri bầu người họ chọn vào quốc hội, bất luận người ấy giàu hay nghèo. Trả công cho các thành viên quốc hội, như thế cho phép một thương gia lương thiện, một người lao động, hay cá nhân khác, để phục vụ một khu vực bầu cử, khi phải bỏ công việc của mình để chăm lo cho các lợi ích của Đất nước. Các khu vực bầu cử bằng nhau, đảm bảo cùng số lượng đại diện cho cùng số người bỏ phiếu, thay cho việc cho phép các khu vực bầu cử nhỏ làm mất tác dụng của các lá phiếu của các khu vực bầu cử lớn. Quốc hội từng năm, như thế đưa ra sự kiểm soát có hiệu lực nhất đối với sự mua chuộc và sự đe dọa, vì mặc dù một khu vực bầu cử có thể bị mua chuộc một lần trong bảy năm (thậm chí với phiếu bầu), không tiền nào có thể mua chuộc một khu vực bầu cử (dưới hệ thống quyền bầu cử phổ quát) trong mỗi mười hai tháng tiếp sau; và vì các thành viên, khi được bầu chỉ cho một năm, sẽ không có khả năng để coi thường và phản bội các cử tri của mình như bây giờ. Bằng “phiếu bầu,” họ đã hiểu là bỏ phiếu kín bí mật và chấm dứt bỏ phiếu ngỏ, mà đã tạo thuận lợi cho việc mua chuộc phiếu bầu và sự ép buộc những người bỏ phiếu. Phong trào Chartist đã tổ chức một loạt các cuộc biểu tình quần chúng, và suốt thời kỳ này Quốc hội đã liên tục thảo luận khả năng cho những cải cách thêm. Mặc dù phong trào Chartist đã tan rã sau 1848, nó được kế tiếp bởi Liên Minh Cải Cách Quốc gia (National Reform Union), được thành lập năm 1864, và Liên Đoàn Cải Cách (Reform League), được thành lập năm 1865. Tháng Bảy 1866, các cuộc nổi loạn lớn ủng hộ cải cách ở Hyde Park đã đưa cải cách lên đỉnh chương trình nghị sự chính trị một lần nữa. Áp lực này đã sinh lời dưới dạng Đạo Luật Cải Cách Thứ Hai năm 1867, trong đó toàn bộ cử tri đã tăng gấp đôi và những người bỏ phiếu giai cấp lao động đã trở thành đa số trong tất cả các khu vực bầu cử đô
  • 354. 316 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI thị. Không lâu sau đó bỏ phiếu kín bí mật đã được đưa ra và các bước được tiến hành để loại bỏ các tập quán bầu cử thối nát như “thết đãi” (về bản chất là mua phiếu bầu trong trao đổi mà người đi bầu nhận được một sự thết đãi, thường là tiền, thức ăn, hay rượu). Toàn bộ cử tri lại tăng gấp đôi lần nữa bởi Bộ Luật Cải Cách Thứ Ba năm 1884, khi 60 phần trăm đàn ông trưởng thành đã có quyền bầu cử. Tiếp theo Chiến tranh Thế giới lần Thứ Nhất, Bộ luật Đại diện của Nhân dân năm 1918 đã trao quyền bầu cử cho tất cả đàn ông trên tuổi hai mươi mốt, và những người đàn bà trên tuổi ba mươi là người đóng thuế hay kết hôn với người đóng thuế. Cuối cùng, tất cả các phụ nữ cũng đã nhận được quyền bầu cử theo cùng điều kiện như đàn ông trong năm 1928. Các biện pháp của năm 1918 đã được thương lượng trong chiến tranh và đã phản ánh một quid pro quo (sự đền đáp lại) giữa chính phủ và các giai cấp lao động, những người đã cần đến để chiến đấu và sản xuất đạn được. Chính phủ có thể cũng đã lưu ý về chủ nghĩa cấp tiến của Cách mạng Nga. Song song với sự phát triển từ từ của các thể chế chính trị bao gồm hơn đã là một phong trào hướng đến các thể chế kinh tế còn bao gồm hơn nữa. Một hệ quả lớn của Đạo luật Cải cách thứ Nhất đã là bãi bỏ Luật Ngô năm 1846. Như chúng ta đã thấy ở chương 7, Luật Ngô đã cấm nhập khẩu thóc lúa và ngũ cốc, giữ giá của chúng cao và bảo đảm các khoản lợi nhuận béo bở cho các địa chủ lớn. Các nghị sĩ mới từ Manchester và Birmingham đã muốn ngô rẻ và và lương thấp. Họ đã thắng, và các nhóm lợi ích sở hữu đất đã bị một thất bại lớn. Những sự thay đổi về toàn bộ cử tri và các chiều kích khác của các thể chế chính trị xảy ra trong tiến trình của thế kỷ thứ mười chín đã được tiếp theo bởi những cải cách thêm. Năm 1871 thủ tướng Gladstone, người theo đảng Tự do (Liberal), đã mở nền công vụ cho sự xem xét công chúng, biến nó thành chế độ tài năng đắc dụng (meritocracy), và như thế tiếp tục quá trình tập trung hóa chính trị và xây dựng các thể chế nhà nước mà đã bắt đầu trong thời kỳ Tudor. Các chính phủ Liberal và Tory trong thời kỳ này đã đưa ra một lượng đáng kể pháp luật về thị trường lao động. Thí dụ các Bộ Luật Người chủ và Người hầu (Masters và Servants Acts), mà đã cho phép những người sử dụng lao động sử dụng luật để làm giảm tính di động của những người lao động của họ, đã bị bãi bỏ, làm thay đổi bản chất của các mối quan hệ lao động có lợi cho người lao động. Trong giai đoạn 1906–1914, Đảng Tự do (Liberal Party), dưới sự lãnh đạo của H. H. Asquith
  • 355. VÒNG THIỆN ● 317 và David Lloyd George, đã bắt đầu sử dụng nhà nước để cung cấp nhiều dịch vụ công hơn, kể cả bảo hiểm y tế và thất nghiệp, lương hưu do chính phủ trả, lương tối thiểu, và cam kết đối với việc đánh thuế tái phân phối. Như một kết quả của những thay đổi tài khóa này, các khoản thuế với tư cách là một phần của sản phẩm quốc gia đã tăng hơn gấp đôi trong ba thập niên cuối cùng của thế kỷ thứ mười chín, và sau đó lại tăng gấp đôi trong ba thập niên đầu của thế kỷ thứ hai mươi. Hệ thống thuế cũng đã trở nên “lũy tiến” hơn, sao cho những người giàu có hơn chịu gánh nặng thuế nặng hơn. Trong lúc đó, hệ thống giáo dục, mà trước kia chủ yếu cho elite, được vận hành bởi các giáo phái, hay đòi hỏi người nghèo trả học phí, đã được biến thành dễ tiếp cận hơn cho nhân dân; Luật Giáo dục năm 1870 đã giao cho chính phủ cung ứng một cách có hệ thống sự giáo dục phổ quát lần đầu tiên. Giáo dục đã trở nên miễn phí năm 1891. Tuổi rời nhà trường (school-leaving age) được quy định ở tuổi mười một trong năm 1893. Năm 1899 nó được tăng lên mười hai, và các điều khoản đặc biệt cho con cái các gia đình neo đơn đã được đưa ra. Như một kết quả của những thay đổi này, tỷ lệ của trẻ mười tuổi nhập học, mà đã ở mức đáng thất vọng 40 phần trăm trong năm 1870, đã tăng lên 100 phần trăm năm 1900. Cuối cùng, Bộ Luật Giáo dục năm 1902 đã dẫn đến một sự mở rộng lớn về các nguồn lực cho các trường học và việc đưa vào các trường grammar school (trung học phổ thông), mà sau đó đã trở thành nền tảng của giáo dục trung học ở Anh. Thực ra, thí dụ Anh, một minh họa về vòng thiện của các thể chế bao gồm, cung cấp một thí dụ về một “vòng thiện từ từ.” Những sự thay đổi chính trị một cách không thể nhầm lẫn đã hướng tới các thể chế chính trị bao gồm hơn và đã là kết quả của những đòi hỏi từ nhân dân được trao quyền. Nhưng chúng đã cũng từ từ từng bước một. Mỗi thập niên một bước nữa, đôi khi nhỏ hơn, đôi khi lớn hơn, đã được tiến hành hướng tới dân chủ. Đã có xung đột về mỗi bước, và kết quả của mỗi bước đã tùy thuộc ngẫu nhiên. Nhưng vòng thiện đã tạo ra các lực mà đã làm giảm tiền đánh cược dính líu đến việc bám lấy quyền lực. Nó cũng đã thúc đẩy pháp trị, làm cho khó hơn để sử dụng vũ lực chống lại những người đòi hỏi cái mà bản thân các elite đã đòi hỏi từ các vua Stuart. Đã trở nên ít có khả năng rằng sự xung đột này sẽ biến thành một cuộc cách mạng dốc toàn lực và có khả năng hơn rằng nó được giải quyết ủng hộ cho tính bao gồm lớn hơn. Có một đức hạnh tuyệt vời trong loại thay đổi từ từ này. Đối với elite nó ít đe dọa hơn sự lật đổ toàn bộ
  • 356. 318 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI hệ thống. Mỗi bước là nhỏ, và có lý để nhượng bộ một đòi hỏi nhỏ, hơn là tạo ra một sự thử thách lớn. Điều này giải thích một phần làm sao Luật Ngô bị bãi bỏ mà không có xung đột nghiêm trọng hơn. Vào năm 1846 các địa chủ đã không còn có thể kiểm soát việc lập pháp trong Quốc hội. Đấy đã là một kết quả của Bộ Luật Cải cách thứ Nhất. Tuy vậy, nếu giả như trong năm 1832 sự mở rộng toàn bộ cử tri, việc cải cách các thành phố thối nát, và việc bãi bỏ Luật Ngô tất cả đã đều trên bàn nghị sự, thì các địa chủ đã đưa ra sự chống cự nhiều hơn nhiều. Sự thực rằng đầu tiên đã có những cải cách chính trị hạn chế và rằng sự bãi bỏ Luật Ngô chỉ nằm trên chương trình nghị sự muộn hơn, đã tháo ngòi nổ xung đột. Sự thay đổi từ từ cũng đã chặn việc liều mạng lao vào các vùng lãnh thổ chưa được khám phá. Một sự lật đổ dữ dội hệ thống có nghĩa là cái gì đó hoàn toàn mới phải được xây dựng để thế chỗ cho cái bị thủ tiêu. Đấy đã là trường hợp của Cách mạng Pháp, khi thử nghiệm đầu tiên với dân chủ đã dẫn đến Khủng bố và sau đó quay lại nền quân chủ hai lần trước khi cuối cùng dẫn đến nền Cộng hòa Pháp Thứ Ba vào năm 1870. Nó đã là trường hợp của Cách mạng Nga, nơi các mong mỏi của nhiều người cho một hệ thống công bằng hơn hệ thống của Đế chế Nga, đã dẫn đến một chế độ độc tài độc đảng mà đã hung bạo, khát máu, và đồi bại hơn chế độ nó đã thay thế rất nhiều. Cải cách từ từ đã là khó trong các xã hội này chính xác bởi vì chúng thiếu chủ nghĩa đa nguyên và đã hết sức khai thác. Chính chủ nghĩa đa nguyên nổi lên từ Cách mạng Vinh quang, và pháp trị mà nó đưa vào, đã là cái làm cho sự thay đổi từ từ là khả thi, và đáng mong muốn, ở Anh. Nhà bình luận Anh bảo thủ Edmund Burke, người kiên định chống Cách mạng Pháp, đã viết trong năm 1790, “Với sự thận trọng vô hạn rằng bất cứ ai nên liều mạng phá đổ một tòa lâu đài, mà đã đáp ứng cho các mục đích chung của xã hội theo bất cứ mức độ có thể chịu được nào từ bao đời nay, hay dựng lại nó lên mà không có các mô hình và các hình mẫu về tính hữu dụng đã được chứng minh trước mắt mình.” Burke đã sai về bức tranh lớn. Cách mạng Pháp đã thay thế tòa lâu đài thối nát và đã mở đường cho các thể chế bao gồm không chỉ ở Pháp, mà khắp phần lớn Tây Âu. Nhưng sự thận trọng của Burke đã không phải hoàn toàn không chính xác. Quá trình từ từ của cải cách chính trị Anh, mà đã bắt đầu trong năm 1688 và đã lấy được nhịp ba thập niên sau cái chết của Burke, đã có hiệu quả hơn bởi vì bản chất từ từ của nó đã làm cho nó hùng mạnh hơn, khó hơn để kháng cự, và cuối cùng lâu bền hơn.
  • 357. VÒNG THIỆN ● 319 LÀM VỠ TAN CÁC TRUST Các thể chế bao gồm ở Hoa Kỳ đã có gốc rễ của chúng trong các cuộc đấu tranh ở Virginia, Maryland, và Carolinas trong thời kỳ thuộc địa (trang 19-28). Các thể chế này đã được tăng cường bởi Hiến Pháp Hoa Kỳ, với hệ thống các ràng buộc của nó và sự tách rời của các quyền lực. Nhưng Hiến pháp đã không đánh dấu sự chấm dứt sự phát triển các thể chế bao gồm. Hệt như ở Anh, các thể chế này đã được tăng cường bởi một quá trình phản hồi dương, dựa trên vòng thiện. Vào giữa thế kỷ thứ mười chín, tất cả các đàn ông da trắng đã có thể bầu cử ở Hoa Kỳ, mặc dù các phụ nữ và những người da đen đã không. Các thể chế kinh tế đã trở nên bao gồm hơn – thí dụ, với sự thông qua của Bộ Luật Trang Ấp (Homestead Act) trong năm 1862 (trang 37), mà đã làm cho đất biên cương sẵn có cho các nhà định cư tiềm năng, hơn là phân bổ các vùng đất này cho các elite chính trị. Nhưng hệt như ở Anh, các thách thức đối với các thể chế bao gồm đã chẳng bao giờ hoàn toàn vắng mặt. Sự kết thúc của Nội Chiến Hoa Kỳ đã khởi xướng một đợt tăng tốc tăng trưởng kinh tế ở miền Bắc. Khi đường sắt, công nghiệp, và thương mại mở rộng, một vài người đã kiếm được số tiền lớn kếch xù. Được làm cho bạo dạn bởi thành công kinh tế của họ, những người này và các công ty của họ đã trở nên ngày càng vô lương tâm. Họ đã được gọi là các Robber Baron (Trùm Kẻ Cướp) bởi vì các tập quán kinh doanh cứng cỏi của họ đã nhắm đến củng cố các độc quyền và ngăn trở bất cứ đối thủ cạnh tranh tiềm năng nào tham gia vào thị trường hay tiến hành kinh doanh trên quan hệ bình đẳng. Một trong những kẻ khét tiếng nhất của những người này đã là Cornelius Vanderbilt, người đã nhận xét một cách nổi tiếng, “Tôi quan tâm gì đến Luật pháp? Tôi không có quyền lực ư?” Một người khác đã là John D. Rockefeller, người đã khởi xướng Công ty Standard Oil năm 1870. Ông đã nhanh chóng loại trừ các đối thủ ở Cleveland và đã thử độc quyền hóa giao thông và và bán lẻ dầu và các sản phẩm dầu. Vào năm 1882 đông đã tạo ra một độc quyền đồ sộ – theo ngôn ngữ ngày đó, một trust. Vào năm 1890 Standard Oil đã kiểm soát 88 phần trăm dầu tinh chế chảy ở Hoa Kỳ, và Rockefeller đã trở thành tỷ phú đầu tiên trên thế giới trong năm 1916. Các
  • 358. 320 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI tranh biếm họa đương thời vẽ Standard Oil như một con bạch tuộc quấn các vòi không chỉ quanh công nghiệp dầu mà cả Capitol Hill, tòa nhà Quốc hội, nữa. Hầu như cũng khét tiếng thế đã là John Pierpont Morgan, người sáng lập tổ hợp độc quyền (conglomerate) ngân hàng J.P. Morgan, mà muộn hơn, sau nhiều cuộc sáp nhập trong hàng thập niên, cuối cùng đã trở thành JPMorgan Chase. Cùng với Andrew Carnegie, Morgan đã thành lập Công ty Thép Hoa Kỳ (U.S. Steel Company) năm 1901, công ty đầu tiên với giá trị thị trường hóa hơn 1 tỷ $ và đã là công ty thép lớn nhất thế giới, bỏ xa các công ty khác. Trong các năm 1890, các trust lớn đã bắt đầu nổi lên gần như ở mọi khu vực của nền kinh tế, và nhiều trong số chúng kiểm soát hơn 70 phần trăm thị trường trong khu vực của chúng. Các trust này gồm tên của nhiều gia đình, như Du Pont, Eastman Kodak, và International Harvester. Về mặt lịch sử, Hoa Kỳ, chí ít miền bắc và trung tây Hoa Kỳ, đã có các thị trường tương đối cạnh tranh và đã quân bình hơn các phần khác của đất nước, đặc biệt là Miền Nam. Nhưng trong thời kỳ này, sự cạnh tranh nhường đường cho độc quyền, và sự bất bình đẳng của cải tăng lên nhanh chóng. Hệ thống chính trị đa nguyên của Hoa Kỳ đã trao quyền rồi cho một mảng rộng của xã hội mà đã có thể đứng lên chống lại những sự xâm phạm như vậy. Các nạn nhân của các tập quán của các Trùm Ăn Cướp, hay những người phản đối sự chế ngự vô lương tâm của ngành của họ, đã bắt đầu tổ chức để chống lại chúng. Họ đã lập ra phong trào Dân túy và rồi sau đó phong trào Tiến bộ. Phong trào Dân túy đã nổi lên từ một khủng hoảng nông nghiệp kéo dài, mà đã làm khổ sở vùng Trung Tây từ cuối các năm 1860 trở đi. Nghiệp Đoàn Nông Dân (National Grange of the Order of Patrons of Husbandry), được biết đến như các Granger, đã được thành lập năm 1867 và đã bắt đầu huy động các nông dân chống lại các tập quán kinh doanh không công bằng và phân biệt. Trong năm 1873 và 1874, các Granger đã có được sự kiểm soát mười một cơ quan lập pháp bang miền trung tây, và sự bất mãn nông thôn đã lên đỉnh điểm trong sự hình thành Đảng Nhân Dân năm 1892, mà đã thu được 8,5 phần trăm phiếu bầu phổ thông trong bầu cử tổng thống năm 1892. Trong hai lần bầu cử tiếp theo, những người Dân Túy đã đứng vào hàng ngũ đằng sau hai phong trào Dân chủ không thành công bởi William Jennings Bryan, người đã biến nhiều vấn đề thành của chính ông. Sự phản đối ở cơ sở đối với sự mở rộng của các trust bây giờ đã được tổ
  • 359. VÒNG THIỆN ● 321 chức để thử chống lại ảnh hưởng mà Rockefeller và các Trùm Kẻ Cướp khác sử dụng lên chính trị quốc gia. Các phong trào chính trị chầm chậm đã bắt đầu có một tác động lên thái độ chính trị và rồi lên lập pháp, đặc biệt liên quan đến vai trò của nhà nước trong điều tiết độc quyền. Luật quan trọng đầu tiên đã là Đạo Luật Thương mại giữa các bang năm 1887, mà đã tạo ra Ủy ban Thương mại Giữa các Bang và đã khởi xướng sự phát triển của quy chế điều tiết liên bang của Bộ Luật Sherman, mà vẫn là một phần chủ yếu của điều tiết chống trust của Hoa Kỳ, trở thành cơ sở cho các cuộc tấn công các trust của các Trùm Kẻ Cướp. Hành động chủ yếu chống lại các trust đã đến sau bầu cử các tổng thống cam kết với cải cách và với giới hạn quyền lực của các Trùm Kẻ Cướp: Theodore Roosevelt, 1901–1909; William Taft, 1909–1913; và Woodrow Wilson, 1913–1921. Một lực lượng chính trị chủ chốt đứng đằng sau quy chế chống trust và bước đi để áp đặt quy chế liên bang về công nghiệp đã lại là phiếu bầu của nông dân. Các nỗ lực ban đầu bởi các bang riêng lẻ trong các năm 1870 để điều tiết đường sắt đã đến từ các tổ chức nông dân. Thực vậy, gần như tất cả năm mươi chín kiến nghị mà liên quan đến các trust được gửi cho Quốc hội trước khi ban hành Đạo luật Sherman đã đến từ các bang nông nghiệp và đã bắt nguồn từ các tổ chức như Liên hiệp Nông dân, Liên minh Nông dân, Hội Lợi ích Hỗ tương của Nông dân, và Các nhà Bảo trợ Chăn nuôi. Các nông dân đã tìm thấy một lợi ích tập thể trong chống lại các tập quán độc quyền của công nghiệp. Từ tro tàn của những người Dân túy, những người đã suy sụp nghiêm trọng sau khi dùng ảnh hưởng của mình để ủng hộ những người [thuộc đảng] Dân chủ, đã đến những người Tiến bộ, một phong trào cải cách không đồng nhất quan tâm đến cùng nhiều vấn đề như thế. Phong trào Tiến bộ ban đầu đã quện lại xung quanh nhân vật Teddy Roosevelt, người đã là phó tổng thống của William McKinley và đã đảm đương chức tổng thống tiếp sau vụ ám sát McKinley năm 1901. Trước khi lên nắm chức tầm quốc gia, Roosevelt đã là một thống đốc không nhượng bộ của New York và đã làm việc siêng năng để loại bỏ tham nhũng chính trị và “guồng máy chính trị.” Trong thông điệp đầu tiên của ông cho Quốc hội, Roosevelt đã chuyển sự chú ý của mình đến các trust. Ông đã cho rằng sự thịnh vượng của Hoa Kỳ dựa trên nền kinh tế thị trường và tài khéo léo của các nhà kinh doanh, nhưng đồng thời,
  • 360. 322 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI có những cái xấu thực và trầm trọng … và một … sự tin chắc rộng rãi trong đầu của nhân dân Mỹ rằng các công ty lớn được biết đến như các trust theo một số đặc tính và xu hướng của chúng là có hại cho phúc lợi chung. Điều này xuất hiện không từ tinh thần ghen tỵ hay không độ lượng nào, cũng chẳng từ sự thiếu tự hào về các thành quả vĩ đại mà đã đặt đất nước này lên đầu các quốc gia chiến đấu giành ưu thế thương mại. Nó không dựa vào một sự thiếu đánh giá thông minh về sự tất yếu phải thỏa mãn các điều kiện đang thay đổi và đã thay đổi của thương mại với các phương pháp mới, nó cũng chẳng dựa vào sự không hiểu biết về sự thực rằng sự kết hợp vốn trong nỗ lực để đạt được các thứ lớn lao là cần thiết khi sự tiến bộ của thế giới đòi hỏi rằng các thứ lớn lao phải được làm. Nó dựa trên sự tin chắc chân thành rằng sự kết hợp và sự tập trung phải, không bị cấm, nhưng được giám sát và được kiểm soát bên trong các giới hạn hợp lý; và theo đánh giá của tôi sự tin chắc này là đúng. Ông tiếp tục: “Cũng phải là mục đích của những người tìm kiếm sự cải thiện xã hội để giải thoát thế giới kinh doanh khỏi các tội ác xảo trá như để giải thoát toàn bộ nhà nước khỏi các tội ác vũ lực.” Kết luận của ông đã là vì lợi ích của toàn bộ nhân dân, quốc gia cũng phải nắm lấy quyền lực giám sát và điều tiết tất cả các công ty tiến hành kinh doanh giữa các bang, mà không can thiệp vào quyền lực của các bang trong bản thân vấn đề này. Điều này đặc biệt đúng nơi công ty nhận được một phần của cải của nó từ sự tồn tại của yếu tố hay xu hướng độc quyền nào đó trong việc kinh doanh của nó. Roosevelt đã kiến nghị Quốc hội thiết lập một cơ quan liên bang với quyền lực để điều tra các vụ của các công ty lớn và rằng, nếu cần thiết, một sự tu chính Hiến pháp có thể được sử dụng để tạo ra một cơ quan như vậy. Vào năm 1902 Roosevelt đã sử dụng Đạo luật Sherman để phá vỡ Công ty Chứng khoán Miền Bắc (Northern Securities Company), đụng chạm đến các lợi ích của J.P. Morgan, và sau đó các vụ tố tụng được đưa ra chống lại Du Pont, Công ty Thuốc lá Mỹ, và công ty Standard Oil. Roosevelt đã củng cố Đạo luật Thương mại giữa các Bang với Đạo luật Hepburn năm 1906, mà đã làm tăng quyền lực của Ủy Ban Thương mại giữa các Bang, đặc biệt cho phép nó thanh tra các tài khoản của đường sắt và
  • 361. VÒNG THIỆN ● 323 mở rộng quyền hạn của nó sang các lĩnh vực mới. Người kế vị Roosevelt, William Taft, đã khởi tố các trust thậm chí còn siêng năng hơn, điểm cao của công việc này đã là phá vỡ Công ty Standard Oil trong năm 1911. Taft cũng đã đề xuất những cải cách quan trọng khác, như đưa ra thuế thu nhập liên bang, mà đã đến với sự phê chuẩn Tu chính [Hiến pháp] lần thứ Mười sáu trong năm 1913. Thời cực thịnh của những cải cách Tiến bộ đến với việc bầu Woodrow Wilson năm 1912. Wilson đã lưu ý trong cuốn sách năm 1913 của ông, cuốn The New Freedom (Quyền tự do mới), “Nếu độc quyền tồn tại dai dẳng, độc quyền sẽ luôn luôn ở cương vị chỉ huy chính phủ. Tôi không kỳ vọng để thấy độc quyền tự kiềm chế. Nếu có những người ở đất nước này đủ lớn để sở hữu chính phủ Hoa Kỳ, họ sẽ sở hữu nó.” Wilson đã làm việc để thông qua Đạo luật Clayton Chống Trust năm 1914, củng cố Đạo luật Sherman, và ông đã lập ra Ủy ban Thương mại Liên bang (Federal Trade Commission), mà đã thi hành Đạo luật Clayton. Ngoài ra, dưới sự thúc đẩy của sự điều tra của Ủy ban Pujo, do nghị sĩ Louisiana là Arsene Pujo lãnh đạo, về “trust tiền tệ,” sự mở rộng độc quyền vào ngành tài chính, Wilson đã đề nghị tăng điều tiết khu vực tài chính. Trong năm 1913 ông đã thành lập Ban Thống đốc Hệ thống Dự trữ Liên bang (Federal Reserve Board), mà sẽ điều tiết các hoạt động độc quyền trong khu vực tài chính. Sự nổi lên của các Trùm Kẻ Cướp và các trust độc quyền của họ vào cuối thế kỷ thứ mười chín và đầu thế kỷ thứ hai mươi nhấn mạnh rằng, như chúng ta đã nhấn mạnh rồi ở chương 3, sự hiện diện của các thị trường bản thân nó không là một bảo đảm của các thể chế bao gồm. Các thị trường có thể bị chế ngự bởi vài hãng, đặt ra giá cắt cổ và chặn sự tham gia của các đối thủ hiệu quả hơn và các công nghệ mới. Các thị trường, để mặc cho chúng tự xoay xở, có thể ngừng là bao gồm, ngày càng trở nên bị thống trị bởi kẻ hùng mạnh về kinh tế và chính trị. Các thể chế kinh tế bao gồm đòi hỏi không chỉ các thị trường, mà đòi hỏi các thị trường bao gồm mà tạo ra sân chơi bằng phẳng và các cơ hội kinh tế cho đa số nhân dân. Độc quyền tràn lan, được ủng hộ bởi quyền lực chính trị của elite, mâu thuẫn với điều này. Nhưng phản ứng với các trust độc quyền cũng minh họa rằng khi các thể chế chính trị là bao gồm, chúng tạo ra một lực bù chống những sự chuyển động ra xa các thị trường bao gồm. Đấy là vòng thiện đang hoạt động. Các thể chế kinh tế bao gồm cung cấp các nền tảng mà trên đó các thể chế chính
  • 362. 324 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI trị bao gồm có thể đơm hoa, trong khi các thể chế chính trị bao gồm hạn chế những sự đi trệch khỏi các thể chế kinh tế bao gồm. Phá tan trust ở Hoa Kỳ, ngược lại với cái chúng ta đã thấy ở Mexico (trang 38-40), minh họa khía cạnh này của vòng thiện. Trong khi không có cơ quan chính trị nào ở Mexico hạn chế độc quyền của Carlos Slim, các Đạo luật Sherman và Clayton đã được dùng lặp đi lặp lại ở Hoa Kỳ trong thế kỷ qua để hạn chế các trust, các độc quyền, và các cartel, và để bảo đảm rằng các thị trường vẫn là các thị trường bao gồm. Kinh nghiệm Hoa Kỳ trong nửa đầu của thế kỷ thứ hai mươi cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng của báo chí tự do trong trao quyền cho các mảng rộng của xã hội và như thế trong vòng thiện. Năm 1906 Roosevelt đã tạo ra từ muckraker (người cào phân, kẻ hay bới móc), dựa trên một nhân vật văn học, người với cái cào phân trong Pilgrim’s Progress (Tiến bộ của người Hành hương) của Bunyan, để mô tả cái ông coi như nghề báo xâm nhập. Từ này đã bám vào và tượng trưng hóa các nhà báo những người đã xâm nhập, nhưng cũng có kết quả, phơi bày những sự thái quá của các Trùm Kẻ Cướp cũng như sự thối nát trong hoạt động chính trị địa phương và liên bang. Có lẽ người hay bới móc nổi tiếng nhất đã là Ida Tarbell, mà cuốn sách năm 1904 của bà, cuốn History of the Standard Oil Company (Lịch sử của Công ty Standard Oil), đã đóng một vai trò then chốt trong làm thay đổi dư luận chống lại Rockefeller và các lợi ích kinh doanh của ông, lên đến đỉnh điểm trong phá vỡ Standard Oil năm 1911. Một muckraker chủ chốt khác đã là luật sư và tác giả Louis Brandeis, người muộn hơn đã được Tổng thống Wilson bổ nhiệm làm thẩm phán Tòa án Tối cao. Brandeis đã phác họa một loạt các vụ bê bối tài chính trong cuốn sách của mình, cuốn Other People’s Money and How Bankers Use It (Tiền của những Người khác và các Chủ Ngân hàng Sử dụng Nó Ra sao), và đã có ảnh hưởng lớn đến Ủy ban Pujo. Ông trùm báo chí William Randolph Hearst cũng đã đóng một vai trò nổi bật như người hay bới móc. Việc ông cho đăng từng kỳ trong tạp chí The Cosmopolitan của ông trong năm 1906 các bài báo của David Graham Phillips, được gọi là “Sự Làm Phản của Thượng viện – The Treason of the Senate,” đã khích động phong trào để đưa ra việc bầu trực tiếp Thượng viện, một cải cách Tiến bộ chủ chốt khác nữa mà đã xảy ra với sự ban hành Tu chính thứ Mười Bảy của Hiến pháp Hoa Kỳ trong năm 1913.
  • 363. VÒNG THIỆN ● 325 Các muckraker đã đóng một vai trò chủ yếu trong xui khiến các chính trị gia hành động chống lại các trust. Các Trùm Kẻ Cướp đã căm thù các muckraker, nhưng các thể chế chính trị của Hoa Kỳ đã làm cho là không thể đối với họ để tiệt trừ và bịt miệng những người hay bới móc. Các thể chế chính trị bao gồm cho phép một nền báo chí tự do phát đạt, và một nền báo chí tự do, đến lượt, lại làm cho có nhiều khả năng hơn rằng các đe dọa chống lại các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm sẽ được biết đến một cách rộng rãi và bị kháng cự. Ngược lại, quyền tự do [báo chí] như vậy là không thể dưới các thể chế chính trị khai thác, dưới chính thể chuyên chế, hay dưới chế độ độc tài, mà giúp các chế độ khai thác để ngăn ngừa trước hết sự hình thành của phe đối lập nghiêm túc. Thông tin mà báo chí tự do cung cấp đã rõ ràng là quyết định trong nửa đầu của thế kỷ thứ hai mươi ở Hoa Kỳ. Không có thông tin này, công chúng Hoa Kỳ đã không biết mức độ thật của quyền lực và sự lạm dụng của các Trùm Kẻ Cướp và đã không thể được huy động để chống lại các trust của họ. CHỌN NGƯỜI VÀO TÒA ÁN Franklin D. Roosevelt, ứng viên của Đảng Dân chủ và em con chú của Teddy Roosevelt, đã được bầu làm tổng thống năm 1932 giữa cuộc Đại Suy thoái. Ông đã lên nắm quyền với một sự ủy thác của nhân dân để thực hiện một tập các chính sách đầy tham vọng để chiến đấu với Đại Suy thoái. Vào thời điểm lễ nhậm chức của ông đầu năm 1933, một phần tư lực lượng lao động đã thất nhiệp, với nhiều người bị ném vào cảnh nghèo khổ. Sản xuất công nghiệp đã sụt hơn một nửa kể từ Suy thoái nổ ra năm 1929, và đầu tư đã sụp đổ. Các chính sách mà Roosevelt kiến nghị để chống lại tình trạng này đã được biết đến chung như New Deal (Chính sách Kinh tế Mới). Roosevelt đã có một chiến thắng vững chắc, với 57 phần trăm phiếu bầu phổ thông, Đảng Dân chủ đã có đa số ở cả Hạ viện và Thượng viện, đủ để thông qua luật pháp New Deal. Tuy vậy, một số luật đã nêu ra các vấn đề hiến pháp và đã kết thúc ở Tòa án Tối cao, nơi sự ủy thác cử tri của Roosevelt đã rất ít có tác dụng. Một trong các trụ cột chính của New Deal đã là Đạo luật Khôi phục Công nghiệp Quốc gia. Chương I đã tập trung vào khôi phục công nghiệp. Tổng thống Roosevelt và nhóm của ông đã tin rằng kiềm chế cạnh tranh công nghiệp, trao cho
  • 364. 326 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI công nhân các quyền lớn hơn để thành lập các nghiệp đoàn, và điều tiết các tiêu chuẩn làm việc đã là cốt yếu đối với sự cố gắng phục hồi. Chương II đã thiết lập Public Works Administration (Cơ quan quản lý các Công trình Công cộng), mà các dự án hạ tầng cơ sở gồm các cột mốc như ga xe lửa Đường Thứ Ba Mươi ở Philadelphia, cầu Triborough, Đập Grand Coulee, và Đường Overseas nối Key West, Florida, với đất liền. Tổng thống Roosevelt đã ký dự luật thành luật ngày 16 tháng Sáu, 1933, và Đạo luật Khôi phục Công nghiệp Quốc gia đã được đưa vào hoạt động. Tuy vậy, ngay lập tức nó đã đối mặt với các thách thức ở các tòa án. Ngày 27 tháng Năm, 1935, Tòa án Tối cao đã nhất trí quyết định rằng Chương I của đạo luật đã vi hiến. Phán quyết của họ đã lưu ý một cách trang nghiêm, “Những điều kiện đặc biệt có thể cần đến những cách điều trị đặc biệt. Nhưng … các điều kiện đặc biệt không tạo ra hay mở rộng quyền lực thuộc hiến pháp.” Trước khi quyết định của Tòa được ghi nhận, Roosevelt đã bước một bước tiếp theo của chương trình nghị sự của ông và đã ký Đạo luật Trợ cấp Xã hội (Social Security Act), mà đã đưa nhà nước phúc lợi hiện đại vào Hoa Kỳ: lương hưu khi về hưu, trợ cấp thất nghiệp, giúp đỡ các gia đình có con phụ thuộc, và một số chăm sóc sức khỏe và trợ cấp tàn tật. Ông cũng đã ký Đạo luật Quan hệ Lao động Quốc gia (National Labor Relations Act), mà đã củng cố thêm các quyền của những người lao động để tổ chức các nghiệp đoàn, tham gia thương lượng tập thể, và tiến hành đình công chống lại những người sử dụng lao động của họ. Các biện pháp này cũng đã đối mặt với các thách thức ở Tòa án Tối cao. Khi những thứ này đang đi qua ngành tư pháp, Roosevelt đã được bầu lại trong năm 1936 với một sự ủy thác mạnh mẽ, nhận được 61 phần trăm phiếu bầu phổ thông. Với sự yêu mến của nhân dân lên cao kỷ lục, Roosevelt đã không có ý định để cho Tòa án Tối cao làm trật bánh xe nhiều hơn trong chương trình nghị sự chính sách của ông. Ông đã trình bày các kế hoạch của ông tại một trong các Buổi nói chuyện với nhân dân (Fireside Chat) thường lệ của ông, mà đã được truyền thanh trực tiếp trên radio ngày 9 tháng Ba, 1937. Ông đã bắt đầu bằng cách chỉ ra rằng trong nhiệm kỳ đầu của ông, các chính sách rất cần đã chỉ vượt qua Tòa án Tối cao một chút ít. Ông tiếp tục: Làm tôi nhớ lại buổi tối đó trong tháng Ba, bốn năm trước, khi tôi trình bày báo cáo radio đầu tiên của tôi cho bạn. Khi đó chúng ta đang
  • 365. VÒNG THIỆN ● 327 ở giữa cuộc khủng hoảng lớn về ngân hàng. Không lâu sau đó, với sự ủy quyền của Quốc hội, chúng ta đã yêu cầu quốc gia giao toàn bộ số vàng của nó được tư nhân nắm giữ, dollar lấy dollar, cho chính phủ Hoa Kỳ. Sự phục hồi hôm nay chứng minh chính sách đã đúng thế nào. Nhưng khi, gần hai năm muộn hơn, trước Tòa án Tối cao tính hợp hiến của nó đã được xác nhận chỉ bởi năm-trên-bốn phiếu. Sự thay đổi của một phiếu đã có thể quăng tất cả công việc của quốc gia vĩ đại này vào sự hỗn loạn vô vọng. Quả vậy, bốn thẩm phán đã quyết định rằng quyền dưới một hợp đồng tư để khai thác một cân thịt đã thiêng liêng hơn các mục tiêu chính của Hiến pháp để thiết lập một quốc gia lâu dài. Hiển nhiên, điều này không được để lại bị rủi ro. Roosevelt tiếp tục: Thứ năm trước tôi đã mô tả hình thức Mỹ của chính phủ như một bộ tam mã được cung cấp bởi Hiến pháp cho nhân dân Mỹ sao cho ruộng của họ có thể được cày. Ba con ngựa, tất nhiên, là ba nhánh của chính phủ – Quốc hội, hành pháp, và các tòa án. Hai trong ba con ngựa, Quốc hội và hành pháp, đang đồng tâm kéo ngày nay; con thứ ba thì không. Roosevelt sau đó đã chỉ ra rằng Hiến pháp Hoa Kỳ đã thực sự không trao cho Tòa án Tối cao quyền để thách thức tính hợp hiến của luật pháp, nhưng nó đã nhận vai trò này cho mình trong năm 1803. Lúc đó, Thẩm phán Bushrod Washington đã quy định rằng Tòa án Tối cao phải “giả định ủng hộ cho tính hợp lệ [của một luật] cho đến khi sự vi phạm Hiến pháp của nó được chứng minh một cách không còn nghi ngờ gì nữa.” Roosevelt sau đó đã buộc tội: Trong bốn năm qua quy tắc lành mạnh về trao cho các đạo luật lợi thế tồn nghi hợp lý đã bị vứt đi. Tòa án đã hành động không với tư cách một cơ quan tư pháp, mà như một cơ quan hoạch định chính sách. Roosevelt cho rằng ông đã có sự ủy thác cử tri để thay đổi tình trạng này và rằng “sau khi cân nhắc về cải cách gì để kiến nghị, phương pháp duy nhất mà hợp hiến một cách rõ ràng … đã là tiếp máu mới vào tất cả các tòa án của chúng ta.” Ông cũng đã lập luận rằng các thẩm phán Tòa án Tối cao đã phải làm việc quá
  • 366. 328 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI sức, và tải công việc đã đúng là quá nhiều đối với các thẩm phán cao tuổi – mà tình cờ là những người đánh trượt việc làm luật của ông. Rồi ông kiến nghị rằng tất cả các thẩm phán phải đối mặt với sự nghỉ hưu bắt buộc ở tuổi bảy mươi và rằng ông phải được phép chỉ định đến sáu thẩm phán mới. Kế hoạch này, mà Roosevelt đã đệ trình như Dự luật Tổ chức lại ngành Tư pháp, sẽ là đủ để loại bỏ các thẩm phán mà đã được bổ nhiệm trước đây bởi các chính quyền bảo thủ hơn và những người đã phản đối New Deal tích cực nhất. Mặc dù Roosevelt đã thử một cách khéo léo để có được sự ủng hộ dân chúng cho các biện pháp, các cuộc thăm dò dư luận đã gợi ý rằng chỉ khoảng 40 phần trăm dân cư đã ủng hộ kế hoạch. Louis Brandeis bây giờ đã là một thẩm phán Tòa án Tối cao. Mặc dù Brandeis đã có cảm tình với nhiều luật của Roosevelt, ông đã phát biểu chống lại các mưu toan của Tổng thống để làm xói mòn quyền lực của Tòa án Tối cao và những sự viện lý của ông rằng các thẩm phán đã làm việc quá sức. Đảng Dân chủ của Roosevelt đã có đa số lớn ở cả hai viện của Quốc hội. Nhưng Hạ nghị Viện ít nhiều đã từ chối giải quyết dự luật của Roosevelt. Roosevelt sau đó đã thử với Thượng viện. Dự luật được giửi cho Ủy ban Tư pháp của Thượng viện, mà sau đó đã tổ chức các cuộc họp hết sức bất hòa, thu hút những ý kiến khác nhau về dự luật. Cuối cùng họ đã gửi nó lại đến phòng họp Thượng viện với một báo cáo tiêu cực, cho rằng dự luật đã là một “sự từ bỏ không cần thiết, vô ích và hoàn toàn nguy hiểm của nguyên lý hiến pháp … mà không có tiền lệ hay sự biện minh.” Thượng viện đã bỏ phiếu 70 trên 20 để gửi nó lại cho ủy ban để soạn lại. Tất các các yếu tố “chọn người vào tòa án” đã bị tước hết. Roosevelt đã không có khả năng để loại bỏ các ràng buộc đặt lên quyền lực của ông bởi Tòa án Tối cao. Cho dù quyền lực của Roosevelt vẫn bị ràng buộc, đã có những thỏa hiệp, và các Đạo luật Trợ cấp Xã hội và Quan hệ Lao động Quốc gia cả hai đã được Tòa tuyên là hợp hiến. Quan trọng hơn số phận của hai đạo luật này đã là bài học chung từ tình tiết này. Các thể chế chính trị bao gồm không chỉ ngăn chặn các sự trệch lớn khỏi các thể chế kinh tế bao gồm, mà chúng cũng cưỡng lại các mưu toan để làm xói mòn sự tiếp tục riêng của chính chúng. Đã là lợi ích trực tiếp của Hạ viện và Thượng viện Dân chủ để chọn người cho tòa án và bảo đảm rằng tất cả luật pháp New Deal sống sót. Nhưng theo cùng cách mà các elite Anh vào đầu thế kỷ thứ mười tám đã hiểu rằng đình chỉ pháp trị sẽ gây nguy hiểm cho các lợi ích mà họ đã giật
  • 367. VÒNG THIỆN ● 329 được từ nền quân chủ, các hạ nghị sĩ và thượng nghị sĩ đã hiểu rằng nếu Tổng thống đã có thể làm xói mòn tính độc lập của ngành tư pháp, thì điều này sẽ làm xói mòn cân bằng quyền lực trong hệ thống mà đã bảo vệ họ khỏi Tổng thống và đã bảo đảm tính liên tục của các thể chế chính trị đa nguyên. Có lẽ Roosevelt có thể đã quyết định tiếp theo rằng nhận được đa số lập pháp đã cần quá nhiều thỏa hiệp và thời gian và rằng thay vào đó ông đã có thể cai trị bằng sắc lệnh, hoàn toàn làm xói mòn chủ nghĩa đa nguyên và hệ thống chính trị Hoa Kỳ. Quốc hội chắc chắn đã không thông qua điều này, nhưng khi đó Roosevelt đã có thể kêu gọi quốc gia, khẳng định rằng Quốc hội đang cản trở các biện pháp để chiến đấu với Suy thoái. Ông đã có thể sử dụng cảnh sát để đóng cửa Quốc hội. Nghe có vẻ cường điệu khó tin? Đấy chính xác là cái đã xảy ra ở Peru và Venezuela trong các năm 1990. Các Tổng thống Fujimori và Chávez đã kêu gọi sự ủy thác của dân chúng cho họ để đóng cửa các quốc hội không hợp tác và sau đó đã viết lại các Hiến pháp của họ để củng cố một cách mạnh mẽ quyền lực của Tổng thống. Sự lo sợ về độ dốc-trơn tuột này bởi những người chia sẻ quyền lực dưới các thể chế chính trị đa nguyên chính xác là cái đã chặn Walpole khỏi việc sửa các tòa án Anh trong các năm 1720, và nó là cái đã chặn Quốc hội Hoa Kỳ khỏi việc ủng hộ kế hoạch chọn người vào tòa án của Roosevelt. Roosevelt đã đụng độ với sức mạnh của các vòng thiện. Nhưng logic này không luôn luôn diễn ra, đặc biệt trong các xã hội mà có thể có một vài đặc tính bao gồm nhưng là khai thác một cách rộng rãi. Chúng ta đã thấy rồi động học này ở Rome và Venice. Một minh họa khác nữa đến từ việc so sánh mưu toan thất bại của Roosevelt để chọn người vào Tòa án với các nỗ lực tương tự ở Argentina, nơi một cách cốt yếu cùng các cuộc đấu tranh đã xảy ra trong bối cảnh của các thể chế kinh tế và chính trị khai thác chiếm ưu thế. Hiến pháp năm 1853 của Argentina đã tạo ra một Tòa án Tối cao với các nhiệm vụ tương tự như các trách nhiệm của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ. Một quyết định năm 1887 đã cho phép tòa án Argentine đảm nhiệm cùng vai trò như của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ trong quyết định liệu các luật cụ thể có hợp hiến hay không. Về lý thuyết, Tòa án Tối cao đã có thể phát triển như một trong những yếu tố quan trọng của các thể chế chính trị bao gồm ở Argentina, nhưng phần còn lại của hệ thống chính trị và kinh tế đã vẫn hết sức khai thác, và đã không có sự trao quyền cho các mảng rộng của xã hội cũng đã chẳng có chủ nghĩa đa nguyên ở
  • 368. 330 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI Argentina. Như ở Hoa Kỳ, vai trò hiến định của Tòa án Tối cao cũng có thể bị thách thức ở Argentina. Năm 1946 Juan Domingo Perón đã được bầu một cách dân chủ làm Tổng thống Argentina. Perón đã là một cựu đại tá và đầu tiên đã nổi bật toàn quốc sau một cuộc đảo chính quân sự năm 1943, mà đã chỉ định ông ta làm bộ trưởng lao động. Trong vị trí này, ông đã xây dựng liên minh chính trị với các nghiệp đoàn và phong trào lao động, mà sẽ là cốt yếu cho nỗ lực của ông để làm Tổng thống. Không lâu sau thắng lợi của Perón, những người ủng hộ ông trong Hạ Viện (Chamber of Deputies) đã kiến nghị luận tội bốn trong năm thành viên của Tòa án. Sự buộc tội nhắm chống Tòa án đã là nhiều. Một cớ buộc tội đã dính líu đến việc họ chấp nhận một cách vi hiến tính hợp pháp của hai chế độ quân sự năm 1930 và 1943 – đã là khá mỉa mai, vì Perón đã đóng một vai trò then chốt trong cuộc đảo chính sau. Các lý do khác đã tập trung vào luật pháp mà tòa án đã đánh đổ, hệt như tòa án Hoa Kỳ đã làm. Đặc biệt, ngay trước việc bầu Perón làm Tổng thống, Tòa đã đưa ra một quyết định rằng hội đồng quan hệ lao động quốc gia mới của Perón đã là vi hiến. Hệt như Roosevelt đã phê phán nặng nề Tòa án Tối cao trong chiến dịch bầu lại của ông năm 1936, Perón đã làm hệt thế trong chiến dịch của ông năm 1946. Chín tháng sau khi khởi động quá trình luận tội, Hạ viện đã kết tội ba thẩm phán, thẩm phán thứ tư đã từ chức rồi. Thượng viện đã chấp thuận đề nghị. Perón sau đó đã bổ nhiệm bốn thẩm phán mới. Việc làm xói mòn Tòa án rõ ràng đã có tác động giải thoát Perón khỏi các ràng buộc chính trị. Bây giờ ông đã có thể sử dụng quyền lực không bị kiềm chế, vẫn như các chế độ quân sự ở Argentina đã sử dụng trước và sau nhiệm kỳ tổng thống của ông. Các thẩm phán mới được bổ nhiệm của ông, chẳng hạn, đã phán quyết là hợp hiến sự kết tội Ricardo Balbín, lãnh tụ của đảng đối lập chính đối với Perón, Đảng Cấp Tiến, vì đã không tôn trọng Perón. Perón trên thực tế đã cai trị như một tên độc tài. Vì Perón đã thành công chọn người cho Tòa án, đã trở thành chuẩn ở Argentina cho bất cứ Tổng thống mới nào để chọn các thẩm phán Tòa án Tối cao riêng của mình. Cho nên một thể chế chính trị mà đã có thể thực hiện một số ràng buộc lên quyền lực của nhánh hành pháp đã mất hết. Chế độ Perón đã bị loại khỏi quyền lực bởi một cuộc đảo chính khác trong năm 1955, và đã tiếp theo bởi một chuỗi dài của những sự chuyển tiếp giữa sự cai trị quân sự và dân sự. Cả các chế độ quân sự và dân sự mới đã chọn các thẩm phán riêng của mình. Nhưng chọn các
  • 369. VÒNG THIỆN ● 331 thẩm phán Tòa án Tối cao ở Argentina đã không là một hoạt động được giới hạn cho những sự chuyển tiếp giữa sự cai trị quân sự và dân sự. Trong năm 1990 Argentina cuối cùng đã trải qua một sự chuyển tiếp giữa các chính phủ được bầu một cách dân chủ – một chính phủ dân chủ tiếp sau bởi chính phủ dân chủ khác. Thế nhưng, vào thời gian này các chính phủ dân chủ đã không ứng xử khác mấy với các chính phủ quân sự khi đến việc của Tòa án Tối cao. Tổng thống mới nhậm chức đã là Carlos Saúl Menem của Đảng Perónist. Các thẩm phán Tòa án Tối cao đương nhiệm đã được bổ nhiệm sau sự chuyển tiếp sang nền dân chủ năm 1983 bởi Tổng thống Đảng Cấp Tiến Raúl Alfonsín. Vì đấy là một sự chuyển tiếp dân chủ, đã chẳng có lý do gì cho Menem để bổ nhiệm tòa án riêng của mình. Nhưng trong thời gian dẫn đến bầu cử, Menem đã để lộ bản chất của ông rồi. Ông ta đã liên tục, mặc dù không thành công, thử khuyến khích (hay thậm chí đe dọa) các thành viên của tòa để họ từ chức. Ông đã chào một cách nổi tiếng cho Thẩm phán Carlos Fayt một chức đại sứ. Nhưng ông đã bị quở trách, và Fayt đã đáp lại bằng gửi cho ông một bản của cuốn sách Law and Ethics (Luật và Đạo đức học), với một ghi chú đề tặng “Cẩn thận tôi đã viết cuốn này”. Không nao núng, trong vòng ba tháng từ khi nhậm chức, Menem đã gửi một dự luật đến Hạ viện kiến nghi mở rộng Tòa án từ năm lên chín thành viên. Một lý lẽ hệt như Roosevelt đã dùng năm 1937: tòa đã làm việc quá sức. Luật đã nhanh chóng đi qua Thượng viện và Hạ viện, và việc này đã cho phép Menem bổ nhiệm bốn thẩm phán mới. Ông đã có đa số của mình. Thắng lợi của Menem chống lại Tòa án Tối cao đã khởi động một loại động học độ dốc-trơn tuột mà chúng ta đã nhắc tới ở trước. Bước tiếp theo của ông đã là viết lại Hiến pháp loại bỏ giới hạn nhiệm kỳ để ông có thể ứng cử Tổng thống lần nữa. Sau khi được bầu lại, Menem đã đề nghị viết lại Hiến pháp lần nữa, nhưng đã bị chặn không phải bởi các thể chế chính trị Argentina mà bởi các phe cánh bên trong Đảng Perónist của chính ông, những người đã chiến đấu chống lại sự thống trị cá nhân của ông. Từ khi độc lập, Argentina đã chịu hầu hết các vấn đề thể chế mà đã gây tai họa cho Mỹ Latin. Nó đã bị sập bẫy trong một vòng luẩn quẩn, không phải một vòng thiện. Như một hệ quả, những sự phát triển tích cực, như các bước đầu tiên hướng tới việc tạo ra một Tòa án Tối cao độc lập, đã chẳng bao giờ có được vị trí chắc chắn. Với chủ nghĩa đa nguyên, không nhóm nào muốn hay dám lật đổ quyền lực
  • 370. 332 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI của nhóm khác, vì sợ rằng quyền lực riêng của chính nó sau đó sẽ bị thách thức. Đồng thời, sự phân bổ rộng quyền lực làm cho một sự lật đổ như vậy là khó. Một Tòa án Tối cao có thể có quyền lực nếu nó nhận được sự ủng hộ đáng kể từ các mảng rộng của xã hội sẵn sàng đẩy lui các mưu toan để làm mất hiệu lực của tính độc lập của Tòa án. Điều đó đã đúng ở Hoa Kỳ, không phải ở Argentina. Các nhà lập pháp ở đó đã vui lòng để làm xói mòn Tòa án cho dù họ đã thấy trước rằng việc này đã có thể gây nguy hiểm cho vị trí của chính họ. Một lý do là, với các thể chế khai thác có nhiều để kiếm được từ việc lật đổ Tòa án Tối cao, và các lợi ích tiềm năng đó là đáng giá các rủi ro. PHẢN HỒI DƯƠNG VÀ CÁC VÒNG THIỆN Các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm không tự nổi lên. Chúng thường là kết quả của xung đột đáng kể giữa các elite cưỡng lại sự tăng trưởng kinh tế và thay đổi chính trị và những người muốn hạn chế quyền lực kinh tế và chính trị của các elite hiện tồn. Các thể chế bao gồm nổi lên trong các bước ngoặt, như trong Cách mạng Vinh quang ở Anh hay sự thành lập thuộc địa Jamestown ở Bắc Mỹ, khi một chuỗi nhân tố làm yếu sự nắm giữ quyền lực của các elite, làm cho các đối thủ của họ mạnh hơn, và tạo ra những khuyến khích cho việc hình thành của một xã hội đa nguyên. Kết quả của xung đột chính trị chẳng bao giờ là chắc chắn, và cho dù nhìn lại chúng ta thấy nhiều sự kiện lịch sử cứ như là không thể tránh khỏi, con đường của lịch sử là tùy thuộc ngẫu nhiên. Tuy nhiên, một khi đã ở trong vị trí, các thể chế kinh tế và chính trị bao gồm có xu hướng tạo ra một vòng thiện, một quá trình phản hồi dương, làm cho có khả năng hơn rằng các thể chế này sẽ tồn tại dai dẳng và thậm chí mở rộng. Vòng thiện hoạt động thông qua nhiều cơ chế. Đầu tiên, logic của các thể chế chính trị đa nguyên làm cho việc chiếm đoạt quyền lực bởi một kẻ độc tài, một phe phái bên trong chính phủ, hay thậm chí một Tổng thống có thiện chí là khó hơn nhiều, như Franklin Roosevelt đã phát hiện ra khi ông thử loại bỏ những sự kiểm soát lên quyền lực của ông được áp đặt bởi Tòa án Tối cao, và như Sir Robert Walpole đã phát hiện ra khi ông thử thực hiện một cách qua loa Đạo luật Đen. Trong cả hai trường hợp, sự tập trung thêm quyền lực vào tay một cá nhân hay một nhóm hẹp sẽ bắt đầu làm xói mòn các nền tảng của các thể chế chính trị
  • 371. VÒNG THIỆN ● 333 đa nguyên, và biện pháp thật của chủ nghĩa đa nguyên chính xác là khả năng của nó để cưỡng lại các mưu toan như vậy. Chủ nghĩa đa nguyên cũng là nơi lưu giữ linh thiêng quan niệm về pháp trị, nguyên lý rằng các luật phải được áp dụng ngang bằng cho tất cả mọi người – cái gì đó là không thể một cách tự nhiên dưới một nền quân chủ chuyên chế. Nhưng pháp trị, đến lượt, lại ngụ ý rằng các luật không thể đơn giản được sử dụng bởi một nhóm để xâm phạm các quyền của người khác. Còn nhiều hơn, nguyên lý của pháp trị mở cánh cửa cho sự tham gia lớn hơn trong quá trình chính trị và tính bao gồm lớn hơn, khi nó đưa vào một cách mạnh mẽ ý tưởng rằng nhân dân phải bình đẳng không chỉ trước luật mà cả trong hệ thống chính trị. Đấy là một trong những nguyên lý mà đã làm cho rất khó đối với hệ thống chính trị Anh để cưỡng lại những lời kêu gọi mạnh mẽ cho dân chủ lớn hơn suốt thế kỷ thứ mười chín, mở đường cho sự mở rộng từ từ của quyền bầu cử cho tất cả những người trưởng thành. Thứ hai, như chúng ta đã thấy nhiều lần trước đây, các thể chế chính trị bao gồm ủng hộ và được ủng hộ bởi các thể chế kinh tế bao gồm. Điều này tạo ra một cơ chế khác của vòng thiện. Các thể chế kinh tế bao gồm loại bỏ các mối quan hệ kinh tế khai thác quá xá nhất, như tình trạng nô lệ và chế độ nông nô, làm giảm tầm quan trọng của các độc quyền, và tạo ra một nền kinh tế năng động, mà tất cả chúng làm giảm các lợi ích kinh tế mà một người có thể đạt được, chí ít trong ngắn hạn, bằng chiếm đoạt quyền lực chính trị. Bởi vì các thể chế kinh tế đã trở nên đủ bao gồm ở Anh vào thế kỷ thứ mười tám, elite đã có ít để đạt được bằng bám lấy quyền lực và, thực ra, đã có nhiều để mất bằng sử dụng sự đàn áp rộng rãi chống lại những người đòi hỏi dân chủ lớn hơn. Khía cạnh này của vòng thiện làm cho sự tiến triển từ từ của dân chủ ở nước Anh thế kỷ thứ mười chín đã cả ít đe dọa giới elite và có khả năng hơn để thành công. Điều này tương phản với tình hình ở các chế độ chuyên chế như các đế chế Áo-Hungary hay Nga, nơi các thể chế kinh tế đã vẫn hết sức khai thác và, vì thế, nơi muộn hơn những lời kêu gọi cho sự bao gồm chính trị lớn hơn trong thế kỷ thứ mười chín đã đối mặt với sự đàn áp bởi vì giới elite đã có quá nhiều để mất vì sự chia sẻ quyền lực. Cuối cùng, các thể chế chính trị bao gồm cho phép một nền báo chí tự do đơm hoa kết trái, và một nền báo chí tự do thường cung cấp thông tin về và động viên sự phản đối các mối đe dọa chống lại các thể chế bao gồm, như nó đã làm trong phần tư cuối của thế kỷ thứ mười chín và phần tư đầu của thế kỷ thứ hai mươi, khi
  • 372. 334 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI sự thống trị kinh tế ngày càng gia tăng của các Trùm Kẻ Cướp đã đe dọa bản chất của các thể chế kinh tế bao gồm ở Hoa Kỳ. Mặc dù kết quả của các xung đột luôn luôn-hiện diện tiếp tục là tùy thuộc ngẫu nhiên, thông qua các cơ chế này vòng thiện tạo ra một xu hướng hùng mạnh cho các thể chế bao gồm để tồn tại lâu dài, để cưỡng lại các thách thức, và để mở rộng như chúng đã làm ở cả Anh và Hoa Kỳ. Đáng tiếc, như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, các thể chế khai thác tạo ra các lực mạnh ngang thế theo hướng sự tồn tại dai dẳng của chúng – quá trình của vòng luẩn quẩn.
  • 373. 12. VÒNG LUẨN QUẨN KHÔNG THỂ ĐI XE LỬA ĐẾN BO NỮA OÀN BỘ QUỐC GIA tây Phi Sierra Leone đã trở thành thuộc địa Anh trong năm 1896. Thành phố thủ đô, Freetown, được thành lập vào cuối thế kỷ thứ mười tám ban đầu như một quê hương cho các nô lệ được hồi hương và được giải phóng. Nhưng khi Freetown trở thành một thuộc địa Anh, nội địa Sierra Leone đã vẫn gồm nhiều vương quốc nhỏ Phi châu. Từ từ, trong nửa sau của thế kỷ thứ mười chín, những người Anh đã mở rộng sự cai trị của họ vào nội địa thông qua một chuỗi dài các hiệp ước với các nhà cai trị Phi châu. Ngày 31 tháng Tám, 1896, chính phủ Anh đã tuyên bố thuộc địa là một chế độ bảo hộ dựa trên cơ sở của các hiệp ước này. Những người Anh đã nhận diện các nhà cai trị quan trọng và đã trao cho họ một tước hiệu mới, thủ lĩnh tối cao. Ở miền đông Sierra Leone, chẳng hạn, trong quận khai mỏ kim cương hiện đại, quận Kono, họ đã bắt gặp Suluku, một nhà vua chiến binh hùng mạnh. Vua Suluku đã được biến thành Thủ lĩnh Tối cao Suluku, và chức thủ lĩnh của Sandor đã được tạo ra như một đơn vị hành chính trong chế độ bảo hộ. Mặc dù các vua như Suluku đã ký các hiệp định với một người cầm quyền hành chính, họ đã không hiểu rằng các hiệp định này sẽ được diễn giải như sự được phép toàn quyền hành động để dựng lên một thuộc địa. Khi những người Anh đã thử thu thuế lều – một khoản thuế năm shilling phải được thu từ mỗi nhà – trong tháng Giêng 1898, các thủ lĩnh đã đứng lên trong một cuộc nội chiến mà được biết đến như Nổi loạn Thuế Lều (Hut Tax Rebellion). Nó đã bắt đầu ở miền bắc, nhưng đã mạnh nhất và kéo dài hơn ở miền nam, đặc biệt ở Mendeland, bị T
  • 374. 336 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI chi phối bởi nhóm sắc tộc Mende. Nổi loạn Thuế Lều đã mau chóng thất bại, nhưng nó đã cảnh cáo những người Anh về các thách thức của việc kiểm soát nội địa Sierra Leone. Những người Anh đã bắt đầu xây dựng một đường sắt từ Freetown vào nội địa. Công việc đã bắt đầu trong tháng Ba 1896, và tuyến đường sắt đã đến Songo Town tháng Mười Hai 1898, giữa cuộc Nổi loạn Thuế Lều. Các báo quốc hội Anh từ 1904 đã ghi rằng: Trong trường hợp Đường sắt Sierra Leone cuộc Khởi nghĩa Bản địa nổ ra trong tháng Giêng 1898 đã có tác động làm ngừng hoàn toàn công việc và làm tan rã nhân viên trong thời gian nào đó. Những người nổi loạn đã bất ngờ tấn công đường sắt, với kết quả là toàn bộ nhân viên đã phải rút về Freetown … Rotifunk, bây giờ ở đường sắt cách Freetown 55 dặm, vào lúc đó đã hoàn toàn trong tay những người nổi loạn. Thực ra, Rotifunk đã không ở trên tuyến đường sắt được dự tính trong năm 1894. Con đường đã bị thay đổi sau khi bắt đầu vụ bạo loạn, cho nên thay vì đi theo hướng đông bắc, nó đã đi xuống phía nam, qua Rotifunk và đến Bo, vào đất Mende (Mendeland). Những người Anh đã muốn tiếp cận nhanh đến Mendeland, trung tâm của cuộc nổi loạn, và đến các phần khác có tiềm năng gây hỗn loạn ở nội địa nếu các cuộc nổi loạn khác bùng nổ. Khi Sierra Leone trở nên độc lập năm 1961, những người Anh đã trao quyền lực cho Sir Milton Margai và Đảng Nhân dân Sierra Leone (Sierra Leone People’s Party – SLPP), mà đã thu hút sự ủng hộ chủ yếu ở miền nam, đặc biệt Mendeland, và ở miền đông. Tiếp theo Sir Milton đã là em ông, Sir Albert Margai, với tư cách thủ tướng năm 1964. Năm 1967 SLPP đã thua sít sao một cuộc bầu cử tranh giành nóng bỏng trước phe đối lập, Đảng Hội nghi Toàn dân (All People’s Congress Party – APC), do Siaka Stevens lãnh đạo. Stevens đã là một người Limba, từ miền bắc, và APC đã có hầu hết sự ủng hộ của họ từ các nhóm sắc tộc miền bắc, những người Limba, Temne, và Loko. Mặc dù đường sắt xuống phía nam ban đầu đã được thiết kế bởi những người Anh để cai trị Sierra Leone, vào năm 1967 vai trò của nó đã là kinh tế, chuyên chở hầu hết hàng xuất khẩu của đất nước: cà phê, cocoa, và kim cương. Các nông dân trồng cà phê và cocoa đã là những người Mende, và đường sắt đã là cửa sổ
  • 375. VÒNG LUẨN QUẨN ● 337 của Mendeland ra thế giới. Mendeland đã hết sức bầu cho Albert Margai trong bầu cử năm 1967. Stevens đã quan tâm nhiều đến việc bám chắc lấy quyền lực hơn là thúc đẩy xuất khẩu của Mendeland. Lập luận của ông đã đơn giản: bất cứ thứ gì tốt cho người Mende là tốt cho SLPP, và xấu cho Stevens. Cho nên ông đã ngừng tuyến đường sắt đến Mendeland. Rồi ông đã đi trước và đã bán tống bán tháo đường ray và nguyên liệu lưu chuyển để làm cho sự thay đổi càng không thể đảo ngược được càng tốt. Bây giờ, khi bạn lái xe ra khỏi Freetown sang phía đông, bạn đi qua các ga đường sắt đổ nát Hastings và Waterloo. Không còn tàu hỏa đi đến Bo nữa. Tất nhiên, hành động quyết liệt của Stevens đã gây thiệt hại một cách tai họa cho một số khu vực sôi động của nền kinh tế Sierra Leone. Nhưng giống nhiều lãnh đạo Phi châu sau độc lập, khi sự lựa chọn đã là giữa củng cố quyền lực và khuyến khích sự tăng trưởng kinh tế, Stevens chọn củng cố quyền lực của mình, và ông đã chẳng bao giờ nhìn lại. Ngày nay không thể đi tàu hỏa đến Bo nữa, bởi vì giống Sa hoàng Nicholas I, người đã sợ rằng đường sắt sẽ mang cách mạng đến Nga, Stevens đã tin đường sắt sẽ tăng cường các đối thủ của ông. Giống rất nhiều nhà cai trị khác khi kiểm soát các thể chế khai thác, ông đã sợ các thách thức đối với quyền lực chính trị của mình và đã sẵn sàng hy sinh sự tăng trưởng kinh tế để phá các thách thức đó. Chiến lược của Stevens thoạt nhìn tương phản với chiến lược của người Anh. Nhưng thực ra, có một mức độ liên tục đáng kể giữa sự cai trị Anh và chế độ của Stevens mà minh họa logic của các vòng luẩn quẩn. Stevens đã cai trị Sierra Leone bằng cách khai thác các nguồn lực từ người dân của nó sử dụng các phương pháp tương tự. Ông đã vẫn còn nắm quyền lực trong năm 1985 không bởi vì ông đã được nhân dân ưa thích bầu lại, mà bởi vì sau 1967 ông đã dựng lên một chế độ độc tài hung bạo, giết và quấy rối các đối thủ chính trị của ông, đặc biệt các thành viên của SLPP. Ông đã biến mình thành tổng thống trong năm 1971, và sau 1978, Sierra Leone đã chỉ có một đảng chính trị, APC của Stevens. Stevens như thế đã củng cố quyền lực của mình một cách thành công, cho dù với cái giá làm bần cùng phần lớn nội địa. Trong thời kỳ thuộc địa, người Anh đã sử dụng một hệ thống cai trị gián tiếp để quản lý Sierra Leone, như họ đã làm với hầu hết các thuộc địa Phi châu của họ. Tại cơ sở của hệ thống này đã là các thủ lĩnh tối cao, họ thu thuế, thực thi công lý, và giữ trật tự. Người Anh đối phó với các nông dân trồng cocoa và cà phê không
  • 376. 338 ● VÌ SAO CÁC QUỐC GIA THẤT BẠI phải bằng cách cô lập họ, mà bằng cách buộc họ phải bán tất cả sản phẩm của họ cho một hội đồng marketing được phát triển bởi sở thuộc địa được cho là để giúp đỡ các nông dân. Giá cả của các mặt hàng nông nghiệp đã lên xuống dữ dội theo thời gian. Giá cocoa có thể cao một năm và thấp trong năm tiếp theo. Thu nhập của các nông dân đã lên xuống theo. Lý lẽ biện minh cho hội đồng marketing đã là, họ, chứ không phải các nông dân, sẽ hấp thu những dao động giá. Khi giá thế giới cao, hội đồng trả các nông dân ở Sierra Leone ít hơn giá thế giới, nhưng khi giá thế giới thấp, họ sẽ làm điều ngược lại. Đã có vẻ là một ý tưởng tốt về nguyên lý. Tuy vậy, thực tế đã rất khác. Hội đồng Marketing Sản phẩm Sierra Leone đã được thành lập năm 1949. Tất nhiên hội đồng đã cần một nguồn thu nhập để hoạt động. Cách tự nhiên để đạt những điều này là trả cho các nông dân ít hơn mức họ phải được nhận một chút cả trong năm thuận lợi lẫn trong năm bất lợi. Số tiền này khi đó có thể được dùng cho các khoản chi tiêu chung và hành chính. Chẳng bao lâu ít hơn một chút trở thành ít hơn nhiều. Nhà nước thuộc địa đã sử dụng hội đồng marketing như một cách để đánh thuế các nông dân một cách nặng nề. Nhiều người đã kỳ vọng các tập quán tồi nhất của sự cai trị thuộc địa ở châu Phi hạ-Sahara ngừng lại sau độc lập, và việc sử dụng các hội đồng marketing để đánh thuế quá đáng các nông dân sẽ chấm dứt. Nhưng chẳng việc nào đã xảy ra. Trên thực tế, sự tước đoạt các nông dân bằng cách sử dụng các hội đồng marketing đã trở nên tồi hơn nhiều. Vào giữa các năm 1960, các nông dân trồng cọ lấy nhân đã nhận được 56 phần trăm giá thế giới từ hội đồng marketing; nông dân cocoa, 48 phần trăm; và nông dân cà phê, 49 phần trăm. Vào thời gian Stevens rời chức vụ trong năm 1985, việc từ chức để cho phép ông chọn người kế vị của m