GIÁO TRÌNH
OƯỐC TẾ
Thư viện-ĐH Quy Nhơn '< = ^ ■ S tm
lllllll llllllllllllllll III 1
1
11 llilllllill _____Ậ»
(Quyển 2)
ì NHÀ XUẤT BẢN HỔNG Đức - HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM
Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỔ CHÍ MINH
GIÁO TRÌNH &TẬP BÀI GIẢNG
Dùng cho chương trình đào tạo cử nhân đại học luật
Đã phát hành
Giáo trình
01. Bẩu cử trong nhà nước pháp quyển (Dùng cho cả sau ĐH)
02. Công pháp quốc tế - Quyển 1
03. Công pháp quốc tế - Quyển 2
04. Kỹ năng nghiên cứu và lập luận
05. kỹ thuật soạn thảo văn bản
06. Những quy định chung vé luật dân sự
07. Luật Hình sự Việt Nam - Phẩn chung
08. Luật Hình sự Việt Nam - Phẩn các tội phạm - Quyển 1
09. Luật Hình sựViệt Nam - Phẩn các tội phạm - Quyển 2
10. Luật Hôn nhân &gia đình Việt Nam
11. Luật Đất đai
12. Luật Lao động
13. Luật Thuế
14. Luật Ngân hàng
15. Luật Sở hữu trí tuệ
16. Luật Tố tụng dân sự Việt Nam
17. Luật Tố tụng hành chính Việt Nam
18. Luật Tố tụng hình sự Việt Nam
19. Luật Hành chính Việt Nam
20. Luật Hiến pháp Việt Nam
21. Luật Thương mại quốc tế - Phẩn I
22. Luật Thương mại quốc tế - Phần II
23. Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới
24. Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam
25. Pháp luật đại cương
26. Pháp luật vé hợp đổng và bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đổng
27. Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản
và quyền thừa kế
28. Pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ
29. Pháp luật vể cạnh tranh và giải quyết tranh
chấp thương mại
30. Pháp luật vé chủ thể kinh doanh
31. Tâm lý học đại cương
32. Tội phạm học
33. Tư pháp quốc tế
34. Xã hội học đại cương
Tập bài giảng
01. Đại cương văn hóa Việt Nam
02. Giám định pháp y
03. Logic học
04. Lý luận về nhà nước
05. Lý luận về pháp luật
06. Lịch sử văn minh thế giới
07. Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam
08. Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới
09. Pháp luật về công chứng luật sư
10. Pháp luật thanh tra, khiếu nại và tố cáo
11. Tin học đại cương MOS - WORD
sắp phát hành:
- GT Luật Mói trường
Mọi clv t/ét xin Hên /lẽ. Trung tâm học liệu, Trường Đại học Luật TP.HCM
Táng tròt Khu c, sò 02, Nguyên Tiít Thành, P.12, Q.4,Tp. Hó Chí Minh Điện thoại: 028. 39400989 (149-150)
http://nhasach.hcmulci'.v.edu.vn
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
GIÁO TRÌNH
CÔNG PHÁP QƯÓC TẾ
(Quyển 2)
TRƯềNG DẠI HỌC OUY NHƠN
______ THƯ VIỆN
VNổr éiSĩA . 3
i a
NHẢ XI'ÁT BÂN HÒNG o ủ c
HỘI LliẠT GIA VIẸT NAM
Chủ biên
TS Trần Thị Thùy Dương
TS Trần Thăng Long
Biên soạn
Chương I
TS Tràn Thị Thùy Dương - TS Trần Thăng Long
Chương II
TS Ngô Hữu Phước
Chương III
TS Trần Thăng Long
Chương IV
TS Ngô Hữu Phước
Chương V
TS Ngô Hữu Phước
Chương VI
TS Trần Thăng Long - CN Hà Thị Hạnh
Chương VII
ThS Nguyễn Thị Vân Huyền - ThS Lê Đức Phương
Chương VIII
TS Trần Thăng Long
* :~ ~ Chương IX
TS Trần Thăng Long - ThS Nguyễn Ngọc Lâm
Chương X
TS Nguyễn Thị Phương Hoa
Chương XI
TS Trần Thăng Long
Chương XII
TS Trần Việt Dũng - TS Trần Phú Vinh - ThS Lê Tấn Phát
Chương XIII
ThS Nguyễn Thị Yên
Chưong XIV
TS Trần Thăng Long - ThS Nguyễn Thị Yên
LỜI NÓI ĐẦU
Nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo và cải tiến
phưorng pháp giảng dạy đổi với chương trình đào tạo cử nhân
Luật tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Nhà trường tổ
chức biên soạn Giáo trình Công pháp quốc tế.
Nội dung của Giáo trình Công pháp quốc tế bao gồm: lý
luận chung về luật quốc tế, nguồn của luật quốc tế, chủ thể cúa
luật quốc tế, lãnh thổ và biên giới quốc gia, luật biển quốc tế, dân
cư trong luật quốc tế, luật ngoại giao và lãnh sự (Quyển 1), luật
về các tổ chức quốc tế liên chính phủ, luật quốc tế về quyền con
người, luật hình sự quốc tế, luật môi trường quốc tế, luật kinh tế
quốc tế, giải quyết tranh chấp trong luật quốc tế, trách nhiệm
pháp lý quốc tế (Quyển 2).
Giáo trình Công pháp quốc tế chắc chắn sẽ còn khiếm
khuyết; mong bạn đọc góp ý để lần xuất bản tới, giáo trình được
hoàn thiện hơn.
Thư từ, ý kiến đóng góp xin được gửi tới: Phòng Đào tạo,
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, số 2, Nguyễn Tất
Thành, Quận 4, TP Hồ Chí Minh; Điện thoại: 08.39400.723 -
08.37266.333.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
MỤC LỤC
(Quyển 2)
CHƯƠNG VIII: LUẬT VỀ CÁC TÔ CHỨC QUỐC TẾ LIÊN
CHÍNH PHỦ..................................................................................... 16
I. Khái niệm tổ chức quốc tế liên chính phủ và luật các tổ chức
quốc tế...............................................................................................16
1.1. Khái niệm tổ chức quốc tế liên chính phủ................................17
1.2. Phân loại tổ chức quốc tế liên chính phủ..............,...................23
1.3. Lịch sử phát triển của các tổ chức quốc tế liên chính phủ.....25
1.4. Luật các tổ chức quốc tế liên chính phủ................................... 27
1.5. Nguồn luật về các tổ chức quốc tế liên chính phủ....................30
II. Quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế liên chính phủ.......31
2.1. Cơ sờ lý luận.............................................................................. 31
2.2. Nội dung quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế
liên chính phủ....................................................................................35
2.3. Thành viên của tổ chức quốc tế liên chính phủ.........................38
2.4. Đại diện quốc gia tại tổ chức quốc tế liên chính phủ................50
2.5. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của thành viên tổ chức quốc tế
liên chính phủ....................................................................................50
III. Quyền ưu đãi và miễn ừừ đổi với tổ chức quốc tế
liên chính phủ...................................................................................52
IV. Cơ cấu tổ chức cùa tổ chức quốc tế liên chính phủ.............57
V. Việc chấm dút tồn tại và sự kế thừa đối với tổ chức quốc tế
liên chính phủ.................................................................................. 60
5.1. Tổ chức quốc tế liên chính phủ chấm dứt tồn tại...................60
5
5.2. Vấn đề kế thừa đối với các tổ chức quốc tế liên chính phủ..62
VI. Trách nhiệm pháp lý quốc tế liên quan đến tổ chức quốc tế
liên chính phủ...................................................................................63
6.1. Trách nhiệm pháp lý đối vói tổ chức quốc tế liên chính phủ ....64
6.2. Trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế.....................66
CHƯƠNG IX: LUẬT QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI.....71
I. Khái niệm quyền con người và luật quốc tế về quyền
con người......................................................................................... 71
1.1. Khái niệm quyền con người....................................................... 71
1.2. Quyên con người trong tương quan so sánh với quyên
công dân....................................... 79
1.3. Khái niệm luật quốc tế về quyền con người............................. 81
II. Đối tượng, phương pháp điều chỉnh và nguồn của luật quốc tế
về quyền con người......................................................................... 83
2.1. Đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế về quyền con người.....83
2.2. Phương pháp điều chinh của luật quốc tế về quyền con
người................................................................................................. 85
2.3. Nguồn của luật quốc tế về quyền con người.............................86
III. Mối quan hệ giữa luật quốc tế về quyền con người và luật
nhân đạo quốc tế ...... .......................................................................95
IV. Các quyền con người cơ bản theo luật quốc tế................... 100
4.1. Quyền con người ưong lĩnh vực dân sự, chính trị................... 100
4.2. Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa..................................... 111
4.3. Quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương trong luật
quốc tế.............................................................................................. 124
6
V. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người..................... 138
5.1. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của LHQ.......... 139
5.2. Cơ chế khu vực về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người........149
5.3. Cơ chế quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người....... 152
CHƯƠNG X: LUẬT HÌNH s ự QUỐC TẾ................................158
I. Khái niệm luật hình sự quốc tế............................................... 158
1.1. Định nghĩa................................................................................158
1.2. Đối tượng điều chỉnh và cấu trúc của LHSQT................... !.. 162
1.3. Các nguyên tắc của LHSQT....................................................164
1.4. Nguồn của LHSQT..................................................................170
1.5. Mối quan hệ giữa luật hình sự quốc tế và luật hình sự
quốc gia..........................................................................................175
1.6. Mối quan hệ giữa LHSQT và các nhánh khác của luật ’
quốc tế..............................................................................................179
II. Tội phạm theo quy định của LHSQT...................................180
2.1. Khái niệm tội phạm quốc té..................................................... 181
2.2. Khái niệm tội phạm có tính chất quốc tế ............................... 183
2.3. Phân biệt tội phạm quốc tế với tội phạm có tính chất
quốc tế.......................................................................................... 186
III. Trách nhiệm hình sự quốc tế của cá nhân đối với tội phạm
quốc tế.............................................................................................187
3.1. Sơ lược về lịch sử phát triển của chế định trách nhiệm hình sự
quôc tể của cá nhân đối với tội phạm quôc tê.................................187
3.2. Các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự đôi với tội phạm
quốc tế.............................................................................................. 190
7
IV. Thẩm quyền xét xử tội phạm theo LHSQT......................192
4.1. Thẩm quyền xét xử tội phạm quốc tế..................................... 193
4.2. Thẩm quyền xét xử tội phạm có tính chất quốc tế .................194
CHƯƠNG XI: LUẬT MÔI TRƯỜNG QUỐC T Ế .....................200
I. Khái quát về luật môi trường quốc tế .....................................200
1.1. Khái niệm luật môi trường quốc tế.........................................200
1.2. Sự hình thành và phát triển của luật môi trường quốc tế.......203
1.3. Chủ thể của luật môi trường quốc tế ...................................... 212
1.4. Nguồn của luật môi trường quốc tể........................................214
1.5. Một sô nguyên tắc cơ bản của luật môi trường quốc tế.........219
II. Một sô lĩnh vực điều chỉnh cờ bản của luật môi trường
quốc tế...................................................................... 238
2.1. Bảo vệ môi trường biển............................................................238
2.2. Bảo vệ khí quyển......................................................................249
2.3. Bảo vệ đa dạng sinh học..........................................................255
2.4. Kiêm soát quốc tế đối với các chất và chất thải độc hại........265
CHƯƠNG XII: LUẬT KINH TẾ QUỐC TÉ.............................. 278
I. Khái quát về luật kinh tế quốc tế ............................................ 278
1.1. Khái niệm và lịch sử phát triển của luật kinh tế quốc tế........279
1.2. Nguồn của luật kinh tế quốc tế ...............................................282
1.3. Phạm vi điều chinh của luật kinh tế quốc tế .......................... 283
1.4. Các nguyên tắc của luật kinh tế quốc tế.................................295
II. Một số chủ thể chủ yếu của luật kinh tế quốc tế ............... 297
2.1. Các tổ chức kinh tế toàn cầu.......................................... 298
2.2. Các tổ chức kinh tế khu vực......................................................321
8
CHƯƠNG XIII: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG LUẬT
QUỐC T Ế ........................................................................................ 341
I. Khái niệm ....................................................................................341
1.1. Định nghĩa và đặc điểm của tranh chấp quốc tế.....................341
1.2. Phân loại tranh chấp quốc tế.....................................................343
1.3. Thẳm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế............................ 344
1.4. Cơ sờ pháp lý của giải quyết tranh chấp quốc tế....................346
1.5. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp quốc tế......................348
1.6. Các đảm bảo ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp theo luật
quốc tế ........................................................................................... 349
II. Khái quát về các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp
quốc tế............................................................................................ 352
2.1. Khái niệm và phân loại các biện pháp hòa bình.................... 352
2.2. Các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế...........353
2.3. Giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài quốc tế...................362
2.4. Giải quyết tranh chấp quốc tế tại các tổ chức quốc tế.............366
III. Một số cơ chế giảỉ quyết tranh chấp quốc tế ......................368
3.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp tại Liên họp quốc......................369
3.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN..............................385
3.3. Cơ chế giải quyết tranh chấp theo Công ước 1982 về
luật biển........................................................................................ 409
CHƯƠNG XIV: TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ QUỐC TẾ..........420
ỉ. Khái niệm trách nhiệm pháp lý quốc tế..................................421
1.1. Định nghĩa và đặc điểm của nách nhiệm pháp lý quốc tế 421
1.2. Ý nghĩa của chế định '‘trách nhiệm pháp lý quốc tế”.............423
9
1.3. Bản chất pháp lý của trách nhiệm pháp lý quốc tế................ 425
1.4. Nguồn của chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế ................. 425
1.5. Chủ thể của quan hệ ữách nhiệm pháp lý quốc tế................ 429
1.6. Các hành vi làm phát sinh quan hệ trách nhiệm pháp lý
quốc tế............................................................................................432
II. Trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia do hành vi trái
pháp luật quốc tê (trách nhiệm pháp lý chủ quan)................... 437
2.1. Vấn đề quy trách nhiệm pháp lý đối với quốc gia..................438
2.2. Căn cứ xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế........................ 446
2.3. Xác định quốc gia bị thiệt hại.................................................456
2.4. Thực hiện trách nhiệm pháp ly quốc tế....................................457
2.5. Trường hợp miễn trách nhiệm pháp lý quốc tế của
quốc g ia .........................................................................................470
III. Trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế ............ 480
3.1. Cơ sở xác định trách nhiệm của tổ chức quốc tế................... 481
3.2. Việc thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức
quốc tế..............................................................................................483
IV. Trách nhiệm vật chất đối với thiệt hại gây ra bởi hành
vi luật quôc tê không câm (trách nhiệm pháp lý khách quan).... 486
4.1. Sự hình thanh và nguôn luật của định chế trách nhiệm pháp lý
quốc tế khách quan................................................... 486
4.2. Căn cứ xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan....487
4.3. Các hình thức thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế
khách quan............................................................................ 489
10
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADB: Ngân hàng phát triển châu Á {Asia Development Bank)
ALADI: Hội liên kết Mỹ - Latinh {Latin American Intégration
Association)
APEC: Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương
(Asia Pacific Economie Coopération)
ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam A {Association o f
South East Asian Nations)
AU : Liên minh châu Phi {African Union)
CARICOM: Cộng đồng kinh tế Caribe {Caribean Communitỳ)
CAT: Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và đối
xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục khác {Convention against
Torture)
CEDAW: Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
chống lại phụ nữ {Committee on the Elimination o f
Discrimination against Women)
CEEAC: Cộng đồng kinh tế các nước Trung Phi {Communauté
Economique des Etats d ’
Afrique)
CHLB: Cộng hòa liên bang
CHND: Cộng hòa nhân dân
CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CITES: Công ước về Buôn bán quốc tế các loại động thực vật
hoang dã nguy cấp (Convention on International Trade in
Endangered Species ofW ild Faima 'and Flora)
CMEA: Hội đồng tương trợ kinh té {Council o f Mutual
Economie Assistance)
11
COPAL: Liên minh những nước sàn xuất ca cao {Alliance o f
Cocoa Producing Countries)
CRC: Công ước về quyền trẻ em {Convention on the Rights o f
the Child)
CSCE: Hội nghị về An ninh và Hợp tác ở châu Âu {Conference
on Security and Co-operation in Europe)
CSW: ủy ban về địa vị phụ nữ {Commission on the Status o f
Women)
ĐHĐ: Đại Hội đồng
ĐHĐ: Đại hội đồng
EAEC: Cộng đồng châu Âu về năng lượng nguyên từ {European
Atomic Energy Community)
ECOCAS: Cộng đồng Kinh tế Trung Phi {Economic Community
o f Central African States)
ECOSOC: Hội đồng kinh tế xã hội {Economic and Social
Council)
ECOWAS: Cộng đồng kinh tế các nước Tây Phi {Economic
Community o f West African States)
ECOWAS: Cộng đồng Kinh tế Tây Phi {Economic Community
o f West African States)
ECSC: Cộng đồng châu Âu về than và thép {European Coal and
Steel Community)
EEC: Cộng đồng kinh tế châu Âu {European Economic
Community)
EFTA: Khu vực thưorng mại tự do châu Âu {European Free
Trade Association)
EU: Liên minh châu Âu {European Union)
FAO: Tổ chức nông lưong {Food and Agriculture Organization)
12
GATT: Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (General
Agreement on Trade and Tariffs)
HĐBA: Hội đồng Bảo an
HĐKTXH: Hội đồng Kinh tế Xã hội
IAEA: Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Thế giới (International
Atomic Energy Agency)
ICC: Tòa án hình sự quốc tế (International Criminal Court)
ICCPR: Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị
(International Covenant on Civil and Political Rights)
ICERD: Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử về chủng tộc (International Convention on the Elimination o f
All Forms o fRacial Discrimination)
ICESCR: Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa
(International Covenant on Economic, Social and Cultural
Rights)
ICJ: Tòa án Công lý quốc tế (International Court o fJustice)
ICPPED: Công ước quốc tế về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị
đưa đi mất tích (International Convention for the Protection o f
All Personsfrom Enforced Disappearance)
ICRMW: Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của mọi người lao
động di trú và các thành viên của gia đình họ (Convention on the
Protection o f the Rights o fAll Migrant Workers and Members o f
Their Families)
ICRPD: Công ước về quyền của những người khuyêt tật
(Convention on the Rights o fPersons with Disabilities)
ICSID: Trung tâm Quốc tế về Giải quyết các tranh chấp về đầu
tư (International Centre for the Settlement o f Investment
Disputes)
13
ILO: Tổ chức lao động quốc tế {International Labor
Organization)
IMCO: Tổ chức Tư vấn hàng hải quốc tế {International Maritime
Consultative Organization)
IMF: Quỹ Tiền tệ Quốc tế {International Monetary Fund)
IMO: Tổ chức Hàng hải Quốc tế {International Maritime
Organization)
ITLOS: Tòa án Quốc tế về Luật biển {International Tribunalfor
the Law o f the Sea)
ITU: Liên minh điện tín thế giới {International Telegraph Union)
IUCN: Liên minh Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên {International
Unionfor the Conservation o fNature)
LHQ: Liên hợp quốc
MARPOL: Công ước về Ngăn chặn ô nhiễm biển từ tàu thuyền
{International Convention for the Prevention o f Pollution from
Ships)
MERCOSUR: Khối Thị trường chung Nam Mỹ {Mercado
Común del Sur)
NATO: Khối Quân sự Bắc Đại Tây Dương {North Atlantic
Treaty Organization)
Nxb: Nhà xuất bản
OAS: Tổ chức các nước châu Mỹ {Organizations o f American
States)
OAU: Tổ chức thống nhất Châu Phi {Organization o f African
Unity)
OECD: Tô chức hợp tác về kinh tế và phát triển {Organisation
for Economic Co-operation and Development)
14
OPEC: Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (Organization o f
Petroleum Exporting Countries)
PCA: Tòa Trọng tài Thường trực của Hội Quốc liên (Permanent
Court o fArbitration)
TACLQT: Tòa án công lý quốc tế
TAQT: Tòa án quốc tế
UDHR: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948
(Universal Declaration o fHuman Rights)
UIC: Liên hiệp vận tải đường sắt quốc tế {International Union o f
Raiways)
UNDP: Chuông trình phát triển của Liên hợp quốc {United
Nations ’Development Programme)
UNEP: Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (United
Nations ’Environment Programme)
UNESCO: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên
hợp quôc {United Nations’ Educational, Scientific and Cultural
Organization)
UNICEF: Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc {The United Nations’
Children’
s Fund)
UNIDO: Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên hợp quốc
{The United Nations ’Industrial Development Organization)
UPU: Liên minh bưu chính thế giới {Universal Postal Union)
WB: Ngân hàng Thế giới {WorldBank)
WHO: Tổ chức y tế thế giới {World Health Organization)
WTO: Tổ chức thương mại thế giới {World Trade Organization)
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
15
CHƯƠNG VIII
LUẬT VẺ CÁC TỎ CHỨC QƯÓC TẾ
LIÊN CHÍNH PHỦ
Các tổ chức quốc tế liên chính phủ đang chứng tỏ vai trò
ngày càng quan trọng của mình trong đời sống quốc tế. Tô chức
quốc tế phổ cập lớn nhất là LHQ có ảnh hưởng sâu sắc đên việc
giải quyết các các vấn đề chung của nhân loại, đặc biệt là hòa
bình và an ninh thê giới. Trong khi đó, Tô chức Thương mại thê
giới (World Trade Organization, WTO) đóng vai ữò quan trọng
trong việc phát triển hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thương mại.
Các tô chức quôc tê khu vực có ảnh hưởng mạnh mẽ đên tiên
trình hội nhập và xóa bỏ khoáng cách địa lý, kinh tế chính trị và
văn hóa xã hội giữa các quốc gia trong khu vực, với minh chứng
rõ rệt nhât là Liên minh châu Âu. Chính vì vậy, cần nghiên cửu
các tô chức quôc tế, khung pháp lý điều chỉnh tổ chức quốc tế và
hoạt động của những tổ chức này.
Chương này nghiên cứu những nội đung cơ bản của luật
các tô chức quôc tê liên chính phủ (law on intergovernmental
organizations), bao gồm khái niệm tổ chức quốc tế liên chính
phủ và luật các tô chức quốc tế liên chính phủ; vấn đề quyền
năng chủ thê luật quôc tế; quyền ưu đãi và miễn trừ của tổ chức
quôc tê liên chính phủ trong quan hệ quốc tế; cơ cấu tổ chức,
việc châm dứt tôn tại và sự kế thừa đối với tổ chức quốc tê và
vân đê trách nhiệm pháp lý quốc tế đặt ra đối với chủ thể này.
I. KHÁI NIỆM TỎ CHỨC QUÓC TÉ LIÊN CHÍNH
PHỦ VÀ LUẬT CÁC TỎ CHỨC QUÓC TÉ
Tiên thân của tô chức quốc tế liên chính phủ là những hiệp
hội và liên kêt các quốc gia trong thời kỳ cổ đại và cận đại. Tố
chức quôc tê liên chính phủ bắt đầu phát triển mạnh mẽ trong
thời kỳ hiện đại và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
16
hệ thống luật quốc tế. Phần này sẽ đi vào nghiên cứu khái niệm
của tổ chức quốc tế liên chính phủ, những đặc điểm cơ bản và sự
phân loại các tổ chức quốc tế liên chính phủ; đồng thời giới thiệu
nhũng nội dung cơ bản của luật các tổ chức quốc tế liên chính
phủ, một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc tế.
1.1. Khái niệm tể chức quốc tế liên chính phủ
Trong vụ Bồi thường những thiệt hại do thực hiện các
công việc của LHQ {Reparations for Injuries in the Service o f
the United Nations), Tòa án Công lý quốc tế đã nhẩn mạnh:
“Trong suốt lịch sử của mình, sự phát triển của luật quốc tế chịu
sự chi phối bởi những yêu cầu của đời sống quốc tế, và sự phát
triển không ngừng trong các hoạt động tập thể của các quốc gia
đã cho thấy bằng chứng về hoạt động trên bình diện quốc tế của
những thực thể không phải là quốc gia”.1
Khi ra đời vào cuối thế kỷ XIX,2 các thực thể liên quốc gia
được gọi và những “tổ chức quốc tế” (international
organizations). Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, xuất hiện
thuật ngữ “tổ chức quốc tế liên chính phủ” {intergovernmental
organizations) hoặc “tổ chức quốc tế công” {public international
organizations). Trong khoa học luật quốc tế, nhìn chung không
có sự khác biệt về cách định nghĩa tô chức quôc tê liên chính
phủ, do đó các thuật ngữ tổ chức “liên chính phủ”, “liên quôc
gia”... có thể được sử dụng để chỉ về những thực thê ngoài quôc
gia này mà không làm ảnh hưởng đến bản chất của chúng.
Thuật ngữ “tổ chức quốc tế liên chính phủ” dược sử dụng
rộng rãi bởi ủy ban Pháp luật quốc tế và điều này có ảnh hường
đến một số điều ước quốc tế phổ cập như Công ước Vienna vê
luật điều ước quốc tế năm 1969, Công ước Vienna vê đại diện
1 International Court of Justice, Reparations for Injuries in the Service of the
United Nations (Advisory Opinion), ICJ Reo, 1949, 'I. ---- — -------—
-
2 Xem muc 1.4 của Clnrong này. TRƯỚNG OẠI HỌC QUY NHƠN
s J T u ir u ic u
=47
THƯ VIỀN
V
M
Ể
r «aỉi.ỉ
quốc gia trong quan hệ với các tô chức quôc tê phô cập năm
1975, Công ươc Vienna về luật điều ước quốc tế giữa quốc gia
với các tổ chức quốc tế và giữa các tô chức quôc tê V Ớ I nhau năm
1986. Trong các văn bản trên, tổ chức quốc tế được gọi là tô
chức quốc tế liên chính phủ.3 Cách sử dụng thuật ngữ này cũng
nhằm mục đích loại trừ những quy tắc có thể áp dụng cho những
tổ chức quốc tế phi chính phủ, vốn là tổ chức quốc tê do các cá
nhân hoặc tổ chức sáng lập và những chủ thể sáng lập đó không
có tư cách đại diện cho nhà nước.4 về cơ bản, tô chức quôc tê
liên chính phủ {intergovernmental organization) thường được
định nghĩa là “tổ chức được thành lập bởi thỏa thuận giữa hai
hoặc nhiều quốc gia”.5
Tổ chức quốc tế liên clỊÍnh phủ có thể được định nghĩa là
thực thể liên kết các quốc gia độc lập và các chù thê khác của
luật quốc tế, thành lập trên cơ sở điều ước quốc tê, có quyên
năng chủ thể luật quốc tế, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, phù hợp
nhằm duy trì sự hoạt động thường trực và nhằm đạt được những
mục đích, tôn chỉ của tổ chức.6
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra 5 đặc điểm của tổ chức
quốc tế liên chính phủ: các tổ chức này được thành lập bởi các
quôc gia (1.1.1), được thành lập và hoạt động trên cơ sở luật
3 Henry G Schemer and Neils M. Blokker, International Institutional Law,
Martinus Nijhoff Publishers, 4lhrevised ed, 2003, tr. 21.
4 Henry G Schermer and Neils M. Blokker, sđd, tr. 22.
5 G H Schemers, International Institutional Law, 3rded, 1995; D w Bowett,
The Law of International Institutions 4th ed, 1995; R. J Dupuy (ed.), A
Handbook on International Organisations, 1988; c Archer, International
Organisations, 2n
d ed, 1992; w J Feld, International Organisations: A
Comparative Approach, 3rd ed, 1994; Louis Jacques and J s Koman,
Introduction to International Organisations, 1996.
6 Khái niệm “tô chức quốc tế liên chính phủ” có thê tham khảo thêm tại một
sô giáo trình, tài liệu về công pháp quốc tế như Giáo trình Luật Quôc tê của
Đại học Luật Hà Nội năm 2007 tf. 245; Giáo trình Luật Quốc tế của Đại học
Huế năm 1997, tr. 148, ’ '
18
quốc tế (1.1.2), có trụ sở thường trực (1.1.3), có tư cách chủ thể
và quyền năng chủ thể theo luật quốc tế (1.1.4) và được thành lập
vì những mục đích nhất định (1.1.5).7
1.1.1. Tổ chức quốc tế liên chinh phủ được thành lập bởi
các quốc gia
Tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành lập chủ yếu bởi
các quốc gia độc lập có chủ quyền, những chủ thể đầu tiên, cơ
bản và chủ yếu của luật quốc tế nhằm mục đích giải quyết những
vân đề phát sinh giữa các quốc gia. Đặc điểm này giúp phân biệt
tô chức quốc tế liên chính phủ với các tổ chức phi chính phủ.
Hiện nay, với sự tham gia ngày càng sâu rộng của các chủ
thê ngoài quốc gia vào đời sống quốc tế, một tổ chức quốc tế liên
chính phủ có thể được thành lập không chỉ bởi các quốc gia. Tuy
nhiên, cần nhấn mạnh rằng, các tổ chức quốc tế liên chính phủ về
cơ bản là do các quốc gia thành lập. Việc một số tổ chức quốc tế
cho phép thành viên hoặc thành viên sáng lập là những thực thể
ngoài quốc gia là những trường hợp hết sức cá biệt nhằm thu hút
sự tham gia đông đảo hơn vào tổ chức hoặc để phù hợp với phạm
vi và mục đích hoạt động cùa tổ chức. Bản thân tổ chức quốc tế
liên chính phủ có thể tham gia thành lập và trở thành thành viên
của một tổ chức quốc tế liên chính phủ khác. Chẳng hạn, Liên
minh châu Âu (European Union, EU) là thành viên của Tổ chức
Thương mại thế giới {World Trade Organization, WTO) và là
thành viên của Quỹ Nông lương của LHQ {Food and Agriculture
Organization, FAO). Các chủ thể khác của luật quốc tế như các
dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết hoặc các vùng lãnh
thổ cũng có thể tham gia vào một tổ chức quốc tế liên chính phủ,
ví dụ: Hongkong, Macau, Đài Loan... là thành viên của WTO.
7 Xem thêm Henry G Schermers and Niels M Blokker, International
Institutional Law (Martinus Nijhoff Publishers, 4thed, 2003) tr. 32.
19
Tuy nhiên, không phải tất cả các thực thê được tạo ra bởi
các quốc gia đều được coi là các tổ chức quôc tê liên chính phủ.
Các quốc gia có thể cùng thành lập một tổ chức nhưng tô chức
này có quy chế hoạt động theo của một quốc gia xác định nào đó.
Thực thể này không được coi là một tổ chức quốc tế liên chính
phủ; thay vào đó, nó có thể được coi như một “liên doanh” giữa
các quốc gia thành lập. Ví dụ cho trường hợp này là Cơ quan
quản lý cảng hàng không Basle - Mulhouse Airport Authority,
được thành lập bởi Pháp và Thụy Sĩ và hoạt động trên cơ sở luật
của Pháp.
1.1.2. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành lập
và hoạt động trên cơ sở luật quốc tế
về cơ bản, tổ chức quếc tế liên chính phủ được thành lập
trên cơ sờ điều ước quốc tể. Điều ước quốc tế này là cơ sở pháp
lý cho sự ra đời và hoạt động của tổ chức quốc tế đó. Cụ thể,
điêu ước quốc tế xác định mục tiêu, phạm vi quyền hạn, khả
năng tham gia vào các quan hệ quốc tế và hoạt động của tổ chức
quôc tê. Điều này là cơ sở cho phép khẳng định tổ chức quốc tế
thành lập và hoạt động trên cơ sở luật quốc tế.8
Tuy nhiên, một số tổ chức quốc tế có thể được thành lập
không phải bởi một điều ước quốc tế mà bời hành vi pháp lý của
một tô chức quôc tê đang tồn tại. Chẳng hạn, Đại hội đồng LHQ
đã thành lập một số tổ chức quốc té khác bởi các nghị quyết
{Resolution) của mình như Tổ chức Phát triển công nghiệp của
LHQ {The United Nations Industrial Development Organization,
UNIDO) và Quỹ Nhi đồng LHQ {The United Nations Children ’
s
Fund, UNICEF). Một số tổ chức quốc té không nhất thiết phải
được thành lập trên cơ sờ điều ước như Hội đồng các nước Bắc
8 Jan Klabber, An Introduction to International Institutional Law, Cambridge,
2nd ed., 2009, trang 9.
20
Âu {Nordic Council) là một hình thức hợp tác giữa nghị viện các
nước Bắc Âu9 mà không phải là một tổ chức thành lập bời một
điêu ước giữa các quốc gia này.
1.1.3. Tổ chức quốc tế liên chính phủ có cơ quan thường
trực
Tổ chức quốc tế có cơ cấu tổ chức thường trực nhằm duy
trì hoạt động và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Cơ
cấu tổ chức của các tổ chức quốc tế khác nhau căn cứ vào nhu
câu, mục đích và ý chí của các quôc gia thành lập quyêt định.
Nhìn chung, cơ cấu này bao gồm các cơ quan chính và những cơ
quan bổ trợ khác. Ngoài ra, tổ chức quốc tế còn có trụ sở chính,
nơi diễn ra các hoạt động chủ yếu của tổ chức và tập trung các cơ
quan điều hành của tổ chức. Đặc điểm này giúp phân biệt giữa
một tổ chức quốc tế liên chính phủ và những hình thức hợp tác
quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế như hội nghị quốc tế và các
diễn đàn họp tác quốc tế.
1.1.4. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ có tư cách chủ
thể và quyền năng chủ thể theo luật quốc tế
Mặc dù chủ yếu được thành lập bởi các quôc gia, tô
chức quốc tế liên chính phủ cũng là chủ thể có khả năng tham
gia vào các quan hệ quốc tế như các quốc gia thành viên đã
thành lập ra tổ chức. Tư cách chủ thể luật quốc tê của tô chức
quôc tê độc lập với chính các quốc gia thành viên. Tô chức
quốc tế có các chức năng, quyền và nghĩa vụ riêng biệt của
chính nó, do vậy tổ chức quốc tế không phải là một sự tập hợp
thuần túy của các quốc gia.10 Đặc điểm này giúp phân biệt tô
chức quôc tê với các hình thức hợp tác khác của quôc gia như
các diễn đàn, hội nghị quốc tế.
9 Bao gồm Đan Mạch, Phần Lan, Iceland, Na Uv và Thụy Điển.
10 Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of
International Organisations, Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 390.
21
Điều này được minh chửng ở khả năng của tổ chức quôc tể
trong việc xây dựng pháp luật quôc té (điều ước quôc tê và tập
quán quốc tế), ấn định các quyên và nghĩa vụ cho các thành viên,
giải quyết tranh chấp quôc tê, thực thi trách nhiệm pháp lý quôc
tế và bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, tổ chức quốc tê có quyền
quyết định những vấn đê nội bộ của tổ chức mình.
Tuy nhiên, quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế liên
chính phủ có tính chất phái sinh, do đó tổ chức quốc tế còn có
thể được gọi là chủ thể hạn chế của luật quốc tế. Tính chât phái
sinh thể hiện ờ chỗ quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức
quốc tế không xuất phát từ “chủ quyền” như các quốc gia. Tổ
chức quốc tế không phải là một thực thể cỏ chủ quyền vì không
đáp ứng các tiêu chí cấu thành một quốc gia (dân cư, lãnh thổ,
chính quyền, sự thực thi quỳền lực nhà nước). Các tổ chức quốc
tế được hình thành bởi ý chí và nhằm đáp ứng nhu cầu của các
quốc gia, do đó quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế bị giới
hạn trong chừng mực mà các quốc gia thành lập tổ chức ừao cho
nó cũng như phải phù hợp với lĩnh vực hoạt động của tô chức.
Đặc diêm này giúp phân biệt giữa tổ chức quốc tế và một nhà
nước liên bang.
1.1.5. Các tô chức quôc tế liên chỉnh phủ được thành lâp
vì những mục đích nhất định
Các tô chức quốc tế liên chính phủ được thành lập để hoạt
độnẹ vì những mục đích nhất định do các quốc gia thành viên
quyet đinh. Mục đích nàỵ thường nhàm phục vụ cho lợi ích của
các quôc gia thành lập tổ chức. Các tổ chức quốc tế có những
mục đích hoạt động khá đa dạng, chẳng hạn tổ chức LHQ được
thành lập nhằm mục đích chủ yỉu là bảo vệ hòa bỉnh và an ninh
thê giới; tô chức ASEAN (Association o f South East Asian
Nations) được thành lập nhằm mục đích cơ bản là duy trì và thúc
dạy hòa bình, an ninh và ổn định và tăng eường hơn nữa các giá
tri hướng tới hòa bình trong khu vực. Đây là đặc điểm quan trọng
giup phân biệt tô chức quôc tế liên chính phủ với quốc gia, vốn
22
có mục đích đại diện toàn bộ quyền và lợi ích của quốc gia írên
mọi lĩnh vực. Đây cũng chính là một trong những lý do khiên tô
chức quốc tế liên chính phủ được coi là một chủ thể hạn chế của
luật quốc tế, bởi sự hạn chế về mục đích dẫn đến hạn chế vê chức
năng, thẩm quyền... Mục đích hoạt động của tổ chức quôc tê liên
chính phủ cũng là một yếu tố giới hạn quyền năng chù thê của tổ
chức quôc tê và giúp phân biệt giữa các tô chức quôc tê liên chính
phủ vói nhau.
1.2. Phân loại tổ chức quắc tế liên chính phủ
Tổ chức quốc tế có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí
khác nhau. Tuy nhiên sự phân loại này chỉ là tương đôi.
Căn cứ vào chức năng của tổ chức quốc tế liên chính phủ, có
thê phân loại các tổ chức này thành:
- Các tổ chức quốc tế về kinh tế, ví dụ Tổ chức Thương mại
thê giới (World Trade Organization, WTO), Quỹ Tiên tệ quôc tế
{International Monetary Fund, IMF), Ngân hàng Thế giới {World
Bank,WB)...
- Các tổ chức quốc tế về quân sự, ví dụ như Khôi Quân sự
Bắc Đại Tây Dương {North Atlantic Treaty Organization, NATO),
Khối Warsawa trước đây.1
1
- Các tổ chức quốc tế về hòa bình và an ninh, ví dụ: LHQ.
Căn cứ vào thành viên của tổ chức quốc tê liên chính phủ, có
thê phân loại các tô chức này thành:
- Các tổ chức CỊỊtổc tế toàn cầu là những tô chức quôc tê có
tính chất “mở” cho tât cả các quốc gia đều có thể tham gia. Ví dụ
tiêu biểu cho loại tổ chức này là LHQ, Tổ chức Y tế thê giới {World
Health Organization, WHO) hoặc WTO.
1
1 Khối Warsawa là một liên minh quân sự thành lập năm 1955 bởi Liên
Xô và các nước XHCN Đông Âu nhằm mục đích đối trọng với khôi quân
sự NATO do Mỹ cầm đầu trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Tên gọi của khôi
lấy theo tên của thủ đô Ba Lan Warsawa. Khối này châm dứt hoạt động
năm 1991.
23
- Các tồ chức quốc tế khu vực là những tổ chức mà theo nghĩa
truyền thống có thành viên ở một khu vực địa lý nhât định, ví dụ
như EU, To chức các nước châu Mỹ (Organizations of American
States, OAS) hay Hiệp hội các quốc gia Đông Nam A {Association
ofSoutheast Asian Nations, ASEAN).
- Các tổ chức quốc tế có thành viên hỗn hợp (tô chức quôc tế
liên khu vực) là những tổ chức quốc tế mà thành viên củạ nó không
bị giới hạn về khu vực. Tổ chức về hợp tác và phát triên kinh tê
{Organization for Economic Co-operation and Development,
OECD) có phần lớn thành viên là các nước Tây Au và một sô quôc
gia châu Á, châu Mỵ và châu Đại Dương. Tương tự NATO có
thành viên là các quốc gia từ Tây và Nam Au cùng với Mỹ và
Canada.
Dựa vào tính chất của tổ chức, có thể phân loại các tổ chức
quốc tế liên chính phủ thành:
- Các tô chức quốc tế mở là những tô chức quôc tê mang tính
toàn câu, điêu kiện tham gia tương đối rộng rãi, ví dụ: LHQ (điều
kiện tham gia: các quôc gia yêu chuộng hòa bình, châp nhận những
nghĩa vụ theo Hiến chương LHQ, được LHQ xét thấy có đủ khả
năng và tự nguyện thực hiện những nghĩa vụ đó...).
- Các tổ chức quốc tế đóng thường có sổ thành viên bị hạn
chê bời những điêu kiện khác nhau như vị trí địa lý (các tô chức
quốc tế khu vực như ASEAN, EU, Cộng đồng kinh tế Caribe
{Carỉbean Community, CARICOM), Hội liên kết Mỹ - Latinh
{Latin American Integration Association, ALADI), Cộng đồng kinh
tê các nước Tây Phi {Economic Community of West African States,
ECOWAS), Cộng đồng kinh tế các nước Trung Phi {Communauté
Economique des Etats d ’
Afrique, CEEAC...), lĩnh vực hoạt động
chuyên ngành (ví dụ như Tô chức các nước xuât khâu dâu mỏ
{Organization o fPetroleum Exporting Countries, OPEC, Liên minh
nhũng nước sản xuất ca cao {Alliance of Cocoa Producing
Countries, COPAL)...
Căn cứ lĩnh vực hoạt động, có thể phân.loại các tổ chức quốc
tê liên chính phủ thành:
24
- Các to chức quốc tế chung là tổ chức quốc tế có lĩnh vực
hoạt động rộng rãi như chính trị, kinh tể, xã hội...ví dụ: LHQ,
ASEAN, E li
- Các tổ chức quốc tế chuyên biệt là tổ chức quốc tế chỉ hoạt
động trong một lĩnh vực riêng biệt của đời sông quôc tê, ví dụ như
Tô chức Lao động quôc tê (International Labor Organization,
ILO), Tổ chức Nông lương của LHQ {Food and Agriculture
Organization o fthe UnitedNations, FAO)...
1.3. Lịch sử phát triển của các tổ chức quốc tế liên
chính phủ
Các tổ chức quốc tế do các quốc gia thành lập bắt dầu xuất
hiện và trở thành những chủ thể của luật quốc té kể từ thế kỷ
XIX, mặc dù những hình thức hợp tác sơ khai giữa các quốc gia
đã có từ trước đó, chẳng hạn như những hội đồng ra đời thời Hy
Lạp cổ đại, Hiệp hội HANSEATIC xuất hiện cuối thời kỳ Tning
cổ ở châu Âu.1
2Việc hình thành các quốc gia ổn định (chủ yếu là
ở châu Âu) từ thế kỷ XIX đã tạo điều kiện cho phép các quốc gia
tìm kiếm hình thức hợp tác chặt chẽ hơn giữa họ với nhau.1
3 Có
thể kể đến một số tổ chức quốc tế sơ khai ở thế kỷ XIX như ủy
hội sông Rhine thành lập năm 1815 và một số ủy hội tương tự ở
châu Âu nhằm quản lý các dòng sông quốc tế như Elbe (1821),
Douro (1835), Po (1849). Các tổ chức quốc tế đầu tiên có quy
mô toàn cầu được thành lập trong các lĩnh vực về bưu chính và
viên thông, tiêu biểu là Liên minh điện tín thế giới {International
Telegraph Union, ITU) (1865), Liên minh bưu chính thế giới
{Universal Postal Union, UPU) (1874) và Liên hiệp vận tải
đường sắt quốc tế {International Union o f Raiways, UIC) (1890).
Tiếp sau đó là các tổ chức quốc tế thành lập ở những lĩnh vực
khác như ủy ban quốc tế về sức khỏe cộng đồng {International
Office o f Public Health) ra đời năm 1903, Liên hiệp đo lường
12 Tham kháo Jan Klabber, An Introduction to International Institutional Law,
Cambridge, 2"ded, 2009, tr. 14.
1
3Clive Archer, International Organisations, London, 2n
ded, 1992, tr. 4-5.
25
quốc tế (the Metric Union) năm 1875, Liên hiệp quyên tác giả
quốc tế (International Copyright Union) năm 1886), Liên hiệp
đường quốc tế (International Sugar Union) và Viện Nghiên cứu
quốc tế về nông nghiệp (International Institute for Agriculture)
năm 1905. Thuật ngữ “tổ chức quốc tế” được đưa ra bởi thẩm
phán người Scotland vào James Lorimer ở thời kỳ này. Khái
niệm tổ chức quốc tế ở thời kỳ này được hiêu là những thực thê
được thành lập giữa các quốc gia đã cho thây sự khác biệt với
những tổ chức đương thời có phạm vi hoạt động ở tâm quôc tê
do cá nhân sáng lập (tổ chức phi chính phủ), tiêu biêu như Hội
chữ thập đỏ quốc tế (Red Cross) hay Viện Luật quồc tê (Institut
de Droit International). Sự ra đời của những tô chức quôc tê
cũng đánh dấu sự chuyển biến của luật quốc tế từ khái niệm “luật
về cùng tồn tại” (law o f co-'existence) sang “luật về cùng hợp
tác” (law o fco-operation)}4
Sự ra đời của Hội quốc liên (League o fNations) từ sau Hội
nghị Hòa bình Versailles năm 1919 đánh dấu sự phát triên mạnh
mẽ của các tổ chức quốc tế. Đây là tổ chức quốc tế đầu tiên có
vai trò là tổ chức họp tác và đối thoại giữa các quốc gia trên
nhiều lĩnh vực nhằm đảm bảo hòa bình và xây dựng hệ thống an
ninh tập thể. Cùng với Hội quốc liên, ILO cũng ra đời. Mặc dù
vậy, Hội quôc liên cũng cho thấy những hạn chê. Một trong
những hạn chê đó là sự thiếu đa dạng về thành phần tham gia của
các quốc gia và sự thất bại trong việc ngăn ngừa chiến tranh của
Hội quôc liên. Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc đã mở
đường cho việc tìm kiếm cơ chế họp tác hữu hiệu hơn giữa các
quốc gia, dẫn đến sự hình thành tổ chức LHQ vào năm 1945.
Cũng ở giai đoạn này, một sổ tổ chức và cơ chế hợp tác quốc tế
vê kinh tế trong hệ thống Bretton Woods cũng đã ra đời15. Ở
châu Au, cùng với tiên trình tái thiết và tăng cường họp tác, một*
2
Jan Klabber, An Introduction to International Institutional Law, Cambridge,
2n
ded, 2009, tr. 16.
Xem chương Luật kinh tế quốc tế.
26
số tổ chức quốc tế đã ra đời như Hội đồng chầu Âu {Council o f
Europe), Tổ chức về hợp tác kinh tế ở châu Ầu (tiền thân của Tổ
chức hợp tác về kinh tế và phát triển OECD); Cộng đồng châu
Âu về than và thép {European Coal and Steel Community,
ECSC), Cộng đồng kinh tế châu Âu {European Economic
Community, EEC) và Cộng đồng châu Âu về năng lượng nguyên
tử {European Atomic Energy Community, EAEC). Trong thời kỳ
chiến tranh lạnh, khu vực thương mại tự do châu Âu {European
Free Trade Association, EFTA) và Hội đồng tương trợ kinh tế
{Council o f Mutual Economic Assistance, CMEA) ra đời phản
ánh sự đối trọng giữa hai khối Tây và Đông Âu, bên cạnh đó, các
cơ chế họp tác về quân sự ra đời, như NATO và khối Warsaw. Ở
châu Mỹ, có sự hình thành của OAS, CARICOM và
MERCOSUR (Khối thị trường chung Nam Mỹ - Mercado
Común del Sur, MERCOSUR). Ở châu Phi, trong thời kỳ đấu
tranh giải phóng thuộc địa bắt đầu từ cuối 1950, ECOCAS (Cộng
đồng Kinh tế Trung Phi - Economic Community o f Central
African States) và ECOWAS (Cộng đồng Kỉnh tế Tây Phi -
Economic Community o f West African States), hiện nay là Liên
minh châu Phi AU. Ở châu Á, tiêu biểu là ASEAN và APEC
{Asia Pacific Economic Cooperation) đã ra đời.
1.4. Luật các tổ chức quốc tế liên chính phủ
Klìáỉ niệm “luật tổ chức quốc tế” được Winfred Jenks đê
cập lần đầu tiên vào năm 1962,16 theo đó “luật tổ chức quốc tê”
được hiểu là luật “riêng” của tổ chức quốc tế.17*Khi nói đến luật
tô chức quốc tế, cần đề cập những vấn đề sau:
- Tổ chức quốc tế là một thiết chế quốc tế, do đó luật điêu
chỉnh tổ chức quốc tế phải là luật quốc tế. Điều chỉnh tổ chức
16 Tiếng Anh là “the ''personal" ¡aw of the organisation". Xem Winfred
Jenks, The Proper Law ofInternational Law, 1962, tr. 4.
1
7 Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of
International Organisations, Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 13.
27
quốc tế bằng luật của quốc gia nơi tô chức quôc te đó có trụ sở
hay hệ thống luật nào khác có thể làm mât đi tư cách quôc tê của
tổ chức.
- Luật về sự tồn tại và hoạt động của tô chức (law
governing its corporate life) sẽ điều chỉnh các vân đê cơ bản
như: thành viên của tổ chức, năng lực chủ thê, cơ câu tô chức và
quan hệ giữa các cơ quan của tổ chức, thủ tục, quyên và nghĩa vụ
của tổ chức và thành viên của tổ chức trong quan hệ giữa họ vói
nhau, các vấn đề về tài chính, thủ tục sửa đổi hiên chương của tổ
chức, luật điều chỉnh việc giải thể hoặc chấm dứt hoạt động và
xử lý tài sản của tổ chức ừong trường hợp này.
- Ngoài ra, luật các tổ chức quốc tế điêu chỉnh quan hệ
giữa tổ chức, các cơ quan của tổ chức cũng như thành viên tổ
chức và các bên thứ ba.1
8
Khái niệm “luật tổ chức quốc tế” hiện đang được thừa
nhận rộng rãi bởi các học giả luật quốc tế. Ngoài ra luật tổ chức
quốc tế còn giải quyết các vấn đề liên quan đến khía cạnh chức
năng của tổ chức quốc tế. Chẳng hạn, đối với trường hợp của
LHQ đó là các vấn đề về cách thức mà LHQ thực hiện thẩm
quyền giải quyết tranh chấp theo chương VI của Hiến chương
hay thực thi các biện pháp gìn giữ hòa bình theo chương VII.1
9
Luật các tổ chức quốc tế có thể được hiểu là tổng thể các
nguyên tắc và qụy phạm của luật quốc tế điều chỉnh các vấn đề
liên quan đến tổ chức và hoạt động của các tổ chức quốc tế. Luật
các tổ chức quốc tế liên chính phủ về cơ bản đáp ứng đầy đủ các
tiêu chí của một ngành luật trong hệ thống công pháp quốc tế về
chủ thể, nguồn và phương pháp điều chỉnh.
19 Winfred Jenks, The Proper Law ofInternational Law, 1962, tr. 3.
Sands and Klein, Bowett’
s Law ofInternational Institutions, 2001, tr. 42-55.
Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of
International Organisations, Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 14.
28
Mặc dù, có thể coi luật các tổ chức quốc tế như một
“ngành luật” độc lập trong hệ thống quốc tế, nhưng hiện vẫn
chưa có sự thống nhất cao giữa các quy phạm điều chinh các vấn
đề về tổ chức và hoạt động của tổ chức quốc tế. Điều này được lý
giải ở chỗ: mặc dù về cơ bản các quy định này là tương tự tuy
nhiên ở mỗi tổ chức quốc tế khác nhau các quy định này lại có
thể có những sự khác biệt về chi tiết. Nói cách khác, luật các tổ
chức quốc tế có thể xem như một tập hợp các “luật” điều chinh
các tổ chức quốc tế khác nhau20.
Tuy nhiên, có thể khẳng định tính chất “chung” của luật
các tổ chức quốc tế, cho phép có thể áp dụng cho mọi tồ chức
quốc tế khác nhau. Thứ nhất, giữa các tổ chức quốc tế có ngày
càng nhiều các vấn đề chung liên quan đến tổ chức, chức năng và
hoạt động. Thứ hai, những vấn đề pháp lý liên quan đến tổ chức
và hoạt động của tổ chức quốc tế liên chính phủ như thẩm quyền
và nguyên tắc về giải thích điều lệ và các văn kiện pháp lý khác
của tổ chức, quyền ưu đãi và miễn trừ của tổ chức và thành viên,
trách nhiệm pháp lý quốc tế liên quan đến tổ chức ... đều có thê
áp dụng các quy phạm luật quốc tế dưới hình thức điều ước hoặc
tập quán quốc tế để giải quyết.21.
20 Thậm chí có tác giả còn cho rằng không tồn tại một “luật các tô chức CỊUÔC
tế”, thay vào đó là có sự tồn tại của “các luật” điều chinh các tô chức quôc tê
liên chính phù. Điều này xuất phát từ quan điểm cho rằng luật điêu chinh môi
tổ chức quốc tế có thể xác định từ điều ước quốc tế thành lập tổ chức, do đó
không thể có một luật “chung” điều chinh tất cã các vấn đề cùa tô chức quôc
tế. Xem Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the ìnstitutional Law of
International Organisations, Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 16.
21 Vấn đề này được thể hiện trong các phán quyết và kết luận tư vân của Tòa
án Công lý quốc tế và Tòa Thường trực cùa Hội quốc liên trong các vụ
Certain Expenses of the United Nations (Advisory Opinion) [1962] ICJ
Reports 151, tr. 168; Réparations for Injuries in the Service of the United
Nations (Advisory Opinion), ICJ Rep, 1949; Legal Conséquencesfor States of
the Continued Presence of South Africa in Namibia (South West Africa)
notwithstanding Security Council Resolution 276 (1970) [1971] (Advisory
29
1.5. Nguồn luật về các tổ chức quốc tế liên chính phủ
Nguồn luật tổ chức quốc tế chủ yếu là các điều ước quốc
tế thành lập nên tổ chức quốc tế và không phụ thuộc vào tên
gọi của chúng như hiến chương (charter), hiệp định
(agreement), quy chế (statute). Những điều ước này xác định
quyền năng chủ thể, phạm vi và lĩnh vực hoạt động cụ thê,
quyền và nghĩa vụ của tổ chức và những vấn đề cụ thê liên
quan đến hoạt động của tổ chức.
Bên cạnh đó, tập quán quốc tế là một loại nguồn quan
trọng của luật các tô chức quốc tế. Tập quán quôc tê được áp
dụng chủ yếu trong việc giải thích văn bản và giải quyêt các vân
đề như trách nhiệm pháp lý của tổ chức và đối với tổ chức quốc
tế. Ngoài ra, luật các tổ chức quốc tế có các phương tiện bổ trợ
nguồn tương tự như các phương tiện bổ trợ nguồn của luật quôc
tế nói chung.
Cụ thể, nguồn của luật các tổ chức quốc tế bao gồm:
- Điều lệ của tổ chức quốc tế;
- Văn kiện pháp lý ban hành bởi tổ chức quốc tế, chẳng hạn
như quy chế và các quỵết định của cơ quan tài phán thuộc tổ chức;
- Điều ước quốc tế chung được áp dụng cho hầu hết các
điều ước quốc tế phổ cập và liên quan đến các vấn đề về ưu đãi và
miễn trừ;
- Tập quán quốc tế, bao gồm tập quán quốc tế chung (liên
quan đến việc giải thích điều lệ và các văn kiện, trách nhiệm pháp
lý) và các tập quán hình thành từ thực tiễn hoạt động của tổ chức
được công nhận có giá trị pháp lý ràng buộc;
- Các nguyên tắc pháp luật chung;
- Các án lệ liên quan.
Opinion) ICJ Reports 16; Competence of the 1LO to Regulate the Conditions
of Labour of Persons Employed in Agriculture , [1922] PCIJ Publication,
Series B; South West Africa Cases (Ethiopia v South Africa,; Liberia v South
Africa), Preliminary Objections, [1962] ICJ Reports 319.
30
II. QUYỀN NĂNG CHỦ THẺ CỦA TỎ CHỨC QUÓC
TÉ LIÊN CHÍNH PHỦ
Phần này sẽ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về
quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế liên chính phủ. Trước
hêt, phần này sẽ tập trung làm rõ cơ sờ lý luận xác định quyền
năng chủ thể dựa trên cơ sở việc phân tích hai học thuyết cơ bản
là học thuyết về thẩm quyền chỉ định (attributed powers) và học
thuyết về thẩm quyền mặc định (impliedpowers). Phần tiếp theo
phân tích nội dung quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế thể
hiện ở các quyền và nghĩa vụ cơ bản, các quy định pháp lý liên
quan đến thành viên của tổ chức.
2.1. Cơ sở lý luận
Trong khi tư cách chủ thể của tổ chức quốc tế liên chính
phủ được công nhận trong luật quốc tế hiện đại, cơ sở lý luận về
quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế vẫn là chủ đề tranh luận
trong khoa học pháp lý quốc tế. Khác với các quốc gia, những
chủ thể cơ bản và chủ yếu, có thể tham gia vào mọi quan hệ pháp
lý quốc tế với quyền năng chủ thể được xác định bởi khái niệm
chủ quyền, quyền năng của các tổ chức quốc tế bị giới hạn ở văn
kiện pháp lý thành lập và sâu xa hơn, bị chi phối bởi ý chí của
các quốc gia thành viên. Điều này lý giải cho việc các tổ chức
quôc tê chỉ có khả năng tham gia vào những quan hệ quôc tê nào
phù hợp, khi không trái với mục đích, tôn chỉ và phạm vi hoạt
động của chúng. Trong trường hợp ngược lại, khỉ một tô chức
quốc tế tham gia vào những quan hệ quốc tá không đúng với mục
đích và phạm vi hoạt động, hành vi của tổ chức có thê được xem
là không hợp pháp.
Khoa học pháp lý quốc té trong lĩnh vực này có những
quan điểm khác nhau về tư cách chủ thể luật quốc tế của tô chức
quốc tế. Vấn đề quyền năng chủ 'thể luật quốc tê của tô chức
quốc tế liên chính phủ được nêu ra đầu tiên vào nhũng năm 1920
trong các kết luận tư vấn về quyền năng của ILO được Tòa án
31
Thường trực công lý quốc tế của Hội quốc liên đưa ra, xoay
quanh vấn đề giải thích điều lệ của tổ chức.22 Mặc dù vậy, những
kết luận của Tòa vẫn chưa giải quyết triệt để bản chất của vấn đê
quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế. Kết luận đó chỉ thuân
túy thể hiện quan điểm của Tòa dựa trên việc xem xét điều ước
quốc tế thành lập tổ chức, đồng thời chưa căn cứ trên cơ sở học
thuyết lý luận về vấn đề này.
Hai học thuyết cơ bản về tư cách chủ thể luật quốc tế của
tổ chức quốc tế là học thuyết về thẩm quyền chỉ định cho tổ
chức (doctrine o f attributed powers) và học thuyết về thẩm
quyên mặc định (doctrine o f implied powers). Ngoài ra còn có
một số học thuyết khác là sư kết hơp hoăc phát triển của hai học
thuyết này.23
2.1.1. Học thuyết về thẳm quyền chỉ định
Học thuyết về thầm quyền chỉ định cho các tổ chức quốc tế
ra đời sau kêt luận tư vấn của Tòa Thường trực công lý của Hội
quôc liên về phán quyết của ủy ban châu Âu về sông Danube
vào năm 1926.24 Tòa đã kết luận rằng một tổ chức quốc tế chỉ có
thê hoạt động trên cơ sở những quyền năng được ấn định một
cách rõ ràng cho tổ chức đó; tổ chức quốc tế có những quyền
nhăm thực hiện một cách đầy đủ các chức năng của mình trong
chừng mực mà điều lệ của tổ chức không có những hạn chế đối
Xem cac kêt luận tư vân cùa Tòa án Thường trực công lý quốc tế cùa Hội
quoc liên: Competence of the ILO to Regulate the Conditions of Labour of
Persons Employed in Agriculture, Advisory Opinion [1922], PC1J Publication
eries B, Nos. 2 and 4; Competence of the ÍLO to Examine Proposalsfor the
rganisation and Development of Methods of Agricultural Production,
Advisory Opinion, 1922, PC1J Publication Series B, Nos. 2 and 3, 53-55;
ompetence of the ILO to Regulate, Incidentallvm the Personal Work of the
Employer, Advisory Opinion, PCIJ Publication No. 13.
em Jan Klabber, An Introduction to International Institutional Law,
Cambridge, 2n
ded, 2009, tr. 53-72.
Jurisdiction of the European Commission of the Danube between Galatz
anaBraila, Advisory Opinion [1926] PCIJ Publication, Series B, No 14, 64.
32
vớỉ chúng. Trong vụ Lotus năm 1927,25 Tòa cũng đã khẳng định
răng trong khi chủ quyên của quôc gia là không thể bị hạn chế,
các tổ chức quốc tế chỉ có quyền năng chủ thể giới hạn trong
chừng mực các quyền được ấn định cho chúng. Quan điểm này
cũng được ủng hộ bởi các luật gia Xô viết, theo đó các tổ chức
quôc tế không thể làm phương hại đến quốc gia và các quyền chủ
quyền của quốc gia.262
7
Như vậy, học thuyết về “thẩm quyền chỉ định” tuyên bố tổ
chức quốc tế và các cơ quan của tổ chức chỉ có quyền hạn trong
chừng mực mà điều ước quốc tế thành lập nên tổ chức đã ấn định
cụ thể. Nói một cách khác, tổ chức quốc tế chỉ có thể tiến hành
những hoạt động trong những lĩnh vực mà nó được trao quyền.
Cơ sở của học thuyết này là việc các quốc gia thành viên khi
thành lập tổ chức đã nhất trí trao quyền cho tổ chức. Minh họa cụ
thê của việc áp dụng học thuyết này là các Điều 5 và 7 của Hiệp
ước thành lập Cộng đồng châu Âu, theo đó, “Cộng đồng sẽ hoạt
động trong phạm vi của các quyền được chuyển giao trên cơ sở
Hiệp ước và những mục tiêu được ấn định cho Cộng đông theo
Hiệp ước”. Hiến chương LHQ cũng có một sô điêu khoản thê
hiện nội dung của học thuyết này, chẳng hạn như Điều 2 khoản 7
(“7o chức LHQ sẽ không can dự vào những vân đê thực chât
thuộc thâm quyền nội bộ cùa bất cứ quôc gia nào”); Điêu 24
khoản 2 (“Hội đồng Bảo an sẽ hành động phù hợp với mục đích
vù những nguyên tắc cùa LHO”).
Mặc dù vậy, học thuyết này vẫn có những hạn chê. Thíĩ
nhất, về mặt thực tiễn, tổ chức quốc tế, bị giới hạn bởi các
quyền được ấn định rõ ràng cho mình, thuần túy trở thành công
cụ của các quôc gia thành viên thay vì là một thực thê tôn tại
25 Case ofthe Lotus [1927], PCU Publication Series A, No. 10
26 Xem Grigory I Tunkin, “The Legal Nature of the United Nations”, 1966/110
119 Rc/C, trĩ 1-67.
27 Xem Jan Klabber, An ỉntroduction to international ỉnstitutional Law,
Cambridae, 2n
ded, 2009, tr. 56.
33
khách quan. Thứ hai, về mặt thực tiễn, tổ chức quốc tế có thể sẽ
không có khả năng, hoặc không thể thực hiện những hoạt động
mà chưa được quy định rõ ràng trong điều ước vào thời điểm nó
được ký kết. Do đó tổ chức quốc tế không thể đảm đương hoặc
thực thi sứ mệnh của mình đối với những vấn đề có thể xảy ra
trong tương lai. Điều này rất đáng quan tâm bởi lẽ vai trò của
các tổ chức quốc tế liên chính phủ ngày nay đang trở nên có ý
nghĩa quan trọng.
2.1.2. Học thuyết về thẩm quyền mặc định
Học thuyết về thẩm quyền mặc định được nêu ra lần đầu
tiên trong bản kết luận tư vấn của Tòa án Thường trực công lý
quốc tế vào năm 1928 liên quan đến việc giải thích Hiệp định Hy
Lạp —Thổ Nhĩ Kỳ năm 1928.28 Tòa đã lập luận rằng, mặc dù
Hiệp định không chỉ rõ ai có quyền đưa một vụ việc ra giải quyết
bằng hình thức trọng tài, trong trường hợp ủy ban Liên hợp
{Mixed Commission) thành lập trên cơ sở hiệp định, Uy ban Liên
hợp nói trên sẽ có quyền đưa vấn đề ra cơ quan trọng tài, điều
này xuất phát từ thẩm quyền mặc định cho ủy ban để thực hiện
chức năng của minh. Tiếp theo, trong vụ Bồi thường thiệt hại
(Reparation for Injuries)?9 thẩm phán Green Hackworth cho
rằng những quyền hạn của tổ chức quốc tế có thể mặc nhiên
được xác định và suy diễn từ những quyền hạn được ấn định cụ
thể; mặc dù vậy, chúng sẽ được giới hạn ở chừng mực “cần
thiết” cho việc thực thi các quyền hạn đã được trao bời các quốc
gia thành viên một cách rõ ràng.
Nội dung cốt lõi của học thuyết này là quyền năng chủ thể
của một tô chức quốc tế có thể được mặc định suy diễn từ những
quyên hạn cụ thê mà tổ chức quốc tế đã được trao cho bởi các
28 Interpretation ofthe Greco-Turkish Agreement ofDecember T‘ 1926 [1928]
PCIJ Publication Series B, No. 16.
Reparation for Injuries Suffered in the Service of the United Nations,
Advisory Opinion [1949] ICJ Reports 174, Hackworth Dissenting, 198.
34
qúốc gia thành viên. Những quyền hạn này được thiết lập nhằm
giúp cho tổ chức quốc tế có thể thực thi một cách hiệu quả các
mục đích của mình. Trên cơ sở đó, tổ chức quốc tế có thẩm
quyên và khả năng tiến hành những hoạt động không được quy
định rõ ràng trong điều ước thành lập tổ chức quốc tế, nếu như
điêu đó được giải thích là giúp cho tổ chức quốc tế có thể thực
thi hiệu quả chức năng và mục đích của mình.
Học thuyết về thẩm quyền mặc định được làm rõ qua kết
luận tư vấn vào năm 1954 của Tòa án Công lý quốc tế trong vụ
Hiệu lực của phán quyết (Effect o fAwards)ĩ0 liên quan đến vấn
đê liệu Hội đồng Bảo an LHQ có quyền thiết lập một Tòa hành
chính (Administrative Tribunal) có khả năng đưa ra những quyết
định có tính ràng buộc hay không. Theo đó, Tòa đã tuyên bố
răng, mặc dù điều này không được quy định bởi Hiến chương,
thẩm quyền của Đại hội đồng về việc thành lập một tòa án như
vậy xuất phát từ suy diễn về mặt pháp lý về sự cần thiết dựa trên
Hiến chương LHQ. Tòa lập luận rằng quyền thành lập một tòa có
thâm quyền giải quyết tranh chấp giữa LHQ và các nhân viên
như vậy là cần thiết để đảm bảo hiệu quả hoạt động của Ban thư
ký LHQ. Tương tự, tại kết luận tư vấn trong vụ Namibia năm
1971, Tòa đã khẳng định két luận Đại hội đông có quyên châm
dứt sự chiếm đóng của Nam Phi đối với lãnh thổ Tây Nam Phi
(Namibia), điều này được giải thích trên cơ sở cho rằng Đại hội
đông có quyên kê thừa vai trò giám sát của Hội quôc liên.
2.2. Nội dung quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tê
liên chính phủ
Phần này phân tích quyền năng chủ thể của tô chức quôc tê
liên chính phủ thê hiện ở các nội dung: quyên ký kêt điêu ước
quốc tế; quyền cử và tiếp nhận đại diện tại các tổ chức quôc tê;*
*
j0 Effect of Awards of Compensations made by the United Nations
Administrative Tribunal [1954] ICJ Reports 47.
35
2.2.1. Quyền ký kết điều ước quốc tế
Năng lực ký kết điều ước quốc tế của tổ chức quốc tế liên
chính phủ được thừa nhận rộng rãi như một quyên cơ bản của tô
chức quốc tế.31 Quyền ký kết các điều ước quốc tế xuất phát từ
chính tư cách chủ thể luật quốc tế mà không phụ thuộc vào việc
các văn kiện thành lập nên tổ chức có xác định rõ điều này hay
không.
Lời nói đầu của Công ước Vienna 1986 về Luật Điều ước
ký kết với tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế với
nhau khẳng định “tổ chức quốc tế có năng lực ký kết điều ước
quốc tế, điều này là cần thiết cho việc thực hiện các chức năng và
hoàn thành những mục đích của tổ chức”. Mặc dù vậy, Công ước
cũng khẳng định, “năng lực ký kết điều ước quốc tế của tổ chức
sẽ được điều chỉnh bời những quy tắc cụ thể của tổ chức đó”.
2.2.2. Quyền cử và tiếp nhận đại diện tại tổ chức quốc tế
Tổ chức quốc tế có quyền cử các đại diện thường trực của
mình tại lãnh thô các quốc gia, bao gồm quốc gia là thành viên
của tô chức cũng như các quôc gia khác. Chẳng hạn, Liên minh
châu Âu có các cơ quan đại diện thường trú đặt tại Geneva,
Tokyo và Washington DC. Tổ chức quốc tế còn có quyền cử
phái đoàn thường trực của tổ chức tại một tổ chức quốc tế khác.32
Đồng thời tổ chức cũng có quyền tiếp nhận đại diện thường trực
của các quốc gia thành viên, thông thường tại trụ sở của tổ chức.
Tổ chức quốc tế cũng có thể tiếp nhận phái đoàn đại diện của
những thực thể không phải là quốc gia, như trường hợp tổ chức
giải phóng Palestine (PLO) trước đây đại diện tại LHQ dưới hình
quyền khởi kiện và tham gia vào các vụ kiện và các quyền cơ
bản khác của tổ chức quốc tế liên chính phủ.
3
1 Jan Klabber, sđd, tr. 41.
2 Hiện nay Liên minh châu Âu tiếp nhận 19 phái đoàn bao gồm LHQ và các
vùng lãnh thổ như Hongkong và Macau.
36
thức phái đoàn quan sát viên (observer mission), vấn đề này đã
được Tòa án Công lý quốc tế xác nhận vào năm 1988.
2.2.3. Quyền khơi kiện và tham gia vào các vụ kiện
Tổ chức quốc tế có quyền tiến hành khởi kiện về mặt quốc
tế đối với những vi phạm gây ra cho tổ chức mình, vấn đề này
đã được xác nhận bởi Tòa án Công lý quốc tế vào năm 1949.33
Sau đó, Tòa cũng xác nhận quyền này tại kết luận tư vấn trong
vụ Bồi thường thiệt hại (Reparationfo r Injuries), theo đó, quyền
khởi kiện là một thuộc tính vốn có của tổ chức và quyền này
được luật quốc tế công nhận một cách rõ ràng, bao gồm việc tiến
hành thủ tục thưa kiện, trình bày vụ việc và tham gia vào quá
trình giải quyết vụ việc tại một tòa án hoặc một cơ quan tài phán
quốc tế.
Tuy nhiên, quyền khởi kiện của tổ chức quốc tế có thể
có những giới hạn, Ví dụ, tổ chức quốc tế không thể thực
hiện quyền này trước Tòa án Công lý quốc tế, bời lẽ chỉ có
quốc gia mới có thể tham gia vào một vụ việc đưa ra trước
Tòa (Điều 34(1)).
Tổ chức quốc tế có thể bị khởi kiện và phải tham gia vào
vụ kiện tại một tòa án hoặc cơ quan tài phán quốc tế do hành vi
của tổ chức, các cơ quan và thành viên của tổ chức. Pháp luật của
một số quốc gia quy định khả năng xem xét đơn kiện chống lại tô
chức quốc tế tại cơ quan tài phán của quốc gia mình. Mặc dù
vậy, việc áp dụng quy định trên đối với những trường hợp này
tùy thuộc vào quyền miễn trừ của các tổ chức quốc tê.
Ngoài ra, tô chức quốc tế nhìn chung còn có các quyên cơ
bản sau: 34
33 Jan Klabber, sđd, tr. 43.
34Xem Jan Klabber,, Schermers and Blokker. Amerasinghe.
- Thảo luận và thông qua các văn bản về tổ chức và hoạt
động của mình trong phạm vi quy định của hiến chương, điêu lệ;
- Nhận đại diện và quan sát viên thường trực của các quôc
gia chưa là thành viên của mình;
- Tham gia tổ chức các hội nghị quốc tế liên quan đến nội
dung hoạt động của mình;
- Giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên và
giữa các quốc gia thành viên với tổ chức quốc tế;
- Hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao giành
cho tổ chức, các cơ quan của tổ chức và nhân viên;
- Hưởng các quyền theo quy định của các điều ước quốc tê
mà tổ chức ký kết hoặc tham gia.
Cũng xuất phát từ lý luận cơ bản về chủ thể của luật quốc
tế, có thể khẳng định rằng các tổ chức quốc tế có nghĩa vụ tôn
trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại; tôn trọng
các quyền của các tổ chức quốc tế liên chính phủ khác, của các
chủ thể khác của luật quốc tế hiện đại.
2.3. Thành viên của tổ chức quốc tế liên chính phủ
về cơ bản, những vấn đề liên quan đến thành viên của một
tổ chức quốc tế liên chính phủ sẽ tùy thuộc vào quy định cụ thể
của điều ước quốc tế thành lập tổ chức cũng như thực tiễn hoạt
động của tổ chức quốc tế đó.35 Nhìn chung, những vấn đề chủ
yếu liên quan đến thành viên của tổ chức quốc té liên chính phủ
bao gồm việc tham gia tổ chức quốc tế; việc chấm dứt tư cách
chủ thể, việc đình chỉ các quyền ưu đãi và miễn trừ và những vân
đề liên quan đến việc đại diện tại tổ chức quốc tế.
,s Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of
International Organisations, Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 105.
38
Việc cho phép (hay hạn chế) sự tham gia của các quốc gia
cũng như các chủ thể khác vào tổ chức quốc tế xuất phát từ tính
chât của tổ chức đó là tổ chức ‘toàn cầu” hay “khu vực”, tổ chức
“mở” hoặc “đóng”. Đối với một số tổ chức toàn cầu như LHQ và
phân lớn các tổ chức chuyên biệt của LHQ mọi quốc gia và
những thực thể có tính cách như quốc gia đều có khả năng tham
gia.36Đối với một số tổ chức quốc tế chuyên về chính trị, kinh tế,
kỹ thuật hoặc mang tính khu vực như Liên hiệp châu Mỹ (OAS),
Liên minh châu Phi (AU), Liên minh châu Âu (EU), Liên đoàn Ả
Rập, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)... khả năng trỏ thành
thành viên được giới hạn bởi một số điều kiện khác nhau. Thậm
chí, việc trở thành thành viên của tổ chức còn có tlìể được ấn
định bởi những yêu cầu chi phối bởi yếu tố chính trị, như trường
họp hiện nay của Serbia khi xin gia nhập Liên minh châu Âu.37
Việc quy định khả năng trở thành thành viên của một tổ
chức quốc tế, cũng như thủ tục kết nạp thành viên nhìn chung
phụ thuộc vào ý chí của các quốc gia sáng lập tổ chức quốc tê.
Những quốc gia sáng lập tổ chức quốc tế đương nhiên là thành
viên của tổ chức. Những quốc gia có nguyện vọng tham gia tô
chức sẽ phải thông qua một thù tục xin gia nhập và việc xin gia
nhập phải được sự nhất trí của các thành viên tổ chức hoặc trên
cơ sở quyết định của cơ quan thường trực của tổ chức đó theo
những tỷ lệ được quy định trong điều ước thành lập tô chức
quốc tế (ví dụ 50% số thành viên nhất trí hoặc 2/3 cũng như
nhũng điều kiện khác).
2.3.1. Tham gia tổ chức quốc tế ỉỉện chính phủ
36 Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of
International Organisations (Cambridge University Press, 2nd, 2007) trang
105. /
37 Ví dụ, theo một số chuyên gia, việc bắt giữ và giao nộp tướng Ratko Mladic
cùa Serbia cho Tòa án Hình sự quốc tế ICC tháng 5/2011 được coi là một sự
“đánh đổi” cần thiết để quốc gia này có thể sớm gia nhập Liên minh châu Au.
39
Trên thực tế, quy định về việc tham gia tổ chức quốc tê
khá đa dạng. Một số tổ chức quốc tế như Tổ chức Lao động quốc
tế (ILO) hay UNESCO quy định khả năng trở lại làm thành viên
của tổ chức mà không phải trải qua thủ tục xin gia nhập đối với
những thành viên trước đó đã xin rút ra khỏi tổ chức quốc tế, ví
dụ như trường họp Mỹ vào lại ILO; Anh và Đức gia nhập lại
UNESCO. Một số tổ chức quốc tế quy định quốc gia xin gia
nhập phải là thành viên của một tổ chức quốc tế khác. Ví dụ: để
trở thành thành viên của Ngân hàng Tái thiết và phát ừiển quốc
tế (IBRD), quốc gia xin gia nhập phải là thành viên của Quỹ Tiền
tệ quốc tế (IMF), trong khi tư cách thành viên của IBRD là điều
kiện cần để có thể tham gia Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA)
hay Tổng công ty tài chính quốc tế (IFC).38 Một số tổ chức quốc
tế yêu cầu các quốc gia xin gia nhập thỏa mãn một số điều kiện
bô sung mặc dù những điều kiện này không đưđc quy định rõ
ràng trong điều ước thành lập tổ chức. Ví dụ, khi các nước tách
ra từ Liên bang Nam Tư muốn gia nhập IMF, tổ chức này đã đưa
ra đê xuât răng các quôc gia này phải có khả năng gánh vác các
nghĩa vụ của IM F.39
Đôi với LHQ, quốc gia muốn trờ thành thành viên phải
đáp ứng những điêu kiện cơ bản như: là quốc gia yêu chuộng hòa
bình, thừa nhận những nghĩa vụ quy định trong Hiến chương và
được LHQ xem xét là đủ khả năng và tự nguyện làm tròn những
nghĩa vụ ây.40 Bên cạnh đó, tư cách thành viên của LHQ là điều
Điều II(l)(b) của Hiệp định IRBD, Điều 11(1) của Hiệp định IFC và Điều
ỊI(1) của Hiệp định IDA.
Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of
ntcf natunuil Organisations (Cambridge University Press, 2n
d
, 2007) trang
(1992) ' ^
ssues ° f State Succession Concerning Yugoslavia in the Fund
narf'toss i* ~ ^ n c^ươnê LHQ. Tuy nhiên, việc gia nhập LHQ của Áo vào
thể t '• tr, • f ra cau quốc gia tuyên bố trung lập vĩnh viễn có
ơ anh thành viên của tổ chức này hay không xuất phát từ điều kiện
kiện đủ để một quốc gia trở thành thành viên của một tổ chức
quốc tế chuyên biệt trong hệ thống LHQ.*
41
2.3.2. Tiếp tục tư cách thành viên (trường hợp quốc gia
mới và quốc gia kể thừa)
Trong trường hợp có sự thay đổi về chủ thể luật quốc tế do
có sự chia tách, sáp nhập quốc gia, vấn đề tư cách thành viên của
tô chức quốc tế sẽ được đặt ra. Thực tiễn giải quyết vấn đề này
găn liền với việc giải quyết vẩn đề kế thừa quốc gia trong luật
quốc tế và hiện nay chưa có một giải pháp thống nhất nào. Do
đó, việc giải quyết sẽ tùy thuộc vào cách xử lý của các tổ chức
quốc tế liên quan cũng như căn cứ vào những nguyên tắc tập
quán của luật quốc tế. Giải pháp cho các trường hợp kế thừa
hoặc tiêp tục tư cách thành viên sẽ có sự khác biệt nliât định.
Đối với những quốc gia ra đời do kết quả của cuộc đấu
tranh giành độc lập ở thuộc địa, thực tiễn chấp nhận chung là
những quốc gia này sẽ phải trải qua thủ tục xin gia nhập.42 Điều
này không phụ thuộc vào việc những quốc gia thuộc địa có
đang là thành viên của tổ chức quốc tế liên quan hay không. Ví
dụ: Sri Lanka (Ceylon) và Guyana đã xin gia nhập một sô tô
chức quốc tế mà không phụ thuộc vào Vưong quốc Anh có
đang là thành viên của những tổ chức đó hay không.
Trường họp gia nhập tổ chức quốc tế của những quốc gia
chia tách được giải quyết khá đa dạng. Nhìn chung, những quôc
gia kế thừa này sẽ tiếp tục tư cách thành viên của quôc gia đê lại
kê thừa tại tổ chức đó. Việc xác định sự kê thừa của quôc gia
“khả năng thực hiện các nghĩa vụ chiểu theo Hiến chương” liên quan đên việc
thực hiện các hành động tập thê trong trường hợp gìn giữ hòa bình và an ninh
thể giới. Mặc dù vậy đơn gia nhập của Áo cũng đã được châp nhận.
41 Điều II( I) Hiến chương cùa UNESCO hay Điều 6 của Hiến chương cùa Tô
chức Hàng hải quốc tế IMO.
42 Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the institutional Law of
International Organisations (Cambridge University Press, 2nd, 2007) trang
111. Niên giám cùa ủy ban Pháp luật Quốc tế năm 1962, trang 124ff.
41
trong tổ chức quốc tế căn cứ vào sự thỏa thuận hoặc thông qua
thủ tục bỏ phiêu của các thành viên khác của tô chức. Vần đê đặt
ra là: nêu như không có những thỏa thuận hoặc biêu quyêt như
vậy, cơ quan nào sẽ có trách nhiệm đưa ra quyết định và với tỷ lệ
nào thì việc chấp thuận đó được thỏa mãn? Trên thực tế, chưa
xảy ra trường hợp nào như vậy.43
Thực tiễn đa dạng của vấn đề này thể hiện qua việc công
nhận tư cách thành viên của LHQ và những tô chức quôc tê
chuyên biệt trong hệ thống LHQ. Đối với trường hợp chia tách
của An Độ và Pakistan vào năm 1947, các tô chức quôc tê nhìn
chung công nhận Ấn Độ là quốc gia kế thừa duy nhất của Ân Độ
trước năm 1947 (bao gồm Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh ngàỵ
nay) và do đó tiếp tục là thành viên của những tổ chức quốc tế
liên quan. Pakistan được coi là một quốc gia mới và phải trải qua
thủ tục xin gia nhập.44 Đối với trường hợp hợp nhất của Ai Cập
và Syria hình thành Cộng hòa Ả Rập thống nhất năm 1958 và
Tanganyika và Zanzibar hợp thành Cộng hòa thống nhất
Tanzania năm 1964, hai quốc gia mới được coi là quốc gia kế
thừa tư cách thành viên của những tổ chức quốc tế mà các quốc
gia hợp nhât đã là thành viên. Trong trường hợp tan rã của Liên
bang Xô Viết, Liên bang Nga được công nhận là quốc gia kế
thừa của Liên Xô tại các tô chức quốc tế mà trước đó Liên Xô là
thành viên, trong khi các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ được
coi là những quốc gia mới và phải trải qua thủ tục xin gia nhập.45
Tuỵ nhiên, đôi với trường hợp của Liên bang Nam Tư, LHQ và
nhiêu tô chức quôc tê chuyên biệt của LHQ đã không xác định
43 Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of
International Organisations (Cambridge University Press, 2n
d, 2007) trang
112.
44 Misra, “Succession of States: Pakistan’s Membership of the United
Nations”, German Yearbook ofInternational Law 1965, 3, tr. 281.
Đôi với trường hợp của Ukraina và Bielorussia hai quốc gia này đương
nhien kê thừa tư cách thành viên Liên hợp quốc với lý do đã có quy chế thành
viên Liên hợp quốc trước đây.
42
qủốc gia kế thừa duy nhất tư cách thành viên của Liên bang Nam
Tư. Trong khi đó, Cộng hòa Czech và Slovakia lại đều được
chấp nhận là hai quốc gia kế thừa tư cách thành viên của Tiệp
Khắc trước đây.
Việc tiếp tục hay kế thừa tư cách thành viên tại các tổ chức
tài chính quốc tế phức tạp hơn, chủ yếu do tồn tại những khoản
nợ và tín dụng.46 vấn đề này được giải quyết thông qua việc chia
sẻ trách nhiệm đối với các khoản nợ mà quốc gia để lại kế thừa
phải thực hiện đối với tổ chức đó. Ví dụ, IMF đã chia sẻ trách
nhiệm đối với các khoản nợ đối với các nước tách ra từ Liên
bang Nam Tư.47
2.3.3. Đình chỉ tư cách thành viên
Đình chỉ tư cách thành viên tổ chức quốc tế là việc đình
chỉ việc thực hiện các quyền và hưởng các nghĩa vụ căn cứ vào
điều ước quốc tế thành lập tổ chức quốc tế. về cơ bản, việc đình
chỉ đặt ra khi quốc gia liên quan không thực hiện đầy đủ các
nghĩa vụ thành viên của minh. Thông thường, điều này được xác
định dựa trên cơ sở sự vi phạm các quyền và nghĩa vụ thành viên
xác định trong điều ước quốc tế thành lập cũng như việc không
thực hiện các nghĩa vụ đóng góp tài chính. Đình chỉ có thê được
coi là một hình thức chế tài đặc thù của luật về các tô chức quôc
tế. Mặc dù vậy, các tổ chức quốc tế thường không có điều khoản
quy định cụ thể vấn đề đình chỉ tư cách thành viên.48
Trên thực tế, thủ tục tiến hành đình chỉ tư cách thành viên
của tổ chức quốc tế là khá đa dạng. Đối với LHQ, việc đình chỉ
tư cách thành viên có thể được coi là một chế tài được thực hiện
sau một biểu quyết của Đại hội đồng, do việc nợ tiền đóng góp
46 Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law oj
International Organisations, Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 113.
47 Chitharanjan F Amerasinghe, tldd, tr. 113.
48 Chitharanjan F Amerasinghe, tlâd, tr. 114.
43
cho LHQ tưong đương với tổng số tiền đóng góp của hai năm
trước.49 Đình chỉ việc sừ dụng các quyền và ưu đãi được áp dụng
theo Điều 5 của Hiến chương nếu một thành viên LHQ bị Hội
đồng Bảo an áp dụng một biện pháp phòng ngừa hay cưỡng chê
theo kiến nghị của Hội đồng Bảo an. Các tổ chức khác như
WHO, IMO và ICAO cũng quy định khả năng đình chỉ do việc
không đóng góp với những khoảng thời gian xác định khác
nhau.50 Nhiều tổ chức tài chính quốc tế cũng quy định khả năng
này.51* Hiến chương của Liên minh Bưu chính quốc tê
(International Telecommunication Union, ITU) và Tổ chức Giáo
dục, khoa học và văn hóa của LHQ (United Nations Educational,
Scientific and Cultural Organization, UNESCO) không quy định
về đình chỉ tư cách thành viên, điều này được lý giải ở chỗ việc
đình chỉ là kết quả duy nhất của việc đình chỉ tư cách thành viên
LHQ. Đối với Liên minh châu Âu, vấn đề đình chỉ tư cách thành
viên cũng không đặt ra. Tuy nhiên, Tòa án Công lý của Cộng
đồng châu Âu (European Court o f Justice, ECJ) có thẩm quyền
xem xét việc không tuân thủ các nghĩa vụ điều ước của EU.
Trong khi đó, đối với Hội đồng châu Âu, việc đình chỉ thành
viên được áp dụng trong trường hợp có sự vi phạm nghiêm trọng
liên quan đến việc thừa nhận nhà nước pháp quyền và việc giám
sát các quyền con người.32
Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ tư cách thành viên cũng
khá đa dạng, tùy thuộc vào mồi tổ chức quốc tế. Việc đình chỉ có
thể dừng lại ở việc tước quyền biểu quyết hoặc có thể dẫn đến
việc tước quyền đại diện tại các cơ quan của tổ chức cũng như
49 Chế tài này được áp dụng đối với Haiti năm 1963 và Cộng hòa Dominicana
vào năm 1968.
IMO Constitution, Điều 52; WHO Constitution, Điều 7, 31; ICAO
Constitution, Điều. 62.
^ Ví dự như Ọuỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
~
~Council of Europe Statute, Điều. 8.
44
việc đình chỉ thực hiện các quyền và hường các ưu đãi của thành
viên đó.53
Đối với LHQ, việc đình chỉ căn cứ theo Điều 19 dẫn đến
việc tước quyền biểu quyết tại Đại hội đồng trong khi đó việc
áp dụng biện pháp đình chỉ theo Điều 5 sẽ dẫn đến đình chỉ việc
sử dụng các quyền và ưu đãi của thành viên đó, đồng nghĩa với
việc tước quyền đại diện tại Đại hội đồng cũng như quyền biểu
quyêt.545
5Đối với IMF, các quốc gia bị đình chỉ bị hạn chế sử
dụng các nguồn ngân quỹ của IMF53 hoặc bị tước bỏ quyền sử
dụng đồng rút vốn đặc biệt SDR.56 Thủ tục áp dụng biện pháp
đình chỉ tùy thuộc vào từng tổ chức. Thẩm quyền áp dụnc biện
pháp này thông thường được trao cho cơ quan thường trực của
tô chức, thực hiện thông qua biểu quyết với tỷ lệ thông thường
là 2/3 hoặc có thể là trên 50% như trường họp của ICAO và
WHO. Tuy nhiên, việc đình chỉ không ảnh hưởng đến việc tuân
thủ các nghĩa vụ khác của thành viên, căn cứ vào điều ước
thành lập tổ chức.
2.3.4. Chẩm dứt tư cách thành viên
Tư cách thành viên của tổ chức quốc tế chấm dứt khi quốc
gia thành viên chấm dứt tồn tại, ví dụ như trường hợp sáp nhập,
chia tách hoặc họp nhất quốc gia. Tư cách thành viên cũng có thê
châm dứt khi quốc gia thành viên rút khỏi tổ chức một cách tự
nguyện (2.3.4.1), khi quốc gia đó bị khai trừ khỏi tô chực
(2.3.4.2) và khi quốc gia không chấp nhận sửa đôi liên quan đên
điều ước thành lập tổ chức (2.3.4.3). Ngoài ra, tư cách thành viên
53 ILO Constitution, Điều. 1(6); WMO Constitution, Điều 31; UNESCO
Constitution, Điều. Ii(4).
54 Hiến chương LHQ Điều 5. Xem thêm Chitharanjan F Amerasinghe,
Principles of the Institutional Law ofInternational Organisations, Cambridge
University Press, 2nd, 2007, tr. 115.
55 IMF Constitution, Điệu V(5).
56 IMF Constitution, Điều XIII(2).
45
có thể chấm dứt khi một quốc gia chấm dứt tồn tại hoặc những
tiêu chí cần thiết để trở thành một quốc gia theo luật quốc tê
không được thỏa mãn (2.3.4.4).57
2.3.4.1. Rút khỏi tổ chức quốc tế liên chính phủ
Các tổ chức quốc tế nhìn chung đều cho phép thành viên
được rút ra khỏi tổ chức, vấn đề này có thể được quy định ngay
trong điều ước quốc tế thành lập tổ chức hoặc không được quy
định cụ thể. Ví dụ, Hiến chương LHQ không có quy định này.
Thủ tục rút khỏi tổ chức quốc tế được thực hiện tùy vào mỗi tổ
chức. Chẳng hạn, các quốc gia có thể thông báo việc rút khỏi các
tổ chức thuộc nhỏm Ngân hàng Thế giới chỉ bàng một văn bản
và việc rút khỏi này có hiệu lực ngay lập tức.58
Một số tổ chức quốc tế có quy định giới hạn việc rút khỏi
tổ chức, hoặc việc rút ra chỉ có hiệu lực sau một khoảng thời gian
nhất định,59 hoặc chỉ cho phép thành viên rút ra khỏi tổ chức sau
một khoảng thời gian sau khi tổ chức bắt đầu hoạt động.60 Trong
một số trường họp, tổ chức quốc tế quy định một khoảng thời
gian kê từ khi quôc gia thành viên đưa ra thông báo cho đến khi
việc rút khỏi tổ chức có hiệu lực để quốc gia đó có thể xem xét
lại hoặc tìm kiêm những phương cách khác. Trên thực tế có
trường họp quốc gia tuyên bố rút khỏi tổ chức hoãn quyết định
đó của mình, như trường hợp Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều
Tiên khi tuyên bố rút khỏi Tổ chức Năng lượng nguyên tử thế
57Chitharanjan F Amerasinghe, llđd, 117.
58 Ví dụ Hiệp định IBRD, Điều yi(I); Hiệp định IFC, Điều V (l) và Hiệp định
IDA, Điều V1I(1). Trên thục tế Ba Lan xin rút khỏi IBRD vào năm 1950;
Cuba và Cộng hòa Dominica vào năm 1960 và Indonesia vào năm 1965.
Ví dụ theo quy định của FAO thì khoảng thời gian này là 4 năm (Điều 19
Hiệp định FAO); UNESCO lậ 1 năm (Điều 11(6) Hiến chương cùa UNESCO,
tương tự là IMO (Điều 69 Hiến chương IMO).
Ví dụ theo quy định của NATO thì khoảng thời °ian này là 20 năm (Điêu
13 Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Treaty)', Hiệp ước thành lập
cọng đông than và thép châu Âu ECSC là 50 năm (Điều 97).
46
giới (IAEA) vào năm 1993. Hiến chương LHQ không quy định
vân đề rút khỏi tổ chức nhằm thể hiện mong muốn của các bên
ký kết trong việc đảm bảo sự lâu dài và ổn địrih của tổ chức LHQ
•61 Trên thực tế, Indonesia tuyên bố rút khỏi LHQ và các tổ chức
quốc tế chuyên biệt khác vào năm 1965, sau đó xin trở lại vào
năm 1966. Trường họp này được Đại hội đồng thống nhất với
quan điểm của Hội đồng Bảo an coi là một sự “ngừng hợp tác”
chứ không phải là sự rút khỏi tổ chức.
Trước khi rút khỏi tổ chức, các quốc gia thành viên phải
hoàn thành những nghĩa vụ căn bản của mình, thông thường đó
là những nghĩa vụ về tài chính như trả các khoản đóng góp theo
cam kết hoặc các khoản nợ vay.
Trường họp điều ước quốc tế thành lập tổ chức không có
quy định cụ thể về việc rút khỏi tổ chức, việc rút khỏi tổ chức sẽ
được hiểu như trường họp rút khỏi một điều ước quốc tế căn cứ
theo các điều khoản 54-56 của Công ước Vienna 1986 về luật
điều ước quốc tế ký kết giữa quốc gia và các tổ chức quốc tế và
giữa các tổ chức quốc tế với nhau. Bên cạnh đó quyền rút khỏi
điêu ước được coi là xuất phát từ chủ quyền quốc gia trong quan
hệ quốc tế, nguyên tắc về quyền bình đẳng và tự quyết cũng như
những nguyên tắc pháp luật chung.
2.3.4.2. Khai trừ khỏi tổ chức quốc tế liên chỉnh phủ
Việc khai trừ thường được hiểu như một hình thức tạm
đình chỉ tư cách thành viên của tổ chức.62 Một thành viên có thê
bị khai trừ khỏi tổ chức quốc té trên cơ sở những vi phạm liên
quan đến nghĩa vụ thành viên, vấn đề khai trừ thường quy định
rõ trong điều ước quốc tế thành lập tổ chức, đặc biệt ở các tô
chức về tài chính. Chẳng hạn, Hiến chương LHQ quy định
trường hợp một quốc gia thành viên có thể bị khai trừ do sự vi
61 Chitharanjan F Amerasinghe, tlđd, tr. 120.
62 Chitharanịan F Amerasinghe, tlđd, tr. 123.
4 7
phạm một cách có hệ thống những nguyên tắc nêu ra trong Hiến
chương (Điều 6). Quy chế của Hội đồng châu Âu năm 1949 quy
định việc khai trừ thành viên do có những vi phạm nghiêm
trọng các nguyên tắc cơ bản của tổ chức. IMO và UNESCO quy
định việc khai trừ thành viên gắn liền với việc khai trừ khỏi
LHQ (Điều 2(4) Hiến chương UNESCO và Điều 11 Hiến
chương IMO).
Trong trường hợp điều ước thành lập tổ chức quốc tế
không quy định rõ ràng về vấn đề này, việc khai trừ một thành
viên của tổ chức được thực hiện tùy thuộc vào từng tổ chức cụ
thể và tính chất “mở” hay “đóng” của tổ chức. Tuy nhiên,
quyền khai trừ thành viên của tổ chức quốc tế hoàn toàn có thể
được suy luận từ tư cách chủ thể của tổ chức và những quyền
hạn nhằm đảm bảo sự toàn vẹn và chấp hành nghiêm túc các
quy định của tổ chức. Đối với một tổ chức quốc tế “mở”, do
mục tiêu của tổ chức là mở rộng và khuyến khích sự tham gia
của các quốc gia, vấn đề khai trừ thành viên thường ít được đề
cập. Mặc dù vậy, khả năng khai trừ thành viên có thể đặt ra
nhàm bảo đảm sự tuân thủ các nguyên tắc và nghĩa vụ của tổ
chức. Một đề nghị khai trừ thành viên có thể được đưa ra lấy
biểu quyết. Trên thực tế, có một số quốc gia bị đề nghị khai
trừ mặc dù điều này không được quy định trong điều ước
thành lập. Ví dụ: việc đề nghị khai trừ Nam Phi khỏi Liên
minh Bưu chính thế giới (UPU) vào năm 1969.63 Đối với một
tổ chức quốc tế “đóng”, khả năng khai trừ một thành viên
được lý giải gắn liền với mục tiêu của tổ chức, các tiêu chí về
xác định thành viên và bối cảnh thực tế khi tổ chức ra đời.
Trên cơ sở đó, thành viên bị khai trừ khỏi tổ chức trên cơ sở
sự đối lập, không phù hợp với các mục đích của tổ chức.
63 Đáng Ịưu ý là đã có một số nỗ lục nhằm khai trừ Nam Phi ra khỏi một số tổ
chức quốc tế nhưng không thành công ví dụ như Liên hợp quốc vào năm 1974
(bị phù quyết) hoặc WIPO vào năm 1979.
48
23.4.3. Không phê chuẩn sửa đổi đối với điều ước quốc tế
thành lập tổ chức quốc tế liên chính phủ
Việc một quốc gia không chấp nhận hoặc từ chối phê
chuẩn sửa đổi đối với điều ước quốc tế thành lập tổ chức quốc tế
có thể dẫn đến việc quốc gia đó mất tư cách thành viên một khi
sửa đổi này có hiệu lực.
23.4.4. Chẩm dứt tồn tại hoặc không đáp ứng các tiêu
chuẩn cần thiết
Khi không còn đáp ứng được các tiêu chuẩn cần thiết cấu
thành một quốc gia, thực thể đương nhiên mất đi tư cách thành
viên của tổ chức quốc tế. Nguyên tắc chung đặt ra là khi quốc gia
khồng còn tồn tại thì tư cách thành viên của quốc gia đó cũng
chấm dứt (tính đến thời điểm chấm dứt tồn tại). Chẳng hạn vào
năm 1958 khi Syria và Ai Cập hợp nhất với nhau thành lập Cộng
hòa Ả Rập thống nhất, cả Sirya và Ai Cập đều không còn là
thành viên của các điều ước quốc tế mà trước đây hai quốc gia
này tham gia. Tương tự là trường hợp của Tanganyika và
Zanzibar năm 1964 (thành lập Cộng hòa thống nhất Tanzania).
Trường hợp chia tách quốc gia cũng áp dụng tương tự, ví dụ:
năm 1991, Nam Tư không còn tư cách thành viên tại các tổ chức
quốc tế mà Liên bang Nam Tư là thành viên. Tương tự là trường
hợp của Tiệp Khẳc năm 1993.
Trong trường hợp một quốc gia bị chiếm đóng do hành vi
xâm lược, tư cách chủ thể của quốc gia không bị coi là mất đi, do
đó tư cách thành viên của tổ chức quốc tế không bị coi là chấm
dút. Năm 1991, hành vi xâm lược của Iraq được cho rằng không
làm mất đi các yếu tố cấu thành quốc gia và tư cách chủ thể luật
quốc tế cúa Kuwait. Ket quả là Kuwait đã khôi phục lại tư cách
thành viên tại các tổ chức quốc tế sau khi khôi phục lại lãnh thổ
của mình.
49
2.4. Đại diện quốc gia tại tổ chức quốc tế liên chính phủ
Khi một quốc gia trở thành thành viên của một tổ chức
quốc tế thì đương nhiên đại diện tại tổ chức quốc tế sẽ do chính
phủ chỉ định và đại diện này được coi là đại diện họp pháp của
quốc gia. Khái niệm đại diện quốc gia tại tổ chức quốc tế không
liên quan đến việc chính phủ của quốc gia đó có sự thay đổi như
thế nào. Mặc dầu vậy, có trường hợp đặt ra là cần xác định sự đại
diện đó có được tín nhiệm hay không. Nhìn chung, các điều ước
quốc tế không điều chỉnh vấn đề về sự đại diện. Việc xem xét cử
người đại diện thường bị chi phối bởi những tác động chính trị
và có sự áp dụng khác nhau cho từng trường hợp cụ thể. Ví dụ,
trên thực tế đặt ra vấn đề xem xét chính phủ nào đại diện cho
Trung Quốc tại LHQ vào năm 1971: chính quyền Trung Hoa
Dân quốc (Đài Loan) lúc đó hiện đang giữ tư cách đại diện cho
Trung Quốc và chính quyền nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa. Hội đồng Bảo an LHQ sau đó bằng một biểu quyết đa số
9/15 các quốc gia thành viên nhất trí thay thế vị trí đại diện cho
Trung Quốc của chính quyền Đài Loan. Sau đó Đại hội đồng
cũng đã thông qua một nghị quyết tương tự bằng tỷ lệ 2/3 số
quốc gia tán thành. Sau đó, ừong những năm 1970 và 1980, sự
đại diện của Nam Phi cũng đã không được chấp nhận bởi Đại hội
đông LHQ dẫn đến việc Nam Phi không thể tham gia vào các
hoạt động của Đại hội đồng. Tuy nhiên, trường hợp của Israel lại
không gặp sự phản đối tương tự.
2.5. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của thành viên tô
chức quốc tế liên chính phủ
Các tổ chức quốc tế khác nhau có tính chất, mục đích hoạt
động và chức năng khác nhau cũng như có cơ chê tiêp nhận
thành viên khác nhau. Chính vì vậy mà thành viên của tô chức
quốc tế có các quyền và nghĩa vụ tùy thuộc vào từng tổ chức
50
quốc tế. về cơ bản, thành viên của các tổ chức quốc tế có các
quyên và nghĩa vụ sau:
- Quyền bình đẳng trong tổ chức quốc tế. Quyền này xuất
phát từ sự tôn trọng chủ quyền của các quốc gia, chủ thể cơ bản
và chủ yếu trong quan hệ quốc tế và nhằm đảm bảo cho tổ chức
quốc tế có thể hoạt động một cách khách quan không có sự phân
biệt giữa các thành viên về địa lý, dân cư, tôn giáo, trình độ phát
triển... Quyền bình đẳng được thể hiện ở việc tham gia thảo luận
và quyết định những vấn đề của tổ chức, trình bày quan điểm, ý
kiến và lập luận tại các phiên họp của tổ chức và trong quá trình
bầu cử và biểu quyết đối với các vấn đề mà tổ chức nêu ra;
- Quyền có đại diện và cử đại diện của mình tại tổ chức
quốc tế;
- Quyền tham gia ứng cử vào các vị trí và các cơ quan của
tổ chức quốc tế;
- Quyền rút ra khỏi tổ chức;
- Quyền được tôn trọng tại các tổ chức quốc tế;
- Quyền được hường các quyền lợi, yêu cầu giúp đỡ và
tiếp nhận sự trợ giúp về tài chính.
Bên cạnh các quyền cơ bản, các quốc gia thành viên còn
phải thực hiện các nghĩa vụ, cam kết đối với tổ chức. Các nghĩa
vụ cơ bản bao gồm:64
- Tôn trọng mục đích, tôn chỉ và nguyên tắc hoạt động của
tổ chức;
- Đóng góp tài chính;
- Dành quyền ưu đãi và miễn trừ cần thiết cho tô chức.
Xem Jan Klabber, Schermers and Blokker, Amerasinghe, sđd.
51
III. QUYẺN ƯU ĐÃI VÀ MIẺN TRỪ ĐÓI VỚI TÓ
CHỨC QUỐC TÉ LIÊN CHÍNH PHỦ
Là một chủ thể của luật quốc tế, tổ chức quốc tế được
hường các quyền ưu đãi và miễn trừ về cơ bản tương tự như
những quyền ưu đãi và miễn trừ áp dụng cho các quốc gia cũng
như các đại diện của quốc gia. Tuy nhiên, về cơ sờ áp dụng, cần
có sự phân biệt giữa quyền ưu đãi, miễn trừ của tổ chức quốc tế
với quyền ưu đãi và miễn trừ áp dụng cho quốc gia, vốn xuất
phát từ vấn đề chủ quyền của các quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Các quyền ưu đãi và miễn trừ mà tổ chức quốc tế liên chính phủ
được hường không phải xuất phát từ chủ quyền. Thay vào đó,
chúng được lý giải dựa trên cơ sở học thuyết về sự cần thiết
nhằm đảm bảo thực hiện chức năng. Theo đó, những quyền ưu
đãi và miễn trừ là cần thiết nhằm giúp cho tổ chức quốc tế có thể
thực thi một cách đầy đủ và hiệu quả các chức năng của mình và
đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của tổ chức.65
Ví dụ, đối với LHQ, Điều 105(1) của Hiến chương quy
định LHQ được hường trên lãnh thổ của mỗi thành viên của
mình quyền ưu đãi, miễn trừ như là điều kiện cần thiết cho việc
thực hiện mục đích của tổ chức. Thêm vào đó, đại diện các thành
viên của LHQ và các quan chức của tổ chức được hưởng quyền
ưu đãi, miễn trừ, đây là yếu tố cần thiết cho việc họ thực hiện
chức năng của mình trong tổ chức (Điều 105(2) Hiến chương
LHQ). Công ước năm 1946 về quyền ưu đãi và miễn trừ của
LHQ và mục 27 của Hiệp định ký kết giữa Mỹ và LHQ về trụ sở
về cũng dẫn chiếu đến Điều 105 này. Tinh thần của Điều 105 và
đặc biệt là nguyên tắc về sự cần thiết thực hiện chức năng đã trờ
thành cơ sở cho việc trao các quyền ưu đãi và miên trù' cho các tô
chức quốc tế khác, cũng như làm cơ sờ cho các phán quyêt của
65 Xem Jan Klabber, tr. 131-150; Amerasinghe, tr. 315-350.
52
tòa án quốc tế và quốc gia.66 Quyền ưu đãi và miễn trừ được áp
dụng đối với bản thân tổ chức quốc tế liên chính phủ, các cơ
quan của tổ chức và những cá nhân là viên chức làm việc cho tổ
chức mà không phụ thuộc vào quốc tịch của họ. Những cá nhân
này bao gồm những viên chức làm việc tại trụ sở và những thành
viên đại diện tổ chức trong các phái đoàn đặc biệt.
Liên quan đến vấn đề quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho
tô chức quốc tế, bao gồm cả các cơ quan và thành viên của tô
chức, vấn đề đặt ra là luật nào sẽ áp dụng, chẳng hạn luật của
quốc gia nơi tổ chức quốc tế đặt trụ sở có áp dụng đối với tổ
chức hay không? Quan điểm chung hiện nay là luật của quốc gia
nơi tổ chức quốc tế đặt trụ sở sẽ có hiệu lực đối với tổ chức quốc
tế, trong đó cần dành các quyền ưu đãi và miễn trừ ở phạm vi
giúp tổ chức quốc tế, các cơ quan và thành viên của tổ chức có
thể thực hiện một cách tốt nhất chức năng của mình.67
về nội dung, các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho tô
chức quốc tế, cơ quan của tổ chức và các thành viên của tổ chức
nhìn chung tương tự như các quyền ưu đãi và miễn trừ áp dụng
cho quốc gia trong quan hệ ngoại giao và lãnh sự. Tuy nhiên, vê
bản chất, giữa các quyền này có những sự khác biệt:
- Các quyền ưu đãi và miễn trừ của tổ chức quôc íê có ý
nghĩa đảm bảo cho tổ chức hoạt động hiệu quả nhân danh tô
chức mình chứ không phải dành cho các quốc gia thành viên tô
66 Ví dụ như Phán quyết cùa Tòa Sơ thẩm Italia trong vụ Porru và FAO năm
1969 theo đó tồ chức Nông lương thế giới FAO được miễn trừ đôi với những
hoạt động nhàm thực hiện những mục đích cùa mình. Hay tương tự !à phán
quvết cùa Tòa Giám đốc thẩm Italia trong vụ Minnini và Học viện Bari thuộc
Trung tâm Nghiên cứu chuyên sâu về nông học Địa trung Hài năm 1986. Xem
thêm Jan Klabber, An introduction to International Institutional Law
(Cambridge, 2n
ded, 2009) trang 133.
67 Xem Jan Klabber, tr. 131-150; Amerasinghe, tr. 315-350;
53
chức trên cơ sở quan hệ ngoại giao giữa quốc gia chủ nhà và các
quốc gia thành viên.
- Các viên chức của tổ chức quốc tế được hưởng các
quyền ưu đãi và miễn trừ nhàm giúp cho họ thực hiện các chức
năng của mình trong tổ chức chứ không phải cho quốc gia mà
họ là công dân. Chức năng này không chỉ thực hiện tại lãnh thổ
của một quốc gia hay quốc gia nơi tổ chức đặt trụ sờ mà cả tại
nhiều quốc gia khác, trong đó bao gồm cả quốc gia mà họ đang
là công dân.
- Các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho tổ chức quốc tê
không phải xuất phát từ quan hệ qua lại giữa các quốc gia với
nhau trong quan hệ quốc tế (quan hệ giữa nước cử và nước nhận
đại diện). Thay vào đó, nó xuất phát từ quan hệ của nước nơi đặt
trụ sở của tổ chức quốc tế'và bản thân tổ chức quốc tế.
- Trong quan hệ ngoại giao cũng như lãnh sự, quốc gia
tiếp nhận áp dụng các quyền ưu đãi miễn trừ dựa trên cơ sở một
số các công ước quốc tế được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trên
phạm vi toàn cầu (hai công ước Vienna 1961 về quan hệ ngoại
giao và 1963 về quan hệ lãnh sự). Trong khi đó, hiện vẫn chưa
có một văn kiện pháp lý quốc tế nào điều chỉnh quan hệ ngoại
giao liên quan đến tổ chức quốc tế, các thành viên của tổ chức và
quan hệ giữa các quốc gia với tổ chức quốc tế, trong đó có vấn
đề về quyền ưu đãi và miễn trừ.68 Nội dung và phạm vi của các
quyền ưu đãi và miễn trừ của tổ chức quốc tế tùy thuộc chủ yếu
vào thỏa thuận giữa tổ chức và nước tiếp nhận, trên cơ sở các
hiệp định về trụ sở và luật pháp của nước tiếp nhận.
Công ước của LHQ về quyền ưu đãi và miễn trừ của LHQ
(LHQ) năm 1946 và Công ước năm 1947 về các cơ quan chuyên
68 Hiện nay Công ước Vienna ký năm 1975 về đại diện của các quốc gia trong
quan hệ với các tổ chức quốc tế có tính chất toàn cầu vẫn chưa có hiệu lực. ơ
phạm vi châu Âu, công ước năm 1972 về quyền miễn trừ quôc gia áp dụng
cho các quôc gia và tồ chức quốc tế ở châu Âu.
54
môn của LHQ là văn kiện quan trọng về vấn đề này. Hai công
ước đã xác định các quyền ưu đãi và miễn trừ của tổ chức LHQ,
các cơ quan chính và nhân viên của LHQ và áp dụng tương tự
cho các cơ quan chuyên môn của của tổ chức này. Mặc dù có giá
trị pháp lý toàn cầu và là kiểu mẫu cho các quốc gia trong việc
điều chỉnh các vấn đề tương tự, hai công ước này chỉ giới hạn
trong phạm vi tổ chức LHQ. Ngoài ra, những vấn đề liên quan
đên trụ sở của LHQ được điêu chỉnh bởi Hiệp định vê trụ sở ký
giữa Mỹ và LHQ vào năm 1947. Hiệp định này có một số nội
dung chính như sau:
- Trên cơ sở coi các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho
LHQ là những ngoại lệ của luật pháp Mỹ, Hiệp định công nhận
luật của Mỹ (Liên bang, tiểu bang và địa phương) tiếp tục áp
dụng cho khu vực trụ sở của LHQ. Tòa án Mỹ có thẩm quyền xét
xử, trừ những trường hợp được quy định ở Hiệp định (mục 7);
- Các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho LHQ nhằm đảm
bảo cho LHQ có thể thực thi một cách đầy đủ và hiệu quả các
trách nhiệm và mục tiêu của mình (mục 27);
- Khu vực trụ sở của LHQ là bất khả xâm phạm (mục 9),
nhà chức trách Mỹ chỉ có thể vào khi được sự đồng ý và trên cơ
sở tuân thủ những điều kiện của Tổng thư ký LHQ. Tuy nhiên,
trụ sở của LHQ không thể là nơi cho phép những người đang bị
truy nã vào tỵ nạn;
- Theo mục 11, chính quyền Mỹ không được hạn chê việc
đi và đên trụ s ờ 69đôi với:
(i) Các phái đoàn đại diện của các nước thành viên LHQ.
các nhân viên cùa phái đoàn; các đại diện của tổ chức quôc tê
69 Mặc dù đây không phải là một quy định về miễn thị thực nhưng theo đó Mỹ
sẽ cấp Visa nhập cánh cho nhũng đối tượng trên không thu phí và với thời gian
nhanh nhất có thể được.
55
chuyên môn của LHQ cũng như các phái đoàn đại diện tại các tổ
chức này cũng như gia đình của họ;
(ii) Các chuyên viên thực hiện các nhiệm vụ của LHQ;
(iii) Đại diện cơ quan thông tấn do LHQ chỉ định trên cơ sở
tham vấn với Mỹ;
(iv) Các đại diện của các tổ chức quốc tế phi chính phủ
được LHQ công nhận; và
(v) Những cá nhân được LHQ mời về những công việc
với LHQ.
- Ngoài việc có trách nhiệm bảo vệ một cách thích hợp,
phía Mỹ không được có sự phân biệt đối xử hoặc không tôn
trọng đối với những đại diện từ các nước khác nhau, kể cả từ
những quốc gia mà Mỹ chưa công nhận (mục 12);
- Các đại diện củavcác nước thành viên của LHQ được
hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ tương tự như quyền dành
cho các viên chức ngoại giao khác trên toàn bộ lãnh thổ nước Mỹ
(mục 15). Tuy nhiên, đại diện những quốc gia mà Mỹ không
công nhận chỉ được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ tại khu vực
trụ sở LHQ, nhà riêng và các văn phòng ngoài khu vực này cũng
như khi quá cảnh.
Hiện nay, các tổ chức quốc tế và quốc gia đặt trụ sở
thường giải quyết vấn đề ưu đãi và miễn trừ thông qua các hiệp
định, hoặc thỏa thuận về trụ sở.70 Những thỏa thuận này thường
bị chi phối bởi các yếu tố chính trị.71 Nội dung cơ bản của những
thỏa thuận này thường ghi nhận những quyên ưu đãi và miễn trừ
đối với trụ sở và thành viên của cơ quan. Cách thê hiện những
nội dung này trong các hiệp định là khá giống nhau. Sự khác
nhau giữa các thỏa thuận chủ yếu liên quan đến mức độ của các
70 Ví dụ Hiệp định chung năm 1949 về quyền ưu đãi .và miễn trừ của Hội đồng
châu Âu.
71 Jan Klabber, An Introduction to International Institutional Law, Cambridge,
2n
ded, 2009, tr. 147.
56
quyên iru dâi và mien trir hay nôi each khâc là vè chi tiét. Biêu
dâng nôi là mâc dù câc vân bàn này là nhüng dieu uôc quôc tê,
chüng hâu nhur khô cô thê bi thay dôi hoâc châm dut mot each
don phuong bôi quôc gia chü nhà.72*
Câc tâp quân quôc tê cüng là mot nguôn luât dieu chinh
vân dê quyên uu dâi và mien trir cüa tô chûc quôc tê. Câc quy tàc
tâp quân xâc dinh nghïa vu cûa câc quôc gia trong viêc dành
quyên uu dâi và mien trir cho tô chûc quôc tê, câc ca quan và
thành viên cüa tô chüc.7J Ngoài ra, câc quy pham tâp quân cüng
xâc dinh rang câc quyên uu dâi và mien trù chi âp dung cho tô
chûc quôc tê và câc nhân viên cüa tô chûc dê ho thuc hiên câc
hoat dông trong pham vi thâm quyên cüa minh (intra vires). Cuôi
cüng, phâp luât cüa mot sô quôc gia nhu Mÿ, Anh, Ao... cô
nhüng quy dinh eu thê dành quyên uu dâi và mien trù cho câc tô
chüc quôc tê dât trên lânh thô cüa nuôc minh.74
IV. CO CÂU TÔ CHÎTC CÛA TÔ CHlTC QUÔC TÉ
LIEN CHINH PHÛ
Biêm giüp phân biêt tô chüc quôc tê vôi câc hinh thüc hop
tâc quôc tê khâc giüa câc quôc gia và câc chü thê khâc cüa luât
quôc tê là: tô chûc quôc tê cô mot hê thông câc ca quan duge
thành lâp mot câch ôn dinh nhàm thuc hiên câc chûc nâng khâc
nhau. Tùy pham vi hoat dông, mue dich khâc nhau mà moi tô
chüc së lâp ra nhüng ca quan tuong ûng. Viêc câc ca quan duge
tô chûc nhu thê nào và thành phân tham gia ca quan này ra sao
së duge quy dinh rô trong dieu uôc quôc tê thành lâp tô chüc.
72 Jan Klabber, tldd, tr. 147.
7j Xem Ignaz Seidl-Hohenvelden, ‘Functional Immunity of International
Organisations and Human Rights’ trong Benedek et al, Development and
Developing International and European Law: Essays in Hounour of Konrad
Ginther on the Occasion of His 65,hBirthday, 1999, tr. 137-149; Jan Klabber,
tldd, tr. 148.
74 Jan Klabber, tldd, tr. 150.
57
Nhìn chung, một tổ chức quốc tế có cơ cấu tổ chức bao
gồm: các cơ quan chính hoạt động thường trực, các cơ quan giúp
việc và các cơ quan không thường trực thành lập nhằm thực hiện
một nhiệm vụ cụ thể.
Các cơ quan chính của tổ chức thường bao gồm 3 loại:
+ Đại hội đồng là cơ quan bao gồm đại diện của tất cả các
quốc gia thành viên hoạt động trên cơ sở các phiên họp thường
niên hoặc hai, ba năm, thậm chí năm năm/lần.
Nhiệm vụ chính của cơ quan này về cơ bản là ấn định
những tiêu chuẩn chung cho tổ chức hoặc đóng vai trò như cơ
quan lập pháp để điều chỉnh các vấn đề thuộc phạm vi chức năng
của tổ chức. Ví dụ, Đại hội đồng LHQ có chức năng đưa ra các
quyết định về những vấn đề nội bộ của LHQ như quyết định và
phân bổ ngân sách. Hội >đồng Bộ trưởng các nước thành viên
cộng đồng châu Âu có chức năng lập pháp trên cơ sở phối hợp
với Nghị viện châu Âu.
+ Các cơ quan điều hành ví dụ như Hội đồng Bảo an
LHQ. Đây là cơ quan thường trực của tổ chức quốc tế. Cơ quan
này họp và quyết định những vấn đề cụ thể liên quan đến việc
thực hiện chức năng của tổ chức quốc tế, bao gồm việc đưa ra
các quyết định hoặc thông báo. Một số cơ quan có thể ban hành
các quyết định có giá trị bắt buộc (như các quyết định của Hội
đồng Bảo an LHQ). Hội đồng châu Âu (European Commission)
chủ yếu điều chỉnh và điều hành các hoạt động của tổ chức, cũng
là một ví dụ của cơ quan điều hành của tổ chức quốc tế.
Khác với đại hội đồng, cơ quan điều hành thường bao gồm
một số lượng thành viên nhất định được bầu ra theo những thủ
tục cụ thể tùy theo mỗi tổ chức và căn cứ trên những tiêu chí cụ
thể, thông thường về tính đại diện.Ví dụ, Hội đồng Bảo an LHQ
bao gồm 5 thành viên thường trực, 10 thành viên còn lại được
bâu ra theo phân chia tỷ lệ 5 thành viên từ châu Phi và châu A, 1
thành viên từ Đông Âu, 2 từ châu Mỹ Latin và Caribê, 2 từ Tây
Au và 2 từ những quôc gia còn lại (bao gôm Canada và Uc). Tại
58
Hội đồng châu Âu mỗi thành viên có 1 đại diện. Tại các tổ chức
tài chính quốc tế, tiêu chí đại diện đặt ra khá thực tế căn cứ vào
khả năng tài chính của thành viên. Ví dụ, Hội đồng điều hành
của IMF bao gồm 24 thành viên trong đó năm thành viên được
chỉ định bởi các thành viên là những quốc gia có tỷ lệ đóng góp
lớn nhất vào IMF, số còn lại được bầu ra tại đại hội đồng, những
thành viên này có thể đại diện cho các nhóm nước khác nhau.7
5
+ Ban thư ký (đứng đầu là Tổng thư kỷ) hoặc các cơ quan
hành chính hoặc một hình thức tương tự đảm nhiệm các công
việc theo dõi và điều hành các công việc hàng ngày của tổ chức.
Nhân viên của ban thư ký được lựa chọn trên cơ sở trung lập có
lưu ý đến sự đại diện một cách thích hợp theo khu vực địạ lý.
Thực tiễn việc chỉ định người đứng đầu ban thư ký rất đa
dạng và phức tạp. Chẳng hạn như có sự thỏa thuận Giám đốc
điều hành (director) của IMF sẽ là một người từ châu Âu trong
khỉ đó Tổng thư ký của Ngân hàng Thế giới WB sẽ là công dân
Mỹ.7
6Nhìn chung, ban thư ký và tổng thư ký tích cực trong việc
theo dõi các vấn đề hành chính. Chẳng hạn, theo Điều 99 Hiến
chương Liên họp quốc, Tổng thư ký có thể lưu ý Hội đồng Bảo
an về những vấn đề thuộc phạm vi của LHQ và có thể tham gia
vào những hoạt động khác có tính chất chính trị, ví dụ như hòa
giải tranh chấp giữa các thành viên.
Ngoài 3 cơ quan chính nêu trên, trong cơ cấu của một tổ
chức quốc tế còn có thể có thêm những cơ quan khác, chẳng hạn
như cơ quan tư pháp được lập ra nhằm giải quyết tranh chấp giữa
các quốc gia thành viên hoặc giữa tổ chức quốc tế và các nhân
viên của họ. Bên cạnh đó, các ủy ban có thể được thành lập
nhằm giúp cho tổ chức trong việc hoạch định chính sách hoặc
đưa ra các quyết định.
75 Ví dụ như Italia đại diện cho không chi lợi ích cùa Italia mà còn đại diện
cho Hy Lạp, Bô Đào Nha, Malta, San Marino và Đông Timor.
76 Xem Jan klabber, tr. 156.
59
+ Nhân viên của tổ chức quốc tế
Nhân viên của tổ chức quốc tế là những cá nhân được
tuyên dụng công tác cho tô chức quốc tế. Thông thường nhân
viên của tổ chức quốc tế là công dân của những quốc gia là thành
viên của tổ chức quốc tế đó. Khi làm việc cho tổ chức quốc tê,
các nhân viên sẽ phục vụ cho tổ chức quốc tế chứ không phải
cho quốc gia mà họ là công dân, những quyền ưu đãi và miễn trừ
mà họ được hưởng vì lẽ đó là nhằm đảm bảo cho họ có thể hoàn
thành một cách có hiệu quả nhất công việc của mình trong tổ
chức quốc tế.
Nhân viên của tổ chức quốc tế có thể chia làm hai nhóm:
các viên chức cùa tổ chức quốc tể là những người công tác trong
các cơ quan của tổ chức quốc tế, được bầu hoặc tuyển dụng làm
việc theo nhiệm kỳ và hưởng lương do tổ chức quốc tế chi trả.
Một so tổ chức quốc tế có cơ chế chọn lựa viên chức căn cứ vào
sự đề cừ của quốc gia mà người này là công dân. Bên cạnh đó,
các chuyên gia là những người công tác trong các phái đoàn do
tô chức quốc tế lập để phụ trách hoặc giải quyết những vấn đê
của tô chức ở những quôc gia khác nhau bao gồm cả ở chính
quôc gia mà họ đang là công dân.
V. VIỆC CHẤM DỨT TỒN TẠI VÀ s ự KÉ THỪA
ĐÓI VỚI TÓ CHÚC QUÓC TÉ LIEN CHÍNH PHỦ
Phần này nghiên cứu hai vấn đề liên quan đến sự tồn tại
của tô chức quốc tế liên chính phủ là việc chấm dứt tồn tại của
một tổ chức quốc tế và việc kế thừa tư cách chủ thể luật quốc tế
của các tổ chức quốc tế trong trường họp có tổ chức chấm dứt sự
tồn tại.
5.1. Tổ chức quốc tế liện chính phủ chấm dứt tồn tại
Tổ chức quốc tế có thể chấm dứt sự tồn tại với tư cách chủ
thê luật quốc tế. Có trường họp tổ chức quốc tế chấm dứt tồn tại
mà không có tổ chức mới nào ra đời tiếp nhận tư cách chủ thể.
60
Khi này, vấn đề chuyển giao các quyền và nghĩa vụ không được
đặt ra. Trong trường hợp thứ hai, tổ chức quốc tế chấm dứt tồn
tại và một tổ chức quốc tế mới ra đời tiếp nhận và kế tục hoạt
động của tổ chức quốc tế chấm dứt tồn tại.
Một tổ chức quốc tế có thể chấm dứt tồn tại theo quy định
của điều ước quốc tế thành lập tổ chức. Trong trường hợp này,
điều ước quốc tế thành lập tổ chức sẽ quy định thủ tục dẫn đến
việc chấm dứt. về cơ bản, vấn đề này sẽ được quyết định bởi
chính các quốc gia thành viên - những bên ký kết điều ước quốc
tế. Tùy theo mỗi tổ chức, thủ tục chấm dứt tồn tại là khác nhau.
Chẳng hạn, theo Điều VI(5) Hiệp định thành lập Ngân hàng Thế
giới (WB), một sự đình chỉ hoạt động vĩnh viễn và kết quả là
chấm dứt mọi hoạt động sẽ dựa trên quyết định theo đa sổ của
Hội đồng Quản trị WB. Điều XXVII(2) của Hiệp định thành lập
Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) cũng quy định tương tự.
Việc chấm dứt tồn tại của tổ chức quốc tế thông thường
còn liên quan đến hoạt động của những cơ quan khác của tổ
chức. Do đó, thủ tục chấm dứt tồn tại của một tổ chức có thể phụ
thuộc vào quyết định của nhũng cơ quan khác của tổ chức. Ví
dụ, Liên minh châu Âu chỉ có thể chấm dứt tồn tại dựa trên cơ sở
đề xuất của Hội đồng châu Âu (European Commission) và ý kiến
của Nghị viện châu Âu. Tương tự, đối với LHQ, việc chẩm dứt
tồn tại dựa trên quyết định của Đại hội đồng trên cơ sở kiến nghị
của Hội đồng Bảo an.
Tổ chức quốc tế cũng có thể chấm dứt tồn tại trên cơ sờ
một điều ước quốc tế ký kết sau khi tổ chức ra đời bởi các quốc
gia thành viên. Trong trường hợp này các quốc gia thành viên
phải đạt được một thỏa thuận dẫn đến sự chấm dứt hoạt động của
tổ chức, theo thủ tục do các bên thỏa thuận, trong đó có thê yêu
cầu sự đồng thuận của tất cả các bên ký kết. Ví dụ. các quốc gia
Đông Âu đã thỏa thuận chấm dứt sự tồn tại của Tô chức Hiệp
ước phòng thủ Warsaw tại Hội nghị ủ y ban tư vân chính trị tại
61
Prague ngày 1 tháng 7 năm 1991. Tương tự, việc chấm dứt hoạt
động của tổ chức hợp tác các nước XHCN (COMECON) được
thông qua bằng nhất trí của các thành viên tại Hội nghị Bộ
trưởng các nước thành viên ngày 26 tháng 6 năm 1991.
Tổ chức quốc tế có thể chấm dứt tồn tại khi một tổ chức
khác ra đời trong khuôn khổ của tổ chức này dẫn đến việc tổ
chức quốc tế mới thay thế tổ chức quốc tế cũ trong khi tổ chức
quốc tế cũ chấm dứt tồn tại, hoặc có thể tiếp tục hoạt động77
trong khi các quyền và nghĩa vụ được chuyển giao cho tổ chức
quốc tế mới. Ví dụ: việc tổ chức WTO ra đời trong khuôn khổ
của GATT; Liên minh châu Âu ra đời thay thế cho Cộng đồng
châu Âu.
5.2. Vân đề kế thừa đối vói các tổ chức quốc tế liên
chính phủ
Vấn đề kế thừa đối với các tổ chức quốc tế cũng khá đa
dạng. Nhìn chung, một thỏa thuận giữa hai tổ chức cũ và mới là
phương án tối ưu để giải quyết các vấn đề liên quan đến kế thừa.
Trong trường hợp tô chức quốc tế mới có nhiều điểm tương đồng
với tổ chức quốc tế cũ, ví dụ như LHQ và Hội quốc liên, sự ra
đời của tô chức mới và sự chấm dứt tồn tại của tổ chức cũ diễn ra
gần như đông thời.78 Lúc này, việc chuyển giao các chức năng,
tài sản và trách nhiệm cũng như vấn đề về nhân viên của tổ chức
sẽ được giải quyết bằng hiệp định giữa hai tổ chức có liên quan.
Tô chức quôc tê mới có thê kê thừa chức năng, tài sản và trách
nhiệm vật chât của một số tổ chức quốc tế cũ có liên quan, ví dụ
như trong trường hợp của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế
ICAO thay thế cho 2 tổ chức là ủy ban Kỹ thuật quốc tế về pháp
lý hàng không (CITEJA) và Hội đông quôc tê vê giao thông hàng
không (CINA).
77 Ví dụ như trường hợp của LHQ và Hội quốc liên.
78 Hiến chương LHQ có hiệu lực từ ngày 24/10/1945 trong khi Hội quốc liên
chấm dứt tồn tại vào ngày 19/4/1946.
62
Kế thừa đối với tài sản và các món nợ về cơ bản cũng sẽ
được giải quyết bằng hiệp định giữa tổ chức quốc tế cũ và tổ
chức quốc tế mới, nhìn chung tài sản của tổ chức quốc tế cũ sẽ
thuộc về tổ chức quốc tế mới. Các khoản nợ được giải quyết tùy
thuộc vào việc xác định tư cách của tổ chức quốc tế mới trong
quan hệ đối với tổ chức quốc tế cũ. Trong trường hợp sự thay thế
chỉ thuần túy là việc thay đổi hiến chương hoặc điều lệ thì tổ
chức quốc tế mới sẽ tiếp tục gánh vác các khoản nợ đó. Tương tự
là vấn đề đặt ra đối với các nhân viên của tổ chức quốc tế cũ:
việc giải quyết các vấn đề liên quan đến nhân viên như tuyển
dụng, chế độ hưởng các lợi ích sẽ đơn giản hơn nếu hai bên có
một thỏa thuận về vấn đề này.
về việc kế thừa các chức năng của tổ chức quốc tế chấm
dứt tồn tại, nhìn chung tổ chức quốc tế mới không buộc phải
gánh vác các chức năng của tổ chức quôc tê cũ. Việc chuyên
giao chức năng thường sẽ thực hiện bằng thỏa thuận giữa hai tô
chức và tổ chức quốc tế mới có thể từ chối hoặc xem xét tiêp
nhận những chức năng mà tổ chức cũ để lại. Chẳng hạn, Đại hội
đông LHQ đã yêu cầu Hội đồng kinh tế - xã hội xem xét khả
năng tiêp nhận các chức năng phi chính trị của Hội quôc liên
hoặc chuyển giao chúng cho các cơ quan chuyên môn của LHQ
như WHO và IMF.79 Những chức năng này bao gồm việc giải
quyết các vấn đề về nhân quyền, quy chế của phụ nữ, tài chính,
các vân đê xã hội, các vân đề kinh tê và việc làm.
VI. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ QUÓC TÉ LIÊN
QUAN ĐÉN TỎ CHỨC QUÓC TÉ LIÊN CHÍNH PHỦ
Tổ chức quốc tế với tư cách là một thực thể pháp lý quộc
tế phải gánh chịu trách nhiệm đối với hành vi trái pháp luật quôc
tế, bao gồm hành vi của các cơ quan và nhân viên của tô chức
quốc tế thực hiện. Đồng thời, tổ chức quốc tế có quyền đòi hòi
79 Jan Klabber, tlđd, tr. 305.
63
những chủ thể khác của luật quốc tế phải thực hiện trách nhiệm
pháp lý do những thiệt hại mà chủ thể này gây ra.
Cơ sở xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế là luật quốc tế,
bao gồm các điều ước quốc tế mà tổ chức quốc tế ký kết hoặc
tham gia cũng như các tập quán quốc tế có thể áp dụng để điều
chỉnh quan hệ giữa tổ chức quốc tế với các chủ thể luật quốc tế
khác. Mặc dù vậy, trong một số trường họp, một số vấn đề liên
quan đến trách nhiệm của tổ chức quốc tế đối với quốc gia còn
có thể được điều chinh bằng luật quốc gia. Trong trường hợp
này, nguyên tắc luật nơi có vật (lex situs) được áp dụng để giải
quyết vấn đề bồi thường.80
Trách nhiệm pháp lý liên quan đến tổ chức quốc tế có thể
đặt ra trong hai trường họp:
- Trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với tổ chức quốc tế đặt
ra trong trường hợp hành vi trái pháp luật quốc tế của một chủ
thể của luật quốc tế gây thiệt hại cho tổ chức quốc tế. Ví dụ như
lực lượng vũ trang hoặc cảnh sát của quốc gia gây thiệt hại cho
tài sản hoặc nhân viên của tổ chức.
- Trách nhiệm pháp lỷ quốc tế của tổ chức quốc tế đặt ra
trong trường họp hành vi trái pháp luật quốc tế của tổ chức hoặc
nhân viên của tổ chức quốc tế trong khi thi hành nhiệm vụ nhân
danh tổ chức gây thiệt hại cho một chủ thể khác của luật quốc tế.
6.1. Trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức quốc tế liên
chính phủ
Tư cách chủ thể độc lập là cơ sở để xem xét quyền của tổ
chức quốc tế trong việc đòi hỏi thực hiện trách nhiệm pháp lý đối
với mình. Quan điểm này đã được Tòa án Công lý quốc tế khẳng
định trong vụ Bồi thường (Reparation Case) vào năm 1949.
Theo đó, Tòa đã lập luận khả năng của tổ chức quốc tê trong việc
80 Chitharanjan F Amerasinghe, tlđd, tr. 387.
64
yêu cầu khởi kiện đòi thực hiện trách nhiệm pháp lý đối với
mình căn cứ vào việc sờ hữu tư cách chủ thể luật quốc tế cũng
như các quyền và nghĩa vụ trên cơ sở luật quốc té, xuất phát từ
việc thực hiện các chức năng, thẩm quyền và các quyền và nghĩa
vụ, thể hiện trong điều lệ của tổ chức và các văn kiện pháp lý của
tổ chức.81
Quyền tiến hành khởi kiện và yêu cầu thực hiện trách
nhiệm pháp lý đối với tổ chức quốc tế có thể liên quan đến việc
các quốc gia thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với tổ chức,
căn cứ vào điều ước thành lập tổ chức và các hiệp định riêng rẽ.
ví dụ như hiệp định về trụ sở. Trong trường hợp hành vi vi phạm
là thuộc các quốc gia không phải là thành viên của tổ chức,
quyền khởi kiện xuất phát từ tư cách chủ thể luật quốc tế của tô
chức và điều ưởc quốc tế mà quốc gia tham gia, trong đó ấn định
các quyền của tổ chức quốc tế. Ví dụ: một quốc gia thành viên
ký kết điều ước quốc tế với tổ chức quốc tế về việc đặt trụ sở tô
chức tại lãnh thổ quốc gia mình (như trường họp của Thụy Sỹ)
hoặc về việc quốc gia này tiếp nhận các đại diện của tổ chức làm
việc trên lãnh thổ của mình.
Tổ chức quốc tế đồng thòi cũng có quyền khởi kiện yêu
câu thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế trong trường hợp có
hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho nhân viên của tô chức
trong khi thi hành nhiệm vụ nhân danh tổ chức. Trong trường
hợp này, các cá nhân làm việc cho tổ chức quốc tế và vì vậy họ
nhân danh tổ chức và được hưởng quyền bảo vệ pháp lý từ tô
chức quốc tế chứ không phải từ quốc gia mà họ là công dân.
Tương tự, các quốc gia cũng không thể yêu cầu thực hiện trách
nhiệm pháp lý với lý do nhũng cá nhân này là người mang quôc
tịch của quốc gia mình.82 vấn đề này được quy định rõ ràng
81 Reparation Case [1949] ICJ Reports 185.
82 Chitharanjan F Anierasinghe, Principles of the Institutional Law of
International Organisations (Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 393.
65
trong điều lệ của nhiều tổ chức quốc tế, ví dụ: Điều 100 Hiến
chương LHQ. Trong trường hợp điều lệ của tổ chức không có
quy định này, quyền tiến hành yêu cầu thực hiện trách nhiệm
pháp lý quốc tế được đặt ra trên cơ sờ xem xét những cá nhân
này là nhân viên dân sự quốc tế (ỉnternatỉonal civil servants).
Quan điểm này cũng đã được Tòa án Công lý quốc tế khẳng định
trong vụ Bồi thường (Reparation Case). Theo đó, các cá nhân
khi thi hành nhiệm vụ cho tổ chức quốc tế sẽ nhận được sự bảo
vệ của tổ chức và không cần thiết phải dựa vào sự bảo vệ nào
khác ngoài từ sự bảo vệ của tổ chức.83
Tóm lại, quyền khởi kiện đòi thực hiện trách nhiệm pháp
lý quốc tế đặt ra trong các trường hợp:
- Thiệt hại của chính tổ chức quốc tế đối với mất mát hoặc
hư hại về trụ sở, tài sản, tài chính hoặc các lợi tức gây ra bởi
hành vi trái pháp luật quốc tế;
- Sự thiệt mạng hoặc thương tật gây ra cho các cá nhân là
nhân viên hoặc đại diện của tổ chức quốc tế khi những người này
thực hiện các nghĩa vụ nhân danh tổ chức.
6.2. Trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế
Tương tự, tư cách chủ thể độc lập trong luật quốc tế
cũng dẫn đến việc một tổ chức quốc tế phải gánh chịu trách
nhiệm pháp lý đối với những chủ thể khác của luật quốc tế do
việc vi phạm các nghĩa vụ quốc tế của mình. Những nghĩa vụ
quốc tế dẫn đến trách của tổ chức quốc tế xuất phát từ các điều
ước quốc tế mà tổ chức quốc tế tham gia hoặc được xác định
từ chính điều ước quốc tế thành lập nên tổ chức và các văn
kiện pháp lý của tổ chức.
Trong việc xác định trách nhiệm pháp lý của tổ chức quốc
tế có hai vấn đề cần phải được làm rõ:
83 Reparation Case [1949] ICJ Reports 182.
66
- Cô hay không mot hành vi bât hop phâp càn cü theo luât
quôc tê?
- Hành vi dô cô thê dupe quy cho tô chûc quôc tê hay
không?
Dôi vôi vân dê thû nhât, viêc xâc dinh hành vi bât hop
phâp dupe tien hành càn eu vào câc dieu uôc quôc tê kÿ kêt bôi
tô chûc quôc tê cüng nhu dieu le cüa tô chûc, câc nguyên tâc cüa
luât quôc tê và câc quy pham tâp quân.
Dôi vôi vân dê thû hai, tô chûc quôc tê dupe quy trâch
nhiêm trong trucmg hop câc co quan và nhân viên cüa tô chûc dà
thuc hiên câc hành vi sai trâi trong khi thuc hiên câc chûc nàng
và mue dich cüa tô chûc. Tuy nhiên, nêu câ nhân hoàc nhôm câ
nhân dô hoàn toàn thuc hiên hành vi sai trâi duoi su dieu khiên
cüa quôc gia lien quan thi trâch nhiêm này không thê quy kêt cho
tô chûc quôc tê.
Thuc tien hoat dông cüa LHQ minh hoa cho vân dê này.
Thû nhât, LHQ së tù chôi trâch nhiêm phâp lÿ dôi vôi nhûng
thiêt hai gây ra do câc hoat dông quân su hoàc xuât phât tù yêu
câu vê hành dông quân su, trên co sà cho rang nhûng hành vi
này không phâi là bât hop phâp,848
5vi du: hành dông cô tinh tu vê.
Ngupc lai, LHQ châp nhân trâch nhiêm phâp lÿ vê nhûng thiêt
h^i gây ra do nhûng hành vi mà không dupe bào chûa bàng su
cân thiêt cüa câc hoat dông quân su, vi du nhu viêc phâ hüy mot
each không cân thiêt. su giêt choc, câm tù hoàc truc xuât. 3 Thû
hai, trong truông hop câc lue lupng quân su tham gia vào mot
hoat dông nhân danh LHQ hoàc trên co sô quyêt dinh cüa LHQ
nhûng thuc hiên duôi su dieu khiên cüa mot quôc gia, vi du nhu
84 Bowett, United Nations Forces: A Legal Study’ of United Nations Practice
(London, 1964) 247; Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the
Institutional Law of International Organisations (Cambridge University
Press, 2nd, 2007) trang 402.
85 Chitharanjan F Amerasinghe, trang 402.
67
trường hợp những thiệt hại gây ra do lực lượng liên quân tiến
hành trong chiến dịch tấn công vào Kuwait năm 1990 thì LHQ
cũng không chịu trách nhiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, giáo trình, bài báo
1. Archer (Clive), International Organisations, London,
2nd ed, 1992
2. Bowett, United Nations Forces: A Legal Study o f
United Nations Practice, London, 1964
3. Đại học Luật L(à Nội, Giáo trình Luật quốc tế, Nxb.
Công an nhân dân, 2007
4. Đại học Luật Hà Nội, Giảo trình Luật quốc tế: Dùng
trong các trường Đại học chuyên ngành luật, ngoại giao, Nxb.
Giáo dục, 2010
5. Hall (Stephen), Principles o f International Law (3rded,
LexisNexis Butterworths, 2011
6. Jenks (Winfred), The Proper Law o f International
Organisations, London, 1962
7. Klabber (Jan), An Introduction to International
Institutional Law, Cambridge, 2nd ed, 2009)
8. Misra, “Succession of States: Pakistan’s Membership of
the United Nations”, German Yearbook o f International Law
281,1965,3
9. Ngô Hữu Phước, Luật quốc tế: Sách chuyên khảo, Nxb.
Chính trị Quốc gia, 2010
10. Sands & Klein, Bowett’
s Law o f International
Institutions, 2001
68
11. Shaw (Malcolm N), International Law, 6th ed,
Cambridge University Press, 2008
12. Seidl-Hohenvelden (Ignaz), “Functional Immunity of
International Organisations and Human Rights” in Benedek et al,
Development and Developing International and European Law:
Essays in Hounour o f Konrad Ginther on the Occasion o f His
65thBirthday, 1999
13. Nguyễn Hồng Thao, Tòa án Công lý quốc tế, Nxb.
Chính trị Quốc gia, 2011
14. Trần Văn Thắng, Lê Mai Anh, Hoàng Ly Anh, Luật
quốc tế: Lý luận và thực tiễn, Nxb. Giáo dục, 2001
15. Nguyễn Trung Tín, Tìm hiểu Luật quốc tế, Nxb. Đồng
Nai, 2000
16. Tunkin (Grigory I), ‘The Legal Nature of the United
Nations’ (1966/II0 119 RdC 1-67.
17. Nguyễn Thị Yên, Ngô Hữu Phước, Tập bài giảng Khải
luận chung về luật quốc tế, TP. Hồ Chí Minh, 2008
Các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam
1. Công ước Vienna về đại diện của các quốc gia trong
quan hệ với các tổ chức quốc tế có tính chất toàn cầu năm 1945
2. Hiến chưong Liên hợp quốc 1945
3. Hiệp định chung về quyền ưu đãi và miễn trừ của Hội
đồng châu Âu năm 1949
4. Hiệp ước thành lập cộng đồng than và thép châu Âu
ECSC năm 1951
5. Công ước về quyền miễn trừ quốc gia áp dụng cho các
quốc gia và tổ chức quốc tế ở châu Ẩu năm 1972
69
Các bản án và vụ việc
1. Competence o f the ILO to Examine Proposals for the
Organisation and Development o f Methods o f Agricultural
Production, Advisory Opinion, [1922], PCIJ Publication Series
B, Nos. 2 and 3
2. Competence o f the ILO to Regulate the Conditions o f
Labour o f Persons Employed in Agriculture, Advisory Opinion
[1922], PCIJ Publication Series B, Nos. 2 and 4
3. Competence o f the ILO to Regulate, Incidentallym the
Personal Work o f the Employer, Advisory Opinion, PCIJ
Publication No. 13.
4. Jurisdiction o fV
. the European Commission o f the
Danube between Galatz and Brada, Advisory Opinion, PCIJ
Publication, Series B, No 14, 64, 1926
5. Interpretation o f the Greco-Turkish Agreement o f
December 1st 1926. PCIJ Publication Series B, No. 16, 1928
6. Case o f the Lotus [1927], PCIJ Publication Series A,
No. 10
7. Reparation for Injuries Suffered in the Service o f the
United Nations, Advisory Opinion, 1CJ Reports 174, 1949
8. Effect o fAwards o f Compensations Made by the United
Nations Administrative Tribunal ICJ Reports 47, 1954
Websites
1. International Court of Justice
<http://www.ici-cii.org/homepage/index.php>
2. International Law Commission
< http://www.un.org/law/ilc/index.htm>
70
CHƯƠNG IX
LUẬT QUỐC TÉ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
I. KHÁI NIỆM QUYÈN CON NGƯỜI VÀ LUẬT
QUÓC TÉ VÈ QỨYẺN c o n n g ư ờ i
Chương này nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của
luật quốc tế về quyền con người. Phần thứ nhất của chương phân
tích khái niệm quyền con người và sự phân biệt giữa hai khái niệm
quyên con người và quyên công dân. Phân tiêp theo trình bày
những vấn đề cơ bản của luật quốc tế về quyền con người, bao
gồm đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh và nguồn của
ngành luật này; đông thời phân tích sự khác nhau giữa luật quôc tê
về quyền con người và luật nhân đạo quốc tế. Phần cuối cùng của
chương đi vào phân tích quy định của pháp luật quốc tế về các
quyền con người cơ bản ở một số lĩnh vực chủ yếu và khái quát vê
cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người hiện nay.
1.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người hoàn toàn không phải là khái niệm xa lạ.
Theo nghĩa Hán Việt, thuật ngữ “nhân quyền” được hiêu là
“quyên con người”, bởi lẽ từ “nhân” nghĩa là con người còn
“quyền” có nghĩa là thế, sức mạnh, lợi lộc được hưởng do pháp
luật công nhận hoặc do địa vị đem lại.1 Như vậy, có thê hiêu
“quyền con người” hay “nhân quyền”2 là quyền của môi con
người được tự do tồn tại và hành động, là đặc tính tự nhiên vôn
có của con người. Quyền con người là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích
và năng lực vốn có và chỉ có ờ con người, với tư cách là thành
viên của cộng đông nhân loại. Quyền con người được thê chê
1 Viện Ngôn ngữ học, Đại từ đién tiếng Việt, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà
Nội, 1999.
2Trong chưong này, thuật ngữ “quyền con người'’ sẽ được sử dụng thống nhât
thav cho thuật ngữ “nhân quyền”.
71
hóa trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Trong lịch sử
tư tưởng của nhân loại, có nhiều quan niệm về quyền con người
và quyền này được xem xét, phân tích dưới nhiều góc độ khác
nhau như: chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo...3
Từ thời Hy Lạp cổ đại, nhà triết học Zeno (333 - 346
TCN) theo trường phái cùa học thuyết về quyền tự nhiên
(inatural rights) cho rằng quyền con người là quyền bẩm sinh,
mang tính tự nhiên, vốn có của con người: “không ai sinh ra đã
là một nô lệ cả, địa vị nô lệ là do họ bị tước đoạt tự do von cỏ
của con người”.4 về sau, trường phái tự nhiên được nhiều học
giả khác, tiêu biểu là Thomas Hobbes (1588 - 1679); John Locke
(1632 - 1704) và Thomas Paine (1731 - 1809) phát triển. Các
học giả theo trường phái này cho rằng quyền tự nhiên của con
người là “được sử dụng quyền lực cùa chính mình để bảo đảm
cuộc sống của chỉnh mình, và do đó, được làm bất cứ điều gì mà
mình cho là đúng đắn và hợp lý”.5 Chính phủ là một phương tiện
để bảo vệ các “quyền tự nhiên” chứ không phải để ban phát và
quy định các quyền của con người.
Trái với học thuyết về quyền tự nhiên, học thuyết về các
quyền pháp lý (legal rights) cho rằng quyền con người không
phải là những gì bẩm sinh vốn có mang tính tự nhiên của con
người. Quyền con người phải do nhà nước quy định và pháp
điển hóa thành các quy phạm pháp luật và buộc mọi người
phải tuân theo. Tiêu biểu cho trường phái quyền pháp lý này là
các tác giả Edmund Burke (1729 - 1797) và Jeremy Bentham
(1 7 8 4 - 1832).6
3 Xem thêm Đại học Quốc gia Hà Nội, khoa Luật, Giáo trình Lý luận và pháp
luật về quyền con người, Nxb. CTQG, 2009, tr. 49-55.
4 Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 44
5 Xem: Thomas Hobbes, Leviathan (1,XIV), 1658.
6 Xem thêm Xem Malcolm N Shaw, International Law, 5lh ed, Cambridge
University Press, 2003, tr. 249-250.
72
Việc phân định tính đúng, sai, hợp lý và chưa hợp lý cùa
hai học thuyết này vẫn còn là chủ đề tranh luận trong khoa học.
Hiện nay, có khá nhiều các định nghĩa khác nhau về
“quyền con người”. Ở góc độ quốc tế, định nghĩa “quyền con
người” thường được xây dựng dựa vào định nghĩa của Văn
phòng Cao ủy LHQ về quyền con người,7 theo đó “quyền con
người được hiểu chung là những quyền thuộc về con ngicời
(human being). Khái niệm quyền con người thể hiện ở việc mọi
cả nhân con người đều cỏ quyền hưởng những quyền của mình
mà không có sự phân biệt về chủng tộc, màu da, giới tỉnh, ngàn
ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị, dân tộc hoặc nguồn gốc xã
hội, tài sản, sự sinh ra hoặc những quy chế khác”.8 Ngoài ra,
“quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác
dụng bảo vệ các cá nhân và các nhỏm chông lại những hành
động hoặc không hành động can thiệp đến nhân phẩm, những
quyền và nhân cách của con người”.9 Còn tại Việt Nam, quyền
con người thường được hiểu là "'những nhu cầu, lợi ích tự nhiên
von có và khách quan cùa con người được ghi nhận và bảo vệ
trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc té”.10
7 Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr.41.
8 Office of the High Commission for Human Rights, ‘A Basic Handbook for
UN S taff, 2000, tr. 2
http://www.ohchr.org/Documents/Publications/HRhandbooken.pdf
(Nguyên văn: «Human rights are commonly understood as being those rights
which are inherent to the human being. The concept of human rights
acknowledges that every single human being is entitled to enjoy his or her
human rights without distinction as to race, colour, sex, language, religion,
political or other opinion, national or social origin, property, birth or other
status »).
9 Nguyên bản tiếng Anh “Human rights are universal legal guarantees
protecting individuals and groups against actions and omissions that interfere
with fundamental freedoms, entitlements and human dignity”.
http://www.ohchr.org/Documents/PubIications/FAQen.pdf
10Đại học Quôc gia Hà Nội, sdd, tr. 42.
73
Thực tiễn ghi nhận và bảo vệ quyền con người trên thê
giới đã chứng minh tính phổ cập của khái niệm quyền con người.
Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776) khẳng
định: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban
cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đỏ
có quyền sổng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc...',
Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lại trong
Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày
2/9/1945. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm
1948 của LHQ đưa ra 30 điều khoản có tính nguyên tắc về quyền
con người, trong đó thừa nhận “phẩm giá vốn có và các quyền
bình đẳng và không thểjách rời của mọi thành viên trong gia
đình nhăn loạĩ"}x Các Công ước 1966 của LHQ1
1
12khẳng định lại
và cụ thể hoá thêm những nguyên tắc đó thành các quyền dân sự,
chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
1.1.1. Bản chất giai cấp —xã hội của quyển con người
về phương diện lý luận, quyền tự nhiên của quyền con
người là quyền của mỗi con người đòi được tự do, tồn tại và
hành động. Hiểu ở nghĩa này thì bất kỳ ai, không phân biệt sắc
tộc, tôn giáo, điạ vị xã hội... nếu đã là một con người thì đều có
quyền con người, không phụ thuộc vào việc người đó ở đâu,
sống vào thời đại nào. Hệ quả là quyền con người là đồng nhất,
không phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác như tính giai
cấp, dân tộc, quyền tồn tại và phát triển của một quốc gia. Tuy
nhiên, việc tuyệt đối hóa cách hiểu này sẽ không chính xác, bởi
lẽ ‘‘hạn chế của quan điểm này là ở chỗ nó đã tuyệt đổi hoá mặt
1
1 Đoạn 1, Lời nói đầu cùa Tuyên ngôn toàn thề giới về quyền con người năm
1948 cùa LHQ.
12Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Công ước quốc tê về
các quyên kinh tế, xã hội và văn hóa.
74
tư nhiên bấm sinh của nhăn quyển và trở thành những quyền
trừu tượng, khó thực hiện được trong thực /é”,1
3
Theo quan điểm của chủ nghĩa Marx —Lenin thì quyền
con người phải gắn liền với trình độ phát triển của xã hội, nhất là
sự phát triển của lực lượng sản xuất.141
5
1
6Quyền lợi không bao giờ
có thể vượt ra ngoài cơ cấu kinh tế - xã hội và trình độ phát triển
văn hóa xã hội trên nền tảng cơ cấu kinh tế đó.13 Như vậy, tiền
đề để thực hiện quyền con người là tùy thuộc vào mức độ nhận
thức của con người đối với quy luật phát triển xã hội và hoạt
động thực tiễn của con người trong việc cải tạo thế giới. Lịch sử
phát triển của loài người đã chứng minh rằng tự do của con
người là trong phạm vi cho phép của lực lượng sản xuất, chứ
không phải trong phạm vi cho phép của lý tưởng, của quan niệm
chủ quan đơn thuần. Quyền con người mang tính giai cấp; quyên
con người gắn với độc lập dân tộc và quyền làm chủ nhân dân;
quyền con người không thể đặt lên trên quyền tồn tại và phát
triển của một quốc gia.
Thứ nhất, quyền con người trước hết mang tính giai cấp và
vì thế không có quyền con người trừu tượng, siêu giai cấp.
Quyền con người là quyền của con người với tư cách là thành
viên của xã hội, nội dung và tiêu chuân của nó được quyêt đinh
1
3 Hoàng Văn Hảo, Quyền con người ớ Trung Quốc vct Việt Nam, Nxb. Chính
trị quốc gia. Hà Nội 2003, tr .211 -212 .
14 “Quyền con người không phái là bầm sinh mà là sản sinh ra trong lịch sù”.
Xem K. Marx và Ph. Engels: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, Tập 2. tr. 173.
1
5Theo PGS. TS. Hoàng Văn Hảo thì “quyền khône; bao giờ có thêợ một mức
cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triền văn hoá của xã hội do chê độ kinh tê
đó quyết định”. Hoàng Văn Hảo, sđ d , Tập. 19. tr 36.
16 Theo tác giả Lang Nghị Hoài thì “khi dùng thước đo tự do và bình đăng đê
đánh g/ứ quyên con người trong đời sông phái đưa chúng vào khuôn khô phân
tích qiai ccĩp và tư duy biện chứng”. Xem Lang Nghị Hoài, “Thực tê quyên
con người trong CNXH và cuộc đấu tranh vì quyền con người trên thế giới”.
Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội 2003, tr. 233.
75
bởi chế độ kinh tế và chính trị của một xã hội nhất định nào đó,
đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm về văn hóa và giá
trị truyền thống của một quốc gia và dân tộc.
Thứ hai, xã hội và quốc gia là phưcmg thức tồn tại của con
người hiện thực, mỗi con người được sống trong một chế độ nhà
nước nhất định. Do đó, khái niệm quyền con người cần phải hiểu
trong mối liên hệ với khái niệm chủ quyền quốc gia. Chủ quyền
quốc gia và quyền con người là không thể tách rời nhau mà luôn
luôn gắn kết với nhau. Việc thành viên trong xã hội thực hiện
quyền bảo vệ chủ quyền quốc gia nơi họ đang sống chính là bảo
vệ quyền con người của họ. Tôn trọng chủ quyền quốc gia là
điều kiện để hiện thực hóa quyền con người bằng hình thức quốc
gia ban hành pháp luật quy định và bảo đảm quyền con người
trong các quan hệ xã hội. Tôn trọng chủ quyền quốc gia trong
quan hệ đối ngoại là nhằm duy trì hòa bình an ninh quốc tế là
bảo đảm quyền con người trên bình diện quốc tế.1
7 Theo học
giả Xô viết G. Tunkin thì nguyên tắc tôn trọng quyền con
người trong luật quốc tế bao gồm: (i) nghĩa vụ của tất cả các
quốc gia tôn trọng các quyền cơ bản và tự do của mọi cá nhân
trong lãnh thổ của mình; (ii) nghĩa vụ không phân biệt đối xử
dựa trên giới tính, màu da, tôn giáo hoặc ngôn ngữ và (iii)
nghĩa vụ của tất cả các quốc gia thúc đẩy sự tôn trọng toàn câu
17 Tại hội nghị quốc tế về quyền con người lần thứ hai họp ờ Vienna ngày
16/6/1993, Việt Nam đã xác định rõ "Vị trí không ngừng gia tăng cùa luật
pháp quốc tế trong đời sổng thế giới và ý thức ngày càng sáu rộng của nhân
dán các nirớc khiến cho các nguyên tũc và mục tiêu cơ bán cùa Hiên chương
LHQ, Tuyên ngôn về quyển con người và hai Công ước quôc tê vê các quyên
kinh tê, xã hội, văn hoá và các quyền dân sự, chính trị trớ thành tiêu chuân và
đòi hỏi phố biển của mọi người và mọi dán tộc trong thời đại chiing ta. Các
nguyên tắc cơ bàn trong các văn kiện quốc tế đó là những giá trị chung cùa
nhãn loại mà chúng ta cần bảo vệ”.
76
đối với quyền con người và hợp tác với các quốc gia khác
nhằm đạt đến mục đích đó.1
8
Thứ ba, quyền con người, quyền duy trì đời sống và phát
triên bình thường của mỗi con người bao giờ cũng gắn bó chặt
chẽ với quyền sống và phát triển của cả cộng đồng mà con người
là thành viên, mỗi người phải tuân thủ và hành động phù hợp với
pháp luật. Điều 29 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm
1948 quy định: “7. Mỗi người đều có những nghĩa vụ đoi với
cộng đồng mà ở chỉnh trong đó nhân cách của bản thân có thể
phát triển tự do và đầy đủ; 2. Mỗi người, trong khi hưởng t h ụ
các quyển và tự do cá nhân chỉ phải chịu những hạn chế do luật
định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và sự
tôn trọng đoi với các quyền và tự do của những người khác và
phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công
cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dần c h ỉr.
Lịch sử phát triển của quyền con người cho thấy quyên
con người là một giá trị nhân văn và tiến bộ gắn liền với ìịch sử
phát triển của xã hội loài người. Ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện
những tư tưởng và yêu sách về các quyền trong các luật lệ vê
chiến tranh và các luật về nhân đạo.19 Những tư tưởng khởi thủy
vê quyên con người mặc dù vậy vẫn còn manh nha, rời rạc, mang
nặng tính chất tôn giáo cho đến khi Nghị viện Anh xây dựng
“Kiến nghị về các quyền"’ năm 1628 và sau đó được bô sung
thành “Luật về các quyền” năm 1689 và Tuyên ngôn độc lập của
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776; Pháp thông qua "Tuyên
ngôn nhân quyền và dân quyền” năm 1789... là những văn kiện
quan trọng mang tính quốc tế về quyền con người. Đây là kêt
18 G Tunkin, Theory ofInternational Law, London, 1974, tr. 81.
19 Khoáng 3000 - 1500 năm trước Công nguyên, quyền con người đã được
đề cập đến trong bộ luật nhân dạo nối tiếng cùa xứ Babylon, trong đó có
lời mở đầu “Ta thiết lập những điềĩi luật nàv nhằm nyăn ngừa ké mạnh áp
bức ké yếu...
77
quả của các cuộc cách mạng đòi giải phóng và tự do của hàng
triệu người bị áp bức trên toàn thế giới.
1.1.2. Tính chất của quyền con người
Quyền con người với ý nghĩa là một phạm trù chính trị, xã
hội, pháp lý có những tính chất đặc thù của nó. Những tính chất
này được thừa nhận bởi cộng đồng quốc tế, thể hiện trong những
văn kiện pháp lý quan trọng của LHQ. Theo tài liệu của Văn
phòng Cao ủy về quyền con người của LHQ20thì những tính chất
cơ bản của quyền con người có thể tóm tắt bao gồm:
- Tỉnh phổ biến (universal): các quyền con người được áp
dụng một cách bình đẳng đối với mọi người mà không có bất kỳ
sự phân biệt đối xử nào.
- Tỉnh không thể chuyển nhượng (inalienable): các quyền
con người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện,
ví dụ như quyền tự do của một người chỉ bị hạn chế nếu người
này bị kết án là có tội bởi tòa án.
- Tính không thể phân chia (indivisible): các quyền con
người đều có tầm quan trọng như nhau và không thể coi quyền
nào có giá trị hơn những quyền khác.
- Tính liên hệ và phụ thuộc lan nhau (interrelated and
interdependent): các quyền con người cần được xem xét trong
tổng thể các quyền khác và các quyền con người có mối liên hệ
phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Việc một quyền con người nào
đó bị xâm hại ảnh hưởng đến trực tiếp hoặc gián tiếp việc đảm
bảo một quyền khác. Ngược lại, việc đảm bảo một cách tích cực
một quyền có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đên việc đảm
bảo những quyền còn lại.21
20 Office of the High Commission for Human Rights, tlđd, tr.3.
21 Xem thêm Đại học Ọuốc gia Hà Nội, sđd, tr. 47-48.
78
1.2. Quyền con ngưòi trong tưong quan so sánh vói
quyền công dân
Ngoài khái niệm “quyền con người”, một khái niệm khác
cần được đề cập, đó là “quyền công dân”. Quyền con người và
quyền công dân thống nhất, nhưng không đồng nhất. Là con
người, mọi người đưcmg nhiên đều có quyền con người. Bên
cạnh đó công dân cũng là con người, do vậy, ngoài quyền con
người thì công dân còn có quyền công dân. Trên cơ sở chủ quyền
quốc gia, các nhà nước cụ thể hóa các quyền con người và có
những quy định riêng dành cho những bộ phận dân cư có sự găn
bó mật thiết nhất với quốc gia mình. Hệ thống các quyền con
người được thể chế hóa bằng những quy tắc hiến định tạo thành
hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và không
hoàn toàn tách bạch với các quyền con người cơ bản mà mỗi cá
nhân đều được hưởng.
Nói một cách khác, không phải tất cả mọi con người sống
trên lãnh thổ quốc gia đều là công dân của quốc gia đỏ; vì vậy
không phải mọi người đều có quyền công dân theo pháp luật của
quốc gia đó. Những quyền này chi có đối với người mang quôc
tịch, là công dân của nước đó.22 Ngược lại, quyền công dần bao
hàm trong đó cả quyền con người. Ví dụ, những người phạm tội
bị kết án tù không được hưởng một số quyền công dân; nhưng
xét ở góc độ quyền con người, công dân đó vẫn có những quyên
con người cơ bản như quyền sống, quyền được tự do phát triên,
quyền không bị đánh đập, tra tấn, bị bắt làm nộ lệ ...
22 Theo tác íỉià Trần Ngọc Đường thì “Quyền cóng dân là quyền con người, là
những giá trị gắn nền với một Nhà nước nhất định và được Nhà nước dó hảo
hộ hang phctp luật của mình đối với người mang quôc tịch cùa nước mình, thê
hiện mối uẻn hệ pháp tý cơ bàn giữa mỗi vá nhân cùa công dân với một nhà
nước cụ thê". Xem Trần Ngọc Đường, Quyên con người, quyền công dân
trong Nhà nước pháp quyên xã hội chú nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị Quôc
gia —Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 24.
79
Như vậy, có thể nói rằng quyền công dân là hình thức biểu
hiện cụ thê của quyền con người trong một chế độ xã hội, một
nhà nước cụ thể. Việc một người được hưởng quyền công dân
hay không và được hưởng đến mức nào phụ thuộc vào quy chế
pháp lý của họ tại nước cư trú cũng như tư cách công dân của
người đó.
về mặt nội dung, quyền công dân có những điểm trùng với
quyền con người, nhưng nó cụ thể hem, gắn liền với đặc điểm
chính trị - văn hóa - xã hội, trình độ phát triển một quốc gia nhất
định và phải được quốc gia đó quy định bàng pháp luật mà cụ thể
là bằng những quy định mang tính nguyên tắc trong hiến pháp.
Khái niệm quyền công dân bao hàm mối quan hệ qua lại giữa
công dân và quốc gia về quyền và nghĩa vụ. Công dân phải có
nghĩa vụ và trách nhiệm đối với quốc gia mà mình mang quốc
tịch và ngược lại nhà nước, đại diện cho quốc gia, phải có nghĩa
vụ bảo vệ công dân của mình được hưởng quyền bình đẳng theo
quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ công dân phụ thuộc
chặt chẽ vào chế độ chính trị - xã hội, vào trình độ phát triển kinh
tế, văn hóa của quốc gia ờ mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Do
vậy, ở mỗi quốc gia khác nhau có những quy định về quyền công
dân khác nhau.
Hiến pháp 1992 của CHXHCN Việt Nam khẳng định “Ở
nước CHXHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân
sự, kinh tể văn hoá, xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền
công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50).
Tiếp theo đó, từ Điều 51 đến 81 của Hiến pháp quy định các
quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong đó có những quyền rất
quan trọng như quyền tham gia quản lý nhà nước (Điều 53);23
quyền bầu cử, ứng cử (Điều 54);24 quyền tự do kinh doanh (Điều
23 Điều 29 Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992 đưa ra lấy ý kiến nhân dân tháng
1 năm 2013.
24 Điều 28 Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992.
80
57);25 quyền nghiên cứu khoa học, phát minh, sáng chế (Điều
60);26 quyền được bảo vệ sức khoẻ (Điều 61);27 quyền tự do
ngôn luận, tự do báo chí, lập hội, hội họp, biểu tình (Điều 69);28
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 70)29... Đó là sự cụ thể
hoá quyền con người và quyền công dân trong điều kiện cụ thể
của Việt Nam, phù họp với các nguyên tắc chung về quyền con
người được quốc tế công nhận.
1.3. Khái niệm luật quốc tế về quyền con người
Hiện nay có nhiều quan điểm, cách hiểu và tiếp cận khác
nhau đối với luật quốc tế về quyền con người. Ví dụ, luật quốc tê
vê quyền con người (International Law on Human Rights) có thể
đựợc hiểu là: “mộ/ hệ thống các quy tắc, tiêu chuẩn và tập quán
pháp lý quốc tế xác lập, bảo vệ và thúc đầy các quyển và tự do
cơ bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại”.30
Trước hết cần khẳng định luật quốc tế về quyền con
người là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc 'tế. Do
vậy, luật quốc tế về quyền con người là tổng thể những
nguyên tắc và quy phạm pháp lý do các quốc gia và các chủ
thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên, nhằm điều
chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thê của luật quôc tê
trong lĩnh vực quyền con người. Từ khái niệm luật quôc tê vê
quyền con người có thể thấy ràng:
Thứ nhất, luật quốc tế về quyền con người là một tập hợp
các nguyên tấc và quy phạm pháp lý quốc tế được các quôc gia
và chủ thể của luật quốc tế xây dựng nên như một chuân mực
25 Điệu 34 Dự thào Sứa đổi Hiến pháp 1992.
26 Điệu 43 Dự thảo Sừa đội Hiện pháp 1992.
27 Điệu 41 Dự thảo Sửa đội Hiến pháp 1992.’
28 Điều 26 Dự thào Sữa đội Hiến pháp 1992.
29 Điều 25 Dự thào Sửa đổi Hiến pháp 1992.
30 Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 131.
81
chung được áp dụng để điều chỉnh, bảo vệ và thúc đẩy các quyền
tự do cơ bản của mọi thành viên của cộng đồng nhân loại.
Thứ hai, các quy phạm và nguyên tắc của luật quốc tế về
quỵên con người được các quốc gia và chủ thể khác của luật
quôc tê xây dựng nên, trước hêt thông qua phương pháp thỏa
thuận, băng cách ký kết các điều ước quốc tế hoặc cùng chấp
nhận những tập quán quốc tế liên quan đến quyền con người.
Thứ ba, luật quốc tế về quyền con người điều chỉnh các
quan hệ giữa: (i) các quốc gia với quốc gia trong việc tuân thủ,
thúc đầy và bảo vệ quyên con người —thành viên của cộng đông
nhân loại và; (ii) điều chỉnh các nghĩa vụ của quốc gia liên quan
đên quyên con người như nghĩa vụ tôn trọng; nghĩa vụ bảo vệ và
nghĩa vụ thực hiện, v ề'nguyên tắc, các nghĩa vụ của quốc gia
trong việc thực hiện quyền con người mang tính liên tục, tuy
nhiên trong những hoàn cảnh khẩn cấp đe dọa đến an ninh, chủ
quyên quôc gia thì quốc gia có quyền áp dụng những hạn chế về
việc quỵ định và thực hiện các quyền được quy định trong Công
ước quôc tê vê các quyên dân sự, chính trị năm 1966 miễn là các
biện pháp áp dụng không trái với các nghĩa vụ khác được pháp
luật quốc tế quy định. (Điều 4 của Công ước).
Thứ tư, về hình thức, luật quốc tế về quyền con người
được thê hiện trong các văn bản pháp luật quốc tế về quyền con
người mang tính toàn cầu và khu vực như: Hiến chương LHQ
1945; Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948 và hai
Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, 1966 (International
Covenant on Civiỉ and Political Rights - ICCPR), Công ước quốc
tế về quyền kinh tế, xã hội, văn hoá, 1966 (International
Covenant on Economic, Social and Cultural Rights - ICESCR)
cùng hai Nghị định thư bổ sung của hai Công ước 1966 được
xem là “Bộ luật quốc tế về quyền con người”.31 Quyền con người
31 Hiện nay Việt Nam đã tham gia 9 công ước: Công ước không áp dụng thời
hiệu tô tụng đôi với tội phạm chiến tranh và tôi phạm chống nhân loại; Công
82
trở thành một giá trị pháp lý được quốc tế hoá và từ đó đến nay
đã có hơn 114 văn bản pháp lý quốc tế về lĩnh vục quyền con
người được LHQ và các chủ thể khác thông qua.32 Trong đó, có
34 công ước, hiệp ước và nghị định thư được công bố nhằm cụ
thê hoá và phát triển tư tưởng về quyền con người trong Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người.
về mặt học thuật, khái niệm “luật về quyền con người”
(Human rights law) là một khái niệm rộng, bao hàm cả luật quốc
tế về quyền con người (gồm những nguyên tắc và quy phạm
pháp luật quốc tế về quyền con người) và pháp luật quốc gia vê
quyên con người bao gôm những quy định pháp luật quôc gia
nhằm cụ thể hóa và thực thi các quyền con người trong phạm vi
quốc gia.
II. ĐÓI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP ĐIÈU CHỈNH VÀ
NGUÒN CỦA LUẬT QUÓC TÉ VẺ QUYÈN CON NGƯỜI
2.1. Đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế về quyền con
ngưòi
Là một ngành của luật quốc tế, đối tượng điều chinh của
luật quốc tế về quyền con người có những điểm tương đông với
luật quôc tế. Điều này được thể hiện ở việc luật quốc tê vê quỵên
con người điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể truyên thông
của luật quôc tế như các quốc gia, các dân tộc đang đâu tranh
thực hiện quyền dân tộc tự quyết và các tổ chức quôc tê liên
chính phủ trong việc thúc đẩy, thực hiện và bảo vệ quyên con
người trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và trên toàn thế giới.
ước về ngăn ngừa và trùng trị tội Apacthai; Công ước về ngăn ngừa và trừng
trị tội diệt chủng; Công ước về loại trừ các hình thức phân biệt chùng tộc;
Công ước Gionevơ năm 1949 về bào vệ nạn nhân chiến tranh (bôn công ước
và hai biên bản bổ sung); Công ước về qủyền kinh tế —xã hội và văn hoá;
Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân
biệt đối xừ với phụ nữ; Công ước về quyền trẻ em.
32 Xem Trần Ngọc Đường, S lid . tr. 34.
83
về thực chất, luật quốc tế về quyền con nguời điều chỉnh
mối quan hệ giữa quốc gia, đại diện là nhà nước và con người.
Tuy nhiên, xét về bản chất, luật quốc tế về quyền con người
không điều chỉnh trực tiếp những vẩn đề phát sinh trực tiếp giữa
cá nhân và quốc gia mà vấn đề này được điều chỉnh bằng pháp
luật của quốc gia liên quan. Mặc dù vậy, các quy tắc của luật
quốc tế về quyền con người đặt ra những chuẩn mực khung mà
các quốc gia khi điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền con
người phải tuân thủ. Mối quan hệ giữa luật quốc tế về quyền con
người với luật quốc gia cũng chính là sự thể hiện của mối quan
hệ biện chứng giữa luật quốc tế và luật quốc gia. Theo đó, luật
quốc tế về quyền con người tác động tích cực đến sự phát triển
của pháp luật quốc gia về quyền con người thông qua hoạt động
nội luật hóa nội dung,của các quy định trong luật quốc tế về
quyền con người vào pháp luật quốc gia. Ngược lại, luật quốc gia
đóng vai trò là phương tiện thực thi các quy định của luật quốc tế
về quyền con người ở phạm vi từng quốc gia.
về nguyên tắc, trong luật quốc tế, nhà nước là chủ thể có
quyền chủ quyền xừ lý các vấn đề liên quan đến công dân của
mình. Điêu này thuộc công việc nội bộ của quốc gia, các quốc
gia khác không được quyền can thiệp. Tuy nhiên, quyền của nhà
nước đối với con người không phải là tuyệt đối. Trước hết, mọi
ngưòi đều được hưởng quyền cơ bản mang tính tự nhiên của con
người - quyền được sống; được mưu cầu hạnh phúc... Đối với
những quyền này, các quốc gia trên thế giới phải tuân thủ những
tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người mà các quốc gia
tự nguyện cam kết trong các điều ước quốc tế về quyền con
người. “ Việc một nhà nựớc vi phạm các tiêu chuẩn pháp lý quốc
tế về quyền con người trong quan hệ với các công dân sẽ bị coi
là sự vi phạm nghĩa vụ quốc tế của nhà nước đỏ khi đã cam kết
thi hành”.3* Ví dụ, ủy ban về quyền con người của LHQ và Tòa3
3
33 Xem Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 134.
84
án quốc tế về quyền con người có thể xem xét các yêu cầu của
một con người cụ thể là công dần của một quốc gia khi cá nhân
này cho rằng mình là nạn nhân của những hành động vi phạm
quyền con người của chính phủ họ với điều kiện là những quốc
gia này phải chấp nhận thẩm quyền của các thiết chế nói trên.34
Nhìn chung, quyền con người trong luật quốc tế bao gồm
cốc quyền dân sự và chính trị; các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa và các quyền đổi với những nhóm người dễ bị tổn tương.35
2.2. Phưong pháp điều chỉnh của luật quốc tế về quyền
con ngưòi
Luật quốc tế về quyền con người là một ngành luật nằm
trong hệ thống pháp luật quốc tế. Do vậy, phương pháp điều
chinh của ngành luật này cũng mang đặc trưng cơ bản của
phương pháp điều chỉnh của luật quốc tế, đó là phương pháp thỏa
thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế. Quan hệ quốc tế nói
chung và quan hệ giữa các quốc gia về quyền con người được
xây dựng và tồn tại trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền giữa các
quốc gia. Do vậy, cơ chế xây dựng, thực thi và tuân thủ pháp luật
quốc tế mang tính chất tự điều chỉnh với những phương pháp do
chính các chủ thể của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên. Sự
thỏa thuận đó được thể hiện bàng việc các quốc gia ký kết các
34 Điều 1 Nghị định thư không bắt buộc thứ nhất của Công ước quốc tế về
các quyền dân sự và chính trị quy định “Mộ/ quốc gia thành viên của
Công ước mà trở thành thành viên cùa Nghị định thư này thừa nhận thâm
quyển cùa ũv ban Quyền con người được nhận xem xét, xừ lv những thông
tin từ các cá nhân, những người mà tuyên bố rang họ là nạn nhàn cùa
những hành động vi phạm cùa các quốc gia thành viên với bất kỳ một
quvền con người nào đã được ghi nhận trong Công ước, ủy ban sẽ không
nhận xem xét những khiếu nại như vậv nếu chúng liên quan đèn hành vi
cùa những quốc gia thành viên cùa Công tróc nhưng chưa phải lù quốc
gia thành viên cùa Nghị định thư này”.
35 Bạo gồm quyền phụ nữ, quyền trẻ em, 'quyền cùa người khuyết tật, quyền
cùa các dân tộc thiêu số và quyên cùa người lao động di trú và quyền của
những người sông chung với HIV/AIDS.
85
điều ước quốc tế điều chỉnh các quan hệ nói chung và quan hệ
liên quan đến việc thúc đẩy, bảo vệ và thực thi các tiêu chuẩn
quốc tế về quyền con người nói riêng.
2.3. Nguồn của luật quốc tế về quyền con người
Nguồn của luật quốc tế về quyền con người là những hình
thức biểu hiện của các quy phạm pháp lý quốc tế do các chủ thể
của luật quốc tế xây dựng nên nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp
lý quốc tế giữa các chủ thể của luật quốc tế về quyền con người.
Từ lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và áp dụng quy
phạm pháp lý quốc tế cho thấy nguồn của luật quốc tế về quyền
con người cũng là các loại nguồn của luật quốc tế đề cập ở Điều
38(1) Quy chế Tòa án quốc tế.36Như vậy, nguồn của luật quốc tế
về quyền con người baơ gồm:
Thứ nhất, các điều ước quốc tế mang tính toàn cầu hoặc
khu vực về quyền con người do các chủ thể của luật quốc tế (các
quốc gia; các tổ chức quốc tế liên chính phủ và các dân tộc đang
đấu tranh giành độc lập và quyền dân tộc tự quyết) thỏa thuận ký
kết; chúng có hiệu lực ràng buộc đối với các bên tham gia.
Nguồn của luật quốc tế về quyền con người còn bao gồm các tập
quán quốc tế về quyền con người.
Thíĩ hai, các nghị quyết của LHQ và các cơ quan chuyên
môn của tổ chức này có liên quan đến vấn đề quyền con
người. Tuy nhiên cần lưu ý là trong số này chỉ những nghị
quyết của Hội đồng Bảo an LHQ mới có giá trị pháp lý ràng
36 Bao gồm: (i) các điều ước quốc tế chung hoặc riêng, trong đó có các quy
định được các bên tranh châp thừa nhận; (ii) tập quán quốc tế như là một
chứng cứ thực tiễn chung được thừa nhận là một tiêu chuấn pháp lý; (iii) các
nguyên tắc pháp lý được các dân tộc văn minh thừa nhận; (iv) với điều kiện
nêu ở Điều 59, các phán quyết cùa Tòa án Công lý quốc tế và các quan điếm
của các chuyên gia pháp luật quốc tế có chuyên môn và uy tín cao, được xem
là phưong tiện bổ trợ để xác định các tiêu chuân pháp lý. Xem Điều 38, khoản
1 Ọuy chế Tòa án Công lý quốc tế.
86
buộc căn cứ vào các quy định tại Điều 25 và Chương VII của
Hiến chương LHQ.37
Thứ ba, các tuyên ngôn, tuyên bố, nghị quyết, các khuyến
nghị, hướng dẫn... của các tổ chức quốc tế khác không có giá trị
pháp lý bắt buộc đối với các quốc gia. Tuy nhiên, trong thực tiễn
khi vận dụng giải thích, tuyên truyền và phổ biến giáo dục quyền
con người, những văn kiện quốc tế nói trên có thể được tham
khảo, vận dụng và chấp thuận như là một quy phạm tập quán. Ví
dụ: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948
(Universal Declaration o f Human Rights - UDHR) không phải là
một điều ước quốc tế song UDHR có sức nặng “luân lý” to lớn.
Hiện tại, nó được xem là nền tảng của luật tập quán quốc tế về
quyền con người, tức là có hiệu lực bắt buộc với mọi quốc gia
trên toàn thế giới.38 Nội dung của Tuyên ngôn trên thực tế đã
được trích dẫn, áp dụng và được pháp điển hóa từng phần trong
nhiều điều ước quốc tế khác nhau.
Thứ tư, các kết luận, khuyến nghị do ủy ban Giám sát
quốc tế về quyền con người đưa ra trong quá trình xem xét báo
cáo của các quốc gia trong việc thực hiện các công ước về quyền
con người. Các văn bản này tuy về mặt pháp lý chỉ có tính chất
khuyến nghị nhưng trên thực tiễn được xem như những ý kiến
chính thức giải thích điều ước quốc tế về quyền con người, được
các quốc gia tôn trọng và tuân thủ.
Thứ năm, các phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế về
quyền con người cũng như của một số tòa án khu vực về quyền
con người (như Tòa án châu Âu vê quyên con người). Những
phán quyết này đóng vai trò là nguôn bô trợ nhăm giải thích, làm
37 Hội đồng Quyền con ngưòi của LHỌ (HRC) là cơ quan được thành lập theo
Nghị quyết số 60/251 ngày 03/4/2006 cũa Đại hội đồng LHQ (Cơ quan này
thay thế ủy ban Quyền con người của LHQ tnrớc đây).
38 Xem Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr.161
87
sáng tỏ nội dung của những điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc
tế điều chỉnh vấn đề quyền con người.39
Thứ sáu, các quan điểm, giải thích, nghiên cứu của các học
giả có uy tín, chuyên môn cao về quyền con người là những
nguồn bổ trợ có giá trị.
Cho đến nay cộng đồng quốc tế đã xây dựng và thỏa thuận
thông qua nhiều điều ước quốc tế quan trọng về quyền con
người. Có thể liệt kê một số điều ước chủ chốt như: (i) Hiến
chương LHQ; (ii) Bộ luật quốc tế về quyền con người: Tuyên
ngôn thế giới về quyền con người năm 1948; Công ước quốc tế
về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR); Công ước
quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966
(ICESCR); Nghị định thư tùy chọn (thứ nhất) của ICCPR; Nghị
định thư tùy chọn (thứ hai) của ICCPR về việc xóa bỏ hình phạt
tử hình; (iii) Các văn kiện cốt lõi về quyền con người: Công ước
quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc
năm 1965 {International Convention on the Elimination o f AU
Forms o f Racial Discrimination - ICERD); Công ước về xoá bỏ
mọi hình thức phân biệt đối xừ chống lại phụ nữ năm 1979
(Committee on the Elimination o f Discrimination against Women
- CEDAW); Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt
và đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục khác năm 1984
{Convention against Torture - CAT); Công ước về quyền trẻ em
năm 1989 {Convention on the Rights o f the Child - CRC); Công
ước quốc tế về bảo vệ quyền của mọi người lao động di trú và
39 Xem Xem Nottebolm case, ICJ Reports, 1955; Asylum case (Peru v
Colombia) ICJ Reports, 1950; US Diplomatic and Consular Staff in
Tehran case, ICJ Reports 21, 1980; La Grand case (Germany v. USA) ICJ
Reports 2001; Western Sahara (Advisory Opinion) ICJ Reports 12, 1975;
Legality of the Threat or Use ofNuclear Weapons, ICJ Reports, 1996 ;
Legal Consequences of the Construction of a Wall in the Occupied
Palestinian Territory, ICJ 09/7/2004 ; Accordance with International Law
of the Unilateral Declaration of Independence in Respect of Kosovo, ICJ
Reports, 2010.
88
các thành viên của gia đình họ năm 1990 (Convention on the
Protection o f the Rights o fAll Migrant Workers and Members o f
Their Families - ICRMW); Công ước quốc tế về bảo vệ tất cả
mọi người khỏi bị đưa đi mất tích năm 2006 (International
Convention for the Protection o f All Persons from Enforced
Disappearance - ICPPED); Công ước về quyền của những người
khuyết tật năm 2006 (Convention on the Rights o f Persons with
Disabilities - ICRPD); Tuyên bố thiên niên kỷ của LHQ năm
2000; (iv) Quyền con người trong quản lý tư pháp: Những quy
tăc chuân tôi thiêu vê đôi xử với tù nhân năm 1955; Những
nguyên tắc cơ bản về đối xử với tù nhân năm 1990... 404
1
Trong số những điều ước quốc tế liên quan đến quyền con
người, những điều ước nổi bật là Hiến chương của LHQ, Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người (1948), Công ước quốc tế
vê quyền dân sự, chính trị (1966) và Công ước quốc tế về quyền
kinh tế, xã hội, văn hóa (1966).
2.3.1. Hiến chương của Liên hợp quốc
Mặc dù vấn đề quyền con người không phải là chủ đề duy
nhât và chiêm nhiêu điêu khoản trong Hiên chương của LHQ,
nhưng về mặt pháp lý thì đây được xem là một văn kiện mang
tính nền tảng của luật quốc té về quyền con người. Ngay lời nói
đâu của Hiến chương đã khẳng định ý chí của các nước thành
viên là ‘7m tưởng vào những quyền con người cơ bản, vào nhân
phẩm và giá trị của con người, vào các quyển bình đăng giữa
nam và nữ và giữa các quốc gia lớn và nhỏ... thúc đây sự tiên bộ
xã hội và nâng cao điều kiện sổng trong một nền tự do rộng rãi
hơn'ậì Điều 1 của Hiến chương LHQ thế hiện mục đích của tổ
chức này là: “... thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng các
quyền con người và tự do cơ bàn cho tất cả mọi người mà không
có sự phân biệt đỗi xử nào vẽ chùng tộc, giới tính, ngôn ngữ
40 Xem thêm http://wwvv2.ohchr.org/English/law/
41 Hiến chương LHQ 1945.
89
hoặc tôn giảo”. 42 Ngoài ra Điều 55 và Điều 56 và nhiều điều
khoản khác của Hiến chương đã tái khẳng định và cụ thể hoá
mục tiêu của tổ chức này về quyền con người.4
2
43 Điều 55(c) Hiến
chương LHQ ghi nhận: “Tón trọng và tuân thủ triệt để các
nguyên tắc và tự do cơ bản của tất cả mọi người không phân biệt
chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo”.44 Những quy định
này của Hiến chương là tiền đề và cơ sờ pháp lý cho việc xây
dựng hệ thống các văn kiện pháp lý quốc tế của các tổ chức quốc
tế khác và cả của các quốc gia thành viên về vấn đề quyền con
người. Do đó, có thể khẳng định rằng Hiến chương LHQ là
nguồn của luật quốc tế về quyền con người.
Bên cạnh đó, Điều 2 khoản 2 Hiến chương LHQ khẳng
định LHQ được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng
chủ quyền của các quốc gia thành viên. Điều 2 khoản 7 nhấn
mạnh LHQ không có quyền thi hành bất cứ hành động nào mà về
bản chầt là can thiệp vào công việc nội bộ của bất cứ quốc gia
nào. Như vậy, LHQ không thể giải thích méo mó các nội dung
trong Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948 nhàm mục đích
42 Xem “Người đưạ tin UNESCO”, Hà Nội, 1993, số 9, tr 37.
43 Điều 55 của Hiến chương LHQ quy định: “Với mục đích nhằm tạo những
điểu kiện ôn định và hạnh phúc cần thiết đê duy trì quan hệ hoà bình và hữu
nghị giữa các dân tộc, dựa trên cơ sở tôn trọng các nguyên tăc về qityền bình
đãng và tự quyết của các dân tộc, LHQ sẽ thúc đay... c) ...sự tôn trọng và
tuân thủ toàn cầu các quyền tự do cơ bản cua con người cho tất cả mọi ngirời
mà không có sự đối xử phân biệt nào về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc
tôn giáo
44 Trong diễn vãn khai mạc tại hội nghị quốc tế về quyền con người diễn ra tại
Geneva tháng 6/1993, ông Boutros Ghali - Tổng thư ký LHQ (nhiệm kỳ 1992
— 1996) đã khẳng định: “nhân quyền là ngôn ngữ chung của nhân loại vì
quyền con người là quyền chung cho tất cả mọi con ngirời, không một ngicời,
một nhóm người hay một quốc gia nào có thê tự nhận và cho mình là người
duy nhất nắm giữ quyển đó. Tuy rằng môi người là duy nhát, nhưng chỉ cỏ
một loài người. Quyền con người trong một xã hội, một bôi cảnh, một trình độ
kinh tế xã hội và vân hoá, một môi trường trong lành, một sự phát triển nhân
văn và lâu bền, thậm chí phải tính đến tự do và công băng trong sự phát triên
của các thế hệ tương lar
90
can thiệp vào công việc nội bộ của bất cử quốc gia thành viên
nào. Ngoài ra, Điều 1 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và
chính trị; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa 1966 cũng khẳng định lại “tẩt cả các dân tộc đều có quyền
tự quyết. Bởi quyền đỏ họ tự do quyết định điạ vị chính trị và tự
do mưu cầu sự phát triển kỉnh tế, xã hội và văn hoả của mình”.
Thực tiễn ngày nay cho thấy khả năng hạn chế chủ quyền quốc
gia trong những trường hợp ngoại lệ nhằm bảo vệ quyền con
người: các quốc gia có thể đặt vấn đề về “quyền con người” đối
với một quốc gia nào đó khi chính quốc gia này đã vi phạm các
nguyên tắc cơ bản, các chuẩn mực quốc tế về quyền con người
được ghi nhận trong Hiến chương LHQ và ưong các văn bản
pháp lý về quyền con người của LHQ mà quốc gia đó là thành
viên. Mặc dù vậy, sự can thiệp về vấn đề quyền con người phải
căn cứ vào những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được Đại
hội đồng LHQ thông qua tại kỳ họp lần thứ 25 (1970) và các
công ước quốc tế về quyền con người của LHQ. Pháp luật quốc
tê không cho phép một quốc gia thành viên áp đặt giá trị của
mình cho các quốc gia thành viên khác. Hành động như vậy là vi
phạm quyền con người và pháp luật quốc tế.
2.3.2. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người
năm 1948
Ngay sau khi Hiến chương LHQ được thông qua năm
1945, Hội đồng kinh tế xã hội của LHQ ( Economic and Social
Council - ECOSOC) đã tiển hành thành lập một ủy ban vê thúc
đẩy quyền con người454
6trên cơ sở của Hiến chương (Điều 68).
45 ủ y ban Quyền con người cùa LHQ được thành lập năm 1946 hiện nay được
thay thế bằng Hội đồng Quyền con người, theo Nghị quyết sô 60/251 ngày
15/3/2006 cùa Đại hội đồng LHQ.
46 Ngay trong phiên họp đầu tiên của ủy ban, úy ban đã tiên hành xem xét ban
dự thào “Tuyên ngôn về các quyền và tự do cơ bản’"và theo Nghị quỵêt sô 43
(I) năm 1946 cùa Đại hội đồng thì ửy ban quyền con người cần chuẩn bị cho
việc xây dựng một bộ luật quốc tế về quyền con người.
91
Ngày 10/12/1948 Đại hội đồng LHQ đã thông qua bản “Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người”.47
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948
của LHQ là văn kiện quốc tế đầu tiên có giá trị pháp lý cao tập
trung đề cập một tập hợp những quyền và tự do cụ thể, cơ bản
của con người trên tất cả các phương diện chính trị, dân sự, kinh
tê, xã hội, văn hóa. Tuyên ngôn đã đặt nền móng vững chắc
trong lĩnh vực quyền con người và thực sự có ảnh hưởng sâu
rộng đối với nhân loại trong việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển
các quyên. Theo tuyên ngôn, “v/ệc thừa nhận nhân phẩm von có,
sự bình đắng và các quyền không thể chuyển nhượng của mọi
thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng cho tự do, công
lý và hòa bình trên thế giởi' Tuy rằng, không phải tất cả các quy
định trong bản tuyên ngôn đều phù hợp với thực tế của xã hội,48
nhưng bước đầu các quy tắc trong bản tuyên ngôn này trờ thành
chuân mực chung cho mọi dân tộc, mọi quốc gia thành viên, mọi
tô chức quôc tế trong việc đánh giá và thực hiện các quyền con
người. Thực tiễn pháp lý quốc tế ngày nay cho thấy những
nguyên tăc nêu ra tại Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
người 1948 là cơ sở để cộng đồng tiến bộ quốc tế xem xét vấn đề
vi phạm quyên con người của một quốc gia.49
47 Ngày 10/12 hàng năm được gọi là Ngày nhân quyền quốc tế.
48 Trên bình diện chung, Tuyên ngôn có những hạn che nhất định về mặt lịch
sử đó là: “Tuyền ngôn chi nhẩn mạnh đến tính phổ biến (tính tự nhiên) và
những chuẩn mực chung về quyền cá nhân của moi con người nhirng đã bỏ
qua các nghĩa vụ cùa họ đối với xã hội, bào đam quyển cả nhăn cùa mỗi con
người mà không linh đên các điêu kiện vê chính trị, xã hội, trưyên thống, lịch
sử và văn hoá cùa mỗi dân tộc —trong đó có quyên dân tộc tự quyết... Việc
khước từ quyền dán tộc tự quyêt là sự vi phạm nhăn quyển" (Các văn kiện cơ
bản về quyền con người, Hà Nội, 2002. tr. 43).
49 Theo một tài liệu cùa LHQ thì “Nhân quyên là cơ sở cùa sự tồn tại và cùng
tồn tại cùa con người, nhăn quyền là cái làm nên nhân loại chúng ta. Đổ là
những nguyên tắc mang tính cơ sở đê chúng ta thiết lập cái ngôi nhà thiêng
liêng cho phẩm giá cùa loài người... khi chúng ta nói về quyền sổng, hoặc vể
92
2.3.3. Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị
1966 (ICCPR)
Quyền con người trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền
con người năm 1948 được cụ thể hóa trong Công ước quốc tế về
quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR). Theo cách tiếp cận
về hình thức,50 có thể chia quyền con người trong Công ước
thành nhóm quyền dân sự và nhóm quyền chính trị. Nhóm quyền
dân sự bao gồm: (i) quyền không bị phân biệt đổi xử, được thừa
nhận và bình đẳng trước pháp luật; (ii) quyền sống, tự do và an
ninh cá nhân; (iii) quyền về xét xử công bằng; (iv) quyền về tụ
do đi lại, cư trú; (v) quyền được bảo vệ đời tư; (vi) quyền được
tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo; (vii) quyền kết hôn, lập gia
đình và bình đẳng trong hôn nhân. Nhóm quyền chính trị bao
gôm: (i) quyền tự do ngôn luận; (ii) quyền tự do lập hội; (iii)
quyền tự do hội họp một cách hoà bình; (iv) quyền tham gia vào
đời sống chính trị.
2.3.4. Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa 1966 (ICESCR)
Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa có thể được chia thành
ba nhóm đó là nhóm quyền kinh tế, nhóm quyền xã hội và nhóm
quyên văn hóa. Nhóm quyền kinh tế bao gồm (i) quyền được
hưởng và duy trì tiêu chuẩn sổng thích đáng; (ii) quyền lao động.
Nhóm quyền xã hội bao gồm (i) quyền được hưởng an sinh xã
quvền phát trién, hoặc vé quyền đirợc hất đồng quan điếm và có sự khác
hiệt... Nhàn quvèn là giá trị chung cùa mọi nền văn hỏa, lìi ngirời bạn cùa
mọi quốc gia. Tính phô biển cùa nhân quvển sẽ cho nhân quyền súc mạnh. Nó
là động lực đẻ nhân quyền liên kết các biên giới, vượt qua mọi trở ngại, thách
thirc và bạo lực". Xem Liên hợp quôc, Ouvên trẻ em: tạo lập một nên văn hóa
nhân quvền, Tập thông tin số 3 cùa LHỌ, bản dịch cùa Trung tâm nghiên cứu
Ọuyền con người, 1999, tr. 1.
50 Xét về mặt nội dung có một số quyền có thể được xếp vào nhiều nhóm
quyền khác nhau, ví dụ: quyền tự do lập hội có thể xếp vào nhóm quyền xã
hội và quyền có việc làm có thể xếp vào nhóm quyền dân sự ...
93
hội; (ii) quyền được hỗ trợ về gia đình và (iii) quyền được hưởng
sức khỏe về thể chất và tinh thần. Nhóm quyền văn hóa bao gồm
(i) quyền giáo dục; (ii) quyền được tham gia vào đời sống văn
hóa và được hưởng các thành tựu của khoa học.
Ngày nay, tầm quan trọng ngày càng gia tăng của luật
pháp quốc tế và ý thức ngày càng sâu rộng của nhân dân các
nước khiến cho các nguyên tắc và mục tiêu cơ bản của Hiến
chương LHQ , Tuyên ngôn về quyền con người và hai Công ước
quốc tế về các quyền kinh tể, xã hội, văn hóa và các quyền dân
sự, chính trị trở thành những giá trị chung của nhân loại, tiêu
chuẩn và đòi hỏi phổ biến của mọi người và mọi dân tộc.51 Trong
một thế giới ngày càng đa dạng, khi tiếp cận và xử lý vấn đề
quyền con người cần kẹt hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc
chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch
sử, chính trị, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hoá, tôn giáo, tín
ngưỡng, phong tục tập quán của mỗi quốc gia và khu vực... Việc
chỉ ưu tiên hoặc tuyệt đối hoá các quyền dân sự, chính trị và một
số quyền tự do cá nhân, không quan tâm thích đáng đến quyền
phát triển, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cùa cả cộng đồng
là cách tiếp cận phiến diện, không phản ánh bức tranh toàn cảnh
về quyền con người.52 Việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con
người trước hết là trách nhiệm và quyền hạn của mỗi quốc gia,
đồng thời cần thiết phải tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực quyền con người trên cơ sở đối thoại bình đẳng, xây dựng,
tôn trọng và hiêu biết lẫn nhau, không can thiệp vào công việc
nội bộ của nhau, vì mục tiêu chung là thúc đẩy và bảo vệ ngày
càng tốt hơn các quyền con người. Ngoài ra, “không một nước
51 Dần theo bài “Nhân quyền —Ngôn ngữ chung cùa nhân loại” của PTS. Chu
Hồng Thanh —Phó giám đốc Trung tâm nghiên cứu quyền con người —Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Báo Pháp luật số 61 (547) ra ngày
15/12/1995. tr 2. ~
52 Xem Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chù nghĩa Việt Nam, Sách trang
về thành tựu bảo vệ và phát triển quvền con người ở Việt Nam. tr.5.
94
nào có quyền sử dụng vấn đề quyền con người làm công cụ can
thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, gây sức ép chỉnh
trị, làm điều kiện trong quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại với
nước khác”.5*
III. MÓI QUAN HỆ GIỮA LUẬT QUÓC TÉ VỀ
QUYỀN CON NGƯỜI VÀ LUẬT NHÂN ĐẠO QUÓC TÉ
về thuật ngữ, “quyền con người” và “nhân đạo” đều liên
quan đến con người nhưng các phạm trù này được thể hiện ở hai
lĩnh vực khác nhau.
Xét ở khía cạnh chủ quan, quyền con người là đặc tính tự
nhiên vốn có của con người, là quyền của mỗi con người được tự
do tồn tại và hành động, về khách quan, quyền con người gan
liền với trình độ phát triển của xã hội, nhất là sự phát triển của
lực lượng sản xuất, “nhân quyền không phải là bẩm sinh mà là
sản sinh ra trong lịch sử”.5
3
54 Như đã phân tích, quyền con người
được thể hiện cả trong hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật
quốc gia. Luật quốc tế về quyền con người “ là một hệ thong các
quy tăc, tiêu chuẩn và tập quán pháp lý quốc tê xác lập, bảo vệ
và thúc đẩv các quyền và tự do cơ bản cho mọi thành viên của
cộng đồng nhân loại”.555
6
Luật nhân đạo quốc tế được xây dụng dựa trên tính nhân
văn, tính nhân đạo như chính tên gọi của nó. Luật nhân đạo quôc
tế từ lâu đã được xem như là "luật trong thời chiến”, là '‘bộ phận
nhân quyền cùa luật chiến tranh” 5b Trong thực tế, có nhiêu quan
điểm và tên gọi khác nhau về luật nhân đạo quốc tế như: “luật vê
chiến tranh”; “luật về xung đột vũ trang” tùy theo từng trường
53 Xem Bộ Ngoại giao, sđd, tr.5.
54 K. Marx và Ph. Engels, Toàn tập, Nxb. Chính trị quôc gia, Hà Nội, 1995,
Tập 2, tr. 173.
55 Xem Đại học Ọuốc gia Hà NỘI, sđd. tr, 131.
56 Dan theo Vũ Công Giao —Lã Khánh Tùng, Luật nhân đạo quôc tê - những
nội dưng ca bản, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2005, tr. 507.
95
hợp và bối cảnh, nhưng phần lớn trong các sách báo pháp lý
thuật ngữ “luật nhân đạo quốc tế” thường được sử dụng. Luật
nhân đạo quốc tế là có thể được hiểu là “tập hợp những nguyên
tắc và quy định pháp lý được cộng đồng quốc tế thừa nhận nhằm
giảm thiểu những đau khổ và thiệt hại cho con người trong các
cuộc xung đột vũ trang; cụ thể là để bảo vệ những người không
tham chiến hoặc không còn khả năng tham chiến cũng như để
hạn chế việc sử dụng các phương pháp và phương tiện chiến
tranh”.51 Bên cạnh đó, luật nhân đạo quốc tế còn có thể định
nghĩa “là hệ thong các quy tắc, chuẩn mực được thiết lập bởi các
điều ước và tập quán quốc tế nhằm điều chỉnh các moi quan hệ
giữa các bên tham chiến trong các cuộc xung đột vũ trang (mang
tính quốc tể và không mang tỉnh quốc tế) để bảo vệ những nạn
nhân chiến tranh (bacrgồm dân thường và những chiến binh bị
thương, bị ốm, bị đắm tàu, bị bẳt làm tù binh)”.5ĩ
Dù về hình thức có những điểm khác nhau, song về nội
dung các định nghĩa trên đều ghi nhận luật nhân đạo quốc tế là
các chuẩn mực quốc tế được các quốc gia, cộng đồng quốc tế
thừa nhận và áp dụng nhằm:
(i) Điều chỉnh các mối quan hệ giữa các bên tham chiến,
mang tính quốc tế và không mang tính quốc tế trong việc sừ
dụng một số loại vũ khí trong chiến tranh;
(ii) Bảo vệ những người không tham chiến hoặc không còn
khả năng tham chiến;
(iii) Bảo vệ những tài sản là di sản văn hoá của nhân loại;
và
(iv) Trừng trị những cá nhân phạm tội ác chống lại loại
người.5
7
5
8
57 Xem Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng, sđd, tr. 26.
58 Xem Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tĩ, 140.
96
Luật nhân đạo được tuân thủ dựa trên tinh thần tự nguyện
và được tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhằm khơi dậy tính
nhân đạo, tình cảm con người vượt lên thù hận. Khởi nguồn từ
những tư tưởng nhân đạo xuất hiện khắp nơi trong lịch sử nhân
loại, luật nhân đạo quốc tế hiện đại được hình thành bắt đầu từ
trận chiến giữa Áo, Pháp và Ý diễn ra tại Solferino vào tháng
6/1859.59
Công ước Geneva 1864 là công ước quốc tế đầu tiên điều
chỉnh quan hệ giữa các bên tham chiến trong chiến tranh khởi
nguồn tù' đề xuất của Henry Dunant (văn kiện này được gọi là
Công ước Geneva lần thứ nhất).60 Công ước đã đặt ra nguyên tắc
về sự phổ biến và hòa hợp trong các vấn đề chủng tộc, dân tộc,
tôn giáo; đồng thời ấn định dấu hiệu của Hội chữ thập đỏ quốc tế
là một lá cờ có chữ thập đỏ trên nền trắng61 và những người
mang dấu hiệu này được các bên tham chiến chấp nhận như là
59 Chứng kiến trận chiến thảm khốc với sự đau đớn của hàng vạn người bị
thương, chết nằm la liệt trên chiến trường, một công dân Thụy Sĩ là Henry
Dunant vô cùng xúc động và đã cùng một số người tình nguyện khác vận
động cứu chữa, làm tất cả những gì có thể để giảm thiểu đau đớn cho họ. Sau
tât cả sự việc đó, Henry về Thụy Sĩ và cho ra đời cuốn sách Kỳ niệm vê
Solferino (xuất bàn năm 1862) trong đó ông đã miêu tả lại nỗi thống khồ mà
các binh sĩ phải chịu đựng trong chiến tranh và đề xuất ý tường thành lập một
tô chức quốc tế nhằm cứu chữa, chăm sóc cho tất cả nạn nhân chiên tranh
không phân biệt chủng tộc, quôc tịch, tôn giáo hoặc bên tham chiên. Sau khi
được xuất bàn, cuốn sách đã gây được tiếng vang lớn trên toàn châu Au và vài
tháng sau một ủy ban —là tiền thân của Hội chữ thập đỏ sau này, được thành
lập ở Geneva. Mục tiêu chính của ủy ban này là kiểm tra tính khả thi trong đê
xuất của Henry và tìm cách dể hiện thực hóa nó.
60 Tháng 8/1864 Chính phủ Thụy Sĩ tô chức Hội nghị ngoại giao với sự tham
gia của 16 quốc gia, từ hội nghị này các nước thành viên tham gia hội nghị đã
ký Công ước Geneva về cải thiện tình trạng của thương binh trên chiên trường
(Geneva Convention for the Amelioration of the Condition of the Wounded in
Amies in the Field).
61 Đổi với những nước Hồi giáo, cờ hiệu mang hình lưõi liềm đò trên nên
trắng.
9 7
nhân viên các cơ sở y tế và được coi là trung lập.62 Sự gia tăng
của các cuộc xung đột vũ trang và sự gay gắt, tàn khốc hơn của
chúng do có sự xuất hiện của nhiều loại vụ khí hủy diệt chưa
từng tồn tại vào thời điểm ra đời Công ước Geneva lần thứ nhất
dẫn đến đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung thêm những quy tắc
mới trong chiến tranh để đảm bảo tính nhân đạo. Từ đó, một loạt
văn kiện khác cũng được ban hành với nhiều nội dung, phạm vi
tác động khác. Trong đó, một số văn kiện tiêu biểu có ý nghĩa
quan trọng, đánh dấu bước ngoặt của sự phát triển của luật nhân
đạo quốc tế như:63
(i) Công ước Geneva lần thứ nhất được sửa đổi nhằm bảo
vệ hiệu quả hơn nạn nhân các cuộc chiến tranh trên đất liền và
mở rộng ra các cuộc chiến tranh trên biển;
(ii) Nghị định tỉiư về cấm sử dụng hơi cay, hơi độc năm
1925;
62 Xem Vũ Công Giao, “Luật Nhân đạo quốc tế và việc bảo hộ nạn nhân chiến
tranh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2001, tr. 65.
63 Nhìn chung luật nhân đạo quốc tế bao gồm những tập hợp sau: “luật
Geneva” bao gồm các Công ước được hình thành dưới sự tác động cùa Hội
chữ thập đỏ và thông qua tại Hội nghị ngoại giao tổ chức tại Geneva. Các văn
kiện này nhằm bảo vệ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang. Các văn kiện
cúa yếu là Công ước Geneva năm 1864, 1906, 1929 và bốn Công ước Geneva
năm 1949. “Luật La Haye” là những văn kiện được thồng qua trong các hội
nghị hòa bình tô chức tại La Haye vào 1899 (Công ước La Haye số II, III) và
1907 (Công ước La Haye số III —XV) điêu chỉnh các vấn đề về phương thức
tiến hành chiến tranh, các vũ khí, phương tiện, biện pháp tiến hành chiến
tranh. “Luật Liên hợp quốc” là các vãn kiện, Công ước do LHQ ban hành và
thông qua bao gồm các công ước ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng; Công
ước về việc không áp dụng thời hiệu đối với các tội phạm chiến tranh và tội
phạm chống nhân loại, câm sử dụng vũ khí vi trùng, vũ khí hóa học... Mục
tiêu chung của các văn kiện này là đảm bảo quyên con người, hạn chế hoặc
chổng lại các loại vũ khí nguy hiêm có nguy cơ diệt chủng. Ngoài ra, còn phải
kể đến các văn kiện của các quốc gia hay một khu vực điều chỉnh trong phạm
vi hẹp như hội nghị quốc tế và các văn kiện về xét xử tội phạm chiến tranh
được các nước Đồng minh thông qua năm 1945, những công ước bảo vệ tài
sản văn hóa trong thời gian chiên tranh...
98
(iii) Sửa đổi Công ước Geneva lần thứ nhất và thông qua
Công ước về đối xử với tù binh năm 1929;
(iv) Tại Hội nghị ngoại giao từ tháng 4 đến tháng 8/1949,
Công ước Geneva I, II, III, IV ra đời sửa đổi và phát triển nội
dung của các công ước trước đó, mở rộng đối tượng bảo vệ đến
thường dân và thiết lập các quy tắc tối thiểu mà các bên tham
chiến phải tuân thủ. Sau đó, nhiều dạng xung đột vù trang mới
xuất hiện có nhu cầu cần phải điều chỉnh làm ra đời hai Nghị
định thư quan trọng bổ sung cho bốn Công ước trên. Nghị định
thư I quy định việc bảo hộ các nạn nhân của xung đột vũ trang
mang tính chất quốc tế và Nghị định thư II điều chỉnh việc bảo
hộ các nạn nhân của xung đột vũ trang không mang tính chất
quốc tể.
Mục đích của luật nhân đạo quốc tế là hạn chế những đau
khô do chiên tranh gây ra thông qua việc bảo hộ và giúp đỡ các
nạn nhân theo khả năng cao nhất của mình. Luật nhân đạo quôc
tê nêu lện thực trạng của xung đột mà không quan tâm tới lý do
hoặc tính chất pháp lý của việc sử dụng vũ lực hoặc nguyên nhân
đúng hay sai của bất cứ bên nào tham chiến. Luật chỉ quy định
các yếu tố liên quan đến vấn đề nhân đạo trong cuộc xung đột.
Luật nhân đạo quốc tế đặt ra các nguyên tắc nhằm tập trung vào
việc bảo vệ những nạn nhân của chiến tranh, giảm thiểu những
thương vong, thiệt hại xảy ra, ngăn chặn sự tàn bạo của vũ lực
bẩt kể là vì nguyên nhân gì, bất kể điều đó có hợp lý hay không.
Giữa luật quốc tế về quyền con người và luật nhân đạo
quốc tế có những điểm chung cơ bản.64 Tìm nhất, cả hai ngành
luật này đều có mục tiêu hướng đến việc bảo vệ tính mạng, danh
dự nhân phârn, sức khỏe của con người.65 Thứ hai, một sô
64 Xem Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 144
65 Thê hiện ờ những quy định có câ ở har ngành luật vê câm sự tra tân, đôi xử
vô nhân đạo hoặc nhục hình, các quyên tô tụng hình sự cơ bàn, sự bảo vệ đôi
với phụ nữ, trẻ em...
9 9
nguyên tắc cơ bản như không phần biệt đối xử, tôn trọng tính
mạng, phẩm giá của con người áp dụng cả ở hai ngành luật. Thứ
ba, cả hai ngành luật này có những điều ước và văn kiện quốc tế
áp dụng chung (bao gồm toàn bộ văn kiện hoặc chỉ một số điều
khoản của văn kiện). Chẳng hạn như Công ước về quyền trẻ em,
Nghị định thư không bắt buộc của Công ước về quyền hẻ em
liên quan đến sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang hay
Quy chế Roma về tòa án hình sự quốc tế. Thứ tư, trong cả hai
ngành luật, chủ thể đầu tiên và quan trong nhất trong việc thực
thi chính là các quốc gia thành viên.
IV. CÁC QUYỀN CON NGƯỜI c ơ BẢN THEO
LUẬT QUỐC TÉ
Theo cách phân loại phổ biến hiện nay thì quyền con
người được phân chia thành hai nhóm chính là: các quyền dân
sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Cách phân
chia này đã được LHQ sử dụng khi soạn thảo hai công ước riêng
rẽ vào năm 1966, đó là Công ước về các quyền dân sự và chính
trị và Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Ngoài
ra, khi đề cập quyền con người, người ta cũng nhắc đến quyền
của một số nhóm người dễ bị tổn thương trong luật quốc tế.
4.1. Quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị
Quyền dân sự và chính trị là một trong những nhóm quyền
của quyền con người, bên cạnh nhóm quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa. Quyền dân sự và chính trị gắn bó mật thiết với nhân
thân của mỗi con người. Mục đích của những quyền dân sự là
nhằm đáp ứng nhu cầu tự do, dân chủ, bình đẳng giữa các cá
nhân trong xã hội. Quyền chính trị là những quyền thể hiện
quyền làm chủ nhà nước của công dân, nó phản ánh tính dân chủ
của ché độ chính trị xã hội ở mỗi quốc gia. Mục đích của nhóm
quyền này nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản về hoạt động chính trị
của con người, đảm bảo quá trình tham gia và quản lý hệ thống
chính trị của một quốc gia.
100
Căn cứ vào Công ước quốc tế về các quyên dân sự, chính
trị năm 1966 thì nhóm quyền này bao gồm những nội dung cụ
thể như sau:
- Nhóm các quyền dân sự bao gồm quyền không bị phân
biệt đối xử; quyền được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật;
quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền tự do đi lại,
cư trú; quyền được bảo vệ đời tư; quyền tự do tư tưởng, tín
ngưỡng, tôn giáo; quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong
hôn nhân.
- Nhổm các quvền chỉnh trị bao gồm quyền tự do biểu đạt;
quyền tự do lập hội; quyền tự do hội họp một cách hòa bình;
quyền tham gia vào đời sống chính trị.
Hiến chương LHQ 1945, Tuyên ngôn thế giới về quyền
con người 1948 là những văn bản pháp lý quan trọng ghi nhận
các quyền dân sự và chính trị của con người và các dân tộc. Tuy
nhiên, đến khi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
năm 1966 ra đời, các quyền này mới được ghi nhận một cách có
hệ thống, cụ thể, là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đảm bảo
và thực thi các quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị
một cách hiệu quả trên thực tế.
Công ước quốc tế về các các quyền dân sự và chính trị
được Đại hội đồng LHQ thông qua tại Nghị quyết của sô 2200A
(XXI) ngày 12/12/1966. Công ước là một phần của hệ thông luật
quốc tế về quyền con người, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976. Cho
đến cuối năm 2010 đã có 72 quốc gia ký và phê chuân Công
ước.66 Lời mở đầu của Công ước khẳng định chán lý bât di bât
66Nguồn:http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_%C6%B0%El%BB%9B
c_Ọu%E 1%BB%91c_t%E 1%BA%BF_V%E 1%BB%81_c%C3°/ọA 1c_Ọuy%
E1%BB%81 n_D%C3%A2n S%E 1%BB%B l_v%C3%AO_Ch%C3%ADnh_t
r%El%BB%8B. Trung Quôc. Cuba, Comoros, Nauru, và São Tomé và
Príncipe đã ký nhưng chưa thông qua công ước. Việt Nam ký và phê chuân
Công ước vào ngày 24/09/1982.
101
dịch ràng việc công nhận những phẩm giá vốn có và quyền bình
đẳng của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại là nền tảng
cho tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Nội dung của Công
ước được xây dựng dựa trên những nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương LHQ và Tuyên ngôn toàn thể giới về quyền con người.
Công ước gồm lời nói đầu, 6 chương và 53 điều. Ngoài ra, ủy
ban Quyền con người (Human Rights Committee) là cơ -quan
giám sát thực thi Công ước đã lần lượt có những bình luận, trong
đó phân tích chi tiết về ý nghĩa và nội hàm của các quyền nêu ra
trong Công ước.67
Việt Nam đã gia nhập Công ước này vào ngày 24/9/1982.
Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi khoảng
13.000 văn bản luật và dưới luật, trong đó các quyền về dân sự,
chính trị được quy định một cách cụ thể và toàn diện hơn. Hiến
pháp Việt Nam năm 1992 ghi nhận các quyền con người và nội
dung các quyền này đã được thể hiện xuyên suốt qua các
chương, mục của Hiến pháp và được cụ thể hóa tại nhiều văn bản
pháp luật quan trọng, trực tiếp liên quan đến lĩnh vực dân sự,
chính trị như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu
Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Bầu cử đại biểu hội
đồng nhân dân, Luật Tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân
dân, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Tổ chức viện kiểm sát
nhân dân, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình
sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật
Khiếu nại, Tố cáo, Luật Đặc xá, Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn
giáo... Nguyên tăc bình đẳng, không phân biệt đối xử (quy định
tại Điều 52 Hiến pháp 1992) là nền tảng xuyên suốt các văn bản
pháp luật của Việt Nam, tạo tiền đề quan trọng cho việc đảm bảo
và phát huy các quyền của người dân trên từng lĩnh vực cụ thể.
Nhà nước Việt Nam nỗ lực xây dựng và kiện toàn các thiết chế
67 Xem Human Rights Committee, General Comments
http://www2.ohchr.org/english/bodies/hrc/comments.htm.
102
đảm bảo quyền con người trên thực tế. Một trong những nồ lực
đó là việc sửa đổi Hiến pháp 1992 để bảo đảm tốt hơn các quyền
con người. Ngoài ra, để đảm bảo thực hiện và thúc đẩy các
quyền con người, Việt Nam đã thành lập một hệ thống các cơ
quan Nhà nước, trong đó Quốc hội là cơ quan quan trọng thực
hiện chức năng giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước; việc
bảo đảm tính độc lập của hệ thống tư pháp; hiệu quả của hệ
thống cơ quan điều tra Nhà nước. Ngoài ra, các tổ chức chuyên
môn như các đoàn luật sư, hội luật gia, cơ quan công chứng, văn
phòng trợ giúp pháp luật... các tổ chức, đoàn thể nhân dân như
Hội Chữ thập đỏ, Tổng Liên đoàn lao động, Hội Phụ nữ, Đoàn
thanh niên» Hội Người cao tuổi... có vai trò hết sức quan trọng
và ngày càng được nâng cao.68
4.1.1. Quyền dân sự
Các quyền dân sự cơ bản được quy định trong Công ước
quôc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 bao gồm:
4.1.1.1. Quyền được sống
Quyền được sống là quyền tự nhiên vốn có của mỗi con
người trong xã hội, là quyền thiêng liêng nhất của môi con
người, là cơ sở để con người thực hiện được các quỵên khác.
Quyên được sống đã được Công ước đề cập dưới nhiêu góc độ
khác nhau với những nội dung phong phú nhàm bảo đảm tôt nhât
quyên sông của con người. Điều 6 của Công ước ghi nhận mọi
người đều có quyền được sống, quyền này được pháp luật bảo
vệ. Không ai bị tước đoạt mạng sống một cách vô cớ. Chỉ trong
những trường hợp đặc biệt, quyền được sống của một cá nhân
mới có thể bị nhà nước tước đoạt bàng hình phạt tử hình được
tuyên bời tòa án có thẩm quyền và bất kỳ người nào bị kết án tử
68 Xem Bộ Ngoại giao Việt Nam, “Báo cáo quốc gia kiềm điểm định kỳ việc
thực hiện quyền con naưòi ờ Việt Nam”, 2009.
http://www.mofahcm.aov.vn/vi/mofa/nr040807104143/nr04080710500 l/ns09
0723074537.
103
hình cũng có quyền xin ân giảm hoặc thay đổi mức hình phạt, “ở
những quốc gia còn áp dụng hình phạt tử hình thì chi được phép
áp dụng đối với những tội ác nghiêm trọng nhất căn cứ vào pháp
luật hiện hành ở thời điểm thực hiện tội ác và không được trái
với quy định của Công ước này và Công ước về ngăn ngừa và
trừng trị tội diệt chủng. Hình phạt tử hình chỉ được thi hành trên
cơ sở bản án đã có hiệu lực pháp luật do một tòa án có thẩm
quyền tuyên’’
’ (Điều 6 khoản 4). Không được phép thi hành hình
phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi và phụ nữ đang có thai
(Điều 6, khoản 5).
Ngoài quyền được sống được quy định tại Điều 6, Công
ước cũng quy định các quyền khác có liên quan đến quyền được
sống như: “không một người nào có thể bị tra tấn, đối xử hoặc bị
áp dụng hình phạt một cách tàn nhẫn, vô nhân đạo hoặc nhục
hình...’
’’
’(Điều 7); không được phép bắt giữ bất cứ người nào làm
nô lệ; không một người nào có thể bị bắt làm nô dịch; không
được đòi hỏi bất kỳ một người nào phải lao động bắt buộc hoặc
cưỡng bức (Điêu 8). Ở những nước còn áp dụng hình phạt tù
kèm lao động cưỡng bức đối với người phạm tội thì việc thực thi
hình phạt này phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp
luật quốc gia đó và phải do tòa án có thẩm quyền quyết định.
4.1.1.2. Quyền tự do và an ninh cá nhân
Con người không thể hoạt động, phát triển và bảo đảm
được quyền con người khi con người đó không có quyền tự do và
an ninh cá nhân. Mọi người có quyền hưởng tự do và an ninh cá
nhân. Không ai bị bắt hoặc giam giữ vô cớ, không một ai bị tước
quyền tự do trừ trường hợp có lý do và phải theo đúng những thủ
tục mà pháp luật đã quy định (Điêu 9 khoản 1). Bầt cứ người nào
bị bắt hoăc bị giam giữ vì một tội hình sự phải được sớm đưa ra
tòa án hoặc một cơ quan tài phán có thẩm quyên thực hiện chức
năng tư pháp và phải được xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc
được trả tự do. Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị
104
tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước toà án, nhầm
mục đích để tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính
hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu
việc giam giữ là bất hợp pháp và bất cứ người nào trở thành nạn
nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất họp pháp đều có quyền
được yêu cầu bồi thường (Điều 9). Chế độ giam giữ, thi hành án
không phải nhằm mục đích trừng trị, trả thù đối với người phạm
tội mà mục đích chính cần hướng tới ờ đây là nhằm cải tạo, giúp
đỡ họ sửa chữa sai lầm để trở thành người hữu ích cho xã hội.
Đôi với những người bị tước tự do, vẫn phải được đối xử nhân
đạo và với sự tôn trọng nhân phẩm vốn có của một con người,
không ai bị bỏ tù chỉ vì không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ
của họp đồng (Điều 11). Quy định này cùa Công ước nhằm mục
đích ngăn chặn, xóa bỏ sự tùy tiện và vô nhân đạo trong việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế của pháp luật của các cơ quan nhà
nước cũng như “hình sự hóa” đối với các hành vi của cá nhân khi
họ thiết lập và thực hiện các giao dịch dân sự trong xã hội. Các
quyền tự do và an ninh cá nhân được bảo vệ khỏi các hành vi
xâm phạm từ phía các cơ quan nhà nước, các cá nhàn hoặc bất kỳ
ai, không ai bị can thiệp một cách độc đoán hoặc bất hợp pháp
đên đời sông riêng tư, gia đình, thư tín, hoặc bị xúc phạm danh
dự, nhân phẩm (Điều 17).
4.1.1.3. Quyền tự do cư trú và đi lại họp pháp
Cư trú và đi lại là những nhu cầu thiết yếu của mỗi con
người trong đời sống xã hội và đây là một trong những quyền
cơ bản của quyền con người được Công ước quy định. Quyền
tự do cư trú và đi lại hợp pháp cho phép mỗi người có thể tự
mình lựa chọn và quyết định việc đi lại và cư trú ở bất kỳ nơi
nào trong phạm vi lãnh thổ của quôc gia hay trên lãnh thổ của
một quốc gia khác, phù họp với hoàn cảnh, khả năng va nhu
cầu đáp ứng của bàn thân người đọ. Các quốc gia thành viên có
nghĩa vụ tôn trọng và phai bào đảm các quyên nàỵ (Điều 12).
Các quyền đi lại và cư trú của con người không thế bị hạn chế,
105
ngoại trừ trường hợp do pháp luật quy định để bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức xã hội hoặc
quyền và tự do của người khác. Một người được quyền tự do ra
nước ngoài thì cũng phải có quyền tự do trờ về nước mình,
không một ai bị tước đoạt một cách độc đoán quyền trờ về nước
mình. Một người nước ngoài cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của
một quốc gia là thành viên chỉ có thể bị trục xuất khỏi quốc gia
đó theo quyết định phù hợp pháp luật, ngoại trừ trường hợp do
yêu cầu bức thiết về an ninh quốc gia. Trong trường hợp này
người nước ngoài bị trục xuất vẫn được quyền đệ trình những lý
lẽ để phản đối việc trục xuất và được yêu cầu nhà chức trách có
thẩm quyền của quốc gia đã ra quyết định trục xuất xem xét lại
trường hợp của mình (Điều 13).
4.1.1.4. Quyền bình đẳng trước tòa án và cơ quan tài phán
Theo quy định tại Điều 14 của Công ước, “Tất cả mọi
người đều bình đẳng trước tòa án và cơ quan tài phản. Bất kỳ
người nào đêu cỏ quyên đòi hỏi việc xét xỉt công bằng và công
khai do một tòa án có thâm quyền, độc lập, không thiên vị và
được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội
trong vụ án hình sự hoặc xác định quyền và nghĩa vụ cùa người
đó trong tố tụng dân sự...”. Quyền bình đẳng trước tòa án và cơ
quan tài phán đảm bảo cho lợi ích hơp pháp của mỗi người được
bảo vệ, phán quyêt của các cơ quan tài phán được đúng đắn,
khách quan và đủng pháp luật, giúp cho công lý được duy trì. Để
đảm bảo quyên bình đăng của mọi người trước tòa án và cơ quan
tài phán, khi tiến hành xét xử tòa án và cơ quan tài phán có thể
xét xử kín hoặc xét xử công khai tùy vào quy định của pháp luật
quốc gia. Tuy nhiên, các phán quyết của tòa án phải được công
bố công khai để mọi người có thể biết và kiểm tra tính đúng đắn,
khách quan của phán quyết.
Một người bị buộc là phạm một tội hình sự có quyền được
coi là vô tội cho tới khi tội cùa người đó được chứng minh theo
106
pháp luật (Điều 14, khoản 2). Điều này có nghĩa là, khi chưa có
bản án của tòa án đã tuyên có hiệu lực pháp luật thì bất kỳ người
nào bị buộc tội vẫn phải được coi là vô tội. Nếu bất kỳ ai bị kết
án sai cũng đều có quyền được yêu cầu bồi thường, trừ trường
hợp chứng minh được rằng việc không kịp thời làm sáng tỏ sự
thật chưa biết là do bản thân người bị kết án gây ra. Bên cạnh đó,
Công ước cũng ghi nhận: không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng
phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà một bản án có hiệu lực
pháp luật đã tuyên hoặc về tội mà người đó đã được tuyên trắng
án phù hợp với pháp luật của mỗi nước (Điều 14). Cuối cùng,
“không ai có thể bị kết án phạm tội hình sự vì một hành động
hoặc một sự khinh suất mà đã không cầu thành tội phạm theo
luật quốc gia hoặc luật quốc tế vào thời gian xảy ra hành vi đó;
không áp dụng hình phạt nặng hơn hình phạt đã ấn định vào thời
gian xảy ra hành vi phạm tội. Nếu sau khi xảy ra hành vi phạm
tội, luật pháp lại qui định hình phạt nhẹ hơn, thì người phạm tội
được hưởng mức hình phạt nhẹ đó” (Điều 15).
4.1.1.5. Quyền bình đẳng trước pháp luật
Điêu 26 Công ước quy định: “Mọi người đêu bình đăng
trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo hộ quyên bình
đẳng, không cỏ bất kỳ sự phân biệt đổi xử nào”. Bình đăng
trước pháp luật chính là tiền đề quan trọng để con người có thê
tham gia vào tất cả các hoạt động của quốc gia. Đối với một
người, nếu quyền bình đẳng trước pháp luật được đảm bảo thì
các quyền bình đẳng khác mới được tôn trọng và đảm bảo thực
hiện. Để đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật, trước hêt
pháp luật phải cấm mọi sự phân biệt đối xử và bảo đảm cho mọi
người sự bảo hộ bình đẳng, chống lại sự phân biệt đối xử vì
màu da, chủng tộc, giới tính, tôn giáo, tài sản, địa vị xã hội hoặc
các yếu tố khác.
107
4.1.1.6. Quyền kết hôn và ly hôn
Điều 23 của Công ước quy định, quyền kết hôn và thành
lập gia đình được pháp luật thừa nhận trên cơ sờ thỏa thuận và
đồng ý của người nam và người nữ. Bên cạnh quyền kết hôn,
quyền ly hôn cũng được Công ước quy định với điều kiện trong
trường hợp ly hôn cần đảm bảo việc bảo hộ đối với con cái.
4.1.2. Quyền chính trị
Các quyền chính trị theo Công ước quốc tể về các quyền
dân sự, chính trị năm 1966 bao gồm:
4.1.2.1. Quyền dân tộc tự quyết
“Quyền dân tộc tự quyết” là một trong các nguyên tác cơ
bản của luật quốc tế hiện đại. Theo Công ước, các quyền chính
trị được chia thành quyền của dân tộc và quyền của cá nhân.
Quyền chính trị của một dân tộc là quyền thiêng liêng và bất khả
xâm phạm, đóng vai trò quan trọng, tiên quyết. Chỉ khi quốc gia
có quyền này thì mới xây dựng và đảm bảo thực hiện tốt các
quyền dân sự và chính trị khác, kể cả các quyền kinh tế, văn hóa,
xã hội của công dân. Tại Điều 1, Công ước đã khẳng định: “Mọ/
dân tộc đều cỏ quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân
tộc tự do quyết định thể chế chỉnh trị của mình và tự do phát
triển kinh tế, xã hội và văn hoả. Vì lợi ích của mình, mọi dân tộc
đều có thể tự do định đoạt tài nguyên thiên nhiên và của cài của
mình, miễn là không làm phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh
từ hợp tác kinh tể quốc tể mà dựa trên nguyên tắc các bên cùng
có lợi và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Trong bất kỳ
hoàn cành nào cũng không được phép tước đi những phương
tiện sinh tồn của một dán tộc". Đê đảm bảo thực hiện quyền này,
Công ước yêu cầu “Tất cà cúc quốc gia thành viên của Công ước
này phải cỏ nghĩa vụ thúc đẩy thực hiện quyển dãn tộc tự quyết
vờ phái tôn trọng các quyền đó phù hợp với Hiến chương LHQ”
(khoản 3 Điều 1).
108
Tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc có nghĩa là tôn trọng
các chuẩn mực quốc tế về quyền con người nhằm đảm bảo chủ
quyền và lợi ích của các quốc gia, dân tộc. Quyền dân tộc tự
quyết là quyền mang tính chất nhóm, tính chất tập thể, không
được thực hiện bởi cá nhân riêng lẻ. Các quốc gia thành viên
Công ước có nghĩa vụ thúc đẩy việc thực hiện quyền tự quyết
dân tộc và phải tôn trọng quyền đó, phù họp với các quy định
của Hiến chương LHQ.
4.1.2.2. Quyền tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội
Quyền tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội là quyền
chính trị đích thực, quan trọng của cạ nhân trong một xã hội dân
chủ, nhằm đảm bảo cho con người được tham gia vào các hoạt
động chính trị của đất nước, nhằm phát huy sức mạnh, trí tuệ tập
thể và giám sát hoạt động của các cơ quan đại diện nhân dân.
Mọi công dân, không phân biệt giới tính, tôn giáo, màu da, trình
độ văn hóa, thành phần xã hội đều có quyền và cơ hội tham gia
một cách trực tiếp vào việc điều hành các công việc xã hội hoặc
có thể tiến hành điều hành một cách gián tiếp thông qua nliừng
người đại diện do mình bỏ phiếu lựa chọn. Để công dân tham gia
quàn lý nhà nước xã hội một cách hiệu quả, thực sự, Công ước
quy định công dân có quyền bầu cử và ứng cử trong các cuộc
bầu cử định kỳ, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ
phiếu kín để thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình, không ai
được phép cản trở, ép buộc. Bên cạnh đó, công dân phải được
tiếp cận với các dịch vụ công cộng ở đất nước mình trên cơ sở
bình đẳng (Điều 25).
4.1.2.3. Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo
Vấn đề tâm linh, tín ngưỡng và tôn giáo là quyền của mỗi
người được Công ước ghi nhận. Mọi người đều có quyền tự do
tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo mà không chịu bất kỳ sự
phân biệt nào. Nội dung của quyền bao gồm tự do có hoặc theo
một tôn giáo, tín ngưỡng do mình tự lựa chọn mà không ai được
109
quyền can thiệp, cản trở; tự do bày tỏ tín ngưỡng tôn giáo một
mình hoặc với nhiều người khác một cách công khai hoặc thầm
kín dưới nhiều hình thức khác nhau như cầu nguyện, thờ cúng,
thực hành và truyền giảng. Công dân dù khác dân tộc, màu da,
trai hay gái, già hay trẻ đều có quyền này một cách bình đẳng, kể
cả khi các bậc cha mẹ, những người giám hộ hợp pháp nếu có,
trong việc giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý
nguyện của riêng họ thì quyền tự do lựa chọn theo hoặc không
theo tôn giáo, tín ngưỡng của người đó cũng phải được tôn trọng.
Bất kỳ một hành vi cưỡng ép, ngăn cấm theo hoặc không theo
một tín ngưỡng, tôn giáo nào, hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
để phục vụ cho mục đích bất hợp pháp đều sẽ bị xử lý theo pháp
luật (Điều 18). Tuy nhiên, quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và
tôn giáo có thể bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật, nếu
những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ trật tự công cộng,
sức khỏe, đạo đức của công chúng hoặc những quyền tự do cơ
bản của người khác.
4.1.2.4. Quyền tự do ngôn luận, thông tin
Quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin của công dân thể
hiện tính chất dân chủ, thúc đẩy sự minh bạch, công khai của nhà
nước trong quản lý xã hội, phát triển kinh tế. Đây là quyền đảm
bảo cho mọi người dân trong xã hội có điều kiện cần thiết để
tham gia một cách chủ động và tích cực vào các hoạt động của
nhà nước và xã hội. Theo Điều 19 của Công ước, nội dung của
quyền tự do ngôn luận là rất rộng, bao gồm cả quyền tự do tìm
kiếm thông tin, nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến, không phân
biệt ranh giới và hĩnh thức tiếp nhận, truyền tải thông tin, có thể
dưới hình thức truyền miệng hoặc thông qua các bản viết, bản in,
hoặc hỉnh thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện
thông tin đại chúng tùy theo sự lựa chọn của mỗi người. Quyền
tự do ngôn luận cũng có những giới hạn nhất định, những giới
hạn này phải được pháp luật quy định một cách cụ thể và phải
110
cần thiết trong việc bảo vệ uy tín, danh dự của người khác hoặc
bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc.
4.1.2.5. Quyền tự do hội họp hòa bình và tự do lập hội
Việc kết hợp với nhau để thành một nhóm, hội, hay tập thể
cùng chung ý chí hay hành động theo một tôn chỉ, mục đích nhất
định là quá trình phát triển tự nhiên của con người, thể hiện nhu
cầu cần thiết của mỗi con người trong đời sống xã hội. Điều 21
và Điều 22 của Công ước quy định quyền hội họp hòa bình phải
được công nhận. Mọi người có quyền tự do lập hội với những
người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ
lợi ích của mình. Tuy nhiên, các quyền này khi thực hiện có thể
có những hạn chế nhất định, khi pháp luật quốc gia quy định
những hạn chế đó là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích
an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, để bảo vệ sức
khỏe của công chúng hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác. Công ước cũng quy định các quốc gia thành viên của
Công ước phải có nghĩa vụ công nhận và đảm bảo thực hiện các
quyền này; trong hoạt động ban hành và thực thi pháp luật không
được phép tiến hành những biện pháp làm tổn hại đến các đảm
bảo đã được Công ước ghi nhận.
4.2. Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa
Nhóm các quyền kinh tế xã hội và văn hóa được quy định
trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa
(.International Covenant on Economic, Social and Cultural
Rights - ICESCR) năm 1966 được Đại hội đồng LHQ thông qua
ngày 16/12/1966, có hiệu lực từ ngày 03/01/1976. Tính tới ngày
15/12/2008, đã có 160 quốc gia tham gia và 69 nước đã ký.69
Cũng như đối với nhóm các quyền dân sự và chính ưị, ủy ban
Giám sát công ước (ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn
69 Thêm 6 nước khác đã ký nhưng chưa thông qua Công ước là Belize,
Comoros, Cuba, Sao Tomé và Príncipe, Nam Phi, và Hoa Kỳ.
111
hóa) có những bình luận chung nhằm giải thích và phân tích cụ
thể nội dung của từng quyền trong nhóm này.
Việt Nam đã tham gia Công ước về các quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa ngày 24/9/1982. Hệ thống luật pháp của Việt
Nam từng bước được bổ sung và hoàn thiện. Hiến pháp năm
1992 và hệ thống các văn bản pháp luật như Luật Bảo vệ sức
khỏe người dân 1989, Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi và bổ
sung năm 2002 và 2006) và hiện nay là Bộ luật Lao động 2012,
Luật Giáo dục 1998 (sửa đổi năm 2005), Luật Đất đai 2003, Luật
Bảo hiểm xã hội 2006, Luật Phòng chống HIV/AIDS 2006... đã
tạo hành lang pháp lý rõ ràng và tương đối đầy đủ trong việc cụ
thể hóa và thực hiện các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của người
dân. Bên cạnh đó, những cơ quan chuyên trách cũng được thành
lập, bao gồm các ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, ủy
ban Quốc gia về người cào tuổi, ủy ban Phòng chống tham
nhũng... được thành lập để thực hiện chức năng tư vấn cho
Chính phủ về phương hướng và giải pháp đối với những vấn đề
liên quan; tuyên truyền, phổ biến và vận động nhân dân thực
hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời đôn đốc và
giám sát việc thực hiện của các cơ quan chính phủ. Các tổ chức,
đoàn thể nhân dân như Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam... đóng vai
trò ngày càng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân.70
Căn cứ vào nội dung và bản chất của các quyền liên quan,
có thể chia các qụyền kinh tế, xã hội và văn hóa thành ba nhóm
quyền cơ bản, cụ thể là:
- Nhóm các quyền kinh tể bao gồm hai quyền cơ bản là (1)
quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng và (2)
quyền lao động và được hưởng thù lao công bằng, hợp lý;
70 Xem Bộ Ngoại giao Việt Nam, llđd.
112
- Nhóm các quyền xã hội bao gồm ba quyền cơ bản là
(1) quyền được hường an sinh xã hội, (2) quyền được hỗ trợ
về gia đình và (3) quyền được hường chăm sóc về sức khỏe và
tinh thần;
- Nhóm các quyền văn hóa bao gồm hai quyền cơ bản là
(1) quyền được giáo dục và (2) quyền được tham gia vào đời
sống văn hóa và được hưởng các thành tựu của khoa học.
4.2.1. Quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sổng
thích đảng
Quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng
được nêu ra làn đầu tiên tại Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền
con người (Điều 25(1)).71 Sau đó, những nội dung này được
khẳng định và ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền
kinh tế xã hội và văn hóa năm 1966 (Công ước ICESCR). Cụ
thể, các quốc gia thành viên của Công ước cam kết thừa nhận
quyền của mọi người được có một mức sống thích đáng cho bản
thân và gia đình mình, trong đó bao gồm các khía cạnh về ăn,
mặc, nhà ở, và được không ngừng cải thiện điều kiện sống. Một
nội dung rất quan trọng liên quan đến việc đảm bảo thực hiện
quyền này đó là việc Công ước ICESCR đòi hỏi các quốc gia
thành viên phải có trách nhiệm thi hành những biện pháp thực thi
thích hợp và hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trên cơ sở tự do
chấp thuận.
Có thể thấy rằng, quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn
sống thích đáng là một tập hợp các quyền liên quan đến những
điều kiện cơ bản của cuộc sống mà mọi người đêu có quyên
71 Điều 25(1) quy định Mọi người đều có quyền được hướng mức sống đù
đề đàm bảo sức khoé và phúc lợi cùa bàn thân vct gia đình, về các mặt ăn,
mặc, ở, y tế và các dịch vụ xã hội cằn thiết khác, cũng như có quyền được bào
hiểm trong trường hợp thất nghiệp, ốm đau, tàn tật, góa bụa, già nua hoặc
thiếu phương tiện sinh sống do những hoàn cành khách quan vượt quá khít
năng kiêm soát của mình."
113
được hưởng và được đảm bảo. Những quyên này bao gôm quyên
đối với ăn, mặc, ở, chăm sóc về y tế, trong đó ba quyền được coi
là những quyền có ý nghĩa quan họng nhất là quyền được đảm
bảo đầy đủ về lương thực, thực phẩm, quyền đổi với nước và
quyền có nhà ở thích đáng..
4.2.1.1. Quyền được đảm bảo về lương thực, thực phẩm
Khoản 2 Điều 11 Công ước ICESCR quy định một cách cụ
thể trách nhiệm của các quốc gia trong việc đảm bảo quyền có
lương thực thực phẩm như là một nội dung quan trọng của quyền
được hưởng và duy trì các tiêu chuẩn sống thích đáng. Trên cơ
sở thừa nhận quyên không bị đói là quyền cơ bản của mọi người,
các quốc gia thành viên Công ước sẽ tự mình cũng như thông
qua hợp tác quốc tế thực hiện các biện pháp, kể cả các chương
trình cụ thể cần thiết để đạt dến mục tiêu đảm bảo quyền này.
4.2.1.2. Quyền đối với nước
Quyền đối với nước nêu ra tại Điều 11 Công ước ICESCR
được giải thích tại Bình luận chung số 15 đề cập quyền về nước
như sau:
Thứ nhất, quyền đối với nước được xác định là một quyền
con người bởi lẽ nó chính là điều kiện tiên quyết để có thể đạt
được các quyền con người khác (quyền con người về sức khỏe,
quyền có mức sống thích đáng, quyền có nhà ở và lương thực
thích đáng). Quyền đôi với nước được hiểu là mọi người có
quyền tiếp cận với nguôn nước một cách thích đáng, an toàn, có
thể chấp nhận đưỢc, có thê tiêp cận và chi trả được với cá nhân
mình và gia đình.
Thứ hai, để đảm bảo quyền đối với nước, các quốc gia
thành viên có nghĩa vụ bảo đảm cho mọi người khả năng tiếp cận
các nguồn nước thích đáng cho nông nghiệp; đảm bảo tiếp cận
các nguồn nước sinh hoạt vệ sinh, không bị nhiễm độc. Các quốc
gia phải đảm bảo cho mọi người quyền tự do tiếp cận với các
114
nguồn cung cấp nước sẵn có, quyền không bị tùy tiện cắt hoặc
làm ô nhiễm nguồn nước, quyền bình đẳng trong việc tiêp cận
với các hệ thống cung cấp nước.
4.2.1.3. Quyền có nhà ở thích đáng
Nội dung cụ thể của quyền có nhà ở thích đáng không
được đề cập tại Công ước ICESCR, mặc dù vậy Bình luận số 4
của ủ y ban về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đã nêu ra một
cách khá chi tiết nội dung cùa quyền này. Ngoài ra, một số các
văn kiện quốc tế khác cũng đã đề cập đến “quyền có nhà ở thích
đáng” ở nhiêu khía cạnh khác nhau như Tuyên ngôn vê quyên
con người 1948 (Điều 25(1)), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt chủng tộc (Điều 5(e)(iii)), Công ước về xóa bỏ mọi
hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Điều 14(2)), Công ước vê
quyền trẻ em (Điều 27(3))...
4.2.2. Quyền được làm việc và hưởng thù lao công
bằng, hợp lý
Quyền được làm việc (quyền được lao động) và được
hường thù lao công bằng, hợp lý là một trong những quyên cơ
bản của người lao động. Hiện nay, các quyền của người lao động
được quy định tương đối đầy đủ và thống nhất trong nhiều văn
kiện pháp lý quốc tế về quyền con người. Trong đó, các quyên
như quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được bảo đảm điều kiện
lao động họp lý, được trả thù lao hợp lý, được thành lập công
đoàn, được đình công, được nghỉ ngơi... được coi là những quyên
cơ bản phổ cập. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người
năm 1948 đã nêu ra những nội dung cơ bản nhát của quyên lao
động, quyền này bao gồm quyền của mọi người được làm việc và
những quyền khác gắn liền với quyền lao động.72 Trên cơ sở
72 Cụ thể là mọi người đều có quyền:
- Được làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được hường những điêu
kiện làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp;
115
những nội dung cơ bản trên, Công ước ICESCR đã cụ thể hóa
các quyền về lao động tại các Điều 6, 7 và 8. Quyền được lao
động và hưởng thù lao công bằng, hợp lý được ghi nhận như sau:
Thứ nhất, các quốc gia thành viên thừa nhận quyền làm
việc, trong đó bao gồm quyền của tất cả mọi người có cơ hội
kiếm sống bằng công việc do họ tự do lựa chọn hoặc chấp nhận,
và các quốc gia phải thi hành các biện pháp thích hợp để bảo
đảm quyền này. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải tiến
hành các biện pháp để thực hiện đầy đủ quyền này, bao gồm
triển khai các chương trình đào tạo kỹ thuật và hướng nghiệp,
các chính sách và biện pháp kỹ thuật nhằm đạt tới sự phát triển
vững chắc về kinh tế, xã hội và văn hóa, tạo công ăn việc làm
đầy đủ và hữu ích với điều kiện bảo đảm các quyền tự do cơ bản
về chỉnh ưị và kinh tế của từng cá nhân.
Thứ hai, mọi người có quyền được hưởng một cách công
bằng và thuận lợi những điều kiện làm việc, đặc biệt trong đó
mọi người phải được đảm bảo những quyền lợi sau đây:
- Thù lao cho tất cả mọi người làm công tối thiểu phải bảo
đảm thỏa đáng và công bằng, bảo đảm cuộc sống tương đổi đầy
đủ cho họ và gia đình họ;
- Điều kiện làm việc phải an toàn và lành mạnh;
- Được trả công ngang nhau cho những công việc như nhau mà không có bất
kỳ sự phân biệt đối xử nào;
- Được hường chế độ thù lao công bằng và hợp lý nhằm bảo đảm sự tồn tại
cùa bản thân và gia đình xứng đáng với nhân phâm, và được trợ cấp khi cần
thiết bàng các biện pháp bảo trợ xã hội;
- Thành lâp hoăc gia nhập công đoàn đê bảo vệ các quyền lợi cùa mình.
Ngoài ra, Điều 24 của Tuyên ngôn cũng quy định về quyền nghi ngơi và thư
giãn, kể cả quyền được giới hạn hợp lý sô giờ làm việc và được hưởng những
ngày nghi định kỳ có hưởng lương.
116
- Cơ hội phải ngang nhau cho mọi người trong việc được
đề bạt lên chức vụ thích hợp cao hơn, trong đó khi quyết định đề
bạt chỉ cần xét tới thâm niên và năng lực làm việc;
- Sự nghỉ ngơi, thời gian rảnh rỗi, giới hạn hợp lý số giờ
làm việc, những ngày nghỉ thường kỳ được hưởng lương cũng
như thù lao cho những ngày nghỉ lễ.
Thứ ba, mọi người có quyền được thành lập và gia nhập
công đoàn do mình lựa chọn, theo quy chế của tổ chức công
đoàn đó, để thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã hội của
mình. Đi cùng với quyền này, mọi người được đảm bảo có quyền
tiến hành đình công với điều kiện là đình công phải được thực
hiện phù hợp với pháp luật của mỗi nước.
4.2.3. Quyền được hưởng an sình xã hội
Quyền được hưởng an sinh xã hội lần đầu tiên được đề cập
tại Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, trong đó khẳng
định rằng; "... mọi người đều có quyền được hưởng an sinh xã
hội...". Trên cơ sở cụ thể hóa những nội dung cơ bản của Tuyên
ngôn, Công ước ICESCR đã tái khẳng định quyền quan trọng
này và nêu một cách ngắn gọn ràng, các quốc gia thành viên
Công ước này thừa nhận quyền của mọi người được hưởng an
sinh xã hội, kể cả bảo hiểm xã hội.
Hiện nay vẫn chưa có bình luận chung nào cụ thể về quyền
được hưởng an sinh xã hội do ủy ban về các quyên kinh tê, xã
hội, văn hóa đưa ra. Tuy nhiên, khái niệm ‘'an sinh xã hội” được
hiểu thông qua hướng dẫn thiết lập báo cáo quốc gia về việc thực
hiện Công ước. Trên cơ sở hướng dẫn này, an sinh xã hội được
hiểu bao gồm các chương trình cụ thể sau: chăm sóc y tế; trợ cấp
tàn tật; trợ cấp tuổi già; trợ cấp tai nạn lao động; trợ cấp đau ôm;
trợ cấp thất nghiệp; trợ cấp gia đình; trợ cấp sinh đẻ; trợ câp cho
người còn sống {survivors' benefits). Ngoài ra, cũng trong hướng
dẫn này, ủ y ban nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập các
117
chương trình an sinh xã hội cụ thể cũng như việc dành một phần
thích đáng của ngân sách quốc gia cho việc bảo đảm quyền an
sinh xã hội.
4.2.4. Quyền được hỗ trợ về gia đình
Giữa quyền được hỗ trợ về gia đình với tư cách là một
quyền kinh tế, xã hội và vãn hóa và quyền được kết hôn, lập gia
đình và bình đẳng trong hôn nhân với tư cách là một quyền dân
sự - chính trị (Điêu 23 Công ước ICCPR) có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau. Một mặt, mọi cá nhân được đảm bảo quyền tự do trong
lĩnh vực hôn nhân và gia đình, mặt khác các quốc gia phải đảm
bảo cho mọi người được hường sự hỗ trợ thích đáng về gia đình.
Ngoài ra, quyền này cũng có những liên hệ chặt chẽ vói các
quyền khác về phụ nữ và trẻ em được quy định tại Công ước
ICCPR.
Quyền được hỗ trợ về gia đình được đề cập lần đầu tiên
trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người.73 Những
quy định nêu ra tại Tuyên ngôn này sau đó được cụ thể hóa trong
tại Điều 10 Công ước ICESCR. Công ước ICESCR đặt ra các yêu
cầu cụ thể, theo đó các quốc gia thành viên có trách nhiệm:
- Dành sự giúp đỡ và bảo hộ tới mức tối đa có thể được
cho gia đình - tế bào cơ bản và tự nhiên của xã hội -, nhất là đối
với việc tạo lập gia đình và trong khi gia đình chịu trách nhiệm
chăm sóc và giáo dục trẻ em đang sống lệ thuộc;
- Dành sự bảo hộ đặc biệt cho các bà mẹ trong một
khoảng thời gian thích đáng trước và sau khi sinh con. Các quốc
gia cũng cam kết đảm bảo rằng trong khoảng thời gian đó, các bà
73 Cụ thể theo khoản 3 Điều 16, gia đình được xác định là “ tế bào tự nhiên và
cơ bán của xã hội, được nhà nước và xã hội báo vệ'. Tiêp đó, tại khoản 2
Điều 25 có quy định "các bà mẹ và tré em có quyển đứợc hưởng sự chăm sóc
và giúp đỡ đặc biệt. Mọi trẻ em, du sinh ra trong hay ngoài giá thú, đêu phai
được hường sự bào trợ xã hội như nhau .
118
mẹ cần được nghỉ có lương hoặc nghỉ với đầy đủ các phúc lợi an
sinh xã hội;
- Áp dụng những biện pháp bảo vệ và trợ giúp đặc biệt đối
với mọi trẻ em và thanh thiếu niên mà không có bất kỳ sự phân
biệt đôi xử nào vì các lý do xuât thân hoặc các điêu kiện khác;
- Bảo vệ trẻ em và thanh thiếu niên để không bị bóc lột về
kinh tế và xã hội. Việc thuê trẻ em và thanh thiếu niên làm các
công việc có hại cho tinh thần, sức khoẻ hoặc nguy hiểm tới tính
mạng, hay có hại tới sự phát triển bình thường của các em phải bị
trừng trị theo pháp luật. Các quốc gia cần định ra những giới hạn
vê độ tuổi mà việc thuê lao động trẻ em dưới hạn tuổi đó phải bị
pháp luật nghiêm cấm và trừng phạt.
4.2.5. Quyển được chăm sóc sức khỏe.
Quyền được chăm sóc sức khỏe chính là một nội dung
được đề cập tại Điều 25(2) của Tuyên ngôn toàn thế giới về
quyền con người liên quan đến quyền được có mức sống thích
đáng.74 Quy định nói trên sau đó đã được cụ thể hóa trong một
loạt các văn kiện quốc tế quan trọng về quyền con người. Đó là
các Công ước ICESCR (Điều 7, 11, 12); Công ước về xóa bỏ sự
phân biệt đối với phụ nữ (Committee on the Elimination o f
Discrimination against Women, CEDAW) (Điều 10, 12, 14);
Công ước về quyền trẻ em (Convention on the Rights o f the
Child, CRC) (Điều 24); Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình
thức phân biệt chủng tộc năm 1965 (Điều 5), Tuyên bố Vienna
và Chương trình Hành động thông qua tại Hội nghị thế giới về
quyền con người lần thứ hai năm 1993. Ngoài ra. quyền này còn
được ghi nhận trong một số văn kiện khu vực về quyền con
74 Cụ thể, Tuyên ngôn nhấn mạnh mọi người có quyền được hưởng một mức
sông thích đáng, đủ để bảo đàm sức khỏe và phúc lợi cùa băn thân và gia
đình, về các khía cạnh ăn, mặc, ờ, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần
thiết... Các bà mẹ và tré em có quyền được hường sự chăm sóc và giúp đỡ dặc
biệt.
119
người, trong đó có thể kể đến Hiến chương xã hội châu Âu năm
1961 sửa đổi (Điều 11), Hiến chương châu Phi về quyền con
người và quyền của các dân tộc năm 1981 (Điều 16), Nghị định
thư bổ sung Công ước châu Mỹ về các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa năm 1988 (Điều 10)...
Trong số các văn kiện nói trên, Công ước ICESCR chính
là văn kiện pháp lý quốc tế mang tính toàn diện nhất về quyền
được chăm sóc sức khỏe. Theo Điều 12, Các quốc gia thành viên
Công ước thừa nhận quyền của mọi người được hưởng một tiêu
chuẩn chăm sóc sức khỏe về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất
có thể được. Công ước cũng đòi hỏi các quốc gia thành viên
Công ước thi hành các biện pháp cần thiết để thực hiện đầy đủ
quyền này, trong đó bao gồm các biện pháp nhằm:
- Giảm bớt tỷ lệ từ Vong của trẻ sơ sinh và trẻ em và đạt
được sự phát triển lành mạnh của trẻ em;
- Cải thiện mọi mặt về vệ sinh môi trường và vệ sinh
công nghiệp;
- Ngăn ngừa, xử lý và hạn chế các dịch bệnh, bệnh ngoài
da, bệnh nghề nghiệp và các loại bệnh khác;
- Tạo các điều kiện để bảo đảm mọi dịch vụ và sự chăm
sóc y tế khi đau yếu.
4.2.6. Quyền được giáo dục
Quyền được giáo dục được nêu ra tại Điều 26 Tuyên ngôn
toàn thế giới về quyền con người.75 Các nội dung này sau đó
75 Cụ thề Điều 26 quy định như sau:
- Mọi người đều có quyền được hướng giáo dục. Giáo dục phải được miễn
phí ít nhất ở cấp sơ đăng và căn bàn. Giáo dục sơ đăng.có tính bắt buộc. Giáo
dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được phổ cập. Giáo dục cao đẳng phải
được phồ cập cho mọi sinh viên trên căn bản bình đẳng, lấy thành tích làm
tiêu chuẩn.
120
được cụ thể hóa trong Công ước ICESCR tại các Điều 13 và 14.
Điều 13 ICESCR đề cập quyền được giáo dục nói chung, cụ thể
các quốc gia thành viên Công ước nhất trí rằng:
- Quyền của mọi người được học tập được thừa nhận;
- Giáo dục phải hướng vào việc phát triển đầy đủ nhân
cách và ý thức về nhân phẩm, và phải nhằm tăng cường sự tôn
trọng các quyền và tự do cơ bản của con người;
- Giáo dục cần phải giúp mọi người tham gia hiệu quả vào
xã hội tự do, thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung và tình hữu nghị
giữa các dân tộc và các nhóm về chủng tộc, sắc tộc hoặc tôn
giáo, cũng như nhằm đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động duy trì
hòa bình của LHQ.
Nhằm thực hiện đầy đủ quyền được giáo dục, các quốc gia
thành viên Công ước sẽ:
- Thừa nhận ràng giáo dục tiểu học là phổ cập và miễn phí
với mọi người;
- Bên cạnh đó, các quốc gia, bằng mọi biện pháp thích
hợp, cụ thể là thông qua từng bước áp dụng giáo dục miễn phí,
phải làm cho giáo dục trung học dưới nhiều hình thức khác nhau,
kể cả giáo dục trung học kỹ thuật và dạy nghề, trở nên sẵn có và
đến được với mọi người;
- Bằng mọi biện pháp thích hợp, cụ thể là từng bước áp
dụng giáo dục miễn phí, phải làm cho đào tạo đại học trở thành
nơi mọi người có thể tiếp cận một cách bình đẳng trên cơ sở
năng lực của mỗi người;
- Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đù nhân cách, tăng cường sự tôn trọng
quyền con người và nhũng quyền tự do cơ bãn; phải đề cao sự thông cảm, bao
dung và hữu nghị giữa các quốc gia, các cộng đồng sắc tộc hay tôn giáo, đông
thời yểm trợ những hoạt động cùa LHQ trong việc duy trì hoà binh.
- Cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn giáo dục cho các con.
121
- Giáo dục cơ bản phải được khuyến khích hoặc tăng
cường tới mức cao nhất có thể được cho những người chua
tiếp cận hoặc chưa hoàn thành toàn bộ chương trình giáo dục
tiểu học;
- Việc phát triển một hệ thống trường học ở tất cả các cấp
phải được thực hiện tích cực, một chế độ học bổng thích đáng
phải được thiết lập và những điều kiện vật chất cho đội ngũ giáo
viên phải được cải thiện không ngừng.
Theo khoản 3 Điều 13, các bậc cha mẹ và những người
giám hộ hợp pháp (nếu có) có quyền tự do trong việc lựa chọn
trường cho con cái họ ngoài những trường do chính quyền lập ra,
miễn là đáp ứng được các tiêu chuẩn giáo dục tối thiểu do nhà
nước quy định hoặc thông qua, cũng như bảo đảm giáo dục về
tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý nguyện riêng của họ.
Theo khoản 4 Điều 13, các cá nhân và tổ chức có quyền
thành lập và điều hành các cơ sở giáo dục, với điều kiện các cơ
sở giáo dục đó luôn tuân thủ các nguyên tắc được nêu trong
khoản 1 của Điều này và đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn tối thiểu
mà nhà nước quy định.
Quyền phổ cập giáo dục tiểu học được quy định khá chi
tiết tại Điều 14 của Công ước ICESCR. Theo đó, mỗi quốc gia
thành viên Công ước mà vào lúc trở thành thành viên chưa thể
bảo đảm thực hiện được việc giáo dục tiểu học phổ cập và miễn
phí trong phạm vi lãnh thô nước mình hoặc các vùng lãnh thổ
khác thuộc quyền tài phán của nước mình cam kết trong vòng hai
năm sẽ lập ra và thông qua một kế hoạch hành động chi tiết,
nhằm thực hiện từng bước nguyên tắc giáo dục tiểu học phổ cập
và miễn phí cho mọi người trong một khoảng thời gian hợp lý đã
được ấn định trong kế hoạch đó.
122
4.2.7. Quyền được tham gia vào đời sống văn hỏa và
được hưởng các thành tựu khoa học
Quyền này được đề cập đầu tiên trong Điều 27 của Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người. Theo điều này, mọi
người có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa của cộng
đồng, được thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ những tiến bộ
khoa học cũng như những lợi ích xuất phát từ những tiến bộ khoa
học. Mọi người đều có quyền được bảo vệ các quyền lợi vật chất
và tinh thần phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học hay
nghệ thuật nào mà người đó là tác giả.
Điều 15 ICESCR đã cụ thể hóa nội dung Điều 27 Tuyên
ngôn toàn thế giới về quyền con người (Universal Declaration o f
Human Rights - UDHR), theo đó, các quốc gia thành viên Công
ước thừa nhận mọi người đều có quyền:
- Được tham gia vào đời sống văn hóa;
- Được hưởng các lợi ích của tiến bộ khoa học và các ứng
dụng của nó;
- Được bảo hộ các quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh
từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học nghệ thuật nào của mình;
- Các thành viên Công ước cam kết tôn trọng quyền tự do
không thể thiếu được đối với nghiên cứu khoa học và các hoạt
động sáng tạo.
Đe thực hiện đầy đủ quyền này, các quốc gia thành viên
Công ước phải thực thi nhiều biện pháp, trong đó có các biện
pháp cần thiết để bảo tồn, phát triển và phổ biến khoa học và văn
hóa, đồng thời thừa nhận lợi ích của việc khuyến khích, phát
triển các mối quan hệ và hợp tác quốc té giữa các quốc gia trong
các lĩnh vực khoa học và vãn hoá.
123
4.3. Quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương
trong luật quốc tế
Bên cạnh việc ghi nhận và bảo vệ quyền con người về dân
sự và chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, luật quốc tế về quyền
con người còn đề cập quyền của một sổ nhóm người dễ bị tổn
thưcmg (vulnerable groups). Khái niệm “các nhóm người dễ bị
tổn thưcmg” hiện nay chưa được định nghĩa chính thức và các
nhà nghiên cứu thường đưa ra khái niệm nhóm người này theo
những cách khác nhau. Những người thuộc các nhóm này “dễ
gặp phải sự phân biệt đổi xử hay những vi phạm quyền con
người hơn những người khác”.767
7Các nhóm xã hội dễ bị tổn
thưcmg còn có thể được hiểu là “cóc cộng đồng, nhóm người có
vị thế về chính trị, kinh tế.hoặc xã hội thấp hơn đa sổ, khiến họ
có nguy cơ bị bỏ quên hay bị vi phạm quyền cao hơn.”71
Các quyền con người của những nhóm này về cơ bản
không nằm ngoài phạm vi quyền con người nói chung. Do đó,
những người thuộc nhóm này cũng sẽ được bảo đảm các quyền
con người như những nhóm người khác được ghi nhận trong các
Công ước về quyên dân sự và chính trị, quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của nhóm người này,
các quyền của họ được quy định trong luật quốc tế về quyền con
người một cách cụ thể, chi tiết và có những khác biệt hơn; một số
quyền mà chỉ những người thuộc nhóm này mới có. Việc những
nhóm người cụ thể nào được coi là nhóm dễ bị tổn thương trong
luật quốc tế về quyền con người tùy thuộc vào cách hiểu và hoàn
cảnh, điều kiện kinh tế xã hội cụ thể mà nhóm người này sinh
sống. Nhìn chung, những nhóm người dễ bị tổn thương bao gồm:
phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật; người sống chung với
HIV/AIDS; người tỵ nạn, người không quốc tịch; người lao động
76 Elisabeth Reichert, Understanding Human Rights: An Exercise Book, Nxb.
SAGE Publication, 2008, tr. 78.
77 Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 295.
124
di trú; người bản địa, người dân tộc thiểu số; nạn nhân chiến
tranh, người cao tuổi. Phần này chỉ giới thiệu khái quát quyền
của những nhóm người dễ bị tổn thương tiêu biểu nhất là phụ nữ,
trẻ em, người khuyết tật và người lao động di trú.
4.3.1. Quyền của phụ nữ
Hiện nay văn kiện pháp lý quan trọng nhất về quyền con
người của phụ nữ là Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt
đổi xử chống lại phụ nữ (CEDAW), kết quả hơn 30 năm đấu tranh
của Uỷ ban về địa vị phụ nữ LHQ (Commission on the Status o f
Women - CSW), và được thông qua vào ngày 18/12/1979.78 Tuy
nhiên, các cuộc đấu tranh nhàm ghi nhận quyền của phụ nữ đã bắt
đầu từ cấp độ quốc gia từ trước đó và được ghi nhận trong rất nhiều
văn kiện quốc tế mà tiêu biểu là Hiến chương của LHQ. Lời nói đầu
của Hiến chương khẳng định “sự bình đang về các qu)>ền giữa phụ
nữ và nam giới”. Trong Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người,
mọi người đều có quyền hưởng các quyền và tự do trên cơ sở bình
đẳng giới tính. Bình đẳng nam nữ cũng được khẳng định trong cả
hai Công ước về quyền dân sự và chính trị, kinh tế, xã hội và văn
hóa (Lời nói đầu và Điều 2(2), Điều 3).798
0Ngoài ra, bảo vệ và thúc
đẩy các quyền của phụ nữ còn là chủ đề của các hội nghị quốc tế
toàn câu.
78 Công ước này có hiệu lực từ ngày 03/9/1981. Hiện nay có 187 quốc gia là
thành viên của Công ước
http://treaties.un.org/Pages/ViewDetails.aspx?src=TREATY&mtdsg_no=IV-
8&chapter=4&lang=en.
79 Ngoài ra, các quyền con người còn được tuyên bố và bảo vệ trong một sô
công ước quốc tế khác như Cônẹ ước về trấn áp việc buôn người và bóc lột
mại dâm năm 1949; Công ước về các quyền chính trị cùa phụ nữ năm 1952;
Công ước vê quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn năm 1957; Công ước vê đãng
ký kết hôn, độ tuổi tối thiểu khi kết hôii và việc kết hôn tự nguyện năm
1962...
80 Ví dụ như Hội nghị thế giới về quvền con người lần thứ II tại Vienna năm
1993; các hội nghị quốc tế về phụ nữ tại Mexico năm 1975, Copenhagen năm
1980, Nairobi năm 1985 và Bắc Kinh năm 1995...
125
Hiện nay Công ước CEDAW là một trong số 9 công ước
quốc tế quan trọng của LHQ về quyền con người.8
1 Công ước
được xây dựng trên cơ sở các mục tiêu của LHQ nhằm bảo đảm
nhân cách, phẩm giá và các quyền cơ bản của con người cũng
như quyền bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới.82 Công ước
không xác lập các quyền con người mới cho phụ nữ mà giải thích
rõ ý nghĩa của bình đẳng, đề ra những cách thức, biện pháp nhằm
loại trừ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong việc hưởng
thụ những quyền con người được ghi nhận trong các công ước
quốc tế về quyền con người. Sự phân biệt đối xử với phụ nữ
được hiểu là tất cả những hành động có hoặc không có chủ đích,
biểu hiện bằng sự phân biệt hoặc loại trừ hay hạn chế phụ nữ,
làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa không chỉ sự thực hiện mà còn cả
sự công nhận và thụ hưởng các quyền và tự do của phụ nữ, diễn
ra trên mọi lĩnh vực bao gồm cả trong đời sống gia đình và ngoài
xã hội, trong khu vực công cộng hoặc tư nhân và có thể do mọi
đối tượng gây ra, kể cả bởi bản thân phụ nữ.83
Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế
giới ký tham gia Công ước ngày 29/7/1980 và phê chuẩn ngày
27/11/1981. Nhà nước Việt Nam luôn cam kết vì sự tiến bộ của
phụ nữ và bình đẳng giới, coi đó là một công cụ quan trọng để
tiến tới công bàng và phát triển bền vững. Quan điểm này được
81 Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 303.
82 ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, «Công ước về xóa bỏ
mọi hình thức phân biệt đôi xử với phụ nữ», Hà Nội, 2005.
http://www.giaoducgioitinh.org.vn/WPF/HTTN_SV/Truyenthong/CongUocC
hongPhanBietDoiXuPhuNu.pdf
83 Khái niệm “phân biệt đôi xử chông lại phụ nữ” tại Điều 1 của Công ước
CEDAW được hiểu là ... bất kỳ sựphân biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa
trên cơ sờ giới tính làm ảnh hướng hoặc nhõm mục đích làm tôn hại hoặc vô
hiệu hoá việc phụ nữ được công nhận, thụ hưởng, hay thực hiện các quyền
con người và những tự do cơ bản trong lĩnh vực chỉnh trị, kỉnh tê, xã hội, văn
hóa dân sự và các lĩnh vực khác trên cơ sở bình đắng nam nữ bất kể tình
trạng hôn nhân cùa họ như thế nào”. Xem thêm Đại học Quốc gia Hà Nội,
sđd, tr. 305.
126
thể hiện trong Hiến pháp 1992, Luật Hình sự, Luật Dân sự, Luật
Lao động, Luật Giáo dục, Luật Đất đai, Luật Phòng chống
HIV/AIDS, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia
đình và nhiều văn bản pháp luật khác về bình đẳng giới. Năm
2010, Việt Nam đã thông qua Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ
của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 thực hiện trên phạm vi toàn
quốc, tiếp tục là Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới cho giai
đoạn 2011-2020. Quan điểm giới cũng được lồng ghép vào nhiều
văn bản quốc gia quan trọng như Chiến lược tăng trưởng và xoá
đói giảm nghèo, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2005-2010,
các chiến lược phát triển ngành... Hệ thống các cơ quan, tổ chức
tham mưu và thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ bao gồm Bộ Lao
động - thương binh và xã hội, Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của
phụ nữ và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Hệ thống tổ chức của
các cơ quan này được thiết lập và phát triển ở tất cả các cấp trong
toàn quôc.
Để loại trừ mọi sự phân biệt đổi xử chống lại phụ nữ, Điều
2, 3, 5 và 6 Công ước ấn định nghĩa vụ cơ bản cho các quốc gia
trong các lĩnh vực sau đây:
- Quy định nguyên tắc bình đẳng nam nữ trong hiến pháp
và pháp luật của mình và bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trên
thực tế;
- Quy định các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn các
hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ. bao gồm cà chê tài
hình sự;
- Thiết lập các cơ chế pháp lý nhằm giúp phụ nữ bảo vệ
các quyền bình đẳng của họ;
- Đảm bảo không có sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ
trong hoạt động của các cơ quan nhà nước ở các cấp;8
4
84 Xem Bộ Ngoại giao Việt Nam, tlđd.
127
- Thực thi tất cả các biện pháp thích hợp nhằm xóa bỏ sự
phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong các thành phần kinh tế
phi nhà nước;
- Điều chỉnh, xóa bỏ những quy định pháp luật, phong tục
tập quán của mình có tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ
nữ, sửa đổi những tập tục và khuôn mẫu giới có tác động tiêu cực
đến phụ nữ (Điều 5);
- Ngăn chặn mọi hình thức buôn bán và bóc lột tình dục
phụ nữ (Điều 6).
Công ước quy định phụ nữ cần được đảm bào các quyền
sau đây: quyền tham gia vào các hoạt động chính trị và xã hội
(Điều 7); quyền bình đẳng trong việc tham gia các quan hệ quốc
tế (Điều 8); quyền bình đẳng về quốc tịch (Điều 9); quyền bình
đẳng trong giáo dục (Điều 10); quyền bình đẳng về việc làm
(Điều 11); quyền bình đẳng trong vấn đề chăm sóc sức khỏe
(Điều 12); quyền bình đẳng trong đời sống kinh tế, xã hội (Điều
13); quyền bình đẳng của phụ nữ nông thôn so với phụ nữ ở
thành thị (Điều 14); quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 15);
quyền bình đẳng trong quan hệ hôn nhân gia đình (Điều 16).
4.3.2. Quyền cùa trẻ em
Trong lịch sử phát triển của quyền con người thì trẻ em
luôn được coi là một trong những nhóm xã hội dễ bị tổn thương
nhất và chính vì vậy trẻ em luôn được các nhà nước và cộng
đồng quan tâm bảo vệ.85 Hiến chương về quyền trẻ em ra đời
năm 1923, dựa trên cơ sở của Hiến chương này Hiệp hội quốc tế
các quỹ cứu trợ trè em đã khởi thảo và cho ra đời Tuyên ngôn về
quyền trẻ em năm 1924 tại Geneva và từ đây quyền trẻ em chính
thức được ghi nhận trong pháp luật quôc tế. Ngày 20/11/1959,
LHQ thông qua Tuyên ngôn quyền trẻ em. Tinh thần của tuyên
ngôn được phản ánh trong lời nói đầu với điểm cơ bản là “Loài
85 Xem Đại học Ọuốc gia Hà Nội, S(1d, tr. 328.
128
người phải dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất mà mình có”,
về mặt pháp lý, Tuyên ngôn quyền trẻ em năm 1959 chỉ mang
tính khuyến nghị, không có giá trị pháp lý bắt buộc đối với các
quốc gia thành viên. Nói cách khác, văn bản này chỉ có giá trị về
mặt chính trị và đạo đức.
Trước tình hình đó, năm 1979, LHQ quyết định soạn thảo
một điều ước quốc tế riêng về quyền của trẻ em. Sau 10 năm
soạn thảo và chỉnh sửa bổ sung, ngày 20/11/1989, Đại hội đồng
LHQ đã chính thức thông qua Công ước quốc tế về quyền trẻ em,
có hiệu lực từ ngày 2/9/1990.86 Ý nghĩa pháp lý của Công ước
1990 là:
Thứ nhất, đây là Công ước quốc tế đầu tiên đề cập toàn
diện và xác định về mặt pháp lý các quyền tré em theo hướng
tiến bộ, trên cơ sở thừa nhận trẻ em có quyền được chăm sóc,
bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt. Công ước là văn bản có tính chất
ràng buộc pháp lý theo luật pháp quốc tế đối với các quốc gia
thành viên và là sự đồng thuận đầu tiên của cộng đồng quốc tế về
các quyền được xác định của trẻ em.
Thứ hai, Công ước về quyền trẻ em là kết quả của sự pháp
điển hóa mang tính lịch sử những trách nhiệm và nghĩa vụ của xã
hội đối với trẻ em, là cơ sở thúc đẩy các nước trong cuộc đẩu
tranh nhằm bảo vệ và thực hiện quyền trẻ em trên toàn thế giới.
Thíĩ ba, Công ước quy định trẻ em được công nhận có
đầy đủ các quyền như người lớn và các quyền của trẻ em thuộc
dạng đặc biệt như tàn tật, mồ côi, cơ nhỡ, lang thang, sinh sông
ờ vùng núi và dân tộc ít người, bản địa... đều được đê cập và
chú ý. Văn kiện pháp lý quốc tế này đã đưa ra định nghĩa thông
nhất về các quyền của trẻ em cho tất cả các quốc gia thành viên.
86 Cho đến nay, Công ước đã có hon 160 quốc gia thành viên. Việt Nam là
nước thứ hai trên thế giới và là nước thứ nhất tại khu vực châu Á ký và phê
chuẩn Công ước.
129
Các quốc gia này phải nội luật hóa các quyền đó vào trong hệ
thống pháp luật của nuớc mình mặc dù họ có sự khác nhau về
hệ thống chính trị, văn hóa, tín ngưỡng, tập quán. Ở góc độ
khác, đối với các quốc gia chưa tham gia Công ước cũng như
các tổ chức quốc tế khi đề cập đến quyền trẻ em cũng chuẩn
hóa các quy định của Công ước trong các văn bản pháp lý của
mình trên cơ sở coi các quy định của Công ước như những quy
phạm tập quán nhằm mục tiêu quyền trẻ em được bảo đảm và
tôn trọng ở quy mô toàn cầu.
Thứ tư, Công ước thực sự là công cụ pháp lý hữu hiệu
trong việc định hướng để xây dựng tiêu chuẩn cho các tổ chức
quốc tế và các quốc gia khác xem xét cấp viện trợ trong lĩnh vực
chăm sóc sức khỏe và giáo dục trẻ em, giúp cho việc thực thi đi
đúng hướng, đúng đối tượng và mang tính tích cực. Từ những
chuẩn mực pháp lý được quy định trong Công ước thì việc thực
hiện những công việc trên không còn là vấn đề “nhân đạo” hay
“từ thiện” mà thực chât là trách nhiệm và đạo lý của các quốc
gia Chính vì vậy nhiêu tô chức quốc tế, đặc biệt là tổ chức tự
nguyện, phi chính phủ đã sử dụng Công ước làm cơ sở hay
cương lĩnh hành động.
4.3.3. Quyền của người khuyết tật
Quyền của người khuyết tật (Rights o f Persons with
Disabilities) từ lâu đã trở thành mối quan tâm của cộng đồng
quốc tế. Tôn trọng và bảo đảm quyền của người khuyết tật không
những là vấn đề mang ý nghĩa nhân đạo, từ thiện, mà còn mang ý
nghĩa kinh tế, xã hội và pháp lý.87 Chính vì vậy, trong những
thập kỷ gần đây cộng đồng quốc tế đã thông qua một số công cụ
pháp lý quôc tê đê bảo vệ và thúc đây quyên của người khuyêt
tật trong xã hội như: Tuyên bố vê quyên cùa người khuyết tật
87 Nguyễn Thị Báo (2009), Pháp luật về quyền cùa người khuyết tật ở Việt
Nam hiện nay: Thực trạng vàgiãipháp hoàn thiện. Xem nội dung bài viêt tại
địa chỉ: http://www.vjol.info/index.php/ssir/articie/view/2864/2820
130
1995, Chương trình hành động thế giới về người khuyết tật 1981,
Các nguyên tắc bảo vệ người bệnh tâm thần và chăm sóc y tế cải
thiện tâm thần 1991, Tiêu chuẩn, quy chuẩn về sự bình đẳng các
cơ hội đối với người khuyết tật 1993... Tuy không có hiệu lực bắt
buộc nhưng các văn kiện này đã thể hiện sự cam kết về đạo đức
và chính trị của các quốc gia thành viên. Chúng được sử dụng
như những hướng dẫn nhằm ban hành các đạo luật và xây dựng
các chính sách có liên quan tới người khuyết tật.
Mục đích của Công ước về quyền của người khuyết tật là
thúc đẩy, bảo vệ và bảo đảm cho người khuyết tật được hưởng
đây đủ và bình đẳng tất cả quyền con người và quyền tự do cơ
bản, thúc đẩy sự tôn trọng phẩm giá vốn có của họ đồng thời xóa
bỏ các rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của
người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những
người khác (Điều 1).
Các nguyên tắc cơ bản của Công ước ICRPD là: tôn trọng
phẩm giá vốn có, sự tự chủ của cá nhân bao gồm sự tự do lựa
chọn và sự độc lập của cá nhân; không phân biệt đối xử; bảo
đảm sự tham gia và hòa nhập xã hội đầy đủ và hiệu quả; tôn
trọng sự khác biệt và chấp nhận người khuyết tật như một phần
của sự đa dạng nhân loại và nhân văn; bảo đảm bình đẳng về cơ
hội; (vi) có thể tiếp cận được (ơccessible); bảo đàm bình đẳng
giữa nam và nữ; tôn trọng những khả năng đang phát triển của
trẻ khuyết tật và tôn trọng quyền bảo vệ nhân dạng của trẻ
khuyết tật (Điều 3).
Công ước ICRPD xác định các nghĩa vụ chung của quốc
gia, theo đó các quốc gia thành viên cam kết sẽ bảo đảm và thúc
đẩy sự công nhận đầy đủ tất cả các quyền con người và tự do cơ
bản của tất cả người khuyết tật mà khồng có bất cứ hình thức
phân biệt đối xử nào đối với người bị khuyết tật (Điều 4). Công
ước ICRPD khẳng định, không có điều khoản nào của Công ước
ảnh hưởng tới bất cứ điều khoản nào có lợi cho việc công nhận
131
các quyền của người khuyết tật và những điều có thể được nêu
trong luật pháp của một quốc gia thành viên hay trong luật quốc
tê có hiệu lực đôi với quôc gia đó. Sẽ không hạn chế hay vi phạm
bât kỳ quyên con người và tự do cơ bản nào đã được công nhận
hay hiện có tại bất kỳ một quốc gia nào tham gia Công ước
ICRPD chiêu theo pháp luật, công ước, quy định hay phong tục
với lý do Công ước không công nhận những quyền và sự tự do
đó hoặc Công ước ICRPD chỉ công nhận các quyền và sự tự do
này ở phạm vi nhỏ hơn. Các điều khoản của Công ước ICRPD sẽ
được triển khai tới mọi vùng của các quốc gia liên bang mà
không có bất cứ hạn chế hay loại trừ nào cả.
Công ước ICRPD yêu cầu các quốc gia cam kết áp dụng
những biện pháp tức thì, vhiệu quả và phù hợp nhằm nâng cao
nhận thức toàn xã hội về các vấn đề liên quan tới người khuyết
tật và thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và phẩm giá của người
khuyết tật; đấu tranh xóa bỏ những khuôn mẫu, định kiến và tập
quán có hại tới người khuyết tật, bao gồm những vấn đề về giới
tính và tuôi tác, trong tât cả các lĩnh vực của đời sông; đê xướng
và duy trì các cuộc vận động nâng cao nhận thức xã hội có hiệu
quả được thiết kế để nâng cao hiểu biết về các quyền của người
khuyết tật; thúc đẩy sự tiếp thu tích cực và nhận thức mang tính
xã hội rộng rãi hơn về người khuyết tật.
Việt Nam đã ký Công ước quốc tế về quyền của người
khuyết tật ngày 22/10/2007 và sẽ phê chuẩn công ước này trong
tương lai. Người khuyết tật được Nhà nước và xã hội trợ giúp
chăm sóc sức khoẻ, phục hôi chức năng, tạo việc làm phù hợp và
được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật. Quan
điểm này phản ánh quy định trong Hiến pháp 1992 và được cụ
thể hóa trong một số văn bản luật quan trọng như Bộ luật Lao
động, Luật Giáo dục, Luật Dạy nghê, Luật.Bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục trẻ em, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Công nghệ thông
tin, Pháp lệnh về người tàn tật. Việt Nam là một trong những
quốc gia đầu tiên trong khu vực Châu A - Thái Bình Dương xây
132
dựng và triển khai kế hoạch dài hạn về người khuyết tật do
UNESCAP đề xướng. Hiện nay, hệ thống các cơ quan, tổ chức
đã được thiết lập có f'"MTI vi hoạt động ở tất cả các cấp trong
toàn quốc nhằm bảo vệ các quyên và lợi ích của người khuyết tật
bao gồm Bộ Lao động - Thương bỉnh và Xã hội, Hội Bào trợ
người tàn tật và trẻ mồ côi, Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam,
Hội Người mù, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam,
Ban điều phối hỗ trợ hoạt động của người tàn tật, Hiệp hội sản
xuất kinh doanh của người tàn tật.88
4.3.4. Quyền của người lao động di cư
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế
đang diễn ra ngày càng sâu rộng, lao động di cư giữa các quốc
gia ngày càng trở nên phổ biến và có xu hướng gia tăng về mặt
số lượng.89Người lao động di cư được xếp vào nhóm người dễ bị
tổn thương bời lẽ tại những quốc gia họ đến cư trú và làm việc,
họ đã và đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng như
lao động trong môi trường độc hại. nguy hiểm, sự phân biệt đôi
xử so với lao động là công dân nước sở tại trên nhiều khía cạnh,
bị đánh đập hay lạm dụng... Đồng thời, nhóm người này còn gặp
rất nhiều khó khăn khác bởi sự hạn ché về ngôn ngữ, khác biệt
về văn hóa, thiếu hiểu biết pháp luật nước sở tại. Chính vì vậy,
đảm bảo các quyền con người của nhóm người này là một vân đê
được cộng đồng quốc tế quan tâm.
Khái niệm “người lao động di cư” (imigrant worker) được
hiểu là “
’một người đã, đang và sẽ làm một công việc có nhận thù
88 Bộ Ngoại giao Việt Nam, tlđd. •
89 Theo Tô chức Lao động quốc tế, sô người cư trú và làm việc ở ngoài đât
nước mình đã và đang tăng gấp đôi từ năm 1975 đến năm 2003 và hiện nay có
khoảng 214 triệu người lao động di cư trên thê giới.
Xem thêm http://www.ilo.org
133
lao tại một quốc gia mà người đỏ không phải là công dân".90
Như vậy, hai dấu hiệu của người lao động di trú là: (i) họ là
người đã, đang và sẽ làm một công việc có nhận thù lao, không
phụ thuộc vào thời gian được tuyển dụng cũng như không phải
tự lực lao động dựa trên tài sản của mình; (ii) người đó đã, đang
và sẽ thực hiện công việc ở quốc gia mà người đó không mang
quốc tịch.9
1
Cho đến nay cộng đồng quốc tế đã có khá nhiều các điều
ước quốc tế quy định về quyền của nhóm người này,92 trong số
đó Công ước quốc tế về quyền của người lao động di trú và các
thành viên trong gia đình họ (Convention on the Protection o f the
Rights o fAU Migrant Workers and Members ofTheir Familles -
90 Điều 2(1) Công ước quốc tế của LHQ về bảo vệ quyền của tất cả những
người lao động di cư và các thành viên gia đình họ năm 1990 (Công ước
1990).
9
1 Khái niệm “người lao động di cư” còn được định nghĩa ở nhiều điều ước
quốc tế, Chẳng hạn, theo Công ước vê di cư vì việc làm năm 1949 của ILO
(Công ước số 97) thì thuật ngữ “người di cư vì việc làm” được hiểu là “người
di cư từ một quốc gia này tới quốc gia khác vì mục đích được tuyển dụng, chứ
khôngphải tự lực lao động, bao gôm bât kỳ người nào được tuyên dụng một
cách lâu dài như là một người di cưvì việc làm” (Điều 11(1)).
92 Có thể kề đến những điều ước quốc tế quan trọng như Công ước số 29 về
xóa bỏ lao động cưỡng bức năm 1930; Công ước số 87 về quyền tự do lập hội
và bảo vệ quyền đụợc tô chức năm 1948; Công ước số 98 về quyền được tổ
chức và thỏa ước lao động tập thê năm 1949; Công ước số 97 về di cư vì việc
làm năm 1949 của ILO (được ban hành đê sửa đồi Công ước về di cư vì việc
làm nãm 1939); Công ước về người di cư trong hoàn cảnh bị lạm dụng và về
việc thúc đẩy cơ hội và sự đối xử bình đăng với người lao động di cư năm
1975 (Công ước số 143); Công ước sô 118 vê bình đẳng trong đối xử (an sinh
xã hội) năm 1962; Công ước sô 157 về duy trì các quyên an sinh xã hội năm
1982 ... và nhiều khuyến nghị trực tiếp của 1LO như Khuyến nghị về sự di cư
vì việc làm năm 1949 (số 86) kèm theo Công ước sô 97 và Khuyến nghị về
người lao động di cư 1975 (số 151) kèm theo Công ước số 143. Xem thêm
Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 396-398 và ILO website
http://www.ilo.org/global/topics/labour-migration/lang~en/index.htm
134
ICRMW) là điều ước trực tiếp và toàn diện nhất quy định về
quyền của người lao động di cư.93
Hiện nay Việt Nam chưa là thành viên của Công ước
ICRMW. Tuy nhiên, những quy định nhằm bảo vệ quyền của
người lao động di cư đã được ghi nhận trong một số văn kiện
pháp lý quan trọng như Bộ luật Lao động, Pháp lệnh số
24/1999/PL-UBTVQH ngày 28/4/2000 về nhập cảnh, xuất cảnh,
cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, Nghị định
34/2008/NĐ-CP ngày 25/03/2008 quy định về tuyển dụng và
quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Luật Người
Việt Nam đi lao động ờ nước ngoài được ban hành và có hiệu lực
từ tháng 7 năm 2007. Những văn kiện này cho thấy sự quan tâm
của nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của người
lao động di cư trong bối cảnh hội nhập.
Công ước đã đưa ra khái niệm và phân loại “người lao
động di cư” (Điều 2); những đối tượng không được coi là lao
động di cư căn cứ vào tiêu chí nghề nghiệp (Điều 3) và khái
niệm “những thành viên trong gia đình người lao động di cư
(Điều 4). Cũng theo Công ước, ba nguyên tắc cơ bản được áp
dụng đối với việc ghi nhận và bảo đảm các quyền của người lao
động di cư là:
- Không phân biệt đổi xừ (Điều 1): mọi người lao động di
cư được hưởng các quyền một cách bình đẳng và không chịu sự
phân biệt nào dựa trên các yếu tố về dân tộc. chủng tộc. quôc
tịch, ngôn ngữ, độ tuổi, địa vị xã hội. nghề nghiệp, giới tính, tôn
giáo, tín ngưỡng, quan điểm xã hội...
- Đổi xử quốc gict (Điều 25): các quốc gia phải đảm bảo
người lao động di trú làm việc ở.nước mình dược hưởng các
quyền không kém thuận lợi hơn so với các quyền mà lao động
93 Đại học Quốc gia Hà Nội, sđct, tr. 398.
của nước mình đang được hường, cụ thể là các quyền liên quan
đên thù lao, điêu kiện làm việc, tiêu chuân tuyển dụng...
- Các quyền được áp dụng trong suốt quá trình di cư lao
động (Điêu 1): người lao động di cư được quốc gia nơi làm việc
bảo đảm các quyên trong suốt quá trình di cư lao động bao gồm
giai đoạn chuẩn bị, trên đường đến, khi làm việc tại nước tiếp
nhận và khi trờ về nước ban đầu.
Công ước cũng quy định các quyền áp dụng cho người lao
động di cư và gia đình của họ trên cơ sờ phân loại thành hai
nhóm: (i) các quyên áp dụng chung cho mọi người lao động di
cư và (ii) các quyền áp dụng riêng cho người lao động di cư có
giây tờ hợp pháp.
Nhóm những quyền áp dụng chung cho mọi người lao
động di cư được quy định tại Phần III của Công ước, từ Điều 8
đến 32. Đây là sự công nhận và cụ thể hóa hệ thống quyền con
người trên các lĩnh vực cơ bản về dân sự, chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Nhóm quyền này bao gồm những quyền cơ bản như:
quyền sống (Điều 9) và quyền được thừa nhận là thể nhân trước
trước pháp luật (Điều 24); quyền tự do và an toàn cá nhân
(không bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc
hạ thấp nhân phẩm, không bị bắt làm nô lệ hoặc nô dịch, không
bị cưỡng bức lao động, không bị tịch thu, hủy giấy tờ tùy thân
hoặc giấy phép lao động) (Điều 10, 11, 16, 21); quyền được bảo
vệ sự riêng tư (Điều 14); quyền sờ hữu tài sàn (Điều 15); quyền
tự do tư tưởng, tín ngưỡng , tôn giáo, tự do ngôn luận (Điều 12,
13); quyền tự do rời khỏi hoặc trở về bất kỳ quốc gia nào, kể cả
quốc gia gốc (Điều 8); quyên được chăm sóc y tế (Điều 28); các
quyền của trẻ em thuộc các gia đình lao động di cư (Điêu 26,
30); quyền được tôn trọng và duy trì bản sắc văn hóa (Điều 26);
quyền được gửi hoặc mang theo số tiền kiếm được (Điều 26);
quyền không bị trục xuất tập thể (Điều 22); quyền được nhận sự
hỗ trợ, bảo vệ của cơ quan ngoại giao hoặc lãnh sự nước mình
136
(Điều 23); các quyền về xét xử công bằng trong tố tụng hình sự
(Điều 17, 18, 19); quyền được hưởng chế độ lao động bình đẳng
như những người lao động tại nước sờ tại: giờ làm việc, thời gian
nghỉ, an toàn lao động, chăm sóc sức khỏe... phù hợp với các quy
định của luật lệ nước bản địa (Điều 25); quyền được tự do lập
hội theo quy định của pháp luật (Điều 26); quyền được hưởng
các thành quả lao động; quyền được bảo đảm về an sinh xã hội
(Điều 27)...
Nhóm các quyền áp dụng riêng cho người lao động di cư
và các thành viên gia đình họ là những người có giấy tờ hoặc ờ
trong tình trạng hợp pháp được quy định tại Phần IV của Công
ước, từ Điều 36 đến 56. Nhóm quyền này bao gồm các quyền
như: được thông báo đầy đủ về việc cư ưú và công việc họ sẽ
phải làm (Điều 37); được vắng mặt tạm thời mà không bị tước
giấy phép cư trú hoặc lao động (Điều 38); được tự do đi lại và
lựa chọn nơi cư trú ở quốc gia đang làm việc (Điều 39); được lập
và tham gia công đoàn tại quốc gia nơi đang làm việc (Điều 40);
được bầu cử, ứng cử, hoặc tham gia các hoạt động xã hội ờ nước
mình (Điều 41); được hỗ trợ để hợp nhất và giữ mối liên hệ với
gia đình (Điều 42, 44); được chuyển thu nhập về cho gia đình
(Điều 47); được đối xử bình đẳng như công dân nước sở tại trong
các vấn đề về thuế, lao động, việc làm, giáo dục, y tế, văn hóa
(Điều 43, 45, 48, 54, 55); được tự do lựa chọn công việc chỉ phải
theo những điều kiện nhất định (Điều 52); không bị trục xuất tùy
tiện (Điều 56); được miễn các loại thuế và phí xuất nhập khẩu
với các đồ dùng gia đình và cá nhân và dụng cụ cần thiết trong
công việc (Điều 46); được cấp phép cư trú trong thời gian ít nhất
bằng với thời hạn được phép làfn công việc có hường lương
(Điều 49); được hỗ trợ để hòa nhập con cái, người thân trong gia
đình vào xã hội sở tại (Điều 45)...
137
Công ước cũng đã thiết lập một cơ chế đảm bảo áp dụng
Công ước trên thực tế thông qua ủy ban bảo vệ các quyền của
người lao động di cư và các thành viên gia đình họ (Phần IV).94
V. C ơ CHÉ BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN CON
NGƯỜI
Phần này trình bày khái quát cơ chế bảo vệ và thúc đẩy
quyền con người trong luật quốc tế cũng như trong pháp luật
quốc gia từ khi LHQ ra đời cho đến nay. Trước hết phần này đề
cập cơ chế quy định trong Hiến chương LHQ và vai trò của các
cơ quan chính của LHQ cũng như các cơ quan hỗ trợ quyền con
người của LHQ. Phần tiẹp theo trình bày cơ chế quy định tại
các Công ước quốc tế về quyền con người và khái quát một số
cơ chế khu vực về thúc đẩy và bảo vệ quvền con người. Phần
cuối cùng giới thiệu cơ chế quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy
quyền con người.
94 ửy ban bao gồm 14 chuyên gia được bầu từ danh sách những người do các
quốc gia thành viên đề cử và làm việc với tư cách cá nhân và nhiệm kỳ 4 năm.
Nhiệm vụ của ủy ban là :
- Xem xét các báo cáo về các biện pháp lập pháp, hành pháp, tư pháp và các
biện pháp khác mà quôc gia đó đã tiên hành nhăm thực hiện các quy định cùa
Công ước mà các quốc gia thành viện đệ trình và chuyển những bình luận,
khuyến nghị mà ủy ban cho là thích họp tới các quốc gia thành viên có liên
quan;
- Tiếp nhận và xem xét các thông cáo về việc một quốc gia thành viên khiếu
nại một quốc gia thành viên khác không thực hiện đây đủ các nghĩa vụ được
quy định trong Công ước này, do quôc gia thành viên đã tuyên bô công nhận
thẩm quyền của ủy ban gửi lên ;
- Trợ giúp các quốc gia thành viên đạt được một giải pháp hữu nghị trên cơ sở
tôn trọng nghĩa vụ được đặt ra trong Công ước;
- Ngoài ra, ửy ban còn tiếp nhận và xem xét cả những thông cáo từ các cá
nhân khiếu nại quốc gia thành viên mà minh phải chịu quyền tài phán vi phạm
các quyền cá nhân của họ được xác lập theo Công ước, nêu quôc gia đó công
nhận thẩm quyền của ủy ban.
138
5.1. Co’chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con ngưòi của LHQ
Cơ chế của LHQ có mục tiêu chính là bảo vệ và thúc đẩy
quyền con người trên phạm vi toàn cầu. Cơ chế này có thể được
chia thành: (1) cơ chế được xây dựng dựa trên cơ sở của Hiến
chương, thể hiện thông qua vai trò của các cơ quan chính của
LHQ và những cơ quan được thành lập trên cơ sở Hiến chương
{Charter - based organs) và (2) cơ chế được xây dựng dựa trên
cơ sở các điều ước quốc tế về quyền con người, thể hiện qua vai
trò của những cơ quan được thành lập trên cơ sở của từng điều
ước {treaty-based organs).
5.1.1. Cơ chế được xây dựng dựa trên Hiến chương
LHQ
Mục tiêu cơ bản của tổ chức LHQ là bảo vệ và thúc đẩy
các quyền con người, vì thế tất cả các cơ quan chính của LHQ
đều có chức năng và vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục
tiêu này. Ngoài các cơ quan này, một số các cơ quan chuyên môn
khác cũng tham gia vào cơ chê bảo vệ và thúc đây quyên con
người. Phần này chủ yếu đề cập đến vai trò của một số cơ quan
chính của LHQ là Đại hội đồng(ĐHĐ), Hội đồng Bảo an
(HĐBA), Hội đồng kinh tế và xã hội (HĐKTXH) và Tòa án
Công lý quốc tế (TACLQT).
5.1.1.1. Đại hội đồng
Vai trò của ĐHĐ được quy định tại Điều 13 của Hiến
chương, theo đó ĐHĐ có trách nhiệm tổ chức nghiên círụ và
thông qua những kiến nghị nhằm tăng cường sự hợp tác quôc tê
trong lĩnh vực chính trị và thúc đẩy việc pháp điển hoá và sự
phát triển của luật quốc tế theo hướng tiến bộ, đồng thời tăng
cường sự hợp tác quốc tế trong các. lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn
hóa, giáo dục, y tế và hỗ trợ việc thực hiện các quyền cúa con
người và các tự do cơ bàn đối với mọi ngươi không phân biệt
chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ và tôn giáo. Theo Điều 10, ĐHĐ
139
có quyền thảo luận tất cả các vấn đề hoặc công việc thuộc phạm
vi Hiến chương hoặc thuộc quyền hạn và chức năng của bất kỳ
cơ quan nào được ghi trong Hiến chương và có thể, trừ những
quy định ở Điều 32 liên quan đến việc thực hiện chức năng bảo
vệ hòa bình và an ninh thế giới, ra những kiến nghị về những vấn
đề hoặc những vụ việc ấy cho các thành viên LHQ hay Hội đồng
Bảo an hoặc cho cả các thành viên LHQ và Hội đồng Bảo an.
Nhìn chung, vai trò của ĐHĐ LHQ trong việc thực hiện
chức năng bảo vệ và thúc đẩy quyền con người thể hiện ở những
vấn đề cơ bản sau đây:95
- ĐHĐ thẩm định và thông qua các dự thảo văn kiện với
danh nghĩa LHQ (điều ước, tuyên bố về quyền con người) nhằm
thiết lập các chuẩn mực"quốc tế về quyền con người;
- Trên cơ sở đề nghị của HĐKTXH, ĐHĐ quyết định thực
hiện các chương trình dịch vụ tư vấn vả trợ giúp kỹ thuật, các
quỹ tự nguyện và các chương trình tuyên truyền, giáo dục về
quyền con người;
- Thành lập các cơ quan giúp việc để hỗ trợ thực hiện các
chức năng của mình;96
95 Xem thêm Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 431-432
96 Một số cơ quan do Đại hội đồngthành lập nhằm hỗ trợ Đại hội đồngtrong
việc bảo vệ và Ịhúc đây quyên con nguời như: Uy ban đặc biệt vê phi thực dân
hóa (Special Political and Decolonization Committee)-, ủy ban đặc biệt về
chống chũ nghĩa aparthied (Special Committee against Apartheid)-, Hội đồng
LHQ về Namibia; ủy ban đặc biệt điều tra các hành động của Israel vi phạm
các quyền con người cùa nhân dân Palestin và các dân tộc A Rập tại các vùng
do Israel chiếm đóng (Special Committee to Investigate Israeli Practices
Affecting the Human Rights ofthe Palestinian People and Other Arabs ofthe
Occupied Territories)-, ủy ban về thực hiện ẹác quyền không thể chuyển
nhượng của nhân dân Palestine (Committee on the Exercise ofthe Inalienable
Rights of the Palestinian People)-, ủy ban pháp luật quốc tế; Hội đồng của
LHQ về quyền con người. Xem website cùa Đại hội đồng LHQ
http://www.un.org/en/ga/maincommittees/index.shtml
140
- Trên cơ sở khuyến nghị của HĐKTXH và các cơ quan
giúp việc, ĐHĐ có quyền đưa ra quyết định về hình thức xử lý
các vi phạm của các quốc gia về quyền con người. Các quyết
định này có thể ở dưới dạng các chỉ trích hoặc lên án và yêu cầu
chấm dứt vi phạm, thay đổi chính sách sai trái. ĐHĐ có thể ra
nghị quyết đề nghị HĐBA thực hiện các biện pháp cưỡng chế
theo quy định của Hiến chương.
5.1.1.2. Hội đồng Bảo an
Theo Hiến chương LHQ thì HĐBA có chức năng chính
là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế (Điều 24), xem xét, giải
quyết các tranh chấp hoặc tình huống có thể gây tổn hại đến
việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế (Điều 34, 35). Đối với
lĩnh vực quyền con người, vai trò của HĐBA thể hiện ờ những
nội dung sau:
- HĐBA xem xét những vi phạm nghiêm trọng về quyền
con người mà có khả năng đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế
theo Điều 39 và trong trường hợp cần thiết, có thể quyết định áp
dụng những biện pháp cưỡng chế theo quy định tại chương VII
Hiến chương LHQ.97 Ngoài ra HĐBA còn có thể ra các Nghị
quyết chỉ trích, lên án hành động vi phạm quyền con người ở một
số khu vực.98 Như vậy, việc thực hiện chức năng chính của
HĐBA có liên hệ với vấn đề bảo vệ quyền con người và việc
97 Ví dụ về một số biện pháp cấm vận do HĐBA áp dụng đối với những nước
có sự vi phạm một cách nghiêm trọng những nguyên tắc cơ bản của luật nhân
đạo quốc tế: trường hợp của Iraq năm 1991 (Nghị quyết S/RES/715); Somalia
năm 1992 (Nghị quyết số S/RES/775); Libya năm 1992 (Nghị quyết số
S/RES/748); Nam Tư năm 1999 (Nghị quyết số S/RES/1244)...Xem website
cùa LHQ, http://www.un.org/en/sc/documents/resolutions/index.shtml.
98 Ví dụ, các Nghị quyết cùa HĐBA số.417(1977) về Nam Phi; số 471(1980)
và số 592(1986) về những vùng lãnh thổ bị chiếm dóng bởi Israel; số
503(1982) và số 525(1984) và 556(1984) về Nam Phi; 564(1985) về Lebanon;
số 579(1985) về Iran; số 664(1990) về Iraq và Kuwait... Xem Hội đồng Bảo
an LHỌ website http://www.un.org/en/sc/documents/resolutions/index.shtml.
141
HĐBA áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với những vi phạm
giúp đảm bảo sự tuân thủ nghiêm chỉnh các quyền con người;
- Quyết định thành lập các tòa án ad hoc để xét xử những
vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế;99
- Có vai trò quyết định trong việc bảo vệ và thúc đẩy các
quyền con người ở một số vùng lãnh thổ, chủ yếu là những vùng
lãnh thô chưa tự quản (như Angola, Mozambique, Guine Bissau,
Zimbabwe, Namibia trước đầy), vấn đề này được quy định tại
Điều 76 của Hiến chương về trách nhiệm của HĐBA đối với các
vùng lãnh thổ quản thác, tại đó HĐBA thực hiện mục đích
“khuyến khích tôn trọng những quyển con người và vì các quyển
tự do cơ bản cho mọi người không phân biệt sắc tộc, giới tính,
ngôn ngữ, hay tôn giáo, và đê khuyến khích công nhận sự phụ
thuộc ỉẫn nhau giữa các dân tộc trên thể giới”. HĐBA cũng có
quyền ra các nghị quyết lên án chính sách vi phạm quyền con
người tại những vùng lãnh thổ này và yêu cầu các quốc gia quản
thác phải đảm bảo các quyền con người, trong trường hợp cần
thiết HĐBA có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế.100
5.1.1.3. Hội đồng kinh tế và xã hội
HĐKTXH có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và thúc
đẩy quyền con người. Đe thực hiện nhiệm vụ này, Hội đồng đã
thành lập các ủy ban chuyên môn phụ trách những lĩnh vực khác
nhau của quyền con người như ủy ban quyền con người;1
0
1 ủy
ban về địa vị của phụ nữ và ủy ban ngăn ngừa tội ác và tư pháp
99 Ví dụ Nghị quyết số S/RES/877 (1993) về thành lập Tòa án Hình sự xét xử
tội phạm chiến tranh ở Nam Tư cũ 1CTY; Nghị quyết số S/RES/1431 (2002)
thành lập Tòa án Hình sự xét xử tội phạm chiến tranh ờ Rwanda 1CTR.
100 Ví dụ Nghị quyết của HĐBA số 683(1989) về các lãnh thổ quản thác
thuộc các quần đảo ờ Thái Bình Dưcrng.
1
0
1 Hiện nay ủy ban này đã được thay thế bời Hội đồng quyền con người
{Human Rights Council) và không còn trực thuộc HĐKTXH nữa.
142
hình sự. Nhìn chung, HĐKTXH có những chức năng liên quan
đến việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người như sau:
- Điều hành cơ chế hợp tác quốc tế102 trong lĩnh vực kinh
tế và xã hội nhằm hướng tới mục tiêu thúc đẩy sự tôn trọng và
tuân thủ trên phạm vi toàn thế giới các quyền và tự do cơ bản của
con người (Điều 55(c) Hiến chương);
- Là cơ quan chính chịu trách nhiệm tổ chức hoạt động
nghiên cứu, soạn thảo các văn kiện quốc tế về quyền con người
để trình lên cho ĐHĐ LHQ thông qua;
- Giám sát các nghị quyết về quyền con người;103
- Thành lập ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa nhàm giám sát thực hiện Công ước ICESCR.
5.1.1.4. Tòa án Công lý quốc tế
Với chức năng chính là cơ quan giải quyết, phân xừ các
tranh chấp pháp lý quốc tế giữa các quốc gia trên cơ sở đồng
thuận của các bên tranh chấp, về nguyên tắc TACLQT có thể
giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia liên quan đến việc
giải thích và áp dụng các công ước quốc tế về quyền con
người.104 Từ năm 1945 đên nay, tòa đã giải quyêt một sô vụ
tranh chấp quốc tế có liên quan đến quyền con người như vê
102 Cơ chế này bao gồm các cơ quan và tổ chức liên chính phủ thuộc hệ thống
LHQ như Văn phòng Cao ủy cùa LHQ về người ty nạn (UNHCR); Chương
trình phật triển LHQ (UNDP); Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF); Tổ chức lao
động quốc tể (1LO); Tổ chức Nông lương thế giới (FAO); Tộ chức Văn hóa,
Khoa học và Giáo dục cùa LHQ (UNESCO); Tố chức Y tế thế giới (WHO)...
102 Chẳng hạn như các Nghị quyết cùa HĐKTXH số 728F (XXVIII); 227 (X);
474A (XV); 607 (XXI); 1235 (XLI1) và 1503 (XLCIII). Hiện nay chức năng
giám sát này đã được chuyển giao cho Hội đồng quyền con người của LHQ.
104 Hiện n a y c ó 16 t r ê n t ổ n g s ố g ầ n 30 đ iề u ư ớ c q u ố c tế v ề q u y ề n c o n n g ư ờ i
c ó q u y đ ị n h t r a n h c h ấ p liê n CỊuan đ ế n v iệ c g iã i th íc h , á p d ụ n g h o ặ c tu â n t h ù
các đ iề u ư ớ c đ ó g i ũ a các q u ố c g i a th à n h v iê n c ó th ề đ ư ợ c m ộ t q u ô c g ia đ ệ
tr in h lê n Tòa.
143
quyên có nơi cư trú, quyên của người nước ngoài, quyền của trẻ
em, việc duy trì chê độ quản thác tại Tây Nam Phi (Namibia);
việc băt giữ các nhà ngoại giao và nhân viên lãnh sự Mỹ tại
Tehran và việc tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật nhân đạo
quốc tế ...105
Ngoài ra, tòa có chức năng đưa ra các kết luận tự vấn về
các vấn đề pháp lý do ĐHĐ và HĐBA hoặc các cơ quan khác
của LHQ với sự cho phép của ĐHĐ đưa ra.106 Những ý kiến tư
vân vê các vấn đề liên quan đến quyền con người này có ý nghĩa
quan trọng trong việc làm sáng tỏ nội dung của các quy định
pháp luật quốc tế về quyền con người, góp phần xây dựng những
quy phạm của luật quốc tế về quyền con người hoặc những
chuẩn mực quốc tế chung về lĩnh vực này. Những ví dụ tiêu biểu
là các ý kiến tư vấn về tính pháp lý của các bảo lưu đối với Công
ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng,107 quy chế của báo
cáo viên đặc biệt của LHQ do Tiểu ban bảo vệ và thúc đẩy quyền
con người chỉ định.108
5.1.1.5. Các cơ quan chuyên trách về quyền con người
Các cơ quan chuyên trách của LHQ cũng có vai trò quan
trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, thông qua
105 Xem Nottebolm case, ICJ Reports, 1955; Asylum case (Peru v Colombia)
ICJ Reports, 1950; US Diplomatic and Consular Staff in Tehran case, ICJ
Reports 21, 1980; La Grandcase (Germany v. USA) ICJ Reports 2001.
1
0
6 Western Sahara (Advisory Opinion) ICJ Reports 12, 1975; Legality ofthe
Threat or Use ofNuclear Weapons, ICJ Reports, 1996; Legal Consequences of
the Construction of a Wall in the Occupied Palestinian Territory, ICJ
09/7/2004 ; Accordance with International Law ofthe Unilateral Declaration
ofIndependence in Respect ofKosovo, ICJ Reports, 2010.
1
0
7Reservations to the Genocide Convention (Advisory Opinion) ICJ Reports,
1951.
1
0
8 Difference Relating to Immunity from Legal Process of a Special
Rapporteur of the Commission on Human Rights (Advisory Opinion), ICJ
Reports, 1999.
144
việc hỗ trợ các cơ quan chính của LHQ thực hiện chức năng của
mình. Những cơ quan này bao gồm:
a. Các cơ quan hỗ trợ về hành chính
Đây là những cơ quan do Ban thư ký của LHQ thành lập,
dựa theo những lĩnh vực tương ứng của quyền con người và cung
cấp các hỗ trợ về dịch vụ hành chính cho các ủy ban và ĐHĐ
LHQ, chuẩn bị tài liệu và thông tin rộng rãi đến công chúng về
công việc và các hoạt động của LHQ trong lĩnh vực quyền con
người.1091
1
0
b. Các cơ quan hỗ trợ về chuyên môn
Đây là những cơ quan được thành lập bời ĐHĐ và
HĐKTXH nhằm giúp hai cơ quan này về mặt chuyên môn liên
quan đến quyền con người. ĐHĐ LHQ đã thành lập một số cơ
quan hỗ trợ chuyên môn cho mình như ủy ban đặc biệt về phi
thực dân hóa có nhiệm vụ giúp ĐHĐ giám sát việc thực hiện
Tuyên ngôn về trao trả độc lập cho các nước và dân tộc thuộc địa
và Tuyên ngôn về các lãnh thổ chưa tự quản; ủ y ban pháp luật
quốc tế có nhiệm vụ trợ giúp ĐHĐ trong việc thẩm định dự thảo
các văn kiện quốc tế về quyền con người; Hội đồng quyền con
người của LHQ có nhiệm vụ giúp ĐHĐ thúc đẩy những hoạt
động giáo dục, nghiên cứu, dịch vụ tư vấn, trợ giúp kỹ thuật và
xây dựng năng lực về quyền con người ở các quốc gia; thúc đẩy
việc thực thi đầy đủ nhũng nghĩa vụ về quyền con người ở các
quốc gia, đưa ra kiến nghị đối với ĐHĐ về sự phát triển của luật
quôc tê ve quyên con người...
109 Ví dụ Bộ phận về sự tiến bộ của phụ nữ thuộc Cục phát triền xã hội và các
vấn đề nhân đạo được thành lập nhằm cung cấp dịch vụ hành chính cho ủy
ban thứ ba của ĐHĐ (phụ trách về xã hội, nhân đạo và văn hóa); ủy ban thứ
hai (về kinh tế và tài chính) và các co quan giúp việc khác cùa
HĐKTXHHĐKTXH trong những hoạt động liên quan đến quyền phụ nữ.
110 Xem thêm Nghị quyết số 60/251 của ĐHĐ LHỌ về thành lập Hội đồng
quyên con người
145
HĐKTXH cũng đã thành lập các cơ quan giúp việc trên cơ
sở Điều 68 của Hiến chương LHQ, trong đỏ đáng kể nhất là ủy
ban quyền con người (UN Commission on Human Rights)111 và
Uy ban vê vị thê của phụ nữ (Committee on the Status o f
Women). Những cơ quan này có nhiệm vụ đưa ra những đề xuất,
khuyến nghị, chuẩn bị các dự thảo văn kiện và lập các báo cáo đệ
trình lên HĐKTXH về những vấn đề liên quan đến quyền con
người và giúp HĐKTXH phối hợp các hoạt động chuyên môn
liên quan đến quyền con người trong hệ thống LHQ. Bước phát
triển quan trọng trong lĩnh vực này là việc thành lập Hội đồng
quyền con người của LHQ (UN Human Rights Council - HRC)
dựa trên Nghị quyết số 60/251 ngày 03/4/2006 thay thế cho ủy
ban quyền con người trĩrớc đây. HRC gồm 47 nước thành viên
được ĐHĐ bầu trực tiếp bằng phiếu kín và có nhiệm kỳ 3
năm.112 Điểm nổi bật của HRC trong cơ chế bảo vệ và thúc đẩy
quyền con người là việc áp dụng Cơ chế đánh giá định kỳ phổ
quát (Universal Periodic Review — UPR). Trên cơ sở của UPR,
việc tuân thủ các nghĩa vụ và cam kết về quyền con người của tất
cả các quốc gia thành viên của LHQ sẽ được đánh giá định kỳ.
Việc đánh giá được thực hiện bởi một nhóm công tác có nhiệm
vụ tổng họp các báo cáo từ nhiều nguồn khác nhau, về cơ bản,
cơ chế UPR sẽ bao gồm các bước: (1) chuẩn bị thông tin làm cơ
sở cho việc xem xét; (2) xem xét đánh giá; (3) kết luận đánh giá
và (4) thực hiện các khuyến nghị. Một ủy ban tư vấn để hỗ trợ
Hội đồng trong các hoạt động chuyên môn cũng được thành lập.
http://www.un.org/ga/search/view_doc.asp7symbol-A/RES/60/251
1
1
1 Thành lập từ năm 1946 và hiện đã giải thể và thay thế bàng Hội đông
quyền con người của LHQ.
112 Xem thêm Nghị quyết số 60/251 của ĐHĐ LHQ về thành lập Hội đông
quyền con người
http://www.un.ore/ga/search/view_doc.asp?symbol=A/RES/60/251
146
5.1.2. Cơ chế được xây dựng dựa trên điểu ước quốc tế
về quyền con người
Một số công ước quốc tế về quyền con người có quy định
việc thành lập các cơ quan giám sát việc thực hiện các công ước
đó {treaty-based bodies). Chức năng chủ yếu của các cơ quan
này là giám sát, thúc đẩy việc thực hiện các công ước tương ứng.
Hiện tại có 7 ủy ban giám sát được thành lập theo đúng quy định
của các công ước quốc tế phổ cập về quyền con người và 1 ủ y
ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được thành lập bời
HĐKTXH như sau:113
- ủy ban về xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc (thành lập theo
Điều 8 Công ước về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng
tộc, 1965);
-ủ y ban quyền con người (thành lập theo Điều 28 Công
ước quốc tế về các quyền dần sự, chính trị, 1966);
- ủy ban về xóa bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ (thành
lập theo Điều 17 Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ, 1979);
- ủy ban chống tra tấn (thành lập theo Điều 17 Công ước
về chống tra tấn và các hình thức đối xử tàn bạo,vô nhân đạo
hoặc hạ nhục khác, 1987);
- ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (thành lập
theo một nghị quyết của HĐK.TXH);
- ủ y ban về quyền trẻ em (thành lập theo Điều 72 Công
ước về quyền trẻ em, 1989);
- ủ y ban bảo vệ quyền của tất cả những ngưỡ.i lao động
nhập cư và các thành viên trong gia đình họ (thành lập theo Điều
11
3 Xem thêm
http://www.nhanquyen.vn/modules.php?name=News&op=detailsnews&mid=
56&mcid=3
147
72 Công ước về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động
nhập cư và các thành viên trong gia đình họ, 1990);
- ủy ban về quyền của người khuyết tật (thành lập theo
Điêu 34 Công ước về quyền của người khuyết tật, 2007).
Vê cơ bản, các ủy ban này có những chức năng nhiệm vụ
sau:
- Xem xét bảo cáo của các quốc gia thành viên: việc đệ
trình các báo cáo định kỳ về việc thực hiện các quyền con người
là một nghĩa vụ của các quốc gia thành viên.1141
1
5Xem xét báo cáo
là việc đánh giá những biện pháp hành chính và tư pháp nhằm
thực hiện công ước của các quốc gia thành viên; những thuận lợi
và khó khăn mà những qụốc gia này đối mặt trong quá trình thực
hiện công ước. Ngoài ra, các ủy ban cũng có thể đánh giá dựa
vào thông tin từ những nguồn khác nhau như các tổ chức phi
chính phủ, các cơ quan của LHQ, các tổ chức liên chính phủ
khác, các viện nghiên cứu và cả báo chí. Trên cơ sở xem xét báo
cáo, ủy ban sẽ đưa ra những nhận xét và khuyến nghị đối với
quốc gia thành viên.
- Xem xét các khiếu nại của cá nhân: một số ủy ban có
chức năng xem xét các khiếu nại của cá nhân đối với quốc gia
thành viên nếu các cá nhân này cho rằng quyền của họ theo công
ước bị quốc gia vi phạm. Đây là một chức năng khá đặc thù của
các cơ quan này. Hiện nay có 5 ủy ban công ước có thẩm quyền
tiếp nhận khiếu nại của cá nhân.113 Tuy nhiên, việc một cá nhân
114 Các quốc gia có nghĩa vụ đệ trình báo cáo toàn diện sau một hoặc hai năm
kể từ khi công ước có hiệu lực đối với quốc gia đó và tiếp tục thực hiện nghĩa
vụ báo cáo định kỳ căn cứ vào những quy định cụ thể cùa công ước về những
biện pháp đã được quốc gia này áp dụng nhăm thực hiện công ước.
115 ủy bân Quyến con người có thể tiếp nhận và xem xét khiếu nại cá nhân
chống lại quốc gia thành viên đã tham gia Nghị định thư không bắt buộc thứ
nhất bỗ sung Công ước quốc tế về các quyên dân sự, chính trị năm 1966; Uy
ban về xoá bò sự phân biệt đổi xử với phụ nữ có thê tiêp nhận và xem xét
khiếu nại cá nhân chống lại quốc gia thành viên đã tham gia Nghị định thư bô
148
đưa ra khiếu nại phải đáp ứng được hai điều kiện cơ bản đó là (i)
quốc gia bị khiếu nại phải là thành viên của công ước và (ii)
quốc gia bị khiếu nại phải công nhận thẩm quyền của ủy ban
công ước về vấn đề này.
- Đưa ra các bình luận/ khuyến nghị chung để giải thích
và nêu ra các giải pháp thực hiện công ước. Những bình luận,
khuyến nghị này thường giải thích một cách chi tiết và đưa ra
những chuẩn mực và biện pháp mà các quốc gia thành viên phải
tuân thủ và thực hiện để hoàn thành các nghĩa vụ của họ căn cứ
theo công ước.
5.2. Cơ chế khu vực về bảo vệ và thúc đẩy quyền con
ngiròi
Bên cạnh các cơ chế toàn cầu, cơ chế khác cũng được hình
thành trên cơ sở các hiệp định hoặc được tạo ra bởi các tổ chức
quốc tế khu vực nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Xuất
phát từ những điểm chung về kinh tế, văn hóa, xã hội, truyên
thống và lịch sử cũng như việc mức độ hợp tác khu vực thường
chặt chẽ hơn so với họp tác toàn cầu, các quốc gia trong khu vực
thường dễ đạt được sự đồng thuận về các vấn đề quan tâm, vì thê
các cơ chế này có thể hoạt động hiệu quả hơn cơ chế của LHQ.
Phần này sẽ giới thiệu khái quát hai cơ chế khu vực tiêu
biểu trên thế giới hiện nay ở Châu Âu và Châu Mỹ được thiết lập
để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
sung Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; Uy chông
tra tấn có thể tiếp nhận và xem xét khiếu nại cá nhân chống lại quốc gia thành
viên đã tuyên bố chấp nhận Điều 22 Công ước chống tra tấn; ủy ban vê chông
phân biệt chùng tộc có thê tiêp nhận và xem xét khiêu nại cá nhân chông lại
quốc gia thành viên đã đã tuyên bố chấp nhận Điều 14 Công ước loại trừ mọi
hình thức phân biệt chùng tộc và ửy ban bao vệ quyền cùa tất cà những người
lao động nhập cư và các thành viên trong gia đình họ thể tiếp nhận và xem xét
khiếu nại cá nhân chống lại quốc gia thành viên đã tuyên bố chấp nhận Điêu
77 Công ước về bào vệ quyền cùa tất cã những người lao động nhập cư và các
thành viên trong gia đình họ.
149
5.2.1. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở
Châu Ẩu
Hiện tại, cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ờ
Châu Âu có thể được coi là cơ chế phát triển và hữu hiệu nhất
trên thế giới, từ cả ở khía cạnh đảm bảo thực thi.116 Cơ chế này
được xây dựng dựa trên một số các văn kiện khu vực về quyền
con người, trong đó quan trọng nhất là Công ước Châu Âu về
bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản (the European
Convention for the Protection o f Human Rights and
Fundamental Freedoms).117 Cùng với việc ghi nhận các quyền
con người và tự do cơ bản, Công ước nói trên còn xây dựng
một cơ chế giám sát thực hiện bao gồm ba cơ quan là ủy ban
quyền con người trực thuộc Hội đồng Châu Âu (thành lập năm
1954 và chấnm dứt hoạt động từ năn 1990); Tòa án Châu Âu về
quyền con người (thành lập năm 1959)118 và ủy ban các Bộ
trường cùa Hội đồng Châu Âu. Ngoài ra, Công ước còn được
bổ sung bời hơn 10 Nghị định thư, trong đó Nghị định thư sổ 11
về việc thành lập Tòa án Châu Âu về quyền con người có hiệu
lực từ năm 1998. Để trở thành thành viên của Hội đồng Châu
Âu, mọi quốc gia đều phải tham gia Công ước Châu Âu về
quyền con người.
Theo quy định của Công ước, có hai loại khiếu nại có thể
được tiếp nhận và xem xét là khiếu nại của các cá nhân và của
các quốc gia với nhau (Điều 33 và 34). Ngoài ra, các quốc gia
cam kết “đảm bảo cho mỗi cả nhân thuộc quyền tài phán của
mình những quyền và tự do cơ bản được nêu ra trong phần 1
116Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 484.
117 Công ước này được thông qua bời Hội đồng Châu Âu ngày 4/11/1950 và
có hiệu lực từ tháng 9/1953.
118 Tòa có trụ sở tại Strasbourg (Pháp) nên cũng thường được gọi là Tòa
Strasbourg.
150
của Công ước” (Điều 1). Các vụ khiếu nại sẽ do Tòa án Châu
Ầu về quyền con người phân loại và chuyển cho các Tòa thành
viên (sections).119 Sau đó, một ủy ban gồm ba thẩm phán sẽ
xem xét và quyết định có thụ lý vụ việc hay không. Trong
trường hợp tòa quyết định thụ lý thì một Hội đồng (Chamber)
của tòa thành viên sẽ phân xử vụ việc này. Những vụ việc phức
tạp sẽ được chuyển đến cho Đại hội đồng(Grand Chamber)
gồm 17 thẩm phán, trong đó bao gồm chánh án, các phó chánh
án và các chánh tòa để xừ lý.
5.2.2. Cơ chế bảo vệ và thúc đẫy quyền con người ở
Châu Mỹ
Vấn đề bảo vệ và thúc đẩy quyền con người được các nước
Châu Mỹ khá quan tâm. Điều này được thể hiện qua sự tiên
phong của các nước Mỹ latin trong việc vận động cho vấn đề ghi
nhận, bảo vệ quyền con người và thông qua bản Tuyên ngôn toàn
thế giới về quyền con người. Thậm chí, các nước Mỹ latin còn
thông qua Tuyên bố Châu Mỹ về các quyền và nghĩa vụ của con
người (American Declaration o f the Rights and Duties o f Man)
vào tháng 4/1948.
Hiện nay Công ước Châu Mỹ về quyền con người
(American Convention on Human Rights) là điều ước quốc tế
quan trọng xác định các quyền con người và nghĩa vụ tuân thủ và
bảo đảm chúng của các quốc gia thành viên.120 Cũng trên cơ sở
Công ước này, Tòa án liên Mỹ (Inter-American Court o f Human
119Tòa án Châu Âu về quyền con người có 5 tòa thành viên.
120 Ngoài ra, các nước Châu Mỹ còn ký kết một số các điều ước quốc tê quan
trọng khác vê quyền con người như Công ước Châu Mỹ về phòng ngừa và
chông tra tấn năm 1985; Nghị định thư bổ sung Công ước Châu Mỹ về các
quyên kinh tê, xã hội và văn hóa năm 1988; Nghị định thư bô sung Công ước
Châu Mỹ vê xóa bỏ hình phạt tử hình năm 1990; Cône ước Châu Mỹ về
chống sự cưỡng bức mất tích năm 1994; Công ước Châu Mỹ về phòng ngừa
và xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ năm 1994; Công ước Châu Mỹ về xóa bò
mọi hình thức phân biệt đối xử đối với người khuyêt tật năm 1999.
151
Rights) về quyền con người được thành lập.1
2
1 Tòa có 7 thẩm
phán là công dân của các nước thành viên Tổ chức các quốc gia
Châu Mỹ (Organization o fAmerican States - OAS).
Chức năng đầu tiên của tòa là xét xử các khiếu kiện được
chuyển đến tòa bởi ủy ban quyền con người Châu Mỹ hoặc bởi
một quốc gia thành viên của OAS. Khác với Tòa án Châu Âu về
quyền con người, những khiếu nại do cá nhân sẽ không được gửi
thẳng đến Tòa án liên Mỹ mà chỉ có thể gửi đến cho ủy ban
Châu Mỹ về quyền con người, sau đó nếu ủy ban thấy có thể thụ
lý thì sẽ chuyển những khuyến nghị cho quốc gia bị khiếu kiện.
Trong trường hợp ủy ban cho rằng vụ việc quan trọng hoặc khi
quốc gia không thực hiện khuyến nghị thì vụ việc mới chuyển
đến cho Tòa để giải quyết.
Chức năng thứ hai của tòa là tư vấn cho ủy ban quyền con
người và các quốc gia thành viên của OAS về các vấn đề liên
quan đến việc áp dụng Công ước Châu Mỹ về quyền con người
cũng như các văn kiện pháp lý có liên quan khác. Tòa cũng có
chức năng tư vấn cho các quôc gia về tính phù hợp của các văn
bản và dự thảo văn bản pháp luật quốc gia với quy định của
Công ước Châu Mỹ về quyền con người.
5.3. Cơ chế quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con
ngưòi
Cơ chế qùốc gia là một “khâu” quan trọng trong hoạt động
bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Một mặt các quốc gia có
nghĩa vụ lập pháp đê chuyên hóa vào pháp luật quốc gia các
nghĩa vụ quốc tế về bảo đảm và thực thi quyền con người của
mình, mặt khác họ phải thiết lập những cơ chế để giám sát thực
hiện và phát triển các quyền con người ờ phạm vi quốc gia. Cơ
chế quốc gia về bảo vệ quyền con người trên thế giới khá đa
1
2
1 Tuy nhiên Công ước này chi có giá trị bắt buộc đối với 24 trên tổng số 34
quốc gia thành viên cùa Tổ chức các quốc gia Châu Mỹ.
152
dạng, do đó phần này chỉ giới thiệu khái quát những hình thức cơ
bản và phổ biến nhất của cơ chế quốc gia, đó là các ủy ban quyền
con người quốc gia (national commissions o f human rights) và
cơ quan thanh tra nhà nước về quyền con người {ombudsman).
Các ủy ban quốc gia về quyền con người thường được
thành lập với đại diện đến từ các thành phần xã hội khác nhau
(đại diện cho các nhóm xã hội, nghề nghiệp) và ra đời dựa trên
cơ sở pháp lý cụ thể, thông thường là hiến pháp, một đạo luật cụ
thể hoặc bởi một nghị quyết của cơ quan lập pháp. Chức năng
chủ yếu của các ủy ban này là:
- Đảm bảo không có sự phân biệt đối xử giữa các cá
nhân trong phạm vi quốc gia, bảo đảm sự tôn trọng và thực thi
các quyền con người đối với những nhóm người dễ bị tổn
thương như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người lao
động nhập cư ...
- Tiếp nhận, điều tra và giải quyết những khiếu nại của các
cá nhân và các nhóm cá nhân về những vi phạm quyền con người
tại quốc gia mình. Tùy thuộc vào quy định cụ thể trong pháp luật
quốc gia mà các cơ quan này có quyền xử lý tất cả các vi phạm
hoặc chỉ một số những vi phạm nhất định, ví dụ như vi phạm liên
quan đến phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới hoặc quan điểm
chính trị;
- Nghiên cứu chính sách và hoạt động liên quan đến quyền
con người của chính phủ, xác định những hạn chế và đề xuất các
giải pháp khắc phục;
- Giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước nhàm đảm
bảo các quyền con người được tôn trọng và thực thi;
- Giáo dục, tuyên truyền phổ biến pháp luật, nàng cao
nhận thức của người dân về quyền con người.
153
Các cơ quan thanh tra về quyền con người cũng được
thành lập nhăm giám sát sự công băng và hợp pháp của bộ máy
hành chính công, đồng thời có trách nhiệm bảo vệ những người
chịu thiệt thòi do sự vi phạm quyền con người.122 Các cơ quan
này đóng vai ừò là cầu nối, trung gian hòa giải giữa cá nhân bị
xâm phạm quyền và chính quyền. Để thực hiện nhiệm vụ này,
các cơ quan thanh tra thường được trao những quyền hạn như
tiếp nhận các khiếu nại từ công chúng và tiến hành điều tra
những khiếu nại đó hoặc chủ động tiến hành điều tra những vi
phạm quyền con người trên diện rộng hoặc thu hút sự quan tâm
lớn của công chúng.
Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một cơ quan chuyên trách
bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người như mô hình của
một sô nước trên thế giới.123 Cơ chế quốc gia về bảo vệ, thúc đẩy
quyên con người ở Việt Nam được thực hiện thông qua hệ thống
cơ quan nhà nước xây dựng trên cơ sở của nhà nước pháp quyền
XHCN theo nguyên tắc tập quyền XHCN và các hoạt động của
các tổ chức chính trị, xã hội; xã hội nghề nghiệp. Cụ thể:
- Quốc hội có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ, thúc
đẩy và phát triên quyền con người. Quốc hội có chức năng làm
Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật. Quốc hội
thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
các cơ quan nhà nước trong việc tuân theo hiến pháp, luật và các
nghị quyết của Quốc hội có liên quan đến quyền con người,
quyền công dân. Hoạt động giám sát của Quốc hội thực hiện
thông qua các hình thức: xem xét báo cáo công tác của Chính
phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao;
giám sát chuyên đề một số lĩnh vực; giám sát cụ thể một số vụ
122Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr.497.
123Tường Duy Kiên, ‘Mô hình bộ mậy quốc gia về nhân quyên ở một số nước
và suy nghĩ về cơ chế đảm bảo quyên con người ỡ nước ta’ Nghiên ciru Lập
pháp, số 15(152), 8/2009, tr, 49-58.
154
việc quan trọng; tiến hành chất vấn.124 Hiện nay, Việt Nam đang
nghiên cứu xây dựng mô hình cơ quan Thanh tra Quốc hội
(|Ombudsman) nhằm giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và kiến
nghị của cử tri hoặc thành lập ủy ban Nhân quyền trực thuộc
Quốc hội để giải quyết các vấn đề về nhân quyền...
- Chỉnh phủ: thông qua việc thực hiện chức năng hành
pháp, hoạt động của Chính phủ có ý nghĩa quyết định trực tiếp
đến việc đảm bảo, thúc đẩy và phát triển quyền tự do dân chủ
của công dân. Việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt
Nam được thực hiện thông qua bộ máy hành chính nhà nước
và chế độ trách nhiệm công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức
hành chính.
- Các cơ quan tư pháp: Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát
nhân dân có nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ các quyền và lợi ích
họp pháp của mọi cá nhân, công dân. Các quyền con người được
bảo vệ trực tiếp thông qua hoạt động xét xừ của Tòa án nhân dân.
Viện Kiểm sát nhân dân giữ vai trò là cơ quan công tố và kiểm
sát tư pháp, đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật phương hại
đến quyền con người, quyền công dân đều được xử lý theo quy
định của pháp luật.
- Các tổ chức chỉnh trị, xã hội; xã hội nghề nghiệp: có vai
trò quan trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.
Những tổ chức có ảnh hưởng lớn trong vấn đề này là Tông liên
đoàn lao động, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Luật
gia, Liên đoàn luật sư, Hội Nhà báo, Hội Bảo trợ người tàn tật và
khuyết tật, Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật... Đây là những
tổ chức đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân lao động thuộc mọi
ngành nghề, lĩnh vực và đóng vai trò giám sát và và thu nhận ý
124 Một số hoạt động tiêu biểu như giám sát việc chấp hành pháp luật về khiếu
nại tổ cáo, bồi thường thiệt hại cho người bị oan sai trong hoạt động tổ tụng
hình sự. giám sát công tác đền bù giãi phóng mặt bàng, tạo việc làm cho
người dân có đất bị thu hồi
155
kiến đóng phản biện xã hội đối với các dự án luật và tham gia
xây dựng chính sách pháp luật có liên quan đến quyền con
người, tuyên truyền giáo dục pháp luật về quyền con người trong
lĩnh vực và ngành nghề hoạt động của mình.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, giáo trình
1. Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam (sách trắng), Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con
người ở Việt Nam
2. Nguyễn Đăng Dùng, Vũ Công Giao; Lã Khánh Tùng,
Giảo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, Nxb. Chính
trị quốc gia, 2009
3. Trần Ngọc Đường, Quyền con người, quyền công dân
trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011
4. Vũ Công Giao, “Luật Nhân đạo quốc tế và việc bảo hộ
nạn nhân chiến tranh ”, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 6/2001.
5. Hoàng Văn Hảo, Phê phán những quan điểm sai trái
trên lĩnh vực quyển con người,quyền con người ở Trung Quốc và
Việt Nam, Nxb. Chính trị quôc gia, Hà Nội, 2003
6. Lang Nghị Hoài, Thực tế quyền con người trong CNXH
và cuộc đấu tranh vì quyền con người trên thế giới, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2003
7. Liên hơp quốc, Quyền trẻ em: tạo lập một nền văn hóa
Nhân quyền, Tập thông tin số 3 của Liên hợp quốc (Bản dịch của
Trung tâm nghiên cứu Quyên con người, 1999).
8. Marx (K.) & Engels (F.), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 1995
156
9. Người đưa tin UNESCO, Hà Nội 1993. số 9
10. Cao Đức Thái (Chủ biên), Hoàng Tùng, Vũ Công Giao,
Tường Duy Kiên, Luật nhân đạo quốc tế: những nội dung cơ
bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005
11. Chu Hồng Thanh, “Nhân quyển - Ngôn ngữ chung cùa
nhân loại", Báo Pháp luật, số 61 (547) ra ngày 15/12/1995
12. Viện Ngôn ngữ học, Đại từ điển tiếng V iệt, Nxb. Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999.
Các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam
1. Hiến chương Liên hợp quốc 1945
2. Tuyên ngôn toàn thề giới về quyền con người năm
1948 của Liên họp quốc.
3. Các văn kiện cơ bản về quyền con người. Hà Nội 2002
W ebsite
1. www.vjol.info/index.php/ssir/article/view/2864/2820
2. http://vi.wikipedia.org/vviki/C%C3%B4ng %C6%B0%E 1%BB%9
Bc Ou%E 1%BB%91c t%E 1%BA%BF V%E1%BB%81 c%C3%
A lc Ouv%El%BB%81n D%C3%A2n S%E1%BB%B1 V%C3%
AO Ch%C3%ADnh tr%E1%BB%8B
3. http//www2.ohchr.org/Englisli/law/
157
CHƯƠNG X
LUẬT HÌNH Sự QUỐC TỂ
L KHÁI NIỆM LUẬT HÌNH s ự QUỐC TÉ
1.1. Định nghĩa
Luật hình sự quốc tế (LHSQT) là một hiện tượng còn
tương đối mới mẻ đối với khoa học pháp lý thế giới nói
chung1 và rất mới mẻ ở Việt Nam nói riêng.2 Khái niệm
LHSQT không xuất hiện ngay lập tức, mà được hình thành và
hoàn thiện dần dần. Tropg những giai đoạn lịch sử khác nhau
tồn tại những quan điểm khác nhau về LHSQT.
Thuật ngữ LHSQT xuất hiện trong lý luận vào khoảng cuối
thế kỷ XIX và đầu thế kỳ XX. Thoạt đầụ, LHSQT được hiểu là tập
hợp những quy phạm điều chỉnh vấn đề hiệu lực của luật hình sự
theo không gian và dẫn độ. Theo quan điểm này, LHSQT được hiểu
là một tập hợp những chuẩn mực và những quy phạm pháp luật xây
dựng trên cơ sở những hành vi phạm tội chịu ảnh hưởng hoặc liên
quan đến hiệu lực của luật hình sự của những quốc gia khác nhau.3
1Xem Antonio Cassese, Fundamentals ofInternational Criminal Law,
http://www.oup.com/uk/orc/bin/9780199203109/cassese_ch01.pdf (truy cập
ngày 5/04/09), và Blisenco I. p. và Fixenco I. p., Tòa ản hình sự quốc tế, Nxb.
Luật lệ và pháp luật, Moscow, 1998, tr. 7.
2 Ở Việt Nam, số lượng tài liệu nghiên cứu về LHSQT không nhiều. Có thể kể
đến một vài sách và bài viết như: Nguyễn Thị Thuận, Luật hình sự quốc tế,
Nxb Công an nhân dân, 2007; Lê Cảm, “Một số vấn đề cơ bản về luật hình sự
quốc tế”, Tạp chí Nghiên CÍCĨỈ lập pháp, số 5/2002; Trần Quang Tiệp, “Hoàn
thiện pháp luật hình sự trong lãnh vực tội phạm quốc tế”, Tạp chí Nhà n ư ớ c
và pháp luật, số 6/2005; Lê Cảm, “Quy chê Rom về Tòa án Hình sự quốc tê
và vai trò của nó đối với sự phát triển của khoa học luật hình sự”, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 1 và 4/2007.
3 Curlycob R., về vắn đề trách nhiệmpháp lý quốc tế đối với những vi phạm
quvền con người, Nxb Quan hệ quôc tê, Moscow, 1979, tr. 5.
158
Tuy nhiên, việc một số quốc gia mong muốn sử dụng LHSQT để mở
rộng ảnh hưởng của luật hình sự nước mình trên lãnh thổ của nước
khác đối với các trường hợp tuy tội phạm được thực hiện bên ngoài
lãnh thổ quốc gia nhưng gây thiệt hại cho quyền lợi của họ đã gây ra
sự phản ứng. Mặt khác, những tội ác quốc tế ừong Chiến tranh thế
giới lần thử II và sự gia tăng của tội phạm xuyên quốc gia rõ ràng cho
thấy là những quy phạm luật hình sự quốc gia đã không đáp ứng
được yêu cầu đấu tranh với tội phạm ừong thực tiễn, quan hệ hợp tác
giữa các quốc gia ừong cuộc đấu tranh với tội phạm đã đặt ra những
vấn đề mới đòi hỏi phải được giải quyết.
Khi lý luận về LHSQT đã phát triển hon so với thời điểm thuật
ngữ này mới xuất hiện, ngay những học thuyết ban đầu về LHSQT
đã nhận thức rằng hàng loạt hành vi vi phạm có tính chất quốc tế phải
bị coi là tội phạm và trách nhiệm của tất cả các quốc gia là áp dụng
hình phạt đối với những người thực hiện các hành vi vi phạm đó.4
Tuy nhiên, các học thuyết đầu tiên này chưa làm sáng tỏ được sự
khác nhau giữa trách nhiệm chính trị quốc tế của quốc gia với ưách
nhiệm hình sự của cá nhân. Mặc dù vậy, sự hiện diện của nhũmg học
thuyết đầu tiên này đã xác nhận sự lo lắng của các luật gia về vấn đề
làm thế nào để pháp luật quốc tế phục vụ tốt hơn nữa cho việc bảo vệ
hòa bình và quyền lợi của các dân tộc. Vào đầu thế kỷ XX, khái niệm
LHSQT đã chứa đựng những yếu tố cơ bản của ngành luật này. Các
khái niệm về LHSQT ừong giai đoạn này đã khẳng định rằng
LHSQT chứa đựng tập hợp những nguyên tắc, quy phạm pháp luật
4 Luật gia Gefter (Đức) viết: “Toàn bộ sựphú nhận thực té vù không điều kiện
pháp luật của nhân loại, mọi âm mint có tinh chất chung hay riêng chống lại
pháp luật, những sự vi phạm qjioc tế, những sự thóa mạ, si nhục dó đòi hói ớ
tát cà các quốc gia một sức mạnh chung đế trấn áp chúng". Nhà luật hoc quốc
tế Blunchi (Thụy Sĩ) đã viết: “Sự vi phạm pháp luật quốc tế aây ra nguy hiềm
chung, do vậy không chì quốc gia bị thiệt hại, mà cả những quốc gia khác
phài quy tụ sức mạnh để bào vệ pháp luật quốc tế, phải chống lại chúng, quan
tâm đến việc khôi phục và bảo đàm trât tự pháp luật quốc tế”. Xem Carpetx 1.
I., Tộiphạm có tính chất quốc tế, Nxb Tài liệu pháp lý, Moscow, 1999, tr. 13.
159
đâu tranh vói lứiững tội phạm xâm hại đến lợi ích của tất cả các quốc
gia hoặc một số quốc gia nhất định.5
Sự hình thành những tổ chức phạm tội xuyên quốc gia là một
yêu tô quan trọng ảnh huởng đến sự phát triển của LHSQT. Nhằm
bảo vệ đời sống cộng đồng quốc tế, LHSQT đã ngày càng hiện thực
và cân thiêt. LHSQT ừở thành một công cụ quan trọng để đấu tranh
với các tội phạm không giới hạn trong phạm vi lãnh thổ một quốc
gia, đó là tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế. Do vậy,
cụm từ “LHSQT” đã được thừa nhận và sử dụng rộng rãi trong lý
luận pháp luật quốc tế và cả trong một số tài liệu chính thức của LHQ
(như tài liệu làm việc của ủy ban Luật quốc tế của LHQ).6 Tuy
nhiên, cần phải lưu ý rằng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm
chung thống nhất trên thế giới về LHSQT. Các nhà luật học đưa ra
nhiều khái niệm khác nhau về LHSQT.7
5 Giáo sư Grabar V. E. khi phân tích công trình của các nhà nghiên cứu luật
quốc tế của Nga từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX đã đi đến kết luận:
“LHSQT chứa đựng những nguyên tăc và quy phạm luật hình sự đấu tranh với
tội phạm xâm hại lợi ích của tất cả các quốc gia hoăc một số quốc gia nhất
định”. Một số nhà luật học khác cho răng: “LHSỌT là tập hợp những nguyên
tắc, quy phạm xác định quyên và nghĩa vụ cùa các thành viên cộng đồng quôc
tế mà việc vi phạm sẽ là tội phạm quốc tế và phải chịu hình phạt”. Xem
Blisenco I. P. và Fixenco I. p., Sđd, Nxb. Luật lệ và pháp luật, tr. 12.
6 Xem Nguyễn Thị Thuận, Luật hình sự quốc tế, Nxb Công an nhân dân,
2007, tr. 8
7 Ví dụ, GS Martenx F. F. của Trường Đại học Saint Peterburg cho rằng
“LHSQT là tập hợp những quy phạm xác định điều kiện tương trợ xét xử quốc
tế giữa các quốc gia để thực hiện quyền trừng phạt của mình trong cộng đồng
quoc tế” (xem Lucasuk I. I. và Naumob A. B., Luật hình sự quốc tế, Nxb
Spark, Moscow, 1999, tr. 11). Cartpetx I. I. coi LHSQT là một hệ thống các
quy phạm được hình thành từ kêt quả hợp tác giữa các quốc gia có chủ quyên
hoạc giữa các cơ quan, tổ chức nhà nước nhằm bảo vệ hòa bình, an ninh của
các dân tộc trật tự pháp luật quôc tế tránh khỏi những tội phạm quốc tế cũng
như những tội phạm co tính chất quốc tế, mà những tội phạm đó được quy
định trong các điều ước, các công ước quôc tê và các văn bản pháp luật khác
có tính chất quốc tế và bị trừng phạt theo các điều ước đã ký kêt giữa các nhà
nước phù họp với các quy phạm luật hình sự quốc gia (xem Carpetx I. I-, sđd,
160
Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về LHSQT, các định
nghĩa đều xoay quanh việc làm rõ đối tượng điều chỉnh và nhiệm
vụ của ngành luật này. LHSQT điều chỉnh quan hệ họp tác giữa
các quốc gia trong cuộc đấu tranh với các tội phạm xâm hại lợi
ích của cộng đồng quốc tế hoặc lợi ích của một số quốc gia nhất
định. Để điều chỉnh quan hệ này, LHSQT xác định những hành
vi bị coi là tội phạm, ừách nhiệm của cá nhân đối với tội phạm
đó và trách nhiệm của các quốc gia trong việc đấu tranh với tội
phạm. Đồng thời, LHSQT quy định thủ tục tố tụng của những cơ
quan quốc tế xét xử các tội phạm quốc tế. Như vậy, LHSQT là
tr. 30). Giáo sư Panov V. P. quan niệm rằng: “LHSQT - là hệ thống các
nguyên tắc và các quy phạm điều chỉnh sự hợp tác cua các quốc gia trong
cuộc đâu tranh chông những tội phạm do các điều ước quốc tế quy định” (xem
Kibalnhik A. G., Luật hình sự quốc tế, Moscow, 2002, tr. 2 (Sach gồc: Panov
V. p., Luật hình sự quốc tế, 1997, tr. 5). Blisenco I. P. và Fixenco I. p.định
nghĩa: “LHSQT có thể được định nghĩa là tổng hợp các nguyên tăc và các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ hợp tác của các quốc gia trong việc
ngăn ngừa và tnxng phạt việc thực hiện những tội phạm quốc tế và tội phạm
có tính chất quốc tế” (xem Blisenco I. P. và Fixenco I. p. Sđd tr. 8). Giáo sư
Kibalnhik A. G. định nghĩa “LHSQT là một ngành luật độc lập của hệ thống
luật quốc tế, bao gồm các quy phạm pháp luật quốc tể và các quyết định của
các tô chức quôc tê xác định những hành vi tội phạm, trách nhiệm đối với việc
thực hiện các hành vi như vậy, và điều chỉnh những vấn đề pháp lý hình sự
xoay quanh mục đích bào vệ trật tự pháp luật quốc tế” (xem Kibalnhik A. G.,
Sđd, tr. 6). Giáo sư về luật quốc tế và nhân quyền John Cerone và Susana
SáCouto coi LHSQT là một tập hợp các quy phạm pháp luật quốc tế quy định
trách nhiệm hình sự của cá nhân (xem John Cerone and Susana SáCouto,
Bdd). Giáo sư vê luật quốc tế Bartram s Brown cho rằng LHSỌT bao gồm
những quy phạm của luật quốc tế xác định tội phạm và hình phạt, cũng như
hàng loạt cơ chê và thù tục sử dụng bởi các quốc gia nhằm thuc đấy hợp tác
quốc tế trong việc điều tra tội phạm và cưỡng chế thi hành ỈUcật hình sự quốc
gia (xem Barstram s Brown, International Criminal Lern’ - Deßning
international Crimes, Procédural Aspects, Enjorcernent Models, Conclusion.
Bibliograph Treaties And Other Documents
<http://law.jrank.org/pages/1398/Intemational-Criminal-Lawhtml> at 5 April
2009).
161
tập hợp các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tể xác định
những hành vi bị coi là tội phạm và trách nhiệm của cá nhân đổi
với việc thực hiện những hành vi như vậy, sự hợp tác của các
quốc gia trong việc đấu tranh với tội phạm, và thủ tục tố tụng
trong lĩnh vực tư pháp hình sự quốc tế.
LHSQT là một ngành luật tương đối mới trong hệ thống
luật quốc tế và đang phát triển mạnh mẽ.89Ban đầu, LHSQT chỉ
quy định một số ít hành vi nguy hiểm đối với hòa bình và an ninh
quốc tế là tội phạm, ví dụ: tội phạm chiến tranh, tội diệt chủng,
tội chống loài người. Dần dần, xuất hiện những loại hành vi mới
nguy hiểm đối với sự phát triển chung của cộng đồng. Một cách
tương ứng, LHSQT cũng mở rộng phạm vi điều chỉnh, quy định
những loại tội phạm mớì như buôn bán ma túy, tội buôn bán
người, rửa tiên, tham nhũng, khủng bố. Sự tăng lên nhanh chóng
về số lượng điều ước quốc tế đấu tranh với tội phạm có tính chất
quốc tế trong những thập kỷ qua đã minh chứng cho sự phát triển
mạnh mẽ của ngành luật này.
1.2. Đối tượng điều chỉnh và cấu trúc của LHSQT
1.2.1. Đối tượng điều chỉnh của LHSQT
LHSQT ra đời và phát triển nhằm đấu tranh với các tội
phạm mà từng quốc gia đơn độc, khép kín không thể đấu tranh
một cách hiệu quả. Nói cách khác, LHSQT ra đời như một công
cu để các quốc gia, các tô chức quốc tế hợp tác với nhau chống
lại các tội phạm không giới hạn trong phạm vi lãnh thổ một quốc
gia. Như vậy, đối tượng điêu chỉnh của LHSQT là quan hệ hợp
tác giữa các quốc gia, các tô chức quốc tế trong quá trình đấu
tranh với tôi phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế. Cụ
thể hơn, LHSQT quy định các vân đê sau đây:
8 Xem Antonio Cassese, Bđd.
9 Ví dụ về các điều ước quốc tế xem thêm ở phần phân tích về nguồn của
LHSQT.
162
- Xác định các hành vi bị coi là tội phạm và dấu hiệu cơ
bản của các tội phạm này, trách nhiệm của các quốc gia trong
việc tội phạm hóa những hành vi quy định trong LHSQT.
- Trách nhiệm của các quốc gia trong cuộc đấu tranh với
tội phạm (ví dụ: nghĩa vụ của các quốc gia trong việc thực hiện
quyền tài phán đối với người phạm tội, trách nhiệm tương trợ tư
pháp, dẫn độ, chuyển giao phạm nhân, bảo vệ nhân chứng...)
- Trách nhiệm của một số tổ chức quốc tế trong cuộc đấu
tranh với tội phạm (ví dụ: trách nhiệm của Ban kiểm soát ma túy
quốc tế (International Narcotics Control Board) trong việc ngăn
ngừa các hoạt động trồng, sản xuất, chế biến, buôn bán và tàng
trữ bất hợp pháp các chất ma túy).1
0
- Tổ chức, hoạt động và thủ tục tố tụng của các cơ quan tài
phán quốc tế (ví dụ: Quy chế tổ chức và hoạt động của Tòa án
Hình sự quốc tế thường trực La Haye theo Quy chế Rome 1998).
1.2.2. Cấu trúc của LHSQT
LHSQT gồm hai bộ phận quan trọng là luật nội dung và
luật hình thức. Luật nội dung bao gồm các nguyên tắc và các quy
phạm của LHSQT xác định tội phạm và trách nhiệm hình sự.
Trong khi đó, luật hình thức (hay luật tố tụng) bao gồm các
nguyên tắc và các quy phạm của LHSQT quy định về hợp tác
quốc tế trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội pham, chuyển giao
phạm nhân đê thi hành án; tô chức, hoạt động và thủ tục tô tụng
của các tòa án hình sự quốc tê.11
1
2
1
0 Xem khoăn 4 Điều 9 cùa Công ước thống nhất về các chất ma túy (mờ để
các nước ký kết từ ngày 30 tháng 03 năm 1961, có hieu lưc tư tinày 13 tháng
12 năm 1964).
" Theo Nguyễn Thị Thuận, LHSQT có tính chất tổn" hợp, bao "Ồm các quy
phạm luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án quyết hình sự (Nguyễn Thị
Thuận, Sđd, tr. 9). Tuy nhiên, theo nhiều học già khác, nhir Cudrasev (Luật
hình sự quốc tế, Nxb. Khoa học, Moscow, 1999, tran" 15)- Blisenko và
Fixenko (Sđd, trang 15); Lucasuk và Naumov (SđJ, tr. 12*3) thì LHSQT chi
163
1.3. Các nguyên tắc của LHSQT
LHSQT là một bộ phận của luật quốc tế nên cũng bị chi
phối bởi các nguyên tắc chung của luật quốc tế. Ngoài ra,
LHSQT còn có những nguyên tắc đặc thù. Các nguyên tắc của
LHSQT được đề cập đến trong nhiều văn bản pháp luật hình sự
quốc tế, như Quy chế hoạt động của Tòa án Quân sự Nuremberg
1945, Báo cáo của ủy ban Pháp luật quốc tế về các nguyên tắc
cơ bản của Luật Hình sự quốc tế 1950 (đã được Tổng thư ký
LHQ thông qua), Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính ưị
của cá nhân năm 1966, Quy chế hoạt động của Tòa án Hình sự
quốc tế 1998.12Các nguyên tắc đặc thù của LHSQT gồm:
- Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật
- Không có tội phạm nếu không có luật
- Không có hình phạt nếu không có luật
- Trách nhiệm hình sự của cả nhân theo luật quốc tế
- Không được truy cứu hai lần đổi với cùng một hành vi
phạm tội
- Vị trí chức vụ của cá nhân không giải phóng cá nhân
khỏi trách nhiệm hình sự và vị trí chức vụ của cá nhân cũng
không được xem là tình tiết giảm nhẹ trong quyết định hình phạt
- Trách nhiệm hình sự của người chỉ huy hay người có
chức vụ cao.*
1
2
bao gồm các quy phạm hình sự và tố tụng hình sự. Nói cách khác, các quy
phạm về thi hành án quyết hình sự chỉ được coi là một phần của tô tụng hình
sự.
1
2 Xem: Cudrasev V. N., Sđd, tr. 13; và Lucasuk I. I. và Naumob A. B., Sđd,
tr. 13-4- Điều 22 đến Điều 33 Phần III Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế (1998)
về các nguyên tắc chung của luật hình sự.
164
1.3.1. Tất cả mọi người đều bình đẳng trướcpháp luật
Nguyên tắc “tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật” được thừa nhận .,;>ng rãi trong luật pháp của các quốc gia
nói chung, luật hình sự của các quốc gia nói riêng. Ke thừa sự
tiến bộ đó, Công ước về quyền dân sự và chính trị của cá nhân
(1966) đã ghi nhận nguyên tăc này như một nội dung của quyên
con người và nó cũng được coi là một nguyên tắc của LHSQT.
Dưới góc độ luật hình sự quốc tế, nguyên tắc này đòi hỏi
các quốc gia khi truy cứu, xét xử người thực hiện tội phạm quôc
tế hoặc tội phạm có tính chất quốc tế không phải là công dân của
nước mình (như người không có quốc tịch hoặc công dân nước
ngoài), phải trao cho họ đầy đủ các quyền như luật pháp đã trao
cho công dân nước họ.
1.3.2. Không có tộiphạm nếu không có luật
Nguyên tắc này hiện diện trong pháp luật hình sự của hâu
hết các quốc gia trên thế giới, được thừa nhận rộng rãi và đã trở
thành một nguyên tắc chung của luật. Với nguyên tắc không có
tội phạm nếu không có luật (Nullum crimen sine lege), các hành
vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị coi là tội phạm nếu chúng được
quy định trong luật. Nguyên tắc này không cho phép việc suy
diễn hoặc áp dụng tưoug tự pháp luật khi xác định tội phạm.
1.3.3. Không cỏ hình phạt nếu không có luật
Tưong tự như nguyên tắc “không có tội phạm nếu không
có luật”, nguyên tắc “không có hình phạt nếu không có luật
(Nulla poena sine lege) hiện diện trong pháp luật hình sự của hâu1
3
1
3 Điều 3, khoản 1 Điều 14 và Điều 26 cùa Công ước về quyền dân sự và
chính trị 1966 (mờ cho các nước ký kêt, phê chuẩn hoặc tham gia từ ngay 16
tháng 12 năm 1966 và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 03 năm 1976).
165
hết các quốc gia và đã trờ thành một nguyên tắc chung của luật.
Với nguyên tắc này, người phạm tội chỉ phải gánh chịu những
hình phạt được quy định trong luật. Tòa án không có quyền tùy
tiện áp dụng những loại hình phạt không được pháp luật quy định
đối với người phạm tội.
1.3.4. Trách nhiệm hình sự của cá nhân theo luật quốc tế
Nguyên tắc này rất đặc trưng trong LHSQT và có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng. Theo quan điểm truyền thống, luật quốc tế
chỉ điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, các tổ chức quốc
tế; luật quốc tế không điều chỉnh hành vi của cá nhân. Điều này
có nghĩa là luật quốc tế chỉ quy định trách nhiệm của các quốc
gia, tổ chức quốc tế trong quan hệ quốc tế mà không trực tiếp
quy định trách nhiệm cá nhân.
Nguyên tắc “trách nhiệm hình sự của cá nhân theo luật
quốc tế” đã khẳng định một quan điểm mới. Theo nguyên tắc
này, tòa án quốc tế có thẩm quyền có thể trực tiếp xét xử và buộc
người đã thực hiện tội phạm quốc tế phải chịu trách nhiệm hình
sự. Ví dụ, khoản 1, Điều 25, phần III của Quy chế Tòa án Hình
sự quốc tế (1998) về các nguyên tắc chung của luật hình sự quy
định ràng: Tòa án Hình sự quốc tế có quyền tài phán đối với cá
nhân thực hiện các tội phạm thuộc thẩm quyền của tòa. Ngoài ra,
các quốc gia cũng có thể xét xử các cá nhân thực hiện tội phạm
quốc tế bằng cách áp dụng trực tiếp các quy phạm của LHSQT.1
4
Với nguyên tắc trách nhiệm hình sự của cá nhân, một
người đã thực hiện tội phạm cùng với những người khác hoặc
thông qua những người khác đều phải gánh chịu trách nhiệm*
1
6
6
1
4Xem thêm phần 4 về Thẩm quyền xét xử các tội phạm quốc tế.
166
hình sự, không phụ thuộc vào việc người khác có bị truy cứu
trách nhiệm hình sự hay không.1
3
1.3.5. Không truy cứu hai tằn đổi với cùng một hành vi
phạm tội
Nguyên tắc “không truy cứu hai lần đối với cùng một hành vi
phạm tội” được ghi nhận trong luật hình sự của nhiều quốc gia và có
thể được coi là một nguyên tắc chung của luật. Đây cũng là một
nguyên tắc của LHSQT.
Tòa án Hình sự quốc tế 1998 vận dụng nguyên tắc này theo
hướng người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở một quôc
gia hoặc đã được tuyên bố không phạm tội ở một quốc gia thì sẽ
không bị truy cứu trách nhiệm đối với cùng hành vi ấy bởi Tòa án
Hình sự quốc tế.1
5
1
6 Tuy nhiên, cũng cần đề cập rằng Tòa án Hình sự
quốc tế 1998 không áp dụng nguyên tắc này trong các trường họp
ngoại lệ sau:
- Người phạn tội đã bị xét xử bởi một tòa án khác, nhưng việc
xét xử chỉ nhằm mục đích bảo vệ cho người phạm tội khỏi phải gánh
chịu trách nhiệm hỉnh sự đối với những tội phạm thuộc thẩm quyên
xét xử của Tòa án Hình sự quốc tế;
- Người phạm tội đã bị xét xử bởi một tòa án khác, nhưng việc
xét xử không được tiến hành một cách độc lập hoặc khách quan theo
những chuẩn mực ghi nhận trong luật quốc tế; và việc xét xử không
đúng với mục đích đưa người phạm tội ra trước công lý.1
7
1
5 Ỵí dụ: xem điểm a khoản 3 Điều 25 Phần III cùa Quy chế Tòa án Hình sụ
quốc tế 1998.
1
6 Xem khọản 1 và 2 Điều 20 (Ne bis in idem) Phần II cùa Quy chế Tòa án
hình sự quốc tế 1998.
n Khoản 3 Điều 20 (Ne bis in idem) Phân II cùa Quy chế Tòa án Hình sự quôc
tế 1998.
167
1.3.6. Vị trí chức vụ của cá nhân không giải phóng cá
nhân khỏi trách nhiệm hình sự và vị trí chử’
c vụ của cá nhân
cũng không được xem ỉà tình tiết giảm nhẹ trong quyết định
hình phạt
Trong đa số các trường hợp, tội phạm quốc tế được thực
hiện bởi những người có chức vụ, có cả những người giữ vị trí
lãnh đạo quốc gia.1
8 Do vậy, việc thừa nhận quyền miễn trừ
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người có chức vụ
sẽ làm cho cuộc đấu tranh chống tội phạm mất ý nghĩa.
Chính vì lý do này, ngay trong Quy chế của Tòa án Quân sự
Nuremberg đã khẳng định nguyên tắc: “vị trí chức vụ của cá
nhân không giải phóng cá hhân khỏi trách nhiệm hình sự và
vị trí chức vụ của cá nhân cũng không được xem là tình tiết
giảm nhẹ trong quyết định hình phạt”.19 Quy chế của những
tòa án hình sự quốc tế sau đó, như Tòa án Hình sự quốc tế
Yugoslavia và Rwanda, và Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế
1998 tiếp tục khẳng định nguyên tắc này. Quy chế Tòa án
Hình sự quốc tế 1998 nêu rõ:
- Quy chế này áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người,
không có bất kỳ sự phân biệt nào về vị trí chức vụ. Cụ thể,
các vị trí chức vụ đứng đầu nhà nước, thành viên quốc hội,
người đại diện do bầu cừ hay cán bộ chính quyền không giải
phóng người phạm tội khỏi trách nhiệm hình sự, chúng cũng
không phải là căn cứ để giảm nhẹ hình phạt.
- Các quyền miễn trừ hay các quy định tố tụng đặc biệt
có thể áp dụng cho các vị trí chức vụ nhất định theo luật pháp
1
8 Lucasuk I. I. và Naumob A. B, Sđd, trang 29.
1
9Xem Điều 7 cùa Ọuy chế Tòa án Quân sự Nuremberg 1945 (văn bản này có
tại website: http://avalon.law.vale.edu/imt/imtconst.asp)
168
quốc gia hay quốc tế không thể cản trở tòa án thực hiện
quyền tài phán đối với người phạm tội.20
1.3.7. Trách lĩhiệm hình sự của người chỉ huy hay người
có chức vụ cao
Nguyên tắc “trách nhiệm hình sự của người chỉ huy hay
người có chức vụ cao” được ghi nhận trong LHSQT để đấu tranh
với những tội phạm được thực hiện bởi những người chỉ huy hay
người có chức vụ cao trong trường hợp họ biết cấp dưới của
mình thực hiện hoặc chuẩn bị thực hiện một tội phạm quốc tế mà
không áp dụng những biện pháp cần thiết để phòng ngừa hoặc
ngăn chặn việc thực hiện tội phạm. Nguyên tắc này được ghi
nhận trong LHSQT từ rất sớm, ví dụ như Công ước La Haye về
luật lệ chiến tranh năm 1907, Nghị định thư năm 1972 bổ sung
cho Công ước Geneva về bảo vệ nạn nhân chiến tranh năm 1949,
Quy chế Tòa án Quân sự Nuremberg 1945.21 Hiện nay, Quy chế
Tòa án Hình sự quốc tế 1998 cũng ghi nhận nguyên tắc này. Cụ
thể như sau:
- Người chỉ huy quân đội hay người hành động như người
chỉ huy quân đội phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội
phạm do lực lượng thuộc quyền kiểm soát của họ thực hiện theo
mệnh lệnh của họ.
Người chỉ huy quân đội hay người hành động như người
chỉ huy quân đội cũng phải chịu trách nhiệm hình sự vê những
tội phạm do lực lượng thuộc quyền kiểm soát của họ thực hiện
20Điềụ 27 (Irrelevance ofofficial capacity) Phần III của Quy chế Tòa án Hình
Sự quốc tế 1998.
2
1 Xem Lucasuk I. I. và Naumob A. B, Súci trang 31 và Điều 8 cùa Quy chê
Tòa án Quân sự Nuremberg 1945.
169
nếu họ không thực hiện quyền kiểm soát một cách đúng đắn, có
nghĩa là:
+ Họ biết, hoặc, theo điều kiện khách quan, phải biết rằng
lực lượng câp dưới họ đang thực hiện hoặc sẽ thực hiện tội
phạm, và:
+ Họ không thực hiện những biện pháp cần thiết và hợp lý
trong thâm quyên của mình đê phòng ngừa hoặc ngăn chặn việc
thực hiện tội phạm, hoặc không chuyển giao vụ việc đến người
có thẩm quyền để điều tra và truy tố.
- về mối quan hệ cấp trên và cấp dưới, ngoài các trường
hợp như đã nêu trên, câp trên phải chịu trách nhiệm đối vói
những tội phạm do cấp dưới thực hiện trong các điều kiện:
+ Họ biết hoặc cố ý bỏ qua những thông tin cho biết cấp
dưới đang thực hiện hoặc sẽ thực hiện tội phạm;
+ Tội phạm liên quan đến những hoạt động thuộc trách
nhiệm hay quyền kiểm soát của họ; và
+ Họ không thực hiện những biện pháp cần thiết và hợp lý
trong thâm quyên của mình đê phòng ngừa hoặc ngăn chặn việc
thực hiện tội phạm, hoặc không chuyển giao vụ việc đến người
có thẩm quvền để điều tra và truy tố.22
1.4. Nguồn của LHSQT
Nguồn của LHSQT là các hình thức biểu hiện của các
nguyên tắc và quy phạm pháp luật hình sự quốc tế. Nhìn chung,
nguôn của LHSQT không năm ngoài những nguồn của luật quôc
tế nói chung, được nhắc đến tại Điều 38 của Quy chế Tòa án
Công lý quốc tế. Đặc biệt, các nguồn quan trọng nhất của
LHSQT bao gồm: các điều ước quốc tế, các tập quán quốc tế, các
nguyên tắc chung của luật, các nghị quyết, tuyên ngôn của tô
22 Xem Điều 28 (Responsibility of commanders and other superiors) Phần III
cùa Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế 1998.
170
1.4.1. Các điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là nguồn cơ bản và quan trọng nhất của
LHSQT.23 Cần lưu ý rằng, bên cạnh những điều ước chuyên biệt
về đấu tranh với tội phạm (ví dụ: Công ước quốc tế về chống
buôn bán bất họp pháp các chất ma túy và các chất hướng thần
năm 1988, Công ước về chông tội phạm có tổ chức xuyên quôc
gia năm 2000), trong số nguồn của LHSQT còn có cả những điều
ước điều chỉnh các vẩn đề chung nhưng có chứa đựng các quy
phạm pháp luật hình sự. Ví dụ: Công ước về luật biển năm 1982
có chứa đựng những quy phạm vê hợp tác giữa các quốc gia đâu
tranh với buôn bán, vận chuyên nô lệ, cướp biển, và một sô hoạt
động liên quan đến ma túy và các chất hướng thần.
Tuy là một ngành luật mới, số lượng các điều ước quốc tế
đa phương và khu vực về đấu tranh với tội phạm quốc tê và tội
phạm có tính chất quốc tế khá phong phú. Có thể kể đến một sô
điều ước quôc tế quan trọng:
- Hiệp ước London năm 1945 về trừng phạt tội phạm chiên
tranh và Quy chế Tòa án Quân sự Nurembetg
Năm 1945, các nước Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô đã ký
hiệp ước tại London về trừng phạt các cá nhân thực hiện tội ác
chiến tranh phát xít ở châu Âu. Hiệp ước này là cơ sở đê thành
lập Tòa án Quân sự Nuremberg.
Quy chê tổ chức và hoạt động của Tòa án Quân sự
Nuremberg là văn bản có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác
định các loại tội phạm quốc tế. Điêu 4 của Quy chế ghi nhận 3
loại tội phạm quôc tế: tội phạm chông hòa bình, tội phạm chien
tranh và tội phạm chống loài người.
chức LH Q , các quy tắc hoạt động và các phán quyết của các tòa
án hình sự quốc tế.
23 Cudrasev V. N., Sđd, tr. 17 và Nguyễn Thị Thuận, Sđd, tr. 12.
171
- Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế năm 1998
Viẹc thành lập một tòa án hình sự quốc tế thường trực để
xet xư cac tọi phạm quôc tê là một thành tựu to lớn và quan trọng
cua cọng đong quôc tê. Trước đây, các tòa án Nuremberg,
Yugoslavia và Rwanda đêu là các tòa án ad hoc, thành lập theo
vụ viẹc. Quy chê Tòa án Hình sự quốc tế 1998 chứa đựng nhiều
quy phạm pháp luật vê hình sự, như các nguyên tắc của luật hình
sự, xác đinh các hành vi bị coi là tội phạm diệt chủng, tội phạm
chiên tranh, tội chông loài người và tội phạm xâm lược; quy
phạm phap luạt to tụng hình sự, như quy định về điều tra, truy tố
tội phạm, nguyên tấc xét xử.
Công ước chông tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
năm 2000
Công ước chông tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia được
thông qua vào ngày 15/11/2000 và có hiệu lực tìr ngày
29/09/2003. Mục đích của Công ước là “thúc đẩy sự hợp tác để
ngăn ngừa và đau tranh với tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia
một cách hiệu qụả (Điêu 1). Đê đạt được mục đích đã nêu,
Công ước quy đinh nghĩa vụ của các quốc gia trong việc tội
phạm hóa những hành VI tham gia vào nhóm tội phạm có tổ
chức, rửa tiên, tham nhũng và cản trở hoạt động tư pháp. Công
ước cũng quy đinh việc thực hiện quyền tài phán của các quốc
gia đôi VỚI các tội phạm này, họp tác quốc tế trong việc tịch thu
các tài sản do phạm tội mà có, tương trợ tư pháp, điều tra tội
phạm, dân độ người phạm tội , chuyển giao phạm nhân để thi
hành án và các biện pháp phòng ngừa tội phạm.
- Các điêu ước quôc tê đâu tranh phòng chống các nhóm tội
phạm cụ thê: như Công ước vê ngăn ngừa và trừng trị tội diệt
chủng năm 1948; Công ước Tokyo vê tội phạm và một số hành vi
khác thực hiện trên tàu bay năm 1963; Công ước La Haye về ngăn
chặn các hành vi chiêm đoạt bât họp pháp máy bay năm 1970; các*
1
7
2
24 Việt Nam đã phê chuẩn Công ước này vào ngày 08/06/2012
172
Công ước về chống các tội phạm liên quan đến ma túy và các chất
hướng thân năm 1961, 1971 và 1988; Công ước về ngăn chặn và
trừng phạt tội phạm băt cóc con tin năm 1979; Công ước về trùng
trị tội phạm khủng bô băng bom năm 1997, Công ước về trừng trị
hoạt động tài trợ cho khủng bố năm 1999...
- Các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp như Công
ước của châu Âu về tương trợ tư pháp đối với các vấn đề về
hình sự, Hiệp định của các nước ASEAN về tương trợ tư pháp
đôi với các vấn đề về hình sự... Như trên đã đề cập, LHSQT ra
đời như một công cụ để các quốc gia, các tổ chức quốc tế họp tác với
nhau chông lại các tội phạm không giới hạn trong phạm vi lãnh thô
một quốc gia. Do đó, trong cuộc đấu tranh này các điều ước quốc tế
vê tương trợ tư pháp đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra cơ
sở pháp lý cho các quôc gia hợp tác với nhau trong các hoạt động
trao đôi thông tin, thu thập chúng cứ để điều tra, truy tố, xét xử tội
phạm và thi hành án.
1.4.2. Các tập quán quốc tế và các nguyên tẳc chung của
luật
Trong lĩnh vực hình sự quốc tế, có một số tập quán và nguyên
tac chung của luật được các quôc gia thừa nhận rộng rãi. Có thê kê
đện các nguyên tắc như Ne bis in indem (không được truy cứu hai lần
đối với cùng một hành vi), Nullum crimen sine lege (không có tội
phạm nêu không có luật) và Nulla poena sine leẹe (không có hình
phạt nêu không có luật).23 Ngày nay, nhiều tập quán và nguyên tăc
chung của luật đã được pháp điển hóa ừong các điều ước quốc tê. Ví
dụ: khoản 3, Điều 20 của Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế 1998 quy
định vê vân đề Ne bis in indem (không được truy cưu hai lần đối với
cùng một hành vi), Điều 22 Phần II của Quy chế Tòa án Hỉnh sự
quôc tê 1998 quy định về vấn đề Nullum crimen sine lege (không có
tội phạm nêu không có luật), Điều 23 Phần II cùa Quy chế Tòa án
2Í Nguyễn Thị Thuận, Sđd, tr. 17.
Hình sự quốc tế 1998 quy định về vấn đề Nulla poena sine lege
(không có hình phạt nêu không có luật).
Trong khoa học, có quan điểm cho rằng, tập quán quốc tế và
nguyên tắc chung của luật là nguồn quan họng hơn điều ước quốc tế
vì các tập quán quôc tê được các quôc gia thừa nhận rộng rãi, còn
điều ước quốc tế chi có hiệu lực đối vói các quốc gia ký kết. Cũng có
quan điểm khác cho rằng, điều ước quốc tế la nguon quan trọng hơn,
vì được thê hiện băng văn bản rõ ràng và có giá trị ràng buộc đối với
các quốc gia thành viên. Thêm vào đó, số lượng điều ước quốc tế
đang ngày càng tăng lên, điều chỉnh nhiều vấn đe và ưở thành một
nguồn quan trọng.26 về vấn đề này, cần đề cập rằng, hiện nay nội
dung của nhiều điều ước quốc tế phản ánh những tập quán quốc tế đã
được thừa nhận rộng rãi (ví dụ: Công ước La Haye về luật lệ chiến
ừanh năm 1907, Công ước Geneva về bảo vệ nạn nhân chiến tranh
1949, các quy tắc về tố tụng và hình sự của các Tòa án Hình sự quốc
tế Nuremberg, Tokyo, Yugoslavia, Rwanda và Quy chế của Tòa án
Hình sự quốc tế 1998).27 Nói cách khác, hai loại hmh nguồn này bổ
trợ cho nhau, góp phần tạo thành hệ thống nguồn của LHSQT.
1.4.3. Các tuyên ngôn của tổ chức LHQ
Trong số nguồn của LHSQT cần phải kể đến một số tuyên
ngôn của tổ chức LHQ; như Tuyên ngôn của LHQ về quyền con
người năm 1948, Tuyên ngôn của LHQ về bảo vệ tất cả những người
bị ứa tân và các hình thức đôi xừ và hình phạt dã man, vô nhân đạo
hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1975. Chuẩn mực ghi nhận trong các
tuyên ngôn này được các nước thừa nhận rộng rãi, và hiện nay, tòa án
của một số quốc gia coi các quy phạm trong các tuyên ngôn này là
các quy phạm được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế.28
26 Cudrasev, Sđd, tr. 18. Xem thêm chương Nguồn cùa luật quốc tế trong giáo
trình này.
27 Xem Cudrasev Sđd, tr. 18 và Lucasuk I. I. và Naumob A. V., Sđd, tr. 14-5.
28 Lucasuk I. I. và Naumob A. V., Sđd, tr. 15. Theo Nguyễn Thị Thuận, trong
thực tiễn quan hệ quốc tế xuất hiện ngày càng nhiều các nghị quyêt của các tô
chức liên chính phù có hiệu lực ràng buộc đôi với các quôc gia thành viên.
174
Các quy tắc hoạt động và các phán quyết của các tòa án hình
sư quốc tế là một nguồn quan trọng của LHSQT. Các văn bản này có
ý nghĩa quan ừọng đối với việc thiết lập các chuẩn mực xét xử tội
phạm quốc tế. Ví dụ: các phán quyêt của Tòa án Quân sự Nuremberg
(Judgement), Bộ quy tăc tô tụng (Rules ofProcedure) của Tòa án này
được thông qua ngày 29 tháng 10 năm 1945, Bộ quy tắc về tố tụng
và chúng cứ (Rules o fProcedure and Evidence) của Tòa án Hình sự
quốc tế Yugoslavia được thông qua vào ngày 11 tháng 2 năm 1994,
Các nguyên tắc về tố tụng và chứng cứ (Rules of Procedure and
Evidence) của Tòa án Hình sự quốc tế 1998 được thông qua ngày 10
tháng 9 năm 2002 trong kỳ họp đầu tiên của Hội đồng các nước
thành viên từ ngày 3 đến ngày 10/09/2002, Các yếu tố của tội phạm
(Elements ofCrimes) của Tòa án Hình sự quốc tế 1998.
1.5. Mối quan hệ giữa luật hình sự quốc tế và luật hình
sự quốc gia
Xác định bản chât của môi quan hệ giữa luật hình sự quôc tê
và luật hình sự quốc gia (LHSQG) là một vấn đề thú vị và có ý nghĩa
quan trọng đôi vói việc áp dụng pháp luật. Xoay quanh vân đê bản*
1.4.4. Các quy tắc hoạt động và cácphán quyết của các tòa
án hình sự quốc tế
Các văn bận này cũng là một loại nguồn của LHSQT, ví dụ như Nghị quyêt
của Hội đồng Bảo an LHQ về thành lập các Tòa án Yugoslavia và Rwanda
(Xem Nguyễn Thị Thuận, Sđd, tr. 17-8). Theo Lucạsuk 1.1. và Naumob A. V.,
những nghị quyết của LHQ hay các tổ chức quốc tế khác không trực tiêp chứa
đựng những quy phạm pháp luật quốc tế, mà chi có ảnh hường đến quá trình
hình thành những quy phạm này nên không được coi là nguồn của LHSQT
(Lucasuk I. 1. và Naumob A. V., Sđd, tr. 15). Theo chúng tôi, các nghị quyêt
cùa Hội đồng bảo an LHQ về thành lập các Tòa án Yugoslavia và Rwanda chi
là các văn bản thê hiện sự thống nhất ý chí cùa HĐBA về việc thành lập hai
tòa án đã nêu. Chúng không chứa đựng quy phạm pháp luật tồ tụng hay hình
sự (xem các nghị quyết này tại: http://www.un.org/documents/scres.htm). Vì
lý do ấy, chúng tôi đồng ý với quan diêm cịia Lucasuk 1. 1. và Naumob A. V.
vè việc không coi các nghị quyết này là nguên cùa LHSQT.
29Cho đến ngày 4/11/2008, Bọ quy tắc này đã được sửa đồi bổ SU112 43 lần.
175
chất của quan hệ giữa LHSQT và LHSQG, thường đặt ra các vấn đề
sau đây.
Thứ nhất, LHSQT có phải là một bộ phận của LHSQG hay,
ngược lại, LHSQG có phải là một bộ phận của LHSQT. Một số
chuyên gia khẳng định rằng, trên thế giới tồn tại hai hệ thống pháp
luật: pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia,30 do vậy
LHSQT không thể là một bộ phận của LHSQG, và ngược lại,
LHSQG cũng không thể là một bộ phận của LHSQT.
Nhìn chung LHSQT và LHSQG khác nhau cơ bản về: (i) cơ
chế xây dựng các nguyên tắc và quy phạm, (ii) đối tượng điều chỉnh,
và (iii) bảo đảm thi hành.31
/. về cơ chế xây dựng các nguyên tác và quy phạm pháp luật
Các nguyên tắc và quy phạm pháp luật hình sự quốc gia do cơ
quan lập pháp của một quốc gia ban hành, còn các nguyên tắc và quy
phạm pháp luật hình sự quốc tế được hình thành bằng con đường
thỏa thuận giữa các quốc gia. Vì quốc gia là những thực thể độc lập,
có chủ quyền và bình đẳng với nhau trong quan hệ quốc tế nên quốc
gia này không có quyền đặt ra pháp luật bắt các quốc gia khác phải
tuân theo. Các quốc gia phải cùng nhau thỏa thuận xây dựng các
nguyên tắc và quy phạm LHSQT trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng.
/7. về đối tượng điều chỉnh
LHSQT và LHSQG đều có nhiệm vụ đấu tranh với tội phạm,
nhưng đối tượng điều chỉnh của LHSQT khác với LHSQG. LHSQG
điều chỉnh quan hệ giữa người phạm tội với nhà nước, còn LHSQT
điêu chỉnh quan hệ giữa các quôc gia với nhau trong quan hệ hợp tác
30 Cudrasev V. H., Sđd, tr. 9. Xem thêm chương Lý luận chung về luật quốc
tế.
3
1 Có thể nói các khác biệt này hoàn toàn logic nếu ta tính đến những đặc
trưng của luật quốc tế so với luật quốc gia đã được trình bày tại Chương đầu
tiên cùa giáo trình này.
176
đấu tranh với tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế như
đã phân tích ở trên.
iii. về bảo đảm thi hành
Pháp luật quốc gia nói chung, và luật hình sự của quốc gia nói
riêng, được bảo đảm thi hành băng nhiêu biện pháp như giáo dục,
thuyết phục và cưỡng chế. Đối với biện pháp cưỡng chế, quốc gia có
cả một bộ máy các cơ quan như tòa án, công an, viện kiêm sát đê bảo
đảm pháp luật được thi hành.
Khác với LHSQG, LHSQT điều chinh quan hệ giữa các quốc
gia độc lâp, có chủ quyền, nên không có bộ máy siêu quốc gia để
cưỡng chê thi hành. Các quôc gia tham gia thỏa thuận vê các biện
pháp để LHSQT được bảo đảm thi hành.
Thứ hai, LHSQT có ưu thế so với LHSQG hay, ngược lại,
LHSQG có ưu thế so với LHSQT.
Theo trường phái nhất nguyên luận, luật quốc tế và luật quốc
gia chi là hai bộ phận của một hệ thống pháp luật thông nhât, ưong
đó bộ phận này phụ thuộc vào bộ phận kia. Trong trường phái này,
có hai hệ quan điểm. Hệ quan điểm thứ nhất cho rằng, luật quốc tế có
ưu thế hơn luật quốc gia, đứng lên trên luật quốc gia và chi phối luật
quôc gia. Luật quôc gia phải tuân thủ theo luật quôc tê.32 Hệ quan
điểm thứ hai hoàn toàn ngươc lai so với hệ quan điểm thứ nhất và
cho rằng luật quốc gia đứng lên trên luật quốc tế và chi phối luật
quốc tế. Cả hai quan điểm này đều phiến diện. Đặt luật hình sự quốc
tể lên trên hay xuống dưới luật hình sự quốc gia đều dẫn đến việc vi
phạm hoặc phủ nhận chủ quyền quốc gia.33
về bản chất, quan hệ giữa LHSQT và LHSQG là quan hệ ảnh
hưởng, tác động lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển; là điều kiện
bảo đảm cho nhau ưong quá trình thực hiện.
32 Pháp luật của nhiều quốc gia thường có quy định: trong trường hợp pháp
luật của quốc gia có quy định khác với các quy định của dieu ước quốc tê mà
quốc gia đó đã ký kết thì áp dụng các quy định của điều ước quốc tế đó (xem
Lucasuk I. I. và Naumob A. V., Sđd, tr. 19).
33 Xem Giảo trình luật quốc tế (1993), Sđd, tr. 21.
Thứ nhất, LHSQT và LHSQG cỏ ảnh hưởng lẫn nhau, thúc
đẩy nhau phát triển
Thực tiễn xây dựng các điều ước quốc tế cho thấy, các nguyên
tắc, quy phạm pháp luật hình sự của các quốc gia có ảnh hưởng quan
trọng đến việc hình thành quy phạm pháp luật hình sự quốc tế. Sự
ảnh hưởng đó thể hiện ở những khía cạnh sau: một số tập quán quốc
tế được hình thành từ những nguyên tắc, quy định phổ biến rộng rãi
trong luật hình sự của các quốc gia (ví dụ như nguyên tắc không truy
cứu hai lần đối với cùng một hành vi phạm tội). Hơn nữa, quan điểm
tiến bộ trong luật hình sự của một số quốc gia có ảnh hưởng mang
tính dẫn dắt đối với việc xây dựng các quy phạm tương ứng của
LHSQT. Ví dụ: các quy định về cấm các hình thức nô lệ và buôn bán
nô lệ nhằm hướng tới việc thủ tiêu chế độ nô lệ ở các quốc gia châu
Mỹ vào thế kỷ XIX đã được ủng hộ tại Hội nghị Berlin năm 1885 và
được thể hiện trong Tuyên bố chung về chống chế độ nô lệ ờ Congo.
Sau này, vào năm 1962, các nước đã ký kết Công ước về chống chế
độ nô lệ.34 Có thể nói, một mặt, LHSQG có ảnh hưởng đến việc xây
dựng quy phạm pháp luật hình sự quốc tế. Mặt khác, các quy phạm
của LHSQT là các chuẩn mực để các quốc gia “cập nhật” pháp luật
của mình. Khi nội luật hóa, LHSQG chuyển tải các nội dung của
LHSQT; do vậy các quy định tiến bộ của LHSQT được chuyển hóa
vào luật quốc gia. Như vậy, LHSQT và LHSQG thâm nhập lẫn nhau,
tác động qua lại, thúc đẩy nhau phát triển.
Thứ hai, LHSQT và LHSQG là điều kiện đảm bảo cho nhau
được thực hiện:
Dựa trên quan niệm về chủ quyền, mỗi quốc gia có quyền tối
cao về hành pháp, lập pháp và tư pháp trong lãnh thổ của mình. Do
đó ưong nhiều trường hợp, luật hình sự quốc tế muốn được thi hành
ưên lãnh thổ quốc gia thì phải được chuyên hóa vào luật quốc gia*
1
7
8
34 Cudrasev V. H., Sđd, tr. 19.
178
(nội luật hóa).35 Nói cách khác, luật hình sự quốc tế được thi hành
trên lãnh thổ quốc gia thông qua luật hình sự của quốc gia.36LHSQG
là điều kiện đảm bảo thi hành cho LHSQT. Mặt khác, trong quá trình
đâu tranh vói tội phạm xuyên biên giới, có những vấn đề mà nếu
không có sự họp tác quốc tế, thì mỗi quốc gia đơn lẻ khó có thể hoặc
không thể giải quyết được một cách hiệu quả. Ví dụ, khi kẻ phạm tội
lẩn trốn ở nước ngoài, hoặc khi hành vi phạm tội diễn ra trên lãnh thổ
của một nước nhưng nhằm xâm hại một nước khác. Trong nhũng
trường hợp đó, việc các quốc gia xây dựng và thực hiện tốt các quy
phạm về hợp tác quốc tế của LHSQT là điều kiện bảo đảm thực hiện
có hiệu quả LHSQG. Như vậy, LHSQT và LHSQG là điều kiện đảm
bảo cho nhau được thực hiện.
1.6. Mối quan hệ giữa LHSQT và các nhánh khác của
luật quốc tế
Do những đặc trưng của LHSQT và do xu hướng liên ngành
ngày càng phát triển mạnh, ngày nay, quan hệ giữa LHSQT và các
nhánh khác của luật quốc tế ngày càng mật thiết. LHSQT có mối liên
hệ mật thiêt với luật quôc tê vê quyên con người, luật tô chức quôc tê,
luật về giải quyết Uanh chấp quốc tế, luật kinh tế quốc tế, luật vê
35 Mỗi quốc gia có cơ chế riêng để thực hiện các quy phạm pháp luật hình sự
quôc tế. Thông thường, luật quốc gia sẽ quy định các điêu kiện mà quy phạm
pháp luật hình sự quốc tế có thể được áp dụng trực tiếp.
36 Xuât phát từ lý do này, trong các điều ước quốc tế vê hình sự, chúng ta
thường gặp điều khoàn xác định các hành vi mà các quốc gia thành viên phải
coi là tội phạm (phải chuyên hóa vào luật quốc gia). Ví dụ: khoản 1 Điêu 3
cùa Công ước chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chât hướng thân vê
Tộiphạm và Hình phạt (Offences and Sanctions) đòi hòi các quôc gia thành
viên phải áp dụng các biện pháp cần thiết để coi các hành vi đã liệt kê íại
khoản này là tội phạm. Điều 5 cùa Công ước chống tôi phạm có tô chức xuyên
quốc gia năm 2000 về Tộiphạm hóa các hành vi tham gia vào một tô chức tội
phạm (Criminalization ofparticipation in an organized criminal group) đòi
hỏi các quôc gia thành viên phải áp dụng biện pháp lập pháp hoặc các biện
pháp khác, nếu cần thiết, để coi hàng loạt các hành vi liệt kê trong điều này là
tội phạm.
179
trách nhiệm pháp lý quốc tế của các quốc gia và tổ chức quôc tê, luật
về biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia... Các quy định trong các
nhánh khác của luật quốc tế giúp thực hiện tốt các mục đích của
LHSQT. Ngược lại, các quy định, giải pháp đưa ra trong LHSQT
cũng giúp bảo đảm thực hiện những mục đích đặt ra trong các nhánh
khác của luật quốc tế. Một trong các ví dụ để minh họa điều này là
bản án của Tòa án Công lý quốc tế của LHQ trong vụ Bosnia
Herzegovina kiện Serbia và Montenegro liên quan đến việc áp dụng
Công ước về việc phòng ngừa và trừng phạt tội diệt chủng. Năm
2007, khi xét xừ vụ việc này, để đưa ra phán quyết của minh, Tòa án
Công lý quốc tế của LHQ đã chấp nhận và sử dụng các tình tiết và
kết luận của Tòa án Hình sự quốc tế Yugoslavia. Qua đó, Tòa Công
lý quốc tế của LHQ ghi nhận tàm quan trọng của việc tôn trọng phán
quyết của Tòa án Hình sự quốc tế Yugoslavia, với tư cách là một
phần trong hệ thống định chế bảo vệ quyền con người của LHQ.
II. TỘI PHẠM THEO QUY ĐỊNH CỦA LHSQT
Xuất phát từ chỗ LHSQT tác động đến nhóm những hành vi
xác định, đặc biệt nguy hiểm đối với cộng đồng quốc tế bị coi là tội
phạm quôc tê và tội phạm có tính chất quốc tế; khái niệm tội phạm
quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Khái niệm này là cơ sở khoa học thống nhất cho việc xác định
ranh giới giữa tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế, tội
phạm có tính chất quốc tế và tội phạm có yếu tố “nước ngoài”,37 là
cơ sở đê nhận thức và áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật
hình sự quôc tê.
37 Theo Giáo trình Luật quốc tế cùa Đại học Luật Hà Nội, khoa học luật quốc
tế có sự phân biệt 03 loại tội phạm: tội phạm quốc tế (tội ác quốc tế); tội phạm
có tính chất quốc tể (tội phạm xuyên quốc gia); tội phạm hình sự chung (xem
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tể (2008), Nxb. Công an
nhân dân, tr. 333). Thực chất, cụm từ “tội phạm hình sự chung” chựa phát
triển thành một khái niệm pháp lý chính thông, nó tạm được sử dụng đê nói vê
các tội phạm quy định trong luật hình sự qụôc gia mà không thuộc loại tội
phạm quốc tế và tội phạm có tính chât quôc tê.
180
2.1. Khái niệm tội phạm quốc tế
Khái niệm tội phạm quốc tế ra đời như là sự phản ứng lại
những hành vi chiến tranh xâm lược; chiếm đóng; hủy diệt loài
người - những hành vi dã man, gây đau khổ cho con người, hủy
diệt cơ sở vật chất của dân cư hòa bình. Cộng đồng quốc tế lên
án những hành vi này và những người đã thực hiện chúng.
Các nhà khoa học đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về
tội phạm quốc tế; nhưng nhìn chung, quan điểm của họ về tội
phạm quốc tế khá thống nhất. Họ đều xuất phát từ thực tế là
những tội phạm này thực sự tồn tại. Những định nghĩa của các
học già trong hệ thống Liên Xô cũ đều xoáy vào mô tả khách
thể xâm hại của TPQT để qua đó làm rõ tính đặc biệt nguy hiểm
của loại tội phạm này đối với cộng đồng loài người trên thế
giới.38
Tuy nhiên, những định nghĩa này chưa thể hiện được một
đặc điểm quan trọng liên quan đến tội phạm quốc tế, đó là trách
nhiệm hình sự đối với việc thực hiện tội phạm quốc tế phát sinh
không phụ thuộc vào nơi tội phạm được thực hiện. Bât cứ quôc
gia nào - không phụ thuộc vào việc tội phạm quốc tế có được
thực hiện trên lãnh thổ quốc gia đỏ hay không, người phạm tội
có phải là công dân của quốc gia đó hay không, tội phạm có
xâm hại đến lợi ích của quốc gia đó hay không, nạn nhân có
phải là người của quốc gia đó hay không - đều có thê thực hiện
việc điều tra, truy tổ, xét xử người phạm tội trên cơ sở của pháp
38 Ví dụ: Levin D.B. xem tội phạm quốc tế là nhũng hành vi xâm hại đến tự
do của các dân tộc yêu chuộng hòa bình, xâm hại đến lợi ích của toàn bộ nhân
dân tiến bộ, xâm hại đến cơ sở nền tảng của cộng đồng quốc tế, lợi ích cùa tât
cả các quốc gia. Romaskin p.c. coi tội phạm quốc tế là những hành vi xám
hại cơ sở nên tảng của các quan hệ quốc tê. Lazarev M.I. coi tội phạm quôc tê
là những tội phạm xâm hại sự độc lập cùa mỗi dân tộc và quan hệ hòa bình
giữa các dân tộc. Modjorian L.A. coi những tội phạm này là các hành vi xâm
hại trực tiếp đến sự tồn tại của các quốc gia, các dân tộc. Trainin A.H. xem tội
phạm quốc tế là những tội phạm chống loài nơirời, xâm hại cơ sở tồn tại và
phát triên của các quốc gia, dân tộc. Carpetx 1. 1., Sđil tr. 31-2.
181
luật quốc tế. Bên cạnh tòa án quốc gia, tòa án hình sự quốc tế
cũng có thẩm quyền xét xử loại tội phạm này. Từ góc độ này,
các học giả khác đã chỉ ra những đặc điểm của tội phạm quốc
tế gồm: tội phạm quốc tế là những hành vi đặc biệt nguy hiểm
đối với cộng đồng quốc tế39 và tội phạm quốc tế có thể được
điều tra, truy tố, xét xử bởi quốc gia hoặc cơ quan quốc tế.40
Như vậy, nhìn chung, các khái niệm về tội phạm quốc tế
đã nêu đều thể hiện một bản chất, đó là tội phạm quốc tế là
những hành vi đặc biệt nguy hiểm, xâm hại hòa bình và an
ninh quốc tế, có thể bị xét xử bởi quốc gia hoặc tòa án hình sự
quốc tế theo các quy định của pháp luật quốc tế.
39 Xem Morten Bergsmo, International criminal jurisdictions (2008)
<http://www.uio.no/studier/emner/jus/jus/JUR5710/h08/undervisningsmateria
le/Bergsmo.ppt.pdf> at 20 April 2009. Antonio Cassese coi tội phạm quốc tế
là những hành vi thỏa mãn các điêu kiện sau: (i) đó là những vi phạm đối với
các quy phạm tập quán quôc tế (chúng cũng bao gồm cả vi phạm đối với các
quy phạm điều ước quốc tế nếu những quy phạm đó pháp điển hóa hoặc giải
thích rõ hơn các tập quán quôc tê hoặc đóng góp vào việc hình thành các tập
quán quôc tế); (ii) những quy phạm đã nêu bảo vệ những giả trị được toàn bộ
cộng đồng quốc tế coi là quan trọng và những quy phạm đó có hiệu lực ràng
buộc đối với tât cả các quôc gia cũng như các cá nhân. Những giả trị này
không do các học giả hoặc các nhà triêt lý đê xuât mà được ghi nhận trong
hàng loạt các vãn bản quôc tế; (iii) toàn bộ cộng đồng quốc tế quan tâm đến
việc đấu tranh với loại tội phạm này. Trong những điều kiện quy định, mọi
quốc gia đều có quyền truy cứu và xét xử người phạm tội theo luật pháp quốc
tế; (iv) cuối cùng, nếu người phạm tội thực hiện tội phạm trên cơ sở vị trí
chức vụ, thì nhà nước mà người này phụng sự không được đòi hỏi quyền miễn
trừ dân sự và hình sự đối với người phạm tội, kề cả khi người phạm tội là
người đứng đầu nhà nước, bộ trưởng bộ ngoại giao hay các cán bộ đại sứ/lãnh
sự. Xem Antonio Cassese, Bđd. Với những dấu hiệu đã nêu, Antonio Cassese
liệt kê tội phạm quốc tế bao gồm: tội phạm chiến tranh, tội diệt chủng, tội
chống loài người, tội tra tấn dã man, tội chiên tranh xâm lược và một số hành
vi khủng bố quốc tế.
40 Xem Antonio Cassese, Bđd. Với những dâu hiệu đã nêu, Antonio Cassese
liệt kê tội phạm quốc tế bao gồm: tội phạm chiến tranh, tội diệt chủng, tội
chống loài người, tội tra tấn dã man, tội chiến tranh xâm lược và một số hành
vi khùng bố quốc tê.
182
Quy chế Tòa án Quân sự Nuremberg được coi là văn bản
pháp luật quốc tế đầu tiên pháp điển hóa các tội phạm quốc tế.
Theo Điều 6 của Quy chế này, tội phạm quốc tế bao gồm: tội
phạm chống hòa bình, tội phạm chiến tranh và tội phạm chống
loài người. Sau đó, với Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội
diệt chủng năm 1948, tội phạm quốc tế đã được mở rộng, bao
gồm tội diệt chủng. Hiện nay, theo Điều 9 Phần II của Quy
chế Tòa án Hình sự quốc tế năm 1998, thì tội phạm quốc tế
bao gồm: tội phạm diệt chủng, tội phạm chống loài người, tội
phạm chiến tranh và tội phạm xâm lược.
2.2. Khái niệm tội phạm có tính chất quốc tế
Bên cạnh các tội phạm quốc tế như đã phân tích ở trên,
LHSQT còn tác động đến một nhóm tội phạm khác, mà các
học giả, các nhà nghiên cứu gọi là tội phạm có tính chất quốc
tế hay tội phạm xuyên quốc gia hay tội phạm điều ước. Trong
lĩnh vực khoa học nghiên cứu về LHSQT, việc đạt đến một
khái niệm thống nhất là tương đối khó khăn; bời vì xuất phát
từ những nền tảng xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa khác
nhau, trình độ và nhận thức pháp lý cũng khác nhau. Chính vì
vậy, việc tồn tại nhiều tên gọi khác nhau đối với nhóm tội
phạm này là một điều dễ hiểu. Trong sổ các tên gọi đã nêu, tên
gọi “tội phạm xuyên quốc gia” đang ngày càng được sử dụng
rộng rãi trên thế giới. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý răng các tài
liệu khoa học trước đây của Nga và các nước trong Liên bang
Xô viết cũ thường gọi nhóm tội phạm này là “tội phạm có tính
chất quốc tế”. Một số tài liệu của Việt Nam hiện nay vẫn sử
dụng khái niệm “tội phạm có tính chất quốc tế”.
Các chuyên gia về LHSQT đều cho rằng tội phạm quốc
tế và tội phạm có tính chất quốc tể khác nhau sâu sắc về tính
183
phi nghĩa và sự nguy hiểm cho cộng đồng loài người.41 Các
định nghĩa đâu tiên về tội phạm có tính chất quốc tế cũng tập
trung vào việc làm rõ khách thể xâm hại của loại tội phạm này
đê qua đó chỉ ra sự khác biệt của loại tội phạm này với tội
phạm quôc tê. Tuy ngôn ngữ sử dụng khác nhau, nhưng nhìn
chung các định nghĩa này đều cho ràng tội phạm có tính chất
quốc tế xâm hại quan hệ bình thường giữa các quốc gia, xâm
hại trật tự pháp luật của các quôc gia.42
Trong một báo cáo của ủy ban Thư ký LHQ về điều tra
hoạt động của các hệ thông tư pháp hình sự liên quan đến tội
phạm có tính chất quốc tế, tội phạm có tính chất quốc tế được
xác định là “những tội phạm mà việc thực hiện, hoạt động
phòng ngừa và/hoặc hậu quà trực tiếp hoặc gián tiếp của
chúng liên quan đên nhiêu hơn một quốc gia”.43 Định nghĩa
này đã làm rõ tính “xuyên quôc gia” của loại tội phạm này
41 Blum M.U. coi nhóm tội phạm này là tội phạm xâm hại trật tụ pháp luật
quốc tệ. Ông viết: “tội phạm quốc tế và tội phạm xâm hại trật tự pháp luật
quốc tế khác nhau sâu sắc vê tính phi nghĩa, tính nguy hiểm cho số phân hòa
bỉnh của nhân loại”. Xem Carpetx I. I, Sđd, tr. 43.
42 Ví dụ, Giáo sư Cartpetx J.I. định nghĩa: “Tội phạm có tính chất quốc tế là
những hành vi được quy định trong các điều ược quốc tế, không thuộc nhóm
tội phạm chống loài người, nhưng xâm hại đến sự phát triển quan hệ bình
thườnẹ giữa các quốc gia, gâỵ tôn hại cho sự hợp tác quốc tế ở các lãnh vực
kinh tế, văn hóa, xã hội, tài^sản cùa các quốc gia cũng như các tổ chức công
dân và bị trừng phạt theo điêu ược quôc te được phê chuẩn theo trình tự chung
hoặc theo các qụy đinh cua phap luật hình sự quốc gia phù hợp với những
điều ước quốc tế nàỵ”(xem Carpetx I. I, Sđd, tr48. Định nghĩa này cua GS
Cartpetx được một số học giả ùng hộ và sử dụng trong các tài liệu nghiên cứu
của họ, ví dụ: xem Lucasuk I. I. vậ Naumob A. V., Luật hình sự quốc tế 0Sđd),
tr. 102). Theo Gardoski, khách thê xâm hại cùa các tội phạm có tính chất quốc
tế là trật tự pháp luật của quốc gia, lợi ích cùa cộng đồng quốc tế (Xem Giáo
trình Luật quốc tế (2008), Sđd, tr. 334 và 336 vắ Nguyễn Thị Thuạn Sđd tr.
43.).
43 “Results of the supplément to the Fourth United Nations Survey of Crime
Trends and Operations of Criminal Justice Systems on Transnational Crime
(Intérim report by the Secrétariat),” United Nations
April 4, 1995.
184
(nghla la lien quan den hai quoc gia trd len). Tuy nhien, djnh
nghia nay chua phan anh du cac dac diem cua loai toi pham
nay. Co the thay rang toi pham quoc te cung lien quan den hai
quoc gia trd len, va cung thoa man djnh nghia da neu.
Toi pham co tinh chat quoc te xam hai d6n trat tu phap
luat cua cac quoc gia, anh hudng tieu cue d£n ddi song cua
cong dong quoc te nhung khong den miic nghiem trong nhu
toi pham quoc te; do vay quyen tai phan doi vdi loai toi pham
nay chi thuoc ve toa an quoc gia. Cac toa an hinh sir quoc te
khong xet xu cac toi pham co tinh chat qu6c td. Xuat phat tir
su khac biet nay, mot so hoc gia da chi ra cac dac diem cua toi
pham co tinh chat quoc te nhu sau: toi pham co tinh chat quoc
te la nhung hanh vi duac toi pham hoa mot each quoc te; toi
pham co tinh chat quoc t! dugc dieu tra, truy t6, xet xu bdi
quoc gia; cac quoc gia khong truy to toi pham co nghia vu dan
do nguai pham toi.44 Voi dac dilm “duac toi pham hoa mot
each quoc te”, cac toi pham co tinh chat qude t6 dugc ghi nhan
trong cac dieu uac quoc ti; do vay tdt ca cac qu6c gia thanh
vien cua dieu uac do phai quy dinh trong luat hinh su cua ho
la toi pham. Day cung chinh la mot didm khac biet giua tgi
pham co tinh chat quoc te vdi toi pham noi chung; bdi vi xuat
phat tir su khac biet ve kinh te, van hoa, chinh tri, xa hoi; mot
hanh vi bi coi la toi pham d nude nay co thl khong b} coi la toi
pham d nude khac.
Tir nhung phan tich da neu co the thiy: toi pham co tinh
chat quoc te la nhung hanh vi nguy hiem, xam hai trat tu phcip
luat cua cac quoc gia, duac quy dinh trong cac diiu ifoc quoc
te va bi trung phat bdi quoc gia theo cac quy dinh cua luat
hinh su quoc gia phii hqp vdi nhung diiu ude nay.
44 Morten Bergsmo, International criminaljurisdictions (2008)
<http://www.uio.no/studier/emner/jus/jus/JUR5710/h08/undervisningsmater'a
le/Bergsmo.ppt.pdf> at 20 April 2009.
185
2.3. Phân biệt tội phạm quốc tế vói tội phạm có tính chất
quốc tế
Các nhà nghiên cứu phân biệt tội phạm quốc tế và tội
phạm có tính chất quốc tế theo nhiều tiêu chí khác nhau. Một
số nguời cho ràng sụ khác nhau cơ bản giữa tội phạm quốc tế
và tội phạm có tính chất quốc tế là mức độ nguy hiểm của các
loại tội phạm này. So với tội phạm có tính chất quốc tế, tộỉ
phạm quốc tế có mức độ nguy hiểm cao hơn vì chúng xâm hại
đến hòa bình và an ninh quốc tế.45 Có quan điểm cho rằng hai
loại tội phạm này khác nhau ở khách thể xâm hại và sụ hiện
diện của nhà nuớc trong việc thục hiện tội phạm, về khách
thể, tội phạm quốc tế xâm hại đến cơ sở tồn tại của xã hội loài
nguời; trong khi tội phạm có,tính chất quốc tế xâm hại đến
những khách thể thuờng gặp trong luật hình sụ quốc gia, ví dụ
nhu: quan hệ sở hữu, tính mạng, sức khỏe của con nguời trong
tội cuớp biển.46 Ngoài ra, tội phạm quốc tế thuờng đuợc thục
hiện bởi những cá nhân mà hành vi của họ là hành vi của nhà
nuớc hay đứng sau họ là nhà nuớc. Nói cách khác, đa số tội
phạm quốc tế đuợc thục hiện với sụ tham gia trục tiếp hoặc
gián tiếp của nhà nuớc. Sụ tham gia cùa nhà nuớc trong việc
thục hiện tội phạm quốc tế có thể là trục tiếp, nghĩa là khi tội
phạm đuợc thực hiện bởi nguời đứng đầu nhà nuớc hoặc
những nguời đại diện cho các cơ quan của nhà nuớc. Sự tham
gia của nhà nuớc trong việc thực hiện tội phạm quốc tế cũng
có thê là gián tiêp, nghĩa là khi nhà nuớc dung túng cho việc
45 Tuy nhiên, không phải tất cả các học giả đều đồng ý với quan điểm này vì
họ cho răng nêu xét theo tiêu chí này thì sẽ không có ranh giới rõ ràng giữa
hai phạm trù đã nêu. Ví dụ tội phạm khủng bô, buôn bán bất hợp pháp ma túy
và các chất hướng thần, buôn bán người... cũng rất nguy hiểm. Hon nữa, có
thể xuất hiện những hành vi mọi bị coi là tội phạm quốc tế và những tội phạm
xuyên quốc gia có thê thay đôi mức độ nguy hiểm, từ nhóm tội phạm này
chuyển sang nhóm tội phạm khác.
46 Xem Blisenco I. P. và Fixenco I. p., Sđd, tr. 31.
186
thực hiện tội phạm, không áp dụng những biện pháp trong
thẩm quyền của mình để ngăn chặn tội phạm.
Tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế khác
nhau ở khách thể xâm hại, hình thức pháp lý, thẩm quyền tài
phán và luật áp dụng để xét xử. Cụ thể, đối với tội phạm quốc
tế, khách thể mà loại tội phạm này xâm hại là hòa bình và an
ninh quốc tế. Các tội phạm này đuợc xác lập trong các tập
quán quốc tế và các điều ước quốc tế pháp điển hóa hoặc giải
thích rõ hơn các quy phạm tập quán quốc tế. Tòa án quốc gia
hoặc tòa án hình sự quốc tế có thẩm quyền tài phán đối với
loại tội phạm này và luật áp dụng để xét xừ là luật hình sự
quốc tế hoặc luật hình sự của quốc gia liên quan. Đổi với tội
phạm có tính chất quốc tế, khách thể mà loại tội phạm này
xâm hại là trật tự pháp luật của các quốc gia. Các tội phạm này
được quy định trong các điều ước quốc tế. Quyền tài phán đối
với các tội phạm có tính chất quốc tế chỉ thuộc về tòa án quốc
gia và luật áp dụng là luật hình sự quốc gia phù hợp với các
điều ước quốc tế quy định về những tội phạm này.
III. TRÁCH NHIỆM HÌNH s ự QUÓC TÉ CỦA CÁ
NHÂN ĐÓI VỚI TỘI PHẠM QUỐC TÉ
3.1. Sơ lược về lịch sử phát triển của chế định trách
nhiệm hình sự quốc tế của cá nhân đối vói tội phạm quốc tê
Trước Chiến tranh thế giới lần thứ II, vấn đề trách
nhiệm hình sự quốc tế của cá nhân đã được đề cập nhiều lần
trong khuôn khổ hợp tác quốc tế đa phương và toàn cầu,
nhưng không đạt được kết quả. Cụ thể là sau Chiến tranh thế
giới lần thứ I, các nước đã ký kết Hiệp ước hòa bình Versailles
ngày 28/6/1919, trong đó buộc tội Hoàng đế Đức William đệ
nhị đã thực hiện những tội phạm xâm hại đạo đức quốc tế và
hiệu lực của các điều ước quốc tế. Hiệp ước ghi nhận việc
thành lập tòa án để xét xử Hoàng đế William đệ nhị với 5
thẩm phán do Mỹ, Anh, Pháp, Ý và Nhật Bản đề cử và yêu cầu
187
Đức phải chuyên giao vị Hoàng đế này cho tòa án. Hiệp ước
hòa bình Versailles 1919 cũng cho phép các nước thắng trận
được quyên kêt án các cá nhân thực hiện tội phạm chiến tranh.
Tuy nhiên, trên thực tê, tòa án đã không thành lập được,
Hoàng đê này đã không bị kết án (ông được Hà Lan cho tỵ nạn
chính tri) và những người thực hiện tội phạm chiến tranh được
xét xử rât khoan hông.47 Trong thời gian diễn ra Chiến tranh
thê giới lân thứ II, băng Tuyên bố Moscow năm 1943, các
cường quôc trong khôi đông minh chống phát xít đã khẳng
đinh trách nhiệm hình sự quôc tế của các cá nhân thực hiện tội
ác chiến tranh thuộc khối trục phát xít. Trong Tuyên bố này,
Liên Xô, Mỹ và Anh thay mặtvcho 32 quốc gia chống phát xít
tuyen bo: cac thành viên lực lượng vũ trang của nước Đức và
thành viên đảng quôc xã phải gánh chịu trách nhiệm đối với
việc thực hiện các tội ác dã man hoặc tham gia vào việc thực
hiện các tội ác này, họ phải bị dẫn độ về quốc gia nơi thực
hiện tội phạm đê xét xử theo luật của quốc gia đó. Tuyên bố
này cũng ghi nhận việc kết án các cá nhân phạm tội nghiêm
trọng dựa trên luật quôc tế. Đây là các trường hợp mà hành vi
tội ác không giới hạn trên phạm vi lãnh thổ một quốc gia. Mức
án sẽ được xác định bời một quyết định chung của chính phủ
các quốc gia đồng minh chống phát xít.
Hiệp ước Postdam năm 1945 đã chấp nhận các nguyên
tăc của Tuyên bô Moscow và quy định nghĩa vụ của các quốc
gia thành viên phải thông báo danh sách bị cáo trước ngày
01/09/1945. Dựa trên cơ sở của Tuyên bố Moscow và Hiệp
ước Postdam. ngày 08/08/1945, Anh, Pháp, Mỹ và Liên Xô đã
ký Hiệp ước London về trừng trị các cá nhân thuộc khối trục
phát xít thực hiện chiến tranh tại châu Ảu. Đây là văn bản
47 Gerhald Werle, Principles of International Criminal Law (second edition),
T.M.C Asser Press, 2009, tr. 4-5 và Nguyên Thị Thuận, Sđd, tr. 220-1.
188
pháp lý quốc tế thành lập Tòa án Quân sự Nuremberg năm
1945. Tòa án Nuremberg đã kết án và buộc những cá nhân đã
thực hiện các tội phạm chiến tranh, tội phạm chống loài người
và tội phạm chống hòa bình phải gánh chịu trách nhiệm hình
sự. Sự kiện này là một dấu mốc quan trọng trong chế định
trách nhiệm hình sự quốc tế của cá nhân.
Sau Tòa án Nuremberg, một số công ước quốc tế đã
được ký kêt, mở rộng phạm vi họp tác quốc tế trong việc đấu
tranh với các tội phạm quốc tế, ví dụ Công ước về ngăn ngừa
và trừng trị tội diệt chủng năm 1948, Công ước về chống phân
biệt chủng tộc năm 1965. Năm 1973, LHQ đã thông qua Nghị
quyết 3047 (XXVIII) ghi nhận các nguyên tắc hợp tác quốc tế
trong vân đê truy tìm và trừng phạt các cá nhân thực hiện tội
phạm chiên tranh và tội phạm chông nhân loại.
Trong xu thế đó, năm 1993, Hội đồng Bảo an LHQ đã
thông qua Nghị quyết số 827 thành lập tòa án hình sự quốc tê
xét xử các cá nhân có hành vi xâm hại nghiêm trọng luật nhân
đạo quôc tê thực hiện trên lãnh thổ Yugoslavia. Năm 1994,
bằng Nghị quyết số 995, Hội đồng Bào an LHQ đã thành lập
tòa án hình sự quốc tế để truy tố và xét xử các cá nhân thực
hiện tội phạm diệt chủng và có các hành vi khác xâm phạm
luật nhân đạo quốc tế thực hiện trên lãnh thổ Rwanda. Căn cứ
vào hai nghị quyết này, Tòa án Hình sự quốc tế Yugoslavia
được thành lập năm 1993 và Tòa án Hình sự quốc tế Rwanda
được thành lập năm 1994. Thành công gần đây nhất cùa cộng
đồng quốc tể là việc thành lập Tòa án Hình sự quốc tế thường
trực tại La Haye (Hà Lan). Tòa án này có thẩm quyền xét xử
đôi với các cá nhân thực hiện tội phạm chiến tranh, tội phạm
chống loài người, tội phạm diệt chủng và tội phạm xâm lược.
Chủ thê của trách nhiệm hình sụ quốc tế là cá nhân - con
người cụ thê đã thực hiện tội phạm. Tương tự như trong luật
189
pháp của tất cả các quốc gia,48 luật hình sự quốc tế cũng xác
định độ tuổi tối thiểu của những cá nhân phải gánh chịu trách
nhiệm hình sự quốc tế. Điều 26 của Quy chế Tòa án Hình sự
quốc tế năm 1998 quy định: “Tòa án này không có thẩm quyền
xét xử đối với những người dưới 18 tuổi vào thời diêm thực
hiện tội phạm". Điều này có nghĩa là chỉ những cá nhân từ đủ
18 tuổi trở lên, xét vào thời điểm thực hiện tội phạm, mới có
thể bị Tòa án này buộc gánh chịu trách nhiệm hình sự quốc tế.
3.2. Các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự đối
với tội phạm quốc tế
Các nguyên tắc về trách nhiệm hình sự được thừa nhận
rộng rãi trong pháp luật hình sự của các quốc gia đều được ghi
nhận và áp dụng trong việc xác định trách nhiệm hình sự đối
với tội phạm quốc tế, ví dụ: nguyên tắc hành vi; nguyên tắc cỏ
lỗi; nguyên tắc trách nhiệm cá nhân; nguyên tắc cá thể hóa
trách nhiệm.49
Ngoài ra, LHSQT còn quy định một số nguyên tắc đặc
thù trong việc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm
quốc tế, như: nguyên tắc “vị trí chức vụ của cá nhân không
giải phóng cá nhân khỏi trách nhiệm hình sự và vị trí chức vụ
của cá nhân cũng không được xem là tình tiết giảm nhẹ trong
quyết định hình phạt”; nguyên tắc “trách nhiệm hình sự của
người chỉ huy hay người có chức vụ cao”.50
Liên quan đến vấn đề trách nhiệm hình sự đối với tội
phạm quốc tế, cần đề cập đến các nguyên tắc của LHSQT về
loại trừ trách nhiệm hình sự. Tương tự như luật hình sự của
nhiều quốc gia, LHSQT quy định các căn cứ loại trừ trách
nhiệm hình sự của cá nhân đôi với việc thực hiện một tội
48 Theo Kibalnhik, không ỡ đâu là không quy định giới hạn độ tuổi phải chịu
trách nhiệm hình sự. Xem Kibalnhik A. G., Sđd, tr. 30.
49 Cudrasev V. H., Sđd, tr. 63. , ,
50 Xem các nguyên tắc này trong mục 1.3 vê các nguyên tăc cùa LHSQT.
190
phạm quốc tế gồm: phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, bị
bệnh tâm thần, bị say/nhiễm độc.
Điều 31 Phần III (Các ngnvên tắc chung của luật hình
sự) của Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế năm 1998 quy định
cụ thể các căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự như sau:
- Phòng vệ chinh đáng: một người hành động hợp ỉý để
bảo vệ mình hoặc một người khác, hoặc trong trường hợp tội
phạm chiến tranh, để bảo vệ tài sản thiết yếu cho sự sống của
người đó hoặc người khác, hoặc tài sản thiết yếu cho việc thực
hiện nhiệm vụ quân sự; chổng lại việc sử dụng vũ lực một
cách bất hợp pháp và ngay lập tức, một cách tương xứng với
mức độ nguy hiểm đang đe dọa người đó, người khác hoặc tài
sản được bảo vệ.
- Tình thế cấp thiết: một người thực hiện hành vi do: (i)
có sự đe dọa ngay lập tức về cái chết đối với người đó hoặc
người khác; (ii) có sự đe dọa bị xâm hại nghiêm trọng ngay
lập tức cơ thê người đó hay người khác hoặc đe dọa tiêp tục bị
xâm hại nghiêm trọng cơ thể người đó hay người khác; và
người đó hành động một cách cần thiết và hợp lý để tránh sự
đe dọa này với điều kiện là người đó không định gây ra một
thiệt hại lớn hơn thiệt hại mà người đó tránh. Sự đe dọa có thê
là do người khác thực hiện hoặc những hoàn cảnh/điêu kiện
nằm ngoài sự kiểm soát của người đó.
- Bị bệnh tâm thần: một người bị bệnh tâm thần hoặc bị
khuyết tật mà không có khả năng nhận thức tính hợp pháp hoặc bàn
chất của hành vi của mình hoặc không có khả năng kiểm soát hành
vi của mình để phù hợp với yêu cầu của pháp luật.
- Bị say/nhiềm độc: một người ở trong tình trạng
say/nhiễm độc và không có khả năng nhận thức tính hợp pháp
hoặc bản chất của hành vi của mình hoặc không có khả năng
191
kiểm soát hành vi của mình để phù hợp với yêu cầu của pháp
luật. Không loại trừ trách nhiệm hình sự đối với trường hợp
một người tự nguyện để mình bị say/nhiễm độc trong những
hoàn cảnh mà người đó biêt, hoặc bỏ qua những sự nguy hiêm;
và với kết quả của việc bị say/nhiễm độc, người này đã thực
hiện tội phạm.51
về các hình thức của trách nhiệm hình sự quốc tế của
cá nhân, các công ước đấu tranh với tội phạm quốc tế phân
biệt 4 hình thức trách nhiệm hình sự quốc tế gồm: (i) tử
hình,52 (ii) phạt tù, (iii) phạt tiền, và (iv) tịch thu tài sản do
phạm tội mà có. Trong đó, phạt tiền và tịch thu tài sản là
những hình thức bổ sung, có'thể áp dụng cùng với phạt tù
(tạm gọi là hình phạt bổ sung), về hình phạt tù, theo quy
định tại Quy chế Tòa án hình sự quốc tế năm 1998, có hai
mức có thể áp dụng: (i) tù có thời hạn với mức tối đa là 30
năm, và (ii) tù chung thân.53 về phạt tiền, Quy chế không ấn
định các mức cụ thể, tòa án định đoạt mức phạt phù hợp với
các quy tắc tố tụng ghi nhận tại Quy chế về thủ tục và chứng
cứ {Rules o f Procedure and Evidence).
IV. THẨM QUYỀN XET x ử TỘI PHẠM THEO
LHS QT
Tội phạm quốc tế (hay còn gọi là tội ác quốc tế) được
coi là có mức độ nghiêm trọng hơn tội phạm có tính chất quốc
tế, vì vậy LHSQT đã phân hóa những quy định khác nhau về
thẩm quyền xét xử đối với hai nhóm tội phạm này.
51 Cần luu ý là trong quá trình xét xử Tòa án có thể áp dụng những căn cứ loại
trừ trách nhiệm hình sự khác nhưng phải tuân thù các quỵ định về áp dụng
luật và các quy định về quy tắc tố tụng. Xem khoản 3 Điều 31 Phần III cùa
Quy chế Tòa án Hình sự qụốc tế năm 1998. _
5- Lưu ý là trong Ọuy chế tòa án hình sự quôc tế năm 1998 không còn quy
định hình phạt từ hình (xem Điều 77 cùa Quy chê này).
53 Xem khoản 1 Điều 77 cùa Quy chế tòa án hình sự quốc tế năm 1998.
192
4.ỉ. Thẩm quyền xct xử tội phạm quốc tế
Thông thường, một quốc gia xác lập quyền tài phán hình
sự đối với tội phạm căn cứ vào những mối liên hệ nhất định
giữa quốc gia với tội phạm. Ví dụ: quốc gia xác lập quyền tài
phán đối với tội phạm vì: (i) tội phạm xảy ra trên lãnh thổ của
quôc gia đó (nguyên tăc lãnh thô, còn gọi lờ nguyên tăc lãnh
thô chủ động); (ii) vì người phạm tội là công dân của quôc gia
đó {nguyên tẳc quốc tịch chù động); (iii) vì nạn nhân là công
dân của quốc gia đó {nguyên tắc quốc tịch bị động); (iv) vì tội
phạm xâm hại lợi ích của quốc gia đó hoặc hướng đên xâm hại
lợi ích của quốc gia đó {nguyên tắc an ninh quôc gia hay còn
gọi là nguyên tắc bị xâm hại hay nguyên tăc lãnh thô bị động).
Trước đây, theo truyền thống, các quốc gia không xác
lập quyên tài phán đối với tội phạm nêu không có bât cứ một
trong những mối liên hệ nào với tội phạm như liệt kê trên đây.
Tuy nhiên, vì tội phạm quốc tế là loại tội phạm đặc biệt nguy
hiêm, xâm hại nghiêm trọng đến quyên lợi sông còn của cộng
đông quốc tế, đe dọa an ninh và hòa bình thế giới; cho nên các
quốc gia đã thấy rõ sự cần thiết phải đưa những kẻ phạm tội ra
trước công lý, trừng phạt và răn đe để phòng ngừa chung. Với
khẳng định về trừng trị các tội phạm quốc tế, trong các điêu
ước quốc tế liên quan, các quốc gia đã xâv dựng một căn cứ
mới để xác lập quyền tài phán đối với tội phạm quôc tê, đó là
nguyên tẳc thầm quyền phổ cập {universaljurisdiction).
Theo nguyên tắc này, tất cả các quốc gia liên quan đêu
có quyền sử dụng các biện pháp cần thiết đê xác lập thâm
quyên xét xử hình sự đối với tội phạm quôc tê mà không cân
viện dẫn đến nguyên tắc lãnh thổ hoặc nguyên tắc quôc tịch
(chủ động hoặc bị động) hoặc nguyên tắc an ninh quôc gia.
Nguyên tắc phổ cập cho phép quốc gia, nơi người phạm tội
đang hiện diện, thực hiện quyền tài phán đôi với người phạm
tội, nếu không dẫn độ người phạm tội
193
Ngoài việc một quốc gia cụ thể có thể xác lập quyên tài
phán đối với tội phạm quốc tế; các quốc gia còn thống nhât
với nhau về việc thành lập các tòa án quốc tế để xét xử những
tội phạm này. Tòa án Hình sự quốc tễ có thể được thành lập
theo vụ việc (ad hoc), như Tòa án Quân sự Nuremberg, Tòa án
Hình sự quốc tế Yugoslavia và Rwanda.
Năm 1998, các quốc gia thống nhất thành lập Tòa án
Hình sự quôc tế thường trực có trụ sở đóng tại La Haye (Hà
Lan). Tòa án này có thẩm quyền xét xử đối với tội phạm chiến
tranh, tội phạm diệt chủng, tội phạm chống loài người, tội
phạm xâm lược. Tòa án có thể xác lập và thực hiện quyên tài
phán đôi với vụ việc khi:
- Vụ việc do một nước thành viên chuyển đến công tố
viên hoặc do công tô viên trực tiêp khời xướng điêu tra; và
một hoặc một số quốc gia liệt kê dưới đây là thành viên của
Qụy chê hoặc tuy không là thành viên của Quy chế nhưng
chấp nhận quyên tài phán của Tòa án:
+ Quốc gia nơi có tội phạm xảy ra (nghĩa là tội phạm
xảy ra trên lãnh thô của quôc gia đó, hoặc tội phạm xảy ra trên
tàu biên hoặc tàu bay đăng ký tại quốc gia đó);
+ Quốc gia mà người phạm tội là công dân.
- Vụ việc do Hội đồng Bảo an LHQ chuyển đến công tố
viên theo quy định tại Chương 7 của Hiến chương LHQ.54
Trên thực tế, từ sau Chiến tranh thế giới thứ II đến nay,
một số tòa án hình sự quốc tế và tòa án hình sự quốc gia đã xét
xử tội phạm quốc tế.
4.2. Thẩm quyền xét xử tội phạm có tính chất quốc tế
Khác với tội phạm quốc tế, tội phạm có tính chất quốc tế
không phải là đối tượng giải quyêt tại các tòa án hình sự quốc
tế. Nhóm tội phạm này hoàn toàn thuộc quyên tài phán hình sự*
1
9
4
54 Xem Điều 13, 14 Quy chế tòa án hình sự quốc tế 1998.
194
của quốc gia. Toàn bộ quá trình xét xử được tiến hành tại tòa
án quốc gia có thẩm quyền và theo pháp luật quốc gia. Tuy
nhiên, xuất phát từ tính chất nguy hiểm của nhóm tội phạm
này, các điều ước quốc tế đã xây dựng một số quy định yêu
câu các quôc gia liên quan phải xác lập quyên tài phán đôi với
tội phạm, trường hợp không xác lập quyên tài phán đôi với tội
phạm thì phải dẫn độ người phạm tội để quốc gia khác thực
hiện việc xét xử {aid dedere aid judicare). Điêu này cho thây
răng các điêu ước quốc tế đấu tranh với các tội phạm có tính
chất quốc tế đã cổ gắng đưa ra những quy định nhằm bảo đảm
công lý được thực hiện một cách trọn vẹn và đây đủ, tội phạm
phải bị trừng trị cho dù được thực hiện ở nơi nào, ai là người
thực hiện, nhàm chống lại quốc gia hoặc cá nhân nào.
Nhìn chung, các điều ước quốc tế đấu tranh với tội
phạm có tính chất quốc tể viện dẫn các nguỵên tăc sau đây đê
yêu cầu các quốc gia liên quan xác lập quyến tài phán đối với
tội phạm:
4.2.1. Nguyên tắc lãnh thỏ
Nguyện tấc lãnh thổ đã hình thành lâu đời trong tập
quán quốc tế và được thừa nhận rộng rãi; nó phản ánh mối liên
hệ rõ rệt nhât giữa quốc gia với tội phạm, phản ánh chủ quyên
quốc gia. Vì vậy, nguyên tắc này thường được viện dẫn đầu
tiên trong các điều ước quốc tế đấu tranh với tội phạm có tính
chất quốc tế, và được coi là căn cứ mà các quốc gia buộc phải
xác lập quyền tài phán đối với tội phạm (mandatory
jurisdiction).
Theo nguyên tắc này. các quốc gia mà tội phạm thực hiện
trên lãnh thô của họ phải thực hiện những biện pháp cân thiêt đê
xác lập quyền tài phán đối với tội phạm, vấn đê "như thê nào
được coi là tội phạm thực hiện trén lãnh thổ cùa qụốc giạ” sẽ được
giải thích theo pháp luật quốc gia. Đối với nhiều quốc gia, tội
phạm được coi là thực hiện trên lãnh thổ của họ khi một trong các
giai đoạn của tội phạm thực hiện trên lãnh thô của quôc gia đó (kê
cả lãnh thô mở rộng như tàu bay, tàu biên).
195
4.2.2. Nguyên tắc quốc tịch chủ động
Nguyên tắc quốc tịch chủ động cũng đã hình thành lâu
đời, dựa trên mối quan hệ pháp lý giữa quốc gia và người thực
hiện tội phạm. Nguyên tắc này đã được thừa nhận rộng rãi, do
vậy cũng được ghi nhận trong các điều ước đấu tranh với tội
phạm có tính chất quốc tế.
Theo nguyên tẳc này, các quốc gia mà người thực hiện
tội phạm là công dân có thể thực hiện những biện pháp cần
thiết để xác lập quyền tài phán đối với tội phạm (trong nhiều
trường hợp việc áp dụng nguyên tắc này mở rộng đến quốc gia
mà người thực hiện tội phạm thường trú).
4.2.3. Nguyên tắc quốc tịch bị động
Nguyên tắc quốc tịch bị động không phổ biến bằng hai
nguyên tắc vừa nêu; nhưng để đấu tranh triệt để với tội phạm,
nhiều điều ước quốc tế “yêu cầu” các quốc gia mà nạn nhân
của tội phạm là công dân thực hiện những biện pháp cần thiết
để xác lập quyền tài phán đối với tội phạm. Tuy nhiên, vì
nguyên tắc này ít phổ biến, nên các điều ước thường bổ sung
thêm một quy định mang tính dung hòa, đó là các quốc gia có
thể xác lập quyền tài phán đối với tội phạm trên cơ sở của
nguyên tắc này; nếu hiến pháp, các nguyên tắc chung và các
quy định cụ thể của quốc gia đó cho phép.
4.2.4. Nguyên tắc an ninh quốc gia (nguyên tắc bị xâm hợi)
Nguyên tắc bị xâm hại cũng không phải là căn cứ phổ
biến để các quốc gia xác lập quyên tài phán hình sự đối với tội
phạm. Do vậy, nhiều điêu ước quôc tế đấu tranh với tội phạm
có tính chất quốc tế ghi nhận nguyên tắc này như một căn cứ
để các quốc gia xác lập quyên tài phán đối với tội phạm nếu
hiến pháp, các nguyên tắc chung và các quy định cụ thể của
quốc gia đó cho phép.
196
Ngoài 4 nguyên tắc nêu trên, một số điều ước còn ghi
nhận các căn cứ đặc thù để các quốc gia xác lập quyền tài
phán đối với tội phạm. Ví dụ: Công ước về trừng phạt các
hành vi bất hợp pháp Je dọa an toàn hành trình hàng hải năm
1988 (Điều 6) ghi nhận thẩm quyền tài phán của quốc gia mà
hành vi tội phạm được thực hiện nhăm ép buộc quôc gia đó
phải thực hiện hoặc không thực hiện bất kỳ hành vi nào. Công
ước về chổng buôn bán bất hợp pháp ma tủy và các chát
hướng thần năm 1988 (Điều 17(4)) ghi nhận: khi một quốc gia
có căn cứ đê nghi ngờ tàu biên mang cờ của quôc gia khác
tham gia vào việc buôn bán trái phép ma túy khi thực hiện
quyên đi lại tự do trên biển cả, dựa trên sự thỏa thuận với quôc
gia mà tàu biển mang cờ, quốc gia này có thể tiến hành một sô
biện pháp ngăn chặn như tiếp cận tàu, khám xét người và hàng
hóa trên tàu. Tiếp theo, theo Điều 4(l)(b)(ii), nếu xác định có
hành vi phạm tội về ma túy, dựa trên sự thỏa thuận với quôc
gia mà tàu biên mang cờ, quốc gia đã khám xét có thê xác lập
quyền tài phán đối với tội phạm thực hiện trên tàu. Quy định
này được đánh giá cao vì mở ra một căn cứ mới cho các quôc
gia trong việc xác lập quyền tài phán đôi với tội phạm. Yêu tô
thỏa thuận giữa quốc gia đã thực hiện các biện pháp ngăn chặn
với quôc gia mà tàu biển mang quôc tịch là rât quan trọng.
Quốc gia phát hiện ra tàu biển tham gia vào buôn lậu chỉ có
thể tiếp cận tàu, tiến hành các biện pháp ngăn chặn và xác lập
quyền tài phán đối với tội phạm trên cơ sở thỏa thuận với quôc
gia tàu biển mang cờ.
Ngoài ra, nguyên tắc thẩm quyền phổ cập cũng được
một sô điêu ước đấu tranh với tội phạm có tính chât qụôc tê
ghi nhận như là cơ sở pháp lý bổ sung trong việc thiết lập
thâm quyên tài phán của quốc gia bên cạnh những nguyên tăc
khác. Ví dụ: Công ước thống nhất về các chât ma túy năm
1961 (Điều 36(2)(a)(iv)) ghi nhận: căn cứ vào hiên pháp, các
nguyên tăc chung và các quy định pháp luật cụ thê của quôc
gia, quốc gia nơi tìm thấy người phạm tội có thể xác lập quyên
197
tài phán đối với tội phạm nếu không dẫn độ người phạm tội);
Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm
2000 (Điều 15(4)) quy định: các quốc gia có thể áp dụng
những biện pháp cần thiết để xác lập quyền tài phán đối với
tội phạm quy định trong Công ước này khi người thực hiện tội
phạm hiện diện ở quốc gia đó, mà quốc gia không dẫn độ
người phạm tội).
Tóm lại, để những người thực hiện tội phạm quốc tể và
tội phạm có tính chất quốc tế không thoát khỏi bị trừng phạt,
các điều ước quốc tế đã ghi nhận nhiều căn cứ để các quốc gia
xác lập quyền tài phán đối với tội phạm. Ngoài ra, các điều
ước thường áp dụng công thức “xét xử hoặc dẫn độ” để yêu
cầu quốc gia nơi người phạm tội hiện diện, thực hiện việc xét
xử hoặc dẫn độ người phạm tội cho quốc gia khác xét xử. Đây
là một thành tựu quan trọng của hợp tác quốc tế trong cuộc
đấu tranh với tội phạm. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là vì nhiều
quốc gia có thể xác lập quyên tài phán đối với một tội phạm cụ
thể, tranh chấp về quyên tài phán có thể xảy ra. Điều đáng tiếc
là các điều ước đấu tranh với tội phạm có tính chất quốc té
hiện nay chưa đưa ra các nguyên tắc giải quyết tranh chấp về
quyền tài phán.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Anh
Gideon Boas, James L Bischoff and Natalie L Reid,
Elements o f crime under international law - International law
practitioner library series. Volume II (Các yếu tố cấu thành
tội phạm trong luật hình sự quôc lê), Nxb. Cambridge
University Press, 2009.
Robert Cryer, Hảkan Friman, Darryl Robinson and
Elizabeth Wilmshurst, An Introduction To International
198
Criminal Law And Procedure (Giới thiệu luật hình sự quốc tế
và thủ tục tố tụng), Nxb. Cambridge University Press, 2010.
Robert Cryer, Prosecuting International Crimes,
Selectivity and the International Criminal Law Regime (Truy
cứu tội phạm quốc tể: Sự lựa chọn và chế định luật hình sự
quốc tế), Nxb. Cambridge University Press, 2005.
Tiếng Nga
A.r. KnốanBHHK, Tlpecmymeuue M OmeemcmeeuHocmb B
MeoKÒyuapoÒHOM yeonoeuo.M Iĩpaee (Tội phạm và trách nhiệm
hình sự trong luật hình sự quốc tê), Nxb. CTaBponoiiB, 2002
Bìihuịchko H.IL, Meotcdyuapoònoe yeonoenoe npaeo
(Luật hình sự quốc tế), Nxb. Hayxa, 1999.
EneHa HHKOJiaeBHa TpHK03, Hanano dexmejibHOcmu
MeoKÒyuapoÒHoeo yeonoeũoeo cyòa: cocmofiHue u
nepcneKmuebi (Bắt đầu các hoạt động của tòa án hình sự quốc
tê: thực trạng và triển vọng), Tạp chí: )KypHaji poccHỈícKoro
npaBa, 2005, N.3.
H. H. rJie6oB, MeoKÒynapoÒHoe npaeo (Luật quốc tế),
Nxb. ,ZỊpo4)a, 2006.
H.H. JlyKamyK, MeotcdyuapoÒHoe Iĩpaeo: OcoốeuuaH
1
'Lacmb - yueốuuK /Ị.ĨH Cmyỏeumoe ÌOpuòuHCCKux
0aKyjibinemoe M By306 (Luật hình sự quốc tế: Phần Riêng -
Giảo trình cho sinh viên khoa luật của các tritờng đại học),
Nxb. BouTepc KnyBep, 2005.
Tiếng Việt
Nguyễn Bá Sơn (chủ biên), Tòa hình sự quốc tế: Góc
nhìn từ Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, 2007
Nguyễn Thị Thuận, Luật hình sự quốc tế, Nxb. Công an
nhân dân, 2007.
Trường Đại học Luật Hà Nội, Giảo trình Luật quốc tế,
Nxb. Công an nhân dân, 2008.
199
CHƯƠNG XI
LUẬT MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ
So với những ngành truyền thống của luật quốc tế,
những nguyên tắc và quy phạm của luật quốc tế về môi
trường còn khá mới mẻ. Mặc dầu vậy, nhận thức về môi
trường và tầm quan trọng của môi trường, bảo vệ và gìn giữ
môi trường của nhân loại là mối quan tâm lớn của cộng đông
quốc tê. Nghiên cứu luật môi trường quốc tế đang trở thành
một xu thế phát triển của khoa học luật quốc tế ngày nay.
Chương này nghiên cửu'trước hết những vấn đề cơ bản
về luật môi trường quốc tế bao gồm sự hình thành và phát
triển, chủ thể, nguồn và các nguyên tắc cơ bản của ngành luật
này. Phần tiếp theo của chương này giới thiệu những lĩnh vực
điều chỉnh cơ bản của luật môi trường quốc tế bao gồm lĩnh
vực bảo vệ môi trường biển, bảo vệ khí quyển, đa dạng sinh
học, kiểm soát quốc tế đối với các chất và chất thải nguy hại.
I. KHÁI QUÁT VÈ LUẬT MÔI TRƯỜNG QUÓC TÉ
1.1. Khái niệm luật môi trường quốc tế
So với các ngành luật độc lập khác trong hệ thống pháp
luật quốc tế như luật biển quốc tế, luật ngoại giao và lãnh sự
hay luật quốc tế về quyền con người, luật môi trường quốc tế
là một ngành luật mới mẻ. Khái niệm về một hệ thống các
nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh vấn đề môi trường ở
phạm vi toàn cầu chỉ được đê cập đến kể từ thế kỷ thứ 19.
Bên cạnh đó, cho đến nay vẫn chưa có một thiết chế toàn cầu
để điều chinh các vấn đê môi trường (ví dụ như Tổ chức
Thương mại thế giới WTO) hay một cơ quan giải quyết tranh1
1 Catherine Redwell, “International environmental law”, trong Malcolm D
Evans (ed), International law, 3rded, 2010, tr. 689.
200
chấp về vấn đề này (tương tự như cơ quan giải quyết tranh
chấp quôc tê của WTO hoặc Tòa Trọng tài để giải quyết các
tranh chấp quốc tế về luật biển).
Mặc dù vậy, luật môi trường quốc tế đảm bảo các tiêu
chí của một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc
tế. Điều này thể hiện ở sự thống nhất về chủ thể, nguồn và
phương pháp điều chỉnh, về đối tượng điều chỉnh, luật môi
trường quốc tế điều chỉnh hoạt động của các quốc gia và chủ
thể khác của luật quốc tế trong việc khai thác, bảo vệ và gìn
giữ môi trường quốc tế và tài nguyên thiên nhiên và các vấn
đề quốc tê khác liên quan mật thiết đến môi trường và sự phát
triển chung của cộng đồng quốc tế. Đổi tượng điều chỉnh của
luật môi trường quốc gắn liền với định nghĩa về môi trường.
Khái niệm “môi trường” nhìn chung chưa được định
nghĩa một cách đầy đủ.2 Chẳng hạn, Công ước của LHQ về
luật biển năm 1982 đưa ra định nghĩa về khái niệm “ô nhiễm
môi trường biển” trong khi khái niệm “môi trường biển” lại
không được định nghĩa một cách đầy đủ. “Môi trường”
thường được định nghĩa một cách bao trùm trong một sô
công ước quốc tế về môi trường. Chẳng hạn, tại Điều 2
khoản 10 của Công ước của Cộng đồng châu Âu năm 1993
về trách nhiệm dân sự đối với những thiệt hại gây ra bởi
những hành vi nguy hiểm đối với môi trường, “môi trường”
được định nghĩa là “các nguồn tài ngnvên thiên nhiên hữu
sinh và vô sinh như không khí, nước, đất, động thực vật và
Sự tương hô giữa chúng; những tài sản tạo thành di sản văn
hóa và những yếu ¡Ạ đặc thù của cành quan”. Định nghĩa
này đã bao quát các đối tượng bảo vệ được đề cập trong các
công ước quôc tế quan trọng vê môi trường như: các di sàn
2Catherine Redwell, sđd, tr. 688.
201
thiên nhiên và văn hóa;3 các giống và loài cần được bảo vệ4
và sự ô nhiễm môi trường.5
Luật môi trường quốc tế, với tư cách là một ngành độc
lập của luật quốc tế, bao gồm những nguyên tắc và chuẩn mực
về bảo vệ và gìn giữ môi trường, nghĩa vụ và trách nhiệm của
các quốc gia trong việc tuân thủ những cam kết vê môi
trường, cơ chế thực thi trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực
môi trường và khung pháp lý trong những lĩnh vực môi
trường cụ thể. Phạm vi điều chỉnh của Luật môi trường quốc
tế bao quát nhiều lĩnh vực gắn liền với con người và sự phát
triển. Nghành luật này có mối liên hệ chặt chẽ với luật môi
trường quốc gia, thể hiện ở việc những lĩnh vực điều chỉnh
của luật môi trường quốc tế gắn liền với lợi ích của mỗi quốc
gia, các nguyên tăc và quy phạm của luật môi trường quốc tế
là cơ sờ cho việc quy định và tạo khuôn mẫu cho việc điểu
chỉnh ở phạm vi quốc gia, đồng thời việc thực hiện có hiệu
quả luật môi trường quốc tế phụ thuộc rất lớn vào việc thực
hiện tại mỗi quốc gia. Do tính quốc tế của vấn đề môi trường
mà ngày nay việc giải quyết bằng pháp luật vấn đề môi
trường ở phạm vi quốc gia không thể tách rời với việc giải
quyết ở quy mô toàn cầu.
Mặc dù vậy, là một ngành mới, luật môi trường quốc tế
có những hạn chế so với những ngành luật khác trong hệ
thống luật quốc tế. Mặc dù số lượng các điều ước quốc tế
ngày càng phong phú và bao quát ở nhiều lĩnh vực môi
trường, phần lớn chúng được ghi nhận và áp dụng ở phạm vi
khu vực, các công ước ở quy mô toàn cầu không nhiều. Ngoài
ra, việc áp dụng các quy phạm luật quốc tế về môi trường
3 Điều chinh bời công ưóc năm 1972 cùa UNESCO về việc bảo vệ các di sản
văn hóa và thiên nhiên cùa thê giới.
4 Đe cập trong công ước cùa LHQ năm 1992 về đa dạng sinh học.
5Điều chinh bới các Công ước London 1972 vê sự thài đổ (dumping) và Công
ước cùa LHQ năm 1979 vê ô nhiêm không khí tâm xa xuyên biên giới.
202
thông qua cơ chế tài phán quốc tế cũng không nhiều, do đó
nhiều nguyên tắc, quy phạm và các tiêu chuẩn của luật môi
trường quốc tế chưa được làm rõ cũng như việc coi một số
nguyên tắc là nguyên tắc tập quán có tính bắt buộc còn chưa
thống nhất. Do có sự khác biệt giữa lợi ích và trách nhiệm của
các nhóm quốc gia, nhiều nguyên tắc và quy phạm của luật
môi trường quốc tế dừng lại ở việc kêu gọi sự tự nguyện thực
hiện bởi các quốc gia. Bên cạnh đó, phần lớn các nguyên tắc
chưa được giải thích và thống nhất về mặt khoa học, chỉ có
tính chất khung, mềm dẻo, thỏa hiệp, chủ yếu nhằm đạt được
những thỏa thuận sơ khởi để đối phó với những vấn đề môi
trường nảy sinh trước mắt. Ngoài ra, tính cưỡng chế thấp, cơ
chế thực hiện lỏng lẻo và thiếu vắng chế tài hữu hiệu cho việc
tuân thủ cũng là những điểm hạn chế khác của ngành luật này.
1.2. Sự hình thành và phát triển của luật môi trường
quốc tế
Mặc dù những quy định của ngành luật môi trường quốc
tế có nguồn gốc hình thành từ thế kỷ 19,6 những vẩn đề môi
trường chỉ bắt đầu trờ thành một chủ đề quốc tế kể từ sau Thế
chiến thứ nhất. Vụ kiện Trail Smelter giữa Mỹ và Canada
năm 1941 là một trong những vụ việc đầu tiên trong lĩnh vực
này.7 Bắt đầu từ những năm 1960, mối quan tâm đôi với sự
suy thoái của môi trường ngày càng lớn.
Hội nghị về môi trường con người năm 1972 tại
Stockholm dưới sự bảo trợ của LHQ là một bước quan trọng
đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ ở phạm vi quốc tế. Tiếp theo
đó, LHQ thành lập một cơ quan chuyên trách trực thuộc Đại
hội đồng gọi là Chương trình của LHQ về môi trường (United
Nations Environment Programme, UNEP) có trụ sở tại
6 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, Guide to International Environmental
Law, Martinus Nijhoff Publishers, 2007.
7 Trail Smelter, UNRIAA, vol. HI (Series No. I949.V.2).
203
Nairobi (Kenya). Hiện nay UNEP là cơ quan quốc tế duy nhất
có chức năng tham gia giải quyết mọi vấn đề liên quan đến
môi trường mặc dù một số tổ chức quốc tế trong hệ thống
LHQ cũng gánh vác tích cực một phần trách nhiệm đối với
môi trường toàn câu như Tổ chức Lương thực thế giới (Food
and Agriculture Organization, FAO) chịu trách nhiệm về việc
bảọ tồn các nguồn tài nguyên đánh bắt hoặc Tổ chức Hàng hải
quôc tê (International Maritime Organization, IMO) chịu
trách nhiệm về việc bảo vệ môi trường biển.
Nhìn chung, sự phát triển của luật môi trường quốc tế có
thê chia thành 3 giai đoạn:8 giai đoạn trước Hội nghị
Stockholm, giai đoạn từ Hội nghị Stockholm đến Hội nghị Rio,
và giai đoạn từ Hội nghị Rio đếrrnay.
1.2.1. Giai đoạn trước Hội nghị Stockholm
Ở thế kỷ 19, các quốc gia đã bắt đầu có những thỏa
thuận ở mức độ khu vực nhăm điều chinh những hỉnh thức cụ
thể của ô nhiễm môi trường như ô nhiễm do khói bụi, tiếng ồn
hoặc ô nhiễm nước và những tác động của chúng đối với con
người. Điều ước quốc tế đầu tiên được ký kết liên quan đến
thỏa thuận đánh băt cá nhăm mục đích đảm bảo duy trì việc
đánh bắt lâu dài các loài có giá trị về kinh tế cũng như các
loài di cư hoặc cư trú trên biển cả. Điều ước toàn cầu đầu tiên
về môi trường có thể kể đến là Công ước về bảo vệ các loài
chim có ích cho nông nghiệp ký năm 1902. Một số điều ước
quốc tế song phương và khu vực khác được ký kết nhằm giải
quyết những vấn đề riêng rẽ của môi trường.9
8 Phillips Sands, Principles of International Environmental Law, Cambridge,
2n
ded. 2003; Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sđd.
9 Cụ thể có thể kể đến Hiệp ước song phưorng giữa Mỹ và Anh về việc bào vệ
và bào tồn loài hài cấu năm 1911 và Công ước về bảo tồn hải câu biên Băc
Thái Bình Dương năm 1957; các điều ước song phương về các dòng sông và
hồ biên giới, chẳng hạn như Hiệp định vê sông biên giới giữa Mỹ và Canada
nam 1909 tron° đo đề cáp đến vấn đề ô nhiễm nguon nước và kiểm soát ô
204
Mặc dù có phạm vi điều chỉnh hạn chế, các điều ước
này đã tạo tiền đề cho các điều ước quốc tế về môi trường sau
đó cụ thể như kêu gọi hợp tác, áp dụng các biện pháp bảo tồn
cu thể và điêu chỉnh hoạt động thương mại ở quy mô quôc tê.
Môt số điều ước trở thành khuôn mẫu cho các điều ước quốc
tế về sau, đặc biệt là các điều ước liên quan đến bảo tồn thiên
nhiên và các loại động vật hoang dã. Bên cạnh đó, một số án
lệ quốc tế cũng đóng góp quan trọng cho sự phát triển của
luật môi trường quôc tế thông qua việc ghi nhận các nguyên
tắc liên quan đến ô nhiễm xuyên biên giới (vụ Trail Smelter
năm 1941) hay nghĩa vụ của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ
thuộc chủ quyền của mình không làm phương hại đến quyền
của quốc gia khác trong đó có vấn đề môi trường (vụ Eo biển
Corfu năm 1949).
Sau Thế chiến thứ hai, những vấn đề môi trường toàn
cầu ngày càng trở nên có tính thời sự với sự bùng nổ các hoạt
động kinh tế và phát triển công nghệ. Một số vấn đề liên
quan tới môi trường đòi hỏi cần được điều chỉnh như các sự
cố tràn dầu, việc phát triển và sử dụng năng lượng hạt nhân
và nguy cơ nhiễm phóng xạ, việc khai thác quá mức dẫn đến
tài nguyên sinh vật có nguy cơ bị cạn kiệt, viêc sử dụng hóa
chất và các chê phâm công nghiệp độc hại trong nông nghiệp
và sự mât cân đôi về phát triển kinh tế giữa các nước giàu và
nghèo... Trong bối cảnh đó, Hội nghị về môi trường được
triệu tập tại Stockholm năm 1972 dưới sự bảo trợ của LHQ.
Bên cạnh sự tham gia và thể hiện quan điểm của các quốc gia
đang phát triên, ý nghĩa quan trọng của Hội nghị Stockholm
là việc thông qua Tuyên bố Stockholm về môi trường và con
người cùng với một kế hoạch hành động bao gồm 109
nhiễm; Công ước về bảo tồn các loài động thực vật trong tình trạng thiên
nhiên cùa chúng năm 1933 (áp dụng cho các thuộc địa châu Phi và châu Phi
nói chung) và Công ước về bảo vệ thiên nhiên và bâo tồn hoang dã ở Tây bán
cầu năm 1940.
205
khuyến nghị và một nghị quyết về cam kết tài chính và tổ
chức. Đây được coi là những văn kiện quan trọng toàn cầu
đầu tiên có tính toàn diện về bảo vệ môi trường.10 Những
nguyên tắc quan trọng của Tuyên bố Stockholm có thể chia
thành 3 nhóm:
- Nguyên tắc thứ nhất: tuyên bố các quyền cơ bản của con
người và gắn chúng với việc bảo vệ và phát triển môi trường;
- Nguyên tắc từ 2 đến 7: tuyên bố các thành phần của
tài nguyên thiên nhiên, nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ cho các thế
hệ tương lai, sự cần thiết phải quản lý đầy đủ về môi trường
và sự cần thiết phải hợp tác quốc tế và phối hợp hành động vì
môi trường;
- Các nguyên tắc từ 21 đến 26: đề cập các nguyên tắc
của luật môi trường quốc tế, kêu gọi các quốc gia hợp tác phát
triển luật quốc tế về trách nhiệm và bồi thường đổi với ô
nhiễm và sự thiệt hại liên quốc gia.
1.2.2. Từ Hội nghị Stockholm đến Hội nghị Rio
Những kết quả của Hội nghị Stockholm có ý nghĩa quan
trọng đối với sự phát triển của luật môi trường quốc tế ở
những thập niên tiếp theo. Các điều ước quốc tế trong thời kỳ
này tập trung bảo vệ những lĩnh vực cụ thể của môi trường
như biển và các nguồn nước ngọt, khí quyền và không gian,
động thực vật hoang dã. Mặc dù vậy, cho đến những năm
1980, việc điều chỉnh những vấn đề môi trường một cách
riêng lẻ hoặc chỉ giải quyêt phân ngọn tỏ ra không có hiệu
quả trong việc chống lại sự suy thoái môi trường ngày một gia
tăng. Ngoài ra, các tô chức quôc tê cho thấy sự hạn chê của
mình trong việc giải quyết các vân đề môi trường. Điều đó
đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải có những nỗ lực hơn nữa cũng
như có cách tiếp cận một cách tổng thể nhằm giải quyết triệt*
2
0
6
10Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sđd, tr. 35.
206
để nguồn ảnh hưởng cũng như nguy cơ dẫn đến thiệt hại cho
môi trường.
Bên cạnh đó, kể từ những năm 1980 đã xuất hiện những
vấn đề môi trường mới chưa được nghiên cứu và điều chỉnh
trước đó như ô nhiễm không khí tầm xa hay sự suy giảm của
tầng ozone, nguy cơ rò rỉ vả nhiễm phóng xạ từ các nhà máy
điện nguyên tử, nhu cầu điều chỉnh đối với các hóa chất, chất
thải độc hại và quy trình có khả năng gây thiệt hại cho môi
trường. Kết quả là một loạt các điều ước quốc tế đã được ký
kết như Công ước toàn cầu về bảo vệ tầng ozone năm 1985 và
Nghị định thư Montreal năm 1987, Công ước về thông báo
sớm về sự cố hạt nhân và Công ước về trợ giúp trong trường
hợp tai nạn hạt nhân hoặc sự cố phóng xạ năm 1986, Công
ước Basel về vận chuyển các chất độc hại và việc xử lý và
một số điều ước quốc tế khu vực liên quan.
Ngoài ra trên cơ sờ nguyên tắc 21 của Hội nghị
Stockholm, một số nguyên tắc của luật môi trường quốc tế
cũng đã được hình thành trong giai đoạn này. Một ví dụ là các
nguyên tắc dưới hình thức các văn kiện được đưa ra bởi Tổ
chức hợp tác và phát triển (Organisation fo r Economic Co­
operation and Development, OECD) sau đó được thông qua
tại các văn kiện của UNEP, chẳng hạn như “Các nguyên tắc
ứng xử trong lĩnh vực môi trường hướng dẫn các quốc gia
trong việc bảo tồn và sử dụng hài hòa nguồn tài nguyên thiên
nhiên chia sẻ giữa hai hoặc nhiều quốc gia” năm 1978. Bên
cạnh đó, có thể kể đến một số nguyên tắc tập quán như công
nhận chủ quyền quốc gia đối với tài nguyên thiên nhiên,
nghĩa vụ đảm bảo giới hạn các hoạt động về môi trường trong
phạm vi tài phán quốc gia và không làm ảnh hưởng việc thực
hiện chủ quyền của quốc gia khác, nghĩa vụ thông báo và tư
vấn về các hoạt động có khả năng ảnh hưởng đến môi trường
cho các quốc gia liên quan hay nghĩa vụ đảm bảo sự tiếp cận
2 0 7
đối với các quy định về hành chính và tố tụng cho công dân
của những nước khác...
Sự phát triển mạnh mẽ của luật môi trường quốc tế thể
hiện ở việc gắn kết vấn đề bảo vệ môi trường với phát triển
kinh tế, đây là cách tiếp cận chủ đạo của luật môi trường quôc
tế trong giai đoạn này. Một số cơ quan thúc đẩy việc xây
dựng luật môi trường theo hướng này như ủ y ban Thế giới về
môi trường và phát triển (World Commission on Environment
and Development), sau đó gọi là ủ y ban Brundtland.1
1 Báo
cáo của ủ y ban Brundtland năm 1987 nhấn mạnh sự cần thiết
của việc kết hợp chặt chẽ giữa các chính sách phát triển với
vấn đề môi trường, đặc biệt là đưa ra khái niệm “phát triển
bền vững” (sustainable development). Đây là một tiền đề
quan trọng dẫn đến sự triệu tập Hội nghị của LHQ về môi
trường và phát triển tổ chức tại Rio de Janeiro, Brazil tháng 6
năm 1992 (Hội nghị Rio).
1,2.3. Từ Hội nghị Rio đến nay
Hội nghị Rio đánh dấu sự chuyển biến quan trọng của
luật môi trường quôc tê kê từ sau Hội nghị Stockholm năm
1972. Đáng chú ý là hai công ước quan trọng: Công ước
khung của LHQ về biến đổi khí hậu và Công ước về đa dạng
sinh học. Bên cạnh đó là việc thông qua Tuyên bố về môi
trường và phát triển (Tuyên bố Rio) và Chương trình nghị sự
21 (Agenda 21) cùng Tuyên bô các nguyên tắc về rừng.
Tuyên bố Rio bao gồm 27 nguyên tắc, cụ thể hóa sự kết
hợp giữa môi trường và phát triển và khái niệm “phát triển
bền vững” nêu ra tại Báo cáo Brundtland. Trong đó, nguyên
tắc thứ 4 có ý nghĩa quan trọng nhất, theo đó, để đạt được sự
phát triển bền vững, bảo vệ môi trường phải trở thành một
phần không thể tách rời của tiên trình phát triển và không thể
1
1 ũy ban này lấy theo tên của Thủ tướng Na Uy Gro Harlem Brundtland
được Đại Hội đồng LHỌ ùy nhiệm đứng đầu vào năm 1984.
208
xem xét một cách độc lập với tiến trình đó. Các nguyên tắc
khác nêu ra tại Tuyên bố Rio khẳng định lại những nguyên
tắc của Hội nghị Stockholm, chẳng hạn như những nguyên
tắc số 2 (về những tác động xuyên biên giới); nguyên tắc số
10 (về quyền thông tin của công chúng); nguyên tắc số 13
(kêu gọi sự phát triển của các quy định về trách nhiệm).
Đồng thời chúng trở thành những nguyên tắc có tính pháp lý
bắt buộc đối với các quốc gia và chủ thể khác của luật môi
trường quốc tế thông qua việc được ghi nhận trong các công
ước quốc tế sau đó về môi trường, chẳng hạn như các nguyên
tắc phòng ngừa (nguyên tắc 15), bên gây thiệt hại phải đền
bù (nguyên tắc 16) hay yêu cầu thực hiện đánh giá tác động
môi trường đối với các hoạt động đã lên kế hoạch (nguyên
tắc 17) hay đảm bảo sự tham gia của công chúng và tiếp cận
thông tin.1
2 Tuyên bố Rio và các nguyên tắc của nó ảnh
hưởng đáng kể đến sự phát triển của luật môi trường quốc tế,
đặc biệt là đến việc định hình hệ thống các nguyên tắc và quy
phạm điều chỉnh vấn đề môi trường, mặc dù một số nguyên
tắc và quy phạm chưa được làm rõ thông qua các cơ chế tài
phán quốc tế.1
3
Chương trình nghị sự 21 đặc biệt chú trọng vấn đề môi
trường và phát triển. Đây là một chương trình hành động bao
gồm 40 chương, đề cập 115 chủ đề cụ thể. Nội dung cơ bản
của Chương trình nghị sự 21 đề cập 4 vấn đề sau:
1
2Những nguyên tắc nêu ra tại Hội nghị Rio đã được các quốc gia đưa vào các
Công ước quốc tế đa phương và trở thành những nguyên tắc có tính quy phạm
như Công ước của LHQ về việc sử dụng không định hướng các nguồn nước
quốc tế (the 1997 UN Convention on the Non-Navigational Uses of
International Watercourses); Nghị định thư về an toận sinh học cùa Công ước
năm 1992 về đa dạng sinh học năm 2000; Công ước năm 1992 về bảo vệ môi
trường biển ờ Đông Bắc Đại Tây Dương (the 1992 Convention for the
Protection of the Marine Environment of the North-East Atlantic). Xem thêm
Alexandre Kiss and Dinah Shelton, Sild, tr. 39-40.
1
3 Gillian Triggs, International Law: Contemporary Principles and Practices,
LexisNexis Butterworth, 2011, tr. 906.
209
- Các khía cạnh kinh tế - xã hội của vấn đề môi trường,
ví dụ như môi trường số, sức khỏe, dân số học, tiêu dùng và
các mô hình sản xuất;
- Bảo tồn và quản trị tài nguyên (khí quyển, rừng, nước,
chất thải, hóa chất...);
- Tăng cường vai trò của các tổ chức phi chính phủ và các
nhóm hoạt động xã hội như công đoàn, hội phụ nữ, thanh niên;
- Các biện pháp thực thi, ví dụ như tài chính, thể chế...
Một số chương của Chương trình nghị sự 21 có ý nghĩa
quan trọng đôi với sự phát triển của luật môi trường quốc tế.1
4
Đặc biệt, các lĩnh vực khác của luật quốc tế cũng bắt
đầu gắn kết với vấn đề môi trường, nhiều điều ước quốc tế ra
đời sau Hội nghị Rio đều nhấn mạnh đến bảo vệ môi trường
như là mục tiêu chung của các quốc gia. Môi trường, bảo vệ
môi trường và hợp tác vê môi trường xuất hiện trong các lĩnh
vực truyền thống của luật quốc tế, những nội dung mới được
hình thành như thương mại và môi trường, môi trường và
quyền con người...
Kể từ sau Hội nghị Rio, các hội nghị thượng đỉnh lần
lượt được tổ chức, thể hiện sự quan tâm ngày càng cao của
14 Ví dụ, chương 39 về các,văn kiện pháp lý quốc tế và cơ chế nhấn mạnh yếu
tố pháp lý cùa sự phát triển bền vững và việc ấn định các tiêu chuẩn môi
trương keu gọi sự pháp điển hóa thống nhất các chính sách về môi trường và
phát triển vào các điều ước quốc te, nhấn mạnh sự tham gia và đóng góp của
các quốc gia trong việc làm sáng tỏ luật môi trường quốc tế trong bối cảnh
phát triển bền vững và kêu gọi việc hoàn thiện các cơ chế và thủ tục nhăm
tăng cương hiệu quả cùa luật mội trường quốc tế. Chương 8 vệ gắn kết môi
trương va phat trien với việc quyết định chính sách nhấn mạrih tầm quan trọng
cua pháp luạt môi trường quốc gia trong việc đưa các chính sách môi trường
và phát triển vào hành động, kẹu gọi ap dụng các phương thưc co tinh quy
phạm trong các chính sách vê kinh te kê hoạch và thị trương nham thực hiẹn
các nghĩa vụ quốc tế vê môi trương va nhân mạnh vai tro cua cac chinh phu
trong việc thực thi chính sách môi trường và phát triên.
210
cộng đồng quốc tế về vấn đề môi trường. Các hội nghị này
đã kêu gọi sự hợp tác và nô lực hơn nữa của các quôc gia
trong việc tham gia giải quyết vấn đề môi trường, cụ thể như
chống sự suy thoái môi trường, phát triển bền vững và biến
đổi khí hậu.
Năm 2002, một hội nghị thế giới được tổ chức ở
Johanesburg nhằm khẳng định lại các cam kết đối với những
nguyên tắc nêu ra tại Hội nghị Rio và thực hiện triệt đê
chương trình nghị sự 21. Trong hội nghị này, các quốc gia đã
thông qua Tuyên bố về sự phát triển bền vững. Tuyên bô
khẳng định mong muốn của các quốc gia theo đuổi phát triên
môi trường bền vững.1
5
Tiếp theo đó, Hội nghị LHQ về biến đổi khí hậu diễn ra
tại Bali (Indonesia) tháng 12/2007 bao gồm 190 quốc gia
tham dự. Hội nghị mở đầu cho các đàm phán và thỏa thuận vê
ứng phó đối với biến đổi khí hậu toàn cầu. Các khuyến nghị
của Hội nghị Bali bao gồm việc xây dựng chương trình hợp
tác đa phương để tránh sự biến đổi khí hậu nguy hiểm sau
2012 trên cơ sờ Nghị định thư Kyoto16 cùng lộ trình cho đên
1
5Điệu này thể hiện ở những điểm chính sau cùa tuyên bố:
- Tiếp tục phát triển và cũng cổ việc tuân thủ một cách độc lập và trên cơ sờ
qua lại các chủ đề chính của phát triển bền vững: phát triển kinh tế, phát triên
xã hội và bào vệ môi trường ờ các câp độ địa phương, quốc gia và toàn câu;
- Nhấn mạnh môi trường toàn cầu đang tiếp tục bị ảnh hương và những biêu
hiện cụ thể như việc mất đa dạng sinh học, suy giảm các đàn cá, sa mạc hóa,
biến đỗi khí hậu và ô nhiễm không khí, nước và đại dương;
- Khuyến khích các nền kinh tế lớn trở thành “đối tác” cho việc tăng cường
phát triển bền vững;
- Khẳng định giá trị cùa Chương trình nghị sự 21 đổi với việc giải quyết các
vân đề môi trường;
- Kêu gọi sự lưu tâm hàng đầu đối với việc thực hiện và tuân thủ các hiệp định
quôc tế về môi trường mà các bên đã ký kết và sự hợp tác giữa ban thư ký các
hiệp định đa phương về môi trường.
Nghị định thư Kyoto bao gồm các cam kẹt dược tiến hành dựa trên các
nguyên tắc của Chương trình khung vê biên đôi khí hậu của với mục tiêu chù
211
2020; xây dựng và triển khai các chính sách lập ngân quỹ
carbon ở các quốc gia mang tính bền vững; tăng cường sự hợp
tác quốc tế và nêu vấn đề thích ứng với biến đổi khí hậu.
Gần đây nhất, Hội nghị thượng đỉnh của LHQ về biến đổi
khí hậu (COP15) diễn ra tại Copenhagen (Đan Mạch) tháng 12
năm 2009. Hội nghị nhắm đến mục tiêu cắt giảm khí thải gây
hiệu ứng nhà kính cũng như việc hỗ trợ tài chính cho việc cắt
giảm và khắc phục sự biến đổi khí hậu tại các quốc gia đang
phát triển. Tuy nhiên, hội nghị này không đạt được sự đồng
thuận về những vấn đề liên quan như mục tiêu cắt giảm cụ thể,
cơ chế giám sát, quản lý tài chính, tương lai của Nghị định thư
Kyoto và việc cứu rừng nhiệt đới.
1.3. Chủ thể của luật môi trường quốc tế
Chủ thể trước tiên và chủ yếu của luật môi trường quốc
tế chính là các quốc gia. Điều này được lý giải bởi các vấn đề
môi trường liên quan trực tiếp đến các quốc gia. Việc giải
quyêt ô nhiêm môi trường, chia sẻ và sử dụng chung các
nguôn tài nguyên thiên nhiên cũng như bảo tôn và gìn giữ hệ
sinh thái... là những vấn đề có tính chất “xuyên biên giới”
hoặc “liên quốc gia”. Bên cạnh đó, việc giải quyết những vấn
đề toàn cầu về môi trường ngày nay rất cần đến sự hợp tác
của các quốc gia, những chủ thể cơ bản của luật quốc tế.
yếu là cắt giảm lượng khí thài gây hiệu ứng nhà kính. Bản dự thảo của Nghị
định thư được kí kêt vào ngày 11 tháng 12 năm 1997 tại Kyoto, và chính thức
có hiệu lực vào ngày 16 tháng 2 năm 2005. Những quốc gia tham gia kí kết
phải châp nhận việc căt giảm khí C 02 và năm loại khí gây hiệu ứng nhà kính
khác, cũng như tiến hành biện pháp thay thê như khác nếu không muốn đáp
ứng yêu cầu đó. Theo Nghị định thư Kyoto, các nước phát triển được xếp vào
nhóm Annex / và phải tuân theo các cam kết nhằm cắt giảm khí gây hiệu ứng
nhà kính đồng thời phái có bàn đệ trình thường niên về các hành động cắt
giảm khí thài. Các nước đang phát triên được xếp vào nhóm Non-Annex / và
không chịu ràng buộc bới các nguyên tăc ứng xù như các nước nhóm Annex I
nhưng có quyền tham gia vào Chương trình cơ câu phát triên sạch.
212
Chủ thể tiếp theo của luật môi trường quốc tế là những
tô chức quốc tế liên chính phủ hoạt động trong lĩnh vực môi
trường. Tổ chức quốc tế liên chính phủ toàn cầu quan trọng
nhất là LHQ có vai trò tích cực trong việc đề xuất thảo luận,
đàm phán và ký kết các điều ước quốc tế về môi trường. Các
tô chức quốc tế khu vực như Liên minh châu Âu {European
Union, EU) cũng hoạt động khá tích cực trong việc cho ra đời
các văn kiện quốc tế giải quyết những vấn đề liên quan đến
môi trường trong phạm vi khu vực. Ngoài ra, các tổ chức này
tham gia vào các công ước quốc tế về môi trường với tư cách
thành viên như trường hợp của Liên minh châu Âu ELI là
thành viên của Công ước về biển đổi khí hậu 1992 và Nghị
định thư Kyoto 1997.
Ngoài ra, các chủ thể đặc biệt trong quan hệ quốc tế
(vùng lãnh thổ, các dân tộc đang đẩu tranh giành quyền tự
quyêt) vê nguyên tắc cũng có thê tham gia giải quyêt các vân
đề môi trường quốc tế.
Bên cạnh đó, trong việc tham gia giải quyết các vấn đề
môi trường quốc tế, tuy không được coi là những chủ thể của
luật quôc tê, các tô chức phi chính phủ cũng đóng vai trò rât
tích cực. Các tổ chức này hoạt động tích cực trong việc thúc
đây quá trình đàm phán và ký kêt các điêu ước quôc tê đa
phương về môi trường cũng như thúc đẩy quá trình thực thi
các điều ước đó.17 Ngoài ra, đỏng vai trò là Ban thư ký của
Công ước năm 1971 về những vùng đất ngập nước có tâm
quan trọng quốc tế (RAMSAR) là Liên minh Quốc tê vê bảo
tồn thiên nhiên {International Union for the Conservation o f
1
7 Chẳng hạn, Hội đồng quốc tế về bàc tồn chinV{International Council for
Bird Preservation, ICBP) và Văn phòng nghiên cứu vê chim bơi dưới nước và
đất ngập mặn quốc tế (International Waterfowl and Wetlands Research
Bureau, IWRB) có vai trò rất tích cực trong quá trình ký kết và thực hiện
Công ước về tầm quan trọng cùa những vùng đầm lầy (Công trớc Ramsar
1971). Xem Catherine Redwell, sđd, tr. 692.
213
Naíure IUCN),n là một cơ quan phối họp giữa các chính phủ
và tô chức phi chính phủ.1
8
19 Hiện nay, sự tham gia của các tô
chức phi chính phủ trong quá trình đàm phán và ký kết các
điều ước quốc tế về môi trường ngày càng được mờ rộng. Đây
là một khuynh hướng mở rộng sự tham gia vào việc giải quyêt
các vấn đề môi trường toàn cầu, phù hợp với việc coi các vấn
đề môi trường là mối quan tâm chung của toàn nhân loại. Tuy
nhiên, mặc dù sự đóng góp ngày càng lớn của các tổ chức phi
chính phủ vào sự phát triển của luật môi trường quốc tế là
không thể phủ nhận, lý luận về chủ thể của luật quốc tế hiện
nay không coi những tổ chức này là chủ thể của luật môi
trường quốc tế.
Ỉ.4. Nguồn của luật môi trường quốc tế
về mặt lý luận, luật môi trường quốc tế có nguồn điều
chỉnh là các nguôn cơ bản của luật quôc tê và các nguôn bô
trợ.20 Cụ thể, các nguồn cơ bản của luật môi trường quôc tê là
các điều ước quốc tế về môi trường và các tập quán quốc tê.
Các nguồn bổ trợ chính của luật môi trường quốc tế lậ các
nguyên tắc pháp luật chung, phán quyết của Tòa án Quốc tê,
các học thuyêt pháp lý của những học giả hàng đầu vê luật
quốc tế và nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ
liên quan đến vấn đề môi trường.
1.4.1. Điều ước quốc tế về môi trường
Các điều ước quốc tế là nguồn cơ bản và quan trọng
nhất của luật môi trường quốc tế trong đó ghi nhận các thỏa
thuận, cam kết của các quốc gia và các chủ thể khác của luật
quốc tế liên quan đến lĩnh vực môi trường. Chúng trở thành
nguồn luật quan trọng điều chỉnh hành vi của các chủ thê luật
1
8Xem IUCN website http://www.iucn.org/about/.
19Xem thêm Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sđd, tr. 70. ,
20 Các loại nguồn này được liệt kê tại Điều 38 Quy chế tòa án quôc tê.
214
quốc tế trong lĩnh vực này thông qua tuân thủ ở phạm vi quốc
gia.
Những thỏa thuận mang tính chất đồng thuận
(,consensus) và chấp thuận cả gói (packơge deal) trong các
điều ước về môi trường có ý nghĩa quan trọng cho phép các
quốc gia giải quyết các vấn đề cụ thể như ô nhiễm tầm xa
xuyên biên giới, biến đổi khí hậu và bảo tôn sự đa dạng sinh
học... ngay cả khi giữa các quốc gia còn có khác biệt vê
những vấn đề phát sinh và cách thức xử lý.
Các điều ước quốc tế về môi trường hiện nay thường đóng
vai trò như những điều ước khung ựramework) quy định những
vấn đề cơ bản mang tính nguyên tắc cũng như cơ cấu tổ chức của
các cơ quan được thành lập trên cơ sở điều ước (treaty bodỉes)
như ban thư ký, các ủy ban kỹ thuật... Những vấn đề liên quan
đên việc thực thi, ân định những tiêu chuân kỹ thuật cụ thê và
sừa đổi bổ sung điều ước thường sẽ được thông qua bởi các nghị
định thư hoặc văn kiện kèm theo và các văn bản đó được xem
như là một bộ phận cấu thành của điều ước này. Cách tiếp cận
như vậy cho phép các điều ước quốc tế có thể được điều chinh
kịp thời và thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của vân đê
môi trường trên thực tế.21
Ngoài cách tiếp cận “khung” như trên, các điều ước
quốc tế về môi trường còn có tính chất mềm dẻo cho phép
công nhận một số khác biệt trong việc thực thi các nghĩa vụ
điều ước. Ví dụ, Điều 3(1) của Công ước về biến đổi khí hậu
công nhận trách nhiệm chung nhưng có sự khác biệt do khả2
1
2
1 Ví dụ như Công ước khu vực năm 1979 về Ô nhiễm không khí tầm xa xuyên
biên giới có 8 Nghị định thư kèm theo. Nghị định-thư Kyoto năm 1997 kèm
theo Công ước cùa LHQ năm 1992 về Biến đổi khí hậu. Công ước vê Ngăn
ngừa các ô nhiễm từ tàu thuyền (MARPOL) số 1973/78 trong khuôn khô Tô
chức Hàng hải quốc tế hiện nay có 6 văn bản đính kèm. Công ước về bảo vệ
■nôi trường Đông Bắc Đại Tây Dưong năm 1992 (OSPAR) hiện tại có 5 văn
bàn kèm theo và 3 phụ lục.
215
năng khác nhau của các quốc gia trong việc thực hiện nghĩa
vụ bảo vệ và gìn giữ hệ thống khí hậu toàn cầu. vấn đề này
được thê hiện ờ việc kêu gọi các quốc gia phát triển có trách
nhiệm tiên phong trong việc chống lại sự biến đổi khí hậu và
những tác hại của nó. Sau đó, Nghị định thư Kyoto năm 1997
có quy đinh chỉ những quôc gia phát triển mới là đối tượng
của những mục tiêu cụ thể và thời gian biểu cho việc cắt giảm
khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Tại Công ước của LHQ về
biên đôi khí hậu năm 1992, các quốc gia thành viên sẽ thực
hiện nghĩa vụ của mình tùy theo khả năng và điều kiện thực tê
của quốc gia mình.
Nhìn chung, các điều ước quốc tế về môi trường hiện
nay thường không ân định một cách chi tiết các nghĩa vụ pháp
lý đôi với các bên cũng như vấn đề thực hiện chúng. Các điều
ước thường mang tính chất định hướng và kêu gọi sự hợp tác
và tuân thủ một cách có thiện chí của các quốc gia thành viên.
Những vân đê cụ thê và việc thực thi thông thường sẽ được
giải quyết bởi nhiều điều ước quốc tế ký kết tiếp theo dưới
hình thức nghị định thư hoặc văn bản kèm theo có giá trị pháp
lý ràng buộc.
1.4.2. Tập quán quốc tể về môi trường
Tập quán quốc tế về môi trường là một loại nguồn
không thành văn của luật môi trường quốc tế. Mặc dù vậy,
chúng có giá trị pháp lý ràng buộc đối với tất cả các quốc gia
và chủ thê khác của luật quôc tê. Nhiêu tập quán quôc tê đã
được thừa nhận rộng rãi và được áp dụng như là những
nguyên tắc chuyên biệt của luật môi trường quốc tế. Chẳng
hạn, các nguyên tắc đòi hỏi bên gây ô nhiễm phải gánh chịu
chi phí cho việc ô nhiễm, nguyên tắc tiến hành các hành động
phòng ngừa hoặc nguyên tăc vê việc sử dụng chung các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguyên tăc phát triên bên
vững... được ghi nhận trong nhiêu điều ước quôc tê vê môi
trường hiện nay phát sinh từ những nguyên tắc tập quán hình
216
thành từ thực tiễn quan hệ quốc tế và được công nhận như là
những nguyên tắc có giá trị pháp lý bắt buộc.
Bên cạnh việc được khẳng định trong các điều ước quốc
tế, các tập quán quốc tế trong luật môi trường quốc tê còn
được sử dụng trong các phán quyêt của tòa án quôc tê và cơ
quan giải quyêt tranh chấp như một nguôn luật đê giải quyêt
các vụ tranh chấp về môi trường. Các tập quán quốc tế mới có
thể được hình thành trên cơ sở giải thích và vận dụng các
phán quyết của tòa án trong những vụ việc cụ thể.
Các tập quán quốc tế về môi trường thông thường được
hình thành từ thực tiễn quan hệ giữa các quốc gia. Chẳng hạn
như các nguyên tắc về “không gây hại” hay còn gọi là tập
quán vê “láng giềng tốt” vốn được hình thành từ thực tiễn giải
quyết các vân đê ô nhiễm xuyên biên giới mà tiêu biêu là vụ
Trail Smelter giữa Mỹ và Canada. Trên cơ sở đó, nguyên tăc
này được áp dụng một cách rộng rãi, buộc các quốc gia phải
ngăn chặn, giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm cũng như gây hại
cho môi trường, thông báo và tham vấn về các nguy cơ gây
thiệt hại cho môi trường.
1.4.3. Các nguồn bổ trơ của luật môi trường quổc tê
Lý luận về nguồn của luật quốc tế cho phép phân biệt
giữa các nguyên tắc pháp luật chung được đề cập tại Điêu 38
của Quy chê Tòa án quốc tế và các nguyên tắc nền tảng của
luật môi trường được thể hiện trong tinh thần của các văn
kiện thông qua tại các hội nghị quốc tế về môi trường quan
trọng như Hội nghị Stockholm và Rio de Janeiro.
Các phán quyết của Tòa án Công lv quốc tế của LHQ
cũng như các thiết chế tài phán đóng vai trò như những nguôn
bổ trợ bởi lẽ tự bản thân nó không sinh ra các quy phạm pháp
lý có giá trị bắt buộc các chủ thể phải tuân theo. Tuy nhiên,
chúng có vai trò quan trọng đôi vói sự hình thành và phát
217
triển của luật môi trường quốc tế. Trong quá trình xét xử,
phân tích và lập luận, các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
nói chung và các nguyên tắc của luật môi trường được làm
sáng tỏ, từ đó có thể được viện dẫn để áp dụng cho những vụ
việc khác. Các phán quyết của tòa án là cơ sở để hình thành
những quy phạm tập quán của luật môi trường quốc tế. Ví dụ
tiêu biểu là các phán quyết của Tòa án Công lý quốc té trong
vụ Gabcikovo - Nagymaros (Hungary và Slovakia);22 Pulp
Mills (Argentina và Urugoay);23 Tòa Trọng tài thường trực
(Permanent Court of Arbitration, PCA) trong vụ M OX plant
giữa Ireland và Anh,24 Iron Rhine (Bỉ và Hà Lan),25 phán
quyết của Tòa án Quốc tế về luật biển (International Tribunal
fo r the Law o f the Sea, ITLOS) trong vụ M OX (Ireland và
Anh);26 phán quyết của Trung tâm Quốc tế về giải quyết các
tranh chấp về đầu tư (International Centre fo r the Settlement
o f Investment Disputes, ICSID) trong các vụ Trail Smelter
(Mỹ và Canada)27 hay Metaclad (Metalclad Corporation và
Mexico).28
22 Gabcikovo - Ncgymaros Project {Hungary v Slovakia), Judgment, ICJ
Reports 1997.
23 Case Concerning Pulp Mills on the River Uruguay (Argentina v. Uruguay),
Judgment of20April 2010.
24 MOX Plant Case {Irelandv United Kingdom), “Dispute Concerning the
MOX Plant, International Movements of Radioactive Materials, and the
Protection of the Marine Environment of the Irish Sea” (Perm. Ct. Arb.,
decision pending as of January 2007.
25 Arbitration regarding the Iron Rhine (“Ijzeren Rijn”) Railway between the
Kingdom of Belgium and the Kingdom of the Netherlands, 2005.
26 MOX Plant case, Request for Provisional Measures Order (Ireland v the
United Kingdom) (3 December 2001) International Tribunal for the Law of
the Sea, ILR vol. 126 (2005).
27 Trail Smelter, UNRIAA, vol. Ill (Sales No. 1949.V.2).
28 Metalclad Corporation v. The United Mexican States (ICSID Case No.
ARB(AB)/97/l).
218
1.4.4. Luật mềm (soft law)
Trong khoa học luật quốc tế hiện nay, vai trò của các
“luật mềm” đang được ghi nhận như là một loại nguồn đặc
biệt.29 Những văn kiện loại này không ấn định nghĩa vụ pháp
lý cho các bên và do đó không dẫn đến trách nhiệm pháp lý
quốc tế trong trường hợp có sự vi phạm.
Trong lĩnh vực môi trường, hàng loạt văn kiện quốc tế
không quy định ràng buộc pháp lý đối với các bên như quy
tắc ứng xử, hướng dẫn, nghị quyết hoặc tuyên bố vẫn được áp
dụng bời các quốc gia cũng như các chủ thể khác của luật
quốc tế. Chúng đóng vai trò khẳng định và tăng cường sự hợp
tác giải quyết các vấn đề môi trường quốc tế, đồng thời làm
cơ sở để các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế đi đến
những cam kết có tính chất ràng buộc về mặt pháp lý sau này.
1.5. Một số nguyên tắc cơ bản của luật môi trường
quốc tế
Với tính chất là một ngành của luật quốc tế, ngành luật
môi trường quốc tế cũng chịu sự điều chỉnh của những
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Những nguyên tắc này
đóng vai trò là nền tảng cho hoạt động của các chủ thê luật
quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề về môi trường. Nổi
bật trong số đó là các nguyên tắc về sự hợp tác giữa các quôc
gia và chủ thể khác của luật quốc tế, nguyên tắc bình đăng vê
chủ quyền giữa các quốc gia... Bên cạnh đó, luật môi trường
quốc tế có hệ thống các nguyên tắc đặc thù của nó. Hệ thông
các nguyên tắc này có ý nghĩa hết sức quan trọng, đóng vai
trò là cơ sở cho việc xây dựng các chế tài và quy phạm quôc
tế và điều chỉnh các vấn đề môi trường.
29 Xem them Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sdd, tr. 8-9. Alexandre Kiss
and Dinah Shelton, International Environmental Law (Transnational
Publishers, 1991), tr. 100; Catherine Redwell, thld, tr, 696.
2 1 9
So với các ngành khác của luật quốc tế, trong luật môi
trường quôc tê các nguyên tăc tương đối mới, chúng là kết
quả của sự công nhận của các quốc gia trong việc điều chỉnh
những vân đề môi trường kể từ giữa thế kỷ 20, đặc biệt là
những nguyên tắc được đưa ra trong Tuyên bố Rio 1992. Mặc
dù được thừa nhận rộng rãi trong nhiều điều ước quốc tế về
môi trường cũng như được áp dụng cho nhiều lĩnh vực môi
trường cụ thê, nội hàm của những nguyên tăc này vân chưa
nhận được sự thông nhất hoàn toàn của các chủ thể của luật
quốc tế. Ngoài ra, những nguyên tắc này vẫn mang nặng tính
chính trị, kêu gọi và việc tuân thủ chúng chủ yếu dựa vào sự
tự giác và việc giải thích, áp dụng cụ thể trong pháp luật môi
trường của các quốc gia.
Căn cứ vào tầm quan trọng và tính chất của chúng, hệ
thống các nguyên tắc của luật môi trường quốc tể có thể được
phân chia thành các nhóm sau đây:30
- Các nguyên tắc có tính chất nền tảng;
- Các nguyên tắc áp dụng trong quá trình thực hiện;
- Các nguyên tắc đảm bảo sự công bàng.
1.5.1. Các nguyên tắc có tính chất nền tảng
Đây là những nguyên tắc hình thành trong quá trình
phát triển cùa luật môi trường quốc tế và hiện nay đang được
thừa nhận chung bởi các quốc gia và các chủ thể khác của luật
quốc tế.3
1 Những nguyên tắc này có nguồn gốc từ các nguyên
tắc cơ bản của luật quôc tê và có tính phô biên trong khoa học
pháp lý quốc tế. Mặc dù vậy, những nguyên tắc này phần lớn
có tính chính trị, thể hiện chủ yếu qua việc kêu gọi thực hiện
30 Xem Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sđd, tr. 89-110.
31 Các nguyên tắc này được ghi nhận trong các văn kiện quôc tê đa phương
về môi trường tiêu biểu là hai Tuyên Bô Stockholm 1972 và Tuyên bô Rio
năm 1992.
220
một cách tận tâm, thiện chí và trên tinh thần hợp tác. Điều
quan trọng là chúng không được coi như ràng buộc pháp lý
đối với các quốc gia. Ngoài ra, nội hàm của những nguyên tăc
này vẫn chưa được xác định đầy đủ. Tuy nhiên, chúng đóng
vai trổ là kim chỉ nam đối với hoạt động của các chủ thể của
luật môi trường quốc tế. Điều này được thể hiện ở việc chúng
đươc đề cập đến trong hầu hết các điều ước quốc tế vê môi
trường và chương trình nghị sự của các quốc gia, đồng thời
còn được viện dẫn trong các án lệ quốc tế về môi trường.
1.5.1.1. Nguyên lẳc môi trường là mối quan tăm
chung của nhân loại
Từ giữa thế kỷ 20, cùng với sự công nhận quốc tế các
quyền tự do cơ bản của con người, việc bảo vệ môi trường
sống đã dần dần được coi là mối quan tâm chung của nhân
loại.32 Cộng đồng quốc tế đã nhìn nhận việc giải quyết ở quy
mô toàn cầu các vấn đề xuyên biên giới về môi trường đòi hỏi
phải có sự tham gia của tất cả các quốc gia. Trong bối cảnh
đó, khái niệm về “lợi ích chung” của cộng đồng quốc tê đã
xuất hiện trong các điều ước quốc tế liên quan đến việc khai
thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên.33
Nguyên tắc này nhấn mạnh tầm quan trọng của môi
trường đối với sự sống còn và phát triển của toàn nhân loại và
vì thế mọi quốc gia và chủ thể của luật quốc tế càn phải nô
lực hợp tác nhằm giải quyết các vân đê môi trường toàn câu.
32Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tlđd, tr. 16.
33 Ví dụ như Lời nói đầu của Công ước Quốc tế về điều chinh hoạt động đánh
băt cá voi (International Convention for the Regulation of Whaling,
Whasington 02/12/1946); Công ước về đánh bát cá trên vùng biển cả thuộc
Băc Thái Bình Dưcrng ký tại Tokyo ngày 9/5/1952. Gần đây, khái niệm “sụ
quan tâm chung cùa nhân loại” về môi trường được ghi nhận tại Công ư ớ c vê
đa dạng sinh học 1992 (khẳng định bảo tồn đa dạng sinh học lắ mối quan tâm
chung cùa nhân loại) và Công ước khung cùa LHQ về biến đổi khí hậu (tuyên
bổ sự thay đôi về khí hậu cùa trái đất và những tác động xấu cùa nó là sự quan
tâm chung cùa nhân loại).
221
Mặc dù, nguyên tắc về sự quan tâm chung của nhân loại
đối với môi trường không hàm chứa những quy định và nghĩa
vụ pháp lý cụ thể, nguyên tắc này tạo ra cơ sở pháp lý chung
cho hoạt động của cộng đồng quốc tế. vấn đề môi trường trở
thành vấn đề chung của cộng đồng quốc tế, theo đó cộng đồng
quốc tế có trách nhiệm bảo tồn các loài động thực vật đang
biến mất hoặc tuyệt chủng, các hệ sinh thái và các nguồn tài
nguyên đang bị đe dọa. Bảo vệ môi trường đã được thể hiện
thống nhất trong nội hàm của khái niệm về sự phát triển bền
vững hiện đang được thừa nhận là mối quan tâm chung của
toàn nhân loại.34
Ý nghĩa của nguyên tắc này còn được thể hiện qua việc
ghi nhận quyền hợp pháp của tất cả các quốc gia được khởi
kiện đối với những thiệt hại do một quốc gia đã có hành vi vi
phạm pháp luật quốc tế làm phương hại đến lợi ích chung của
nhân loại liên quan đến môi trường.35 Tòa án Quốc tế trong
các bản án của mình đã công nhận trách nhiệm bảo đảm sự
cân bàng về sinh thái của trái đất là một lợi ích thiết yếu của
34 Alexandre Kiss and Dinah Shelton tlđd, tr. 14.
35 Luật quốc tế ghi nhận quyền của quốc gia bị thiệt hại khởi kiện một quốc
gia khác do có hành vi vi,phạm pháp luật quốc tế. Quyền khởi kiện hiện nay
được thừạ nhận không chi' chọ quốc gia bị thiệt hại mà còn được thừa nhận
đối với tât cả các quốc gia nếu sự vi phạm đó làm phương hại đến lợi ích
chung cùa nhân loại. Đây được coi là một nghĩa vụ chung cùa mọi quốc gia
{erga omnes). vấn đề này được khẳng định tại phán quyết của Tòa án Quốc tế
trong vụ Barcelona Traction, Light and Power Company giữa Bi và Tây Ban
Nha năm 1972 như sau: "Cân thiêt phải có sự phân biệt giữa nghĩa vụ của các
quác gia đổi với cộng đồng quốc tế nói chung và những nghĩa vụ phát sinh
đôi với một quôc gia khác trong lĩnh vực báo hộ ngoại giao. Bởi bán chát cùa
chúng, những nghĩa vụ chung đôi với cộng đồng quốc tế là mối quan tâm cùa
tất cá các quôc gia. vẻ tâm quan trọng cùa các quyền Hen quan, tất cả các
quôc gia được coi là đêu có một lợi ích pháp lv trong sự bào vệ cùa họ, chúng
là những nghĩa vụ chung (erga omnes)".
222
mọi quốc gia và mục đích của chúng chính là sự bảo vệ cộng
đồng quốc tế nói chung.36
1.5.1.2. Nguyên tắc môi trường là di sản chung của
nhân loại
Khái niệm “di sản chung của nhân loại” xuất hiện vào
cuối những năm 1960 thay thế cho hai cách tiếp cận việc sừ
dụng các nguồn tài nguyên chung.37 Khái niệm này là nền
tảng cho sự ra đời của nguyên tắc khẳng định quyền sở hữu
của cả cộng đồng quốc tế đối với những lĩnh vực ngoài phạm
vi chiếm hữu của các quốc gia.
Trên cơ sở nguyên tắc này, những chế độ pháp lý đặc
biệt được tạo ra nhằm thiết lập sự quản lý quốc tế đối với
vùng đáy đại dương và lòng đất dưới đáy đại dương, Nam
Cực và mặt trăng. Nguyên tắc “di sản chung của nhân loại”
đối với những khu vực ngoài sự tài phán của quốc gia tạo cơ
sờ cho việc sử dụng những khu vực đó bảo đảm tính hòa bình,
hợp lý và khoa học trên tinh thần bảo tồn di sản chung của
nhân loại để chuyển giao cho các thế hệ sau.
1.5.1.3. Nguyên tắc ngăn ngừa sự gây hại (prevention
o f harm)
Luật quốc tế thừa nhận thẩm quyền tuyệt đối của mỗi
quốc gia trên phần lãnh thổ của mình. Tuy nhiên, những hoạt
động được phép thực hiện hoặc có nguôn gôc từ lãnh thô của
một quốc gia vẫn có thể gây hại hoặc xâm phạm đến chủ
36 Ví dụ vụ kiện Gabcikovo-Nagymaros giữa Hungary và Slovakia năm 1997.
37 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tlđd, tr. 15. Cách tiếp cận thứ nhât (res
nulliiis) cho rằng các loài động thực vật hoang dã không thuộc về bắt kỳ ai và
vì vậy chúng có thể được tự do sử dụng và chiếm hữu. Cách tiếp cận thứ hai
ịres commtmis) ghi nhận quyền sờ hữu chung cùa cộng đồng đồng thời thừa
nhận quyền sử dụng chung đối với những nguồn tài nguyên chung cũng như
việc khai thác những khu vực chung và quyền tự do hàng hải trong vùng biên
quốc tế.
223
quyền của quốc gia khác. Điều này dẫn đến xung đột về
quyền lợi giữa các quốc gia liên quan. Đây chính là tiên đê
cho sự ra đời của nguyên tăc vê ngăn ngừa sự gây hại. Vân đê
đầu tiên liên quan tới việc ngăn ngừa những nguy hại cho
quốc gia khác là ô nhiễm xuyên biên giới.38 Từ án lệ Traỉỉ
Smelter (Mỹ và Canada), nghĩa vụ ngăn chặn sự gây hại cho
môi trường có tính chất liên quốc gia đã đặt nền móng cho
việc thừa nhận nguyên tắc này tại Tuyên bố Stockholm năm
1972 (Nguyên tắc 21).39 Nguyên tắc này được khẳng định lại
trong những điều ước quốc tế về môi trường như Công ước về
đa dạng sinh học (Điều 2) và Công ước của LHQ về biến đổi
khí hậu và được Tòa án Công lý quốc tế xem như là một tập
quán quốc tế về môi trường.40
Nguyên tắc đòi hỏi các quốc gia có nghĩa vụ ngăn chặn
các ô nhiễm xuyên biên giới yêu cầu mồi quốc gia phải hành
động một cách hợp lý và trên tinh thần thiện chí nhàm điều
chỉnh các hoạt động công và tư trong phạm vi thẩm quyền của
mình cũng như kiểm soát các nguy cơ gây thiệt hại cho môi
trường. Mặc dù không đê cập nghĩa vụ ngăn chặn triệt để tất
cả các nguồn gây hại, nguyên tắc này yêu cầu các quốc gia
phải câm những hành vi có khả năng gây nguy hại đáng kể
cho môi trường (như việc trút bỏ các chất thải độc hại vào các
hồ biên giới) và loại trừ khả năng gây hại cho môi trường từ
những hành vi hợp pháp (như việc đưa ra những giới hạn
38 Vấn đề ngăn ngừa ô nhiễm xuyên biên giới được các quốc gia nêu ra tại
Khuyên nghị cùa OECD năm 1974 (OECD Council Recommendation c (72)
219 14/11/1974).
39 Nguyên tắc số 21 của Tuyên bố Stockholm nêu rõ “Cức quốc gia, trên cơ sờ
phù hợp với Hiên chirơng LHQ và những nguyên tắc cùa luật quốc tế, có
quyển chú quvền trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên theo những chính
sách cùa riêng mình, và có trách nhiệm đàm báo rằng những hoạt động trong
phạm vi lài phán hoặc kiêm soát cùa họ là không gây thiệt hại cho môi trường
cùa cúc quốc gia khác hoặc những vùng nam ngoài phạm vi quyền tài phán
quốc gia".
')0 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, llđd, tr. 91.
224
trong việc đưa các chất thải vào khí quyển hoặc các nguồn
nước sử dụng chung).
Không chỉ đề ra nghĩa vụ ngăn chặn sự gây hại cho môi
trường có tính chất liên quốc gia, nguyên tắc này còn nhằm
mục đích loại trừ những sự gây hại không phụ thuộc vào việc
chúng có ảnh hường xuyên biên giới hay không. Cơ sở cho
nghĩa vụ ngăn chặn sự gây hại trong trường hợp này xuất phát
từ sự liên hệ mật thiết giữa các yếu tố của môi trường và khả
năng không thể tái tạo lại nguyên trạng (ví dụ như những thiệt
hại gây ra đối với những giống loài động thực vật có nguy cơ
tuyệt chủng, sự xói mòn và thiệt hại gây ra do việc thải đổ các
chất độc hại xuống biển hoặc chi phí quá lớn cho việc khắc
phục hậu quả). Nguyên tắc này được nhấn mạnh trong nhiều
điều ước quốc tế có liên quan đến vấn đề môi trường như
Công ước của LHQ về luật biển 1982,41 Công ước của LHQ
về sử dụng các dòng sông quốc tế 1979,42 Công ước về đa
dạng sinh học năm 1992.
Nguyên tắc này tạo tiền đề cho việc hình thành các cơ
chế pháp lý nhằm mục đích ngăn ngừa sự gây hại cho môi
trường. Chẳng hạn như quy định về việc đánh giá trước các
tác hại đối với môi trường và thủ tục cấp phép đối với các
hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm đưa ra các điều kiện thực
hiện hoạt động và cách xử lý đối với những vi phạm. Ngoài
ra, nguyên tắc này là cơ sờ quan trọng để ấn định giới hạn đối
với sự ô nhiễm, tiêu chuẩn về sản phẩm hoặc quy trình sản
xuất cũng như việc ban hành hoặc bãi bỏ các chính sách quốc
gia về môi trường. Nguyên tắc này hiện nay còn được ghi
nhận trong các điều ước quốc té điều chỉnh những lĩnh vực
khác nhau về môi trường, chẳng hạn như việc bảo vệ hệ sinh
41 Công ước cùa LHQ về luật biển 1982 (UNCLOS), Điềul92.
42 Điều 20 của Công ước cùa LHQ về sừ dụng các dòng sông quốc tế.
225
thái của các dòng sông quốc tế43 hoặc bảo vệ các loài sinh vật
đang có nguy cơ bị đe dọa.44
1.5. ỉ. 4. Nguyên tắc phòng ngừa (precaution)
Nguyên tắc phòng ngừa được coi là một trong những
điều khoản quan trọng nhất nêu ra tại Tuyên bố Rio 1992, cụ
thể tại nguyên tắc số 15, theo đó “Nhằm bảo vệ môi trường,
nguyên tắc phòng ngừa sẽ được áp dụng một cách rộng rãi
bởi các quốc gia tùy theo khả năng của họ. Trong trường hợp
tồn tại khả năng về sự gây hại một cách nghiêm trọng hoặc
không thế khắc phục đối với môi trường, các quốc gia không
thể lẩy lý do về sự thiếu chắn chắn về mặt khoa học nhằm trì
hoãn việc áp dụng các biện pháp để ngăn chặn sự suy thoái
môi trường”.
Ke từ năm 1992, nguyên tắc phòng ngừa được đề cập và
áp dụng trong hầu hết các điều ước quốc tế về bảo vệ môi
trường.45 Bên cạnh đó, nguyên tắc này còn được đề cập trong
khuôn khổ của Tổ chức Thương mại thế giới WTO liên quan
đến việc sử dụng các biện pháp nhằm bảo vệ môi trường và
sức khỏe, đặc biệt là tại Điều XX Hiệp định GATT và tại
Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và dịch tễ. Tuy nhiên, việc
viện dẫn nguyên tắc này không được coi là cơ sở để thực hiện
những hành vi trái với các nghĩa vụ của thành viên W T0.46
Nguyên tắc phòng ngừa đòi hỏi các quốc gia có nghĩa
vụ tiến hành những biện pháp cần thiết nhằm ngăn ngừa trước
những gây hại có khả năng xảy ra đối với môi trường.
43 Ví dụ, Điều 22 của Công ước về các dòng sông quốc tế, 1979.
44 Ví dụ, Công ước Ramsar 1971, Điều 2(6).
45 Ví dụ, Nghị định thư vê an toàn sinh học năm 2000 ban hành trong khuôn
khổ Công ước về đa dạng sinh học, Điều 1, 10, 11.
46 Gillian Triggs, International Law, Contemporary Principles and Practices,
LexisNexis Butterworth, 2011, tr. 875.
226
Nguyên tắc phòng ngừa có sự khác biệt với nguyên tắc
về ngăn chặn sự gây hại đối với môi trường. Cụ thể, nguyên
tắc phòng ngừa đòi hỏi các quốc gia thực hiện các biện pháp
chuẩn bị để đổi phó với những đe dọa đối với môi trường
đang còn ở dạng tiềm ẩn, chưa chắc chắn hoặc ở dạng phỏng
đoán hoặc việc xảy ra đe dọa đối với môi trường là chưa thể
khẳng định bằng những bằng chứng cụ thể. Nguyên tắc ngăn
chặn sự gây hại đòi hỏi các quốc gia có những hành động cụ
thể áp dụng đối với những nguy cơ xảy ra thiệt hại đối với
môi trường dựa trên cơ sở chắc chắn hoặc rõ ràng hơn. Trong
trường hợp đã có sự ngăn chặn đối với những thiệt hại có khả
năng xảy ra cho môi trường và các biện pháp ngăn chặn
không thể loại trừ hoàn toàn những nguy cơ gây hại thì việc
đề cao nguyên tắc ngăn ngừa trước là hết sức quan trọng, đặc
biệt đối với những hành vi mà hậu quả để lại cho môi trường
là hết sức nghiêm trọng hoặc không thể khôi phục lại như
ban đầu.
1. 5. 1. 5. Nguyên tắc trách nhiệm đền bù của bên gây ô
nhiêm (polluter pays)
Nguyên tắc này được đưa ra bởi OECD như một nguyên
tắc kinh tế và được coi như là cách thức hữu hiệu nhất để
phân định chi phí cho việc ngăn chặn sự ô nhiễm và các biện
pháp kiểm soát ô nhiễm.47 Nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc
xác định chi phí do việc gây hại cho môi trường mà quốc gia
gây ra phải trả. Ngoài ra, nguyên tắc này còn có mục đích
khuyến khích việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên
nhiên khan hiếm và để tránh việc gây tác hại đến môi trường
trong các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế. Nội dung
của nguyên tắc này được đề cập tại Tuyên bố Rio 1992 như
sau: "Cúc nhà chức trách của các quốc gia nên cố gắng đay
mạnh sự quốc tế hóa những chi phỉ môi trường và việc sử
47Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tỉđd, tr. 95
2 2 7
dụng các biện pháp kinh tể, lưu ỷ đến cách tiếp cận rằng bên
gây ô nhiễm về nguyên tắc sẽ gánh chịu chi ph ỉ đôi với ó
nhiễm gây ra đổi với lợi ích công và không làm phương hại
đến thương mại và đầu tư quốc /é.”48
Nguyên tắc này còn được ghi nhận trong nhiều điêu ước
quốc tế về môi trường ở tầm khu vực cũng như toàn câu,
chẳng hạn Công ước về bảo vệ môi trường biển ở Đông Băc
Đại Tây Dương năm 1992 (Điều 2(2)(b)): “các bên ký kết sẽ
áp dụng nguyên tắc đền bù cho ô nhiễm... theo đó những chi
p h í của việc ngăn chặn ô nhiễm, kiểm soát và các biện pháp
giảm thiểu sẽ do bên gây ra ô nhiễm gánh chịu".
Trên thực tế, việc áp dụng nguyên tắc này tùy thuộc vào
mức độ của việc kiểm soát và ngăn chặn ô nhiễm, vào mức độ
thiệt hại và khái niệm “giảm thiểu” có bao hàm việc bồi
thường hay không? Khái niệm bên gây ô nhiễm ịpolutter) có
thể bao gồm các nhà sản xuất, khách hàng sử dụng các hàng
hóa và những người phải trả giá cao hơn do việc phải áp dụng
những biện pháp sản xuất nhằm hạn chế ô nhiễm. Bên phải
gánh chịu hậu quả của sự ô nhiễm có thể là cả cộng đồng
hoặc những người tiêu dùng.
Nguyên tắc này được áp dụng trong phạm vi từng quốc gia
thông qua việc áp dụng các hình phạt và trách nhiệm dân sự đối
với bên gây ra ô nhiễm. Nhìn chung, bên gây ra ô nhiễm phải chi
ưả các chi phí cho các biện pháp kiểm soát ô nhiễm, ví dụ như chi
phí cho việc xây dựng và vận hành các hệ thống thiết bị hoặc quy
trình được lắp đặt để hạn chế ô nhiễm.49
1
8Tuyên bố Rio, Nguyên tắc 16.
49 Ví dụ như Chi thị của Cộng đông châu Âu EC (Directive 84/631) ngày
6/12/1984 về kiểm soát việc vận chuyên bằng đường biển các loại chất thải
độc hại quy định các quốc gia thành viên phải ấn định chi phí vê việc kiêm
soát chất thải độc hải đối với chủ sờ hữu các chất thải đó.
228
1.5.1.6. Nguyên tắc phát triển bền vững
Kể từ cuối những năm 1980, nguyên tắc phát triển bền
vững đã chi phối các ’ />ạt động quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường.50 Tại Báo cáo của ủ y ban Thế giới về môi trường
và phát triển vào năm 1987, “phát triển bền vững” được định
nghĩa là “sự phát triển đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại
nhưng không làm ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu
của các thế hệ tương lai”. Báo cáo này cũng đã chỉ ra 6 mục
tiêu của sự phát triển bền vững, bao gồm:
- Phục hồi đồng thời thay đổi chất lượng tăng trưởng;
- Đáp ứng nhu cầu thiết yếu về việc làm, lương thực,
năng lượng, nước sạch và vệ sinh dịch tễ;
- Đảm bảo sự ổn định về dân số
- Bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên
- Tái định hướng công nghệ và quản lý nguy cơ gây hại
- Gắn môi trường với các vấn đề kinh tế trong quyết
định chính sách.
Tuyên bố Rio đề cập nguyên tắc “phát triển bền vững”
trong nhiều nguyên tắc của mình nhưng không đưa ra một
định nghĩa cụ thể. Thay vào đó, “phát triển bền vững” được
nêu ra trong sự liên hệ với những yếu tổ gắn liền với nó.
Nguyên tắc số 1 khẳng định “con người là sự quan tâm chính
yếu của phát triển bền vững”. Nguyên tắc số 3 nêu rõ “phát
triển bền vững là việc đáp ứng nhu cầu về môi trường và phát
triển của các thế hệ hiện tại và tương lai”. Nguyên tắc số 4
của Tuyên bố Rio nhấn mạnh rằng “để đạt được sự phát triển
bền vững, vấn đề bảo vệ môi trường nên được xem như một
50 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tlđd, tr. 97.
2 2 9
phần cấu thành của quá trình phát triển và không thể được
xem xét tách rời khỏi quá trình đó”. Như vậy, khái niệm “phát
triển bền vững” là mục tiêu hướng tới của sự phát triển, trong
đó việc bảo vệ môi trường là quan trọng nhằm đảm bảo sự tồn
tại và phát triển lâu dài của các thế hệ tương lai. Nguyên tắc
này đòi hỏi các quốc gia phải quan tâm đến những chiến lược
lâu dài trong đó bao gồm việc giải quyết các vấn đề liên quan
đến môi trường như áp dụng các biện pháp đánh giá tác động
đến môi trường và xã hội, phân tích nguy cơ và tính toán chi
phí - lợi ích cũng như thống kê nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Ngoài ra, các quốc gia cần phải đặt vấn đề môi trường trong
việc ban hành các chính sách kinh tế, xã hội của mình, đồng
thời đảm bảo sự minh bạch và sự tham gia rộng rãi của nhân
dân vào việc quyết định các chính sách của nhà nước.
1.5.2. Các nguyên tắc áp dụng trong quá trình thực
hiện nghĩa vụ của quốc gia đối với các vấn đề môi trường
Phần này phân tích những nguyên tắc có tính chất kỹ
thuật thể hiện dưới hình thức các nghĩa vụ mà các quốc gia áp
dụng trong quá trình giải quyết các vấn đề môi trường quốc
té. Những nghĩa vụ này bao gôm:
- Nghĩa vụ phải biết;
- Nghĩa vụ thông tin và tham vấn;
- Nghĩa vụ đảm bảo sự tham gia của công chúng.
1 5 2 1 Nghĩa vụ phải biết (duty to know)
Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc thực
thi các biện pháp ngăn ngừa thiệt hại đối với môi trường bởi
lẽ việc áp dụng đúng đắn các biện pháp này chỉ có thê được
230
thực hiện trên cơ sở kién thức đầy đủ về điều kiện môi trường
cũng như khi việc đánh giá tác động môi trường của các hoạt
động trong những lĩnh vực liên quan được tiến hành bằng
những thông tin cần thiết. Nguyên tắc này được đề cập trong
nhiều điều ước quốc tế về môi trường.51
Nguyên tắc này có sự liên hệ với nguyên tắc về ngăn
ngừa sự gây hại. Bởi, việc giám định khả năng tiềm ẩn của
những thiệt hại đên môi trường là cần thiết cho việc xúc tiến
những hoạt động nhàm ngăn chặn sự gây ô nhiễm hoặc thiệt
hại đến mội trường. Chẳng hạn, Điều 206 Công ước của LHQ
vê luật biên 1982 yêu cầu các quốc gia phải tiến hành đánh
giá khả năng dần đên ô nhiễm môi trường biển và công bô
báo cáo về kết quả đánh giá này trong trường hợp có cơ sở để
tin răng các hoạt động dự định tiến hành trong phạm vi lãnh
thô và quyên tài phán của họ có khả năng gây ô nhiêm
nghiêm trọng hoặc kéo theo những thay đổi có hại một cách
đáng kể đối với môi trường biển.
Nguyên tắc này đòi hỏi các quốc gia trong quá trình
thực hiện, ban hành các luật và chính sách về môi trường của
mình phải đảm bảo thu thập những thông tin đáng tin cậy và
đánh giá thường xuyên về môi trường. Để tuân thủ nguyên
tăc này, luật môi trường quốc tế và pháp luật môi trường của
mồi quốc gia thông thường quy định các cơ chế giám sát, báo
cáo và theo dõi thông tin về môi trường. Các thông tin được
thu thập từ việc kiêm tra, giám sát trên cơ sở khoa học sẽ là
căn cứ đê thực hiện các hoạt động tiếp theo liên quan đên
môi trường.
Ví dụ, theo Công ước về đa dạng sinh học các quốc gia
thành viên có nghĩa vụ xác định các thành phần cấu thành
quan trọng của đa dạng sinh học và giám sát chúng thông qua
5
1 Ví dụ như Nguyên tắc số 17 cùa Tuyên bố Rio năm 1992 Côn» ước luật
biên 1982, Công ước về đa dạng sinh học.
231
việc lấy mẫu hoặc các biện pháp kỹ thuật khác. Hoạt động
này có thể được tiến hành bởi các doanh nghiệp, các tổ chức
hoặc cơ quan chức năng trung ương hoặc địa phương.
Nguyên tắc số 19 của Hiến chương thế giới về thiên nhiên
năm 1982 được thông qua bởi Đại hội đồng LHQ khuyên
khích các quốc gia, tổ chức quốc tế và cộng đồng doanh
nghiệp giám sát ờ tất cả các lĩnh vực của môi trường về nguy
cơ suy thoái môi trường nhàm mục đích “tạo khả năng phát
hiện sớm sự suy thoái hoặc đe dọa cho môi trường, đảm bảo
can thiệp kịp thời và tạo điều kiện cho việc đánh giá chính
sách bảo tồn cũng như các phương pháp tiến hành”. Nghĩa vụ
giám sát và theo dõi môi trường được quy định rõ ràng trong
một số điều ước quốc tế, ví dụ'như Công ước của LHQ về
luật biển năm 1982 (Điều 204), Công ước về ô nhiễm tầm xa
xuyên biên giới năm 1979.
1.5.2.2. Nghĩa vụ thông tin và tham vẩn
Nguyên tắc về nghĩa vụ thông tin và tham vấn được thể
hiện tại nguyên tắc số 19 của Tuyên bố Rio, theo đó “các
quốc gia nên thông bảo trước và kịp thời và cung cấp những
thông tin có liên quan về những hoạt động có khả năng gây
tác động xấu đáng kẽ đến môi trường liên quốc gia cho những
quôc gia có khà năng bị ảnh hưởng bởi những hoạt động đó,
đồng thời nên tham vấn với những quốc gia này ở những giai
đoạn sơ khai trên tinh thần thiện chỉ”.51 Như vậy, nguyên tắc
này yêu câu các quôc gia trước khi thực hiện hoậc cho phép
tiến hành các hoạt động có khả năng tác động đáng kể đến
môi trường của một quốc gia khác phải thông báo cho quốc5
2
52 Yêu cầu về việc thông báo trước với thời gian hợp lý và tiến hành tham vấn
với các quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng do các hoạt động liên quan đến
môi trường được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế, chẳng hạn như Công
ước nãm 1979 về ô nhiêm tâm xa xuyên biên giói (Điều 5); Văn kiện của
OECD năm 1974 ghi nhận các nguyên tắc liên quan đến ô nhiễm xuyên biên
giới (Điều 8).
232
gia đó, đồng thời cung cấp cho quốc gia này hồ sơ thích hợp
của dự án, miễn là việc cung cấp này không bị cấm đoán bởi
pháp luật quốc gia mình hoặc bởi các điều ước quốc tế.
Bên cạnh nghĩa vụ cung cấp thông tin, nguyên tắc này
còn đòi hỏi các quốc gia tham vấn với các quốc gia liên quan
và việc thông tin cũng như tham vấn phải được tiến hành trên
tinh thần hợp tác và thiện chí. Quốc gia tiến hành các hoạt
động có khả năng gây tác động đến môi trường phải sẵn sàng
thảo luận về dự án dựa trên thông tin cung cấp cho các quốc
gia có khả năng chịu ảnh hưởng bời những hoạt động đó,
đồng thời không cản trở những quốc gia này tiến hành việc
theo dõi các hoạt động liên quan đến dự án của mình.
Nguyên tắc này còn yêu cầu quốc gia có hoạt động có
khả năng gây ảnh hưởng đến môi trường tạo điều kiện cho cư
dân của những quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng bởi những
hoạt động đó tiếp cận thông tin về dự án cũng như các thủ tục
về hành chính và tố tụng, đồng thời tạo điều kiện cho họ có
thể tiến hành các hoạt động đòi bồi thường cho những thiệt
hại mà họ phải gánh chịu. Ngoài ra, quốc gia phải thông báo
ngay lập tức cho những quốc gia khác về những tình huống
hoặc sự việc khẩn cấp có thể làm phương hại đên môi trường
của họ cùng với những thông tin cần thiết. Điều này được thể
hiện ở nghĩa vụ thông báo về những thảm họa về môi trường
trong một số điều ước quốc tế, ví dụ như Công ước của LHQ
về luật biển 1982 (Điều 198).
1.5.2.3. Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của công
chúng (public participation)
Nội dung nguyên tắc đảm bảo sự- tham gia của công
chúng được nêu tại Tuyên bố Rio 1992, theo đó các quốc gia
phải đảm bảo quyền được tiếp cận thông tin, sự tham gia của
công chúng và tiêp cận với thủ tục hành chính và tô tụng bao
gồm cả quá trình khôi phục lại và khắc phục hậu quả. Nguyên
ZÒ3
tắc này nhằm đảm bảo quyền của những người dân có khả
năng chịu ảnh hưởng bởi các hoạt động liên quan đến môi
trường góp tiếng nói của mình trong việc quyết định những
vấn đề về môi trường.53 Điều này xuất phát từ quan điểm cho
ràng những vấn đề môi trường tốt nhất nên được giải quyết
với sự tham gia của dân chúng có liên quan ở những cấp độ
thích hợp.54
Đe đảm bảo sự tham gia của dân chúng vào các hoạt
động môi trường, các điều ước quốc tế đã đưa ra nhiều hình
thức khác nhau, bao gồm các hoạt động như vận động hành
lang, phổ biến công khai và đối thoại, tuyên truyền, giáo dục
nâng cao nhận thức cũng như các hoạt động khác nhằm đảm
bảo sự tham gia của dân chúng 'vào quá trình lập pháp và
quyết định chính sách cũng như sự tham gia của dân chúng
vào quá trình đánh giá tác động đến môi trường.55
1.5.3. Các nguyên tắc đảm bảo sự công bằng
(equitable princỉples)
Vấn đề đảm bảo sự công bằng được đưa ra trong hầu
hết các điều ước quốc tế về môi trường nhằm mục đích phân
bẻ một cách cân bằng và điều phối các nguồn tài nguyên khan
hiếm giữa các quôc gia mà cụ thể là giữa các nước phát triển
và các nước đang phát triên. Bên cạnh đó, việc thực hiện vấn
đề công bằng nhằm đảm bảo những lợi ích do các nguồn tài
nguyên môi trường mang lại, những chi phí cho việc bảo vệ
chúng và bât kỳ sự suy thoái nào xảy ra cho môi trường đều
í5 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tlđd, tr. 102.
54 Tuyên bố Rio 1992, Nguyên tắc 10.
55 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tlđd, tr. 103; Công ước về hiệu ứng
xuyên biên giới cùa các vụ tai nạn vê công nghiệp năm 1992; Công ước về
đánh giá tác động đôi với môi trường trong bối cảnh xuyên biên giới năm
1991; Nghị định thư Cartagena vê đa dạng sinh học (Điều 23); Công ước về
tiếp cận thông tin, sự tham gia cùa dân chúng và tiếp cận tư pháp đối với
những vấn đề môi trường 1998.
234
sẽ được chia sẻ công bằng giữa mọi quốc gia trong cộng đồng
quốc tế. Điều này giúp dung hòa mâu thuẫn giữa những chính
sách kinh tế và xã hội nhằm đạt đến sự chia sẻ hợp lý các
nguồn tài nguyên. Mặc dù những nguyên tắc này mang nặng
tính chính trị nhưng ý nghĩa của chúng trong việc giải quyết
những vấn đề môi trường là hết sức quan trọng.
1.5.3.1. Nguyên tẳc đảm bảo sự công bằng giữa các
thế hệ
Cơ sở của việc ghi nhận nguyên tắc này trong luật quốc
tế dựa trên 2 tiền đề cơ bản. Thứ nhất, sự sống của con người
xuất phát và phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên của
trái đất và chính vì thế không thể tách rời khỏi các điều kiện
môi trường. Thứ hai, duy nhất con người có khả năng biến đổi
môi trường. Do đó, con người ở thế hệ này có nghĩa vụ đặc
biệt phải bảo vệ và gìn giữ sự toàn vẹn của trái đất nhằm mục
đích đảm bảo sự tồn tại lâu dài của loài người trong tương lai.
Nói một cách khác, thế hệ hôm nay đang thừa hưởng những gì
để lại của thế hệ trước, do đó phải có trách nhiệm duy trì và
chuyển giao nó cho những thế hệ tiếp theo.
Nguyên tắc bảo đảm sự công bằng giữa các thế hệ yêu
cầu các quốc gia, đóng vai trò như những người quản lý đối
với tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ tương lai, có trách
nhiệm trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên hiện có cũng
như phải hạn chế và loại trừ lihững tác hại về lâu dài và
không thể tái tạo lại được cho môi trường. Từ đó, nguyên tắc
này được thể hiện ở ba nội dung cơ bản. Thứ nhất, mỗi thế hệ
có trách nhiệm bảo tồn sự đa dạng của tự nhiên và nguồn tài
nguyên về văn hóa. Thứ hai, chất lượng của hệ sinh thái
chuyển giao cho các thế hệ tương lai phải đảm bảo tương
xứng với những gì mà thế hệ hiện nay đang thừa hưởng. Thứ
ba, những di sản văn hóa và thiên nhiên hiện tại cũng như còn
lại trong quá khứ phải được bảo tồn để đảm bảo cho các thế
hệ sau có thể tiếp cận chúng.
235
1.5.3.2. Nguyên tắc trách nhiệm chung trên cơ sở có
sự phân hóa (Common but differentiated responsibilities)
Nguyên tắc này được thể hiện trong nội dung của các
văn kiện của Hội nghị Rio năm 1992, cụ thể là tại các nguyên
tắc số 6 và 7 cùa Tuyên bố Rio. Nội dung của các nguyên tắc
này thể hiện sự ưu tiên dành cho các quốc gia kém phát triển
và các quốc gia dễ bị thương tổn nhất về môi trường. Nguyên
tắc này bao hàm trách nhiệm có tính lịch sử của các nước phát
triển đối với sự suy thái về môi trường mà họ đã gây ra để có
được sự giàu có ngày hôm nay. Nguyên tắc số 7 của Tuyên bố
Rio không chỉ nêu ra trách nhiệm có tính lịch sử của các nước
phát triển mà còn tuyên bố trách nhiệm của những nước này
trong việc đảm bảo phát triển bền vững của hiện tại và trong
tương lai.
Có thể nói, việc ghi nhận nguyên tắc này trong hầu hết
các điều ước quốc tế đa phương về môi trường là một thắng
lợi quan trọng của các nước đang phát triển và kém phát triển
trong việc đòi hỏi các nước phát triển phải có nghĩa vụ tích
cực hơn đối với môi trường, cụ thể là kêu gọi các nước này
tiên phong trong việc giải quyết những vấn đề môi trường
hiện tại. Điều đáng lưu ý là mặc dù trách nhiệm bảo vệ môi
trường là mối quan tâm chung và được chia sẻ bời tất cả các
quốc gia, nguyên tắc này yêu cầu các quốc gia có sự đóng góp
khác nhau nhằm giải quyết những vấn đề quốc tế trên cơ sở
khả nãng và trách nhiệm thực tế của từng nước.
Cụ thể hơn, nguyên tắc này yêu cầu các nước phát triển
phải đóng góp nhiều hơn thông qua việc chi trả cho những
thiệt hại gây ra cho môi trường trong quá khứ cũng như hiện
tại và tương lai. Điều này được thể hiện khá rõ nét trong việc
thực hiện trách nhiệm khăc phục những thiệt hại cho môi
trường như biến đổi khí hậu và suy thoái bầu khí quyển vốn là
hậu quả của quá trình công nghiệp hóa ở những quôc gia này.
236
1.5.3.3. Nguyên tắc sử dụng công bằng các nguồn tài
nguyên chia sẻ chung (equitable utilisation o f shared
resources)
Nguyên tắc này được áp dụng rộng rãi trong việc khai
thác các ngúồn tài nguyên chia sẻ chung giữa các quốc gia
như các nguồn nước, cá và các đối tượng được khai thác khác.
Nguyên tắc này được đề cập tại Điều 2 của Công ước về luật
đối với việc sử dụng các nguồn nước quốc tế năm 1997 của
LHQ, theo đó các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải tiến
hành mọi biện pháp cần thiết nhàm đảm bảo các nguồn nước
quốc tế được sử dụng một cách hợp lý và công bằng. Nguyên
tắc này sau đó còn được công nhận trong các phán quyết của
Tòa án Công lý quốc tế trong các vụ việc tranh chấp về thẩm
quyền đánh bat (Fisheries Jurisdiction giữa Anh và Iceland,
Đức và Iceland) năm 1974, vụ kiện Gabcikovo - Nagymaros
(Hungary và Slovakia) năm 1997.
Nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc phân chia một cách
“hợp lý” hoặc đạt đến một kết quả công bằng trong việc phân
chia các nguồn tài nguyên khan hiếm dựa trên những tiêu chí
liên quan như nhu cầu, việc sử dụng hoặc quyền sử dụng
trước đó cũng như các lợi ích khác. Từ đó, các quốc gia được
coi là có quyền bình đẳng trong việc sử dụng các nguồn tài
nguyên, tuy nhiên việc đặt ra những giới hạn cho việc sử
dụng của các bên là cần thiết khi mà mỗi bên đều có nhu cầu
sử dụng mà nguồn tài nguyên không thể thỏa mãn tất cả các
bên hoặc việc sử dụng nguồn tài nguyên này của một quốc gia
có thể làm phương hại đến việc sử dụng của quốc gia kia.
Nguyên tắc này đã được áp dụng để phân chia nguồn nước
giữa Mỹ và Canada theo Hiệp ước về các vùng nước biên giới
năm 1907 hoặc giữa Ai Cập và Sudan khi khai thác và sử
dụng nguồn nước sông Nil theo Hiệp ước ký năm 1959.
II. MỘT SÓLĨNH Vực ĐIÊU CHỈNH cơ BẢN CỦA
LUẬT MÔI TRƯỜNG QUOC TÉ
Phần này trình bày những lĩnh vực cơ bản của luật môi
trường quốc tế hiện đang được điều chỉnh chủ yếu bởi những
điều ước quốc tế khu vực và toàn cầu. Đây là những lĩnh vực
quan trọng gắn liền với những thành tố của môi trường và có
liên hệ mật thiết đến sự tồn tại và phát triển của cộng đồng
quốc tế. Cụ thể, phần này nghiên cứu vấn đề bảo vệ môi
trường biển; bảo vệ bầu khí quyển; đa dạng sinh học và kiểm
soát ở quy mô quốc tế đối với các chất và chất thải nguy
hiểm, độc hại.
2.1. Bảo vệ môi trường biển
2.1.1. Khái quát khung pháp lý quốc tế về bảo vệ môi
trường biển
Vụ việc đầu tiên có ý nghĩa quan trọng cho sự hình
thành khung pháp luật môi trường quốc tế điều chỉnh vấn đề ô
nhiễm môi trường biển xảy ra vào năm 1967 khi tàu chở dầu
Torrey Canyon bị chìm ngoài khơi kênh English Channel. Vụ
đăm tàu được coi là một thảm họa môi trường làm tràn hơn
100.000 tân dầu ra biển gây ra hiệu ứng thủy triều đen và làm
thiệt hại cho vùng ven biển của Pháp và Anh. Vụ việc dẫn đến
nhu câu giải quyêt rất nhiều đơn kiện đòi bồi thường và trách
nhiệm dân sự căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành.
Tô chức Tư vấn hàng hải quốc tế {International Maritime
Consultative Organization, IMCO)56 sau đó đã đưa ra dự thảo
2 công ước vào năm 1969 liên quan đến trách nhiệm dân sự
do thiệt hại gây ra do tràn dầu và sự can thiệp ở vùng biển
quôc tê trong trường hợp xảy ra ô nhiễm dầu và sau đó là
56 International Maritime Consultative Organization (IMCO) thành lập năm
1948 là tiền thân cùa Tô chức Hàng hải quốc tế (International Maritime
Organisation, IMO).
238
Công ước bổ sung năm 1971 về thành lập quỹ quốc tế dành
cho việc bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu.
Bảo vệ môi trường biển là một trong những vấn đề quan
trọng được nêu ra tại Hội nghị Stockholm năm 1992 và trờ
thành chủ đề quan tâm trong quá trình lập pháp về môi trường
diễn ra kể từ những năm đầu của thập niên 1970.37 Nhu cầu
bảo vệ môi trường biển đã có những tác động nhất định tới
quá trình soạn thảo Công ước của LHQ về luật biển bắt đầu từ
năm 1973 và sau đó Công ước về luật biển cũng đã có những
đóng góp quan trọng trong việc hình thành khung pháp luật về
bảo vệ môi trường biển, một lĩnh vực điều chỉnh của luật môi
trường quốc tế. Cụ thể, phần XII của Công ước luật biển 1982
với 46 điêu khoản quy định việc bảo vệ môi trường biên,
trong đó ghi nhận nội dung của các điều ước quốc tế riêng rẽ
điều chỉnh vấn đề thải đổ chất thải ô nhiễm xuống biển (Công
ước London năm 1972 và Công ước khu vực Oslo năm 1972)
và ngăn chặn sự gây ô nhiễm môi trường biển từ tàu thuyền
(Công ước về ngăn chặn ô nhiễm biển từ tàu thuyền -
International Convention for the Prévention o f Pollution from
Ships - MARPOL 73/78). Ngoài ra, những nỗ lực khác trong
việc xây dựng các điều ước quốc tế về chống ô nhiễm môi
trường biển đã được xúc tiến bởi UNEP trong thời gian này
như việc thông qua Công ước Barcelona về bảo vệ Địa Trung
Hải chống lại sự ô nhiễm và các nghị định thư kèm theo.5
7
58
57Catherine Redwell, tỉđd, tr..698.
58 Cụ thể, các nghị định thư cùa Công ước Barcelona đề cập đến một loạt các
vấn đề như ô nhiễm môi trường biển gây ra bời hoạt độíig thải đô, ô nhiễm bắt
nguồn từ đất liền và các hoạt động dưới đáy biển, hợp tác hành động trong
trường hợp khẩn cấp, những lĩnh vực bảo vệ đặc biệt và sự vận chuyên xuyên
biên giới các chất thải độc hại. Công ước Barcelona đã được sữa đôi vào năm
1995 sau Hội nghị Rio và nội dung cùa Công ước đã trờ thành khuôn mẫu cho
việc ra đời cùa các điều ước quốc tế khu vực điều chinh vấn đề chống ô nhiễm
môi trường biền.
2 3 9
Đối với vấn đề chống ô nhiễm môi trường biển bởi việc
thải đổ, các điều ước quốc tế về vấn đề này ở phạm vi khu
vực áp dụng cách tiếp cận có tên gọi “cấm trừ khi được phép”
(prohibited anless permitted). Theo đó, việc thải đô sẽ không
được phép tiến hành trừ khi nó được cho phép trong các
trường hợp ngoại lệ. Những trường hợp ngoại lệ này được
quy định rât chặt chẽ, liên quan đên các loại chât thải được
phép thải đổ như bùn đất do nạo vét hoặc nước thải cũng như
những chất thải từ các thiết bị lắp đặt ngoài khơi. Trên cơ sở
nguyên tăc phòng ngừa trước, bên gây ô nhiêm phải chứng
minh răng việc thải đô xuông biên sẽ không gây ra những hậu
quả nghiêm trọng đối với môi trường biển.
Liên quan đến vấn đề ô nhiễm gây ra do hoạt động của
tàu thuyên, Công ước MARPOL 73/78 áp dụng một cách tiếp
cận khung, theo đó đưa ra các quy định kỹ thuật cụ thể liên
quan trong 6 phụ lục kèm theo của Công ước bao gồm điều
chỉnh việc thải dầu xuống biển (Phụ lục 1); kiểm soát chất
độc lỏng độc hại trong thùng chứa (Phụ lục 2); kiểm soát các
chât độc hại chuyên chở trên biển dưới dạng đóng gói (Phụ
lục 3); quy định ngăn ngừa ô nhiễm do nước thải từ tàu (Phụ
lục 4); ngăn ngừa ô nhiễm do rác thải từ tàu (Phụ lục 5) và
ngăn ngừa ô nhiêm không khí do tàu thuyền gây ra (Phụ lục
6). Các quốc gia tham gia Công ước MARPOL bắt buộc phải
chấp nhận ít nhất là hai Phụ lục số 1 và 2.59 Ngoài ra, một số
59 Một trong những quy định quan trọng của Công ước MARPOL là việc sử
dụng các chứng chi tiêu chuân hóa vê chông ô nhiêm dầu quốc tế gắn liền với
việc giám sát và kiêm tra thường xuyên đôi với các tàu thuyền. Ngoài ra, các
tàu chở dầu và tàu thuyên khác phải có Sô ghi chép liệt kê các hoạt động liên
quan đến dầu và sổ ghi chép này có thê được xem xét bời bất kỳ quốc gia
thành viên nào của Công ước MARPOL cũng như các quốc gia ven biển nào
không phải là thành viên cùa MARPOL, phù hợp với Công ước luật biện
1982. Ngoài Công ước MARPOL, Công ước luật biên cũng ghi nhận quyền
của các quốc gia ven biển trong việc tiên hành việc điêu tra, kiêm tra và băt
giữ tàu trong những trường hợp cụ thê tại vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Cơ sơ đe tien hành những hoạt động này là sự vi phạm đến các quy tắc và tiêu
240
điều ước quốc tế khác cũng đã được ký kết nhằm điều chỉnh
hoạt động của các tàu chở dầu trên biển.60 vấn đề khắc phục ô
nhiễm đối với những sự cố tràn dầu cũng được điều chỉnh bởi
một số điều ước quốc tế.61 Bên cạnh ô nhiễm cho môi trường
biên từ dầu, các ô nhiễm gây ra từ các nguồn khác cũng được
điêu chỉnh bởi luật quốc tế.62
2.1.2. Quy định của Công ước của LH Q về luật biển
năm 1982 liên quan đến bảo vệ môi trường biển
Các điều khoản về môi trường trong Công ước luật biển
1982 điều chỉnh 3 loại nguồn gây ô nhiễm cơ bản: nguồn ô
nhiễm từ đất liền, nguồn ô nhiễm từ tàu thuyền và nguồn ô
nhiễm từ không khí. Các quy định này áp dụng cho tất cả các
vùng biển, bao gồm vùng biển quốc tế và các vùng biển thuộc
chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển. Công ước
chuẩn quốc tế đối với việc ngăn ngừa, giảm thiểu và kiêm soát đối với những
ô nhiễm từ tàu thuyền, ví dụ như công ước MARPOL, nêu sự vi phạm đó đe
dọa hoặc gây ra những thiệt hại về môi trường.
60 Cụ thể, có thể kể đến Công ước về trách nhiệm dân sự đối với những thiệt
hại do ô nhiễm dầu năm 1969 và Công ước về thành lập quỹ quốc tế về bồi
thường cho những thiệt hại do ô nhiễm dầu năm 1971. Hai công ước này xác
định trách nhiệm đối với nguy cơ ô nhiễm cho các chù tàu cũng như cơ chế
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành bồi thường. Hai công ước này được
cập nhật bởi Nghị định thư nãm 1992. Một công ước khác, xây dựng trên
khuôn mẫu của Công ước về trách nhiệm dân sự đôi với thiệt hại do ô nhiễm
dầu, liên quan vấn đề ô nhiễm gây ra do các thùng chứa dầu từ tàu đã được ký
kêt vào nãm 2001 và có hiệu lực từ năm 2008.
6
1 Công ước liên quan đến sự can thiệp trên biển cả trong những trường hợp ô
nhiễm dầu năm 1969 cho phép quốc gia ven biên được phép can thiệp ở ngoài
vùng lãnh hải của họ nếu có sự cố tràn dầu xảy ra. Công ước về dự phòng và
đôi phó ô nhiễm dầu năm 1990 yêu cầu sự chuẩn bị các biện pháp đối phó cho
những sự cố tràn dầu khẩn cấp.
Tiêu biểu, có thể kề đến việc mở rộng phạm vi áp dụng của Công ước về
dự phòng và đối phó ô nhiễm dầu đối với các chất nguy hại khác ngoài dâu
vào năm 1973 và Nghị định thư thông qua năm 2000 cho phép áp dụng
Công ước đối với các chất độc hại và nguy hiểm có khả nâng gây ô nhiễm
môi trường biên
241
ấn định nghĩa vụ của các quốc gia ven biển liên quan đên việc
bảo vệ và gìn giữ môi trường biên. Công ước cũng yêu câu
các quốc gia tiên hành hợp tác quôc tê khu vực và toàn câu
trong việc bảo vệ môi trường biển.
2. 1. 2. 1. Quyền và nghĩa vụ của các quốc gia trong
việc bảo vệ môi trường biển
Công ước xác định các quốc gia có thẩm quyền thực thi quyên
tài phán đối với vấn đề ô nhiễm biển bao gồm các quốc gia mà tàu
thuyền mang quốc tịch; các quốc gia cảng biển và các quốc gia ven
biên. Các quôc gia này có nghĩa vụ ban hành luật lệ và các quy định
trong nước cũng như tiến hành các biện pháp cần thiết để thực thi các
quy tăc và luật lệ quôc tê trong lĩnh vực này nhàm ngăn chặn và kiêm
soát ô nhiễm môi trường biển.
Các quốc gia mà tàu thuyền mang quốc tịch có nghĩa vụ đảm
bảo các tàu thuyên mang cờ của quôc gia mình phải tuân thủ đúng
các quy tắc và luật lệ quốc tế cũng như của chính quốc gia mình, bao
gôm việc đảm bảo các giây tờ theo quy định và kiểm ưa định kỳ
cũng như câm hoạt động trong trường họp không đảm bảo yêu cầu.
Các quốc gia này có thâm quyền tiến hành điều ưa, thực hiện hoạt
động tố tụng và trừng phạt đối với vi phạm, không phụ thuộc vào vi
phạm đó xảy ra ở đâu (Điêu 217)
về phía các quốc gia cảng biển, theo Điều 218 của Công
ước 1982 về luật biển, ưong trường hợp các tàu thuyền đến các
cảng (bao gôm các cảng xa bờ) của mình, các quốc gia này có thể
điều tra và khi có bằng chứng đảm bảo, có thể tiến hanh hoạt động
tố tụng nếu những chiếc tàu này (i) có hành vi vi phạm các quy tắc
và luật lệ quôc tê hiện hành trên vùng biển quốc tế hoặc (ii) có
hành vi vi phạm trong vùng nội thủy, lãnh hải và vùng đặc quyền
kinh tế của quôc gia khác nêu như quôc gia đó yêu cầu hoặc hành
vi vi phạm đã gâỵ ra hoặc có khả năng gây ra ô nhiễm đối với các
vùng biển của quôc gia mưih.
Ngoài ra, các quốc gia này còn có quyền cấm tàu thuyền nước
ngoài đi vào cảng của quốc gia mình nếu có sự vi phạm các quy tắc
242
và luật lệ liên quan đến khả năng đi biển, đe dọa gây thiệt-hại cho
môi trường, trừ khi sự vi phạm đó đã được xừ lý.
Quốc gia ven biển phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa để
ngăn chặn ô nhiễm biển như thông báo cho các quốc gia khác về
nguy cơ ô nhiễm biển sắp xảy ra; xây dựng các phương án đối phó,
kiểm soát nguy cơ ô nhiễm và đánh giá khả năng gây ô nhiễm biển
và nguy cơ gây tác hại một cách đáng kể đến môi trường biển của các
hoạt động và thông báo cho các quốc gia khác về những đánh giá
này. Quốc gia ven biển có thẩm quyền tuyệt đối theo Điều 220 trong
việc ngăn chặn sự ô nhiễm môi trường biển trong vùng lãnh hải và
đặc quyền kinh tế của mình.63 Cụ thể:
- Quốc gia ven biển có quyền lập pháp nhằm ngăn chặn ô
nhiễm biển bởi tàu thuyền trong vùng lãnh hải (Điều 211(4)) và đặc
quyền kinh tế (Điều 211(5)) phù họp với các quy tắc và luật lệ quốc
tế. Đối với lãnh hải, thẩm quyền này chi bị giới hạn ưong chừng mực
nó không làm phương hại đến quyền qua lại vô hại;
- Quốc gia ven biển có quyền tiến hành kiểm ưa đối với một
chiếc tàu nếu có cơ sở rõ ràng để tin rằng có sự vi phạm dẫn đến thiệt
hại hoặc đe dọa gây ra ô nhiễm môi trường đáng kể cho môi trường
biển (Điều 220(5)). Nếu việc vi phạm gây ra thiệt hại lớn hoặc đe dọa
gây thiệt hại lớn cho bờ biển hoặc các lợi ích liên quan của mình,
quốc gia ven biển có quyền tiến hành các hoạt động tố tụng, bao gồm
việc bắt giữ chiếc tàu theo luật quốc gia mình hoặc cho phép chiếc
tàu đó tiếp tục hành ưình nếu như nó đã đóng tiền thế chân hoặc có
các biện pháp tài chinh đảm bảo việc tuân thủ (Điều 220(7)). Việc tố
tụng này cũng phải đảm bảo lợi ích của quốc gia mà con tàu mang
quốc tịch;
63 Tuy nhiên, trên nguyên tắc miễn trừ quốc gia các quy định của Công ước về
bảo vệ và gìn giữ môi trường biển sẽ không áp dụng cho các tàu chiến, tàu hải
quân hỗ trợ cũng như các máy bay và tàu biển của nhà nước sử dụng vào mục
đích phi thưorng mại (Điều 236).
243
- Quốc gia ven biển có quyền áp dụng các biện pháp chê tài
dân sự nhằm khắc phục và đền bù cho những thiệt hại gây ra cho môi
trường biên. Các biện pháp chế tài hình sự được áp dụng đôi vói
những vi phạm cố ý và nghiêm trọng trong lãnh hải và chỉ áp dụng
các hình thức phạt tiền áp dụng đối với tàu nước ngoài vi phạm ngoài
lãnh hải (Điều 230);
- Công ước ấn định trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia
ven biển do không tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế về bảo vệ và gìn giữ
môi trường biển. Ngoài ra, quốc gia ven biển cũng chịu trách nhiệm
về những thiệt hại hoặc mất mát mà họ gây ra do việc áp dụng các
biện pháp quá mức cần thiết hoặc bất hợp pháp trong khi áp dụng các
quy định về môi trường biển của Công ước.
2.1.2.2. Hành động trong trường hợp khẩn cấp
Trường hợp khẩn cấp có thể hiểu là nhũng sự cố xảy ra do có
sự hiện diện hoặc sự đe dọa của hydrocarbon hoặc các chất gây ô
nhiễm nguy hiểm khác tạo nên một sự đe dọa tức thì và nghiêm trọng
đôi với bò biển hoặc các lợi ích liên quan của một quốc gia.64 vấn đề
này cũng là một trong những nội dung phát triển nhất của luật quốc tế
về bảo vệ môi trường biển. Ở quy mô toàn cầu, vấn đề này được điều
chỉnh băng những nguyên tắc chung của Công ước luật biển 1982
(Điều 189, Điều 204 và Điều 211(7)) cũng như Công ước London về
chuẩn bị đối phó và hợp tác chống lại sự cố về dầu năm 1990 và các
nghị định thư kèm theo. Trước khi hai công ước này được ký kết, vấn
đề này được điều chỉnh bởi các điều ước quốc tế khu vực.65
64 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, Guide to International Environmental
Law (Martinus N ijhoff Publishers, 2007) trang 203.
65 Ví dụ Công ước về bào vệ đôi với môi trường biển và khu vực bờ biển Địa
Trung Hải - Công ước Barcelona năm 1976(77?e Convention for the
Protection of the Marine Environment and the Coastal Region of the
Mediterranean)', Công ước Kuwait vê hợp tác và bào vệ môi trường biển khòi
sự ô nhiễm - Công ước Kuwait năm 1978 (Kuwait Regional Conventionfor
Co-operation on the Protection of the Marine Environmentfrom Pollution);
Công ước về bảo vệ môi trường biên và khu vực ven bờ Đông Nam Thái Bình
244
Nhìn chung, nghĩa vụ của quốc gia trong trường họp khẩn cấp
bao gồm:66
- Thực hiện riêng rẽ hoặc phối hợp các biện pháp thích hợp
nhăm chuân bị và săn sàng ứng phó đôi với một sự cô tràn dâu. Sự
chuẩn bị bao gồm thành lập cơ quan chuyên trách quốc gia và khu
vực, các điểm báo cáo và cơ quan thay mặt cho quốc gia yêu cầu sự
trợ giúp; xây dựng chương trình quốc gia về hành động khẩn cấp và
huân luyện nhân sự; ừang bị kê hoạch hành động trên các tàu mang
quốc tịch của mình và có thể được kiểm tra cũng như xây dựng các
kê hoạch hành động tương tự tại cảng biên và các cơ sở trên bờ...;
- Đảm bảo khả năng phản ứng khi xảy ra sự cố;
- Hợp tác nhằm cung cấp dịch vụ tư vấn, trợ giúp kỹ thuật và
trang thiết bị;
- Cung cấp những thông tin cần thiết để ứng phó với nguy cơ
xảy ra và đảm bảo kết nối thông tin;
- Thực thi hệ thống giám sát nguy cơ (quy định tại Điều 204
Công ước luật biển 1982) và hợp tác với các quốc gia nhằm phát
triển và hoàn thiện các chương trình đối phó ô nhiễm;
- Thành lập các trung tâm trợ giúp lẫn nhau trong trường hợp
xảy ra sự cố;
- Thông báo kịp thời đến các quốc gia có khả năng bị ảnh
hưởng, các quốc gia quan tâm và tổ chức quốc tế liên quan cũng như
các tàu thuyền về sự cố gây ô nhiễm hoặc có khả năng gây ô nhiễm
Dương - Công ước Lima năm 1981 (Convention for the Protection of the
Marine Environment and Coastal Area of the South-East Pacific); Công ước
vê hợp tác trong việc bảo vệ và phát triên môi trường biển và bờ biên Tây và
Trung Phi - Công ước Abidjian năm 1981 (Convention for Co-operation in
the Protection and Development of the Marine and Coastal Environment of
the West and Central African Region)
66Xem Công ước London 1990.
245
biển về sự hiện diện, đặc điểm và mức độ lan tỏa có thể quan
sát được...;
- Họp tác thực hiện cứu hộ nhằm giảm thiểu sự đe dọa của ô
nhiễm, cung cấp nhân sự, trang thiết bị, giám sát và tạo điều kiện
chuyển giao nhân sự, tài liệu và thiết bị.
2.1.2.3. Điều chinh các nguồn gây ô nhiễm biển
Phần này trình bày những vấn đề cơ bản liên quan đến việc
điều chỉnh các nguồn gây ô nhiễm biển dựa vào bốn tiêu chí phân
loại của Công ước của LHQ về luật biển năm 1982 bao gồm: ô
nhiễm từ tàu thuyền; ô nhiễm từ đất liền; ô nhiễm từ việc thăm dò và
khai thác đáy biển.
a. Ô nhiễm từ tàu thuyền
Việc gây ô nhiễm môi trường biển có thể do những hành vi từ
tàu thuyền bao gồm việc thải đổ chất thải xuống biển, xả xuống biển
các loại dầu khác nhau, súc rửa khoang chứa ừên tàu chở dầu và việc
xả ra nước biển dùng để cân bàng trong các khoang chứa dầu rỗng.
Công ước luật biển 1982 xác lập khung pháp lý quốc tế điều chỉnh
vấn đề này bằng các điều khoản 194(3)(b), 211 và 217-221.
Để kiểm soát và ngăn chặn nguồn gây ô nhiễm từ tàu thuyền,
các quốc gia phải tiến hành các biện pháp bao gồm việc giảm đến
mức thấp nhất sự ô nhiễm từ tàu thuyền, xây dựng và áp dụng cơ chế
cho việc ngăn ngừa sự cố và xừ lý trong trường hợp khẩn cấp, đảm
bảo an toàn cho tàu thuyền hoạt động trên biển, ngăn chặn kịp thời
việc xả thải cô ý và vô ý và điêu chinh việc thiết kê, xây dựng, trang
bị, hoạt động và khai thác tàu thuyên, phát triển hệ thống định tuyến
nhằm hạn chế tối đa nguy cơ xảy ra ô nhiễm. Các quy định cụ thể về
nghĩa vụ của quốc gia trong việc hạn chế, giảm thiểu và kiểm soát ô
nhiễm từ tàu thuyền được quy định chi tiết tại Điều 211.
b. Ô nhiễm từ đất liền
Ô nhiễm biển có nguồn gốc từ đất liền có thể được định nghĩa
như là những ô nhiễm do sự xả ra bởi các cơ sở ữên bờ biển hoặc từ
246
bất kỳ nguồn nào nằm ứên đất liền hoặc công trình nhân tạo, bao
gồm cả những ô nhiễm từ các dòng sông đổ ra biển. Mặc dù đây là
một nguồn gây ô nhiễm biển khá nghiêm ữọng nhưng việc ngăn chặn
và xử lý nó lại khó khăn do sự phức tạp trong việc xác định nguồn ô
nhiễm. Điều này dẫn đến nhu cầu điều chỉnh toàn diện đối với các
nguồn nước đổ ra biển. Bên cạnh các quy định của pháp luật quốc gia
về cấm xả thải hoặc cấp phép trước đối với hoạt động xả thải cụ thể,
sự hợp tác của các quốc gia cũng hết sức quan trọng. Các quy định
của Công ước luật biển năm 1982 trong lĩnh vực này áp dụng tương
tự như đối với các nguồn gây ô nhiễm khác. Theo đó, các quốc gia
phải tiến hành các biện pháp càn thiết nhàm hạn chế đến mức thâp
nhất có thể việc nhận chìm các chất độc có hại và độc hại, đặc biệt là
các chất không bị phân hủy từ các nguồn ở đất liền (Điều 194(3)(a).
Các quốc gia có nghĩa vụ ban hành luật và quy định và các biện pháp
khác nhàm ngăn chặn, hạn chế và kiểm soát nguồn gây ô nhiễm này
(Điều 207) và đảm bảo việc áp dụng chúng (Điều 213).
Ngoài ra, bảo vệ các dòng sông khỏi sự ô nhiễm cũng nhằm
mục đích ngăn ngừa và hạn chế ô nhiễm biển. Hiện tại, Công ước
của LHQ về việc sử dụng không định hướng các nguồn nước quốc tê
năm 1997 {the 1997 UN Convention on the Law o f the Non-
Navigational Uses o f International Watercourses) có các quy định
liên quan đến vấn đề này. Cụ thể, các quốc gia trên cơ sờ riêng rẽ
hoặc hợp tác với các quốc gia khác phải tiến hành mọi biện pháp cân
thiết nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển đối với các nguồn nước
quốc tế bao gồm các cửa sông ưên cơ sở phù họp với các quy tắc và
tiêu chuẩn quốc tế (Điều 23).67 Ngoài ra, các điều ước quốc tế khu
vực cũng điều chỉnh vấn đề chống ô nhiễm từ đất liền, trong đó ngăn
cấm việc xả thải các chất độc hại, khó phân hủy; liệt kê các ngành
công nghiệp có khả năng gây ô nhiễm như sản xuất điện, lọc dầu,
chăn nuôi, du lịch ...; liệt kê đặc điểm của các chất gây ô nhiễm (khó
phân hủy, khả năng ảnh hưởng đến sức khỏe, mùi vị, màu sắc, độ
67 Xem Điều 23 Công ước 1997 về sử dụng không định hướng các nguồn
nước quốc tế.
2 4 7
trong suốt...) hay phân loại các chất độc hại như các thành phần và
các chất halogen hữu cơ, kim loại nặng và chất diệt sinh vật.68
c. Thăm dò và khai thác đáy biển
Công ước của LHQ về luật biển 1982 xác định nguồn ô nhiễm
biển có nguồn gốc từ quá trình vận hành các công trình và thiết bị
nhằm thăm dò và khai thác đáy biển. Điều 194(3) quy định các quốc
gia có nghĩa vụ tiến hành riêng rẽ hoặc phối họp các biện pháp phù
hơp với quy định của Công ước nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự
ô nhiễm từ các hoạt động này, đặc biệt là thi hành các biện pháp
nhằm phòng ngừa các sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp,
đảm bảo an toàn cho các hoạt động ưên biển, quy đinh về cách thiết
kế, cấu trúc, trang bị, việc khai thác các thiết bị hay phương tiện này
và thành phần nhân viên được sử dụng ờ đó.
Liên quan tới hoạt động tương tự đối với vùng (phạm vi
biển nằm ngoài các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ
quyên và quyên tài phán của các quốc gia, được coi là di sản
chung của nhân loại),69 Công ước nêu lên sự cần thiết phải áp
dụng các biện pháp thi hành theo đúng Công ước để bảo vệ có
hiệu quả môi trường biên chông lại những tác hại có thể có do
các hoạt động đó gây ra (Điêu 145).
Ngoài các quy định về bảo vệ môi trường biển theo Công ước
luật biển 1982, các hoạt động thăm dò và khai thác đáy biển còn
được điều chỉnh bởi Công ước của UNESCO về bảo vệ các di sản
68 Ví dụ Công ước Bắc Âu về bào vệ môi trường (Nordic Environmental
Protection Convention) năm 1974; Công ước về bào vệ môi trường biên khu
vực Baltic (Convention on the Protection of the Marine Environment of the
Baltic Sea Area) năm 1974; Công ước về bảo vệ vùng biển Địa Trung Hải
chống lại sự ô nhiêm (Conventionfor the Protection ofthe Mediterranean Sea
Against Pollution) năm 1976; Công ước vê hợp tác trong việc bảo vệ và phát
triển môi trường biên và ven bờ Tây và Trung Phi (Convention for Co-
Operation in the Protection and Development of the Marine and Coastal
Environment ofthe West and Central African Region) năm 1981...
69 Xem thêm chưong Luật biển quốc tế
248
văn hóa nằm dưới nước năm 2002. Công ước này được ký kết nhằm
mục đích bảo vệ các nguồn di tích lịch sử và khảo cổ do tàu thuyền bị
chim đắm và các cổ vật khác của con người dưới đáy biển. Liên quan
đến việc bảo vệ môi trường, Công ước quy định các hoạt động nhắm
đến các di sản ở dưới đáy biển cần phải được thực hiện phù hợp với
các quy tắc và tiêu chuẩn đổi với việc khảo cổ dưới đáy biển. Các dự
án về thăm dò phải được cơ quan chức năng thông qua và tuân thủ
các quy định về môi trường và không làm ảnh hưởng đến đáy biển và
các sinh vật biển.
2.2. Bảo vệ khí quyển
Các quy định của luật môi trường quốc tế về bảo vệ bầu khí
quyển được chia thành ba lĩnh vực cụ thể liên quan đến ô nhiễm
không khí xuyên biên giới, suy thoái tầng ozone và biến đổi khí hậu
toàn cầu.
2.2.1. Ô nhiễm không khỉ
Vấn đề chống lại ô nhiễm không khí bắt nguồn từ tranh chấp
giữa Mỹ và Canada trong vụ Trail Smelter năm 1941. Phán quyết của
trọng tài đã đưa đến một nguyên tắc tập quán theo đó “không quốc
gia nào có quyền sử dụng hoặc cho phép sử dụng lãnh thổ của mình
để phát tủn khói gây thiệt hại nghiêm trọng đến lãnh thổ, tài sản và
ngirời dân của quốc gia khác; những thiệt hại phải thể hiện qua
những chứng cứ xác thực Vít thuyết phục”. Từ đó, các quốc gia chịu
trách nhiệm về mọi tổn thất gây ra do vi phạm nghĩa vụ kiểm soát ô
nhiễm không khí xuyên biên giới. Theo nguyên tắc số 21 của Tuyên
bo Stockholm năm 1972, "các quốc gia... có trách nhiệm bão đảm
những hoạt động thuộc chủ quyền quốc gia không gây thiệt hại đến
môi trường cúa các quốc gia khác hoặc các khu vực virợt quá giới
hạn chủ quyền quốc gia”.
Cho tới nay, Công ước Geneva về ô nhiễm không khí tầm xa
xuyên biên giới năm 1979 là công ước duy nhất ở tầm khu vực quy
249
định việc kiểm soát ô nhiễm không khí tầm xa.70 Mục tiêu mà
Công ước đề ra là nhàm ngăn ngừa, giảm thiểu và kiểm soát ô
nhiễm không khí tầm xa từ nguồn gây ô nhiễm mới và đang tồn
tại, qua đó kêu gọi các quốc gia hợp tác thực hiện các biện pháp
kiểm soát ô nhiễm và xây dựng các tiêu chuẩn phát thải chung.
“Ô nhiễm không khí” được định nghĩa tại Điều l(a) Công ước
là “sự đưa vào không khí thực hiện bởi con người một cách trực
tiếp hoặc giản tiếp những chất hoặc năng htợng gây ra những
hiệu ứng độc hại cho môi trường từ đó gây hại cho sức khỏe
của con người, đe dọa các nguồn Sống và hệ sinh thái và tài
sản vật chất và làm thiệt hại hoặc can thiệp đối với tiện ích và
việc sử dụng một cách hợp pháp môi trường’'. “Ô nhiễm không
khí tầm xa xuyên biên giới” đqợc định nghĩa là “những tác hại
hiện diện trong phạm vi tài phán của một quốc gia do sự phát
thải có nguồn gốc từ khu vực thuộc phạm vi tài phán của một
quốc gia khác không phụ thuộc vào việc nguồn phát thải có thể
được xác định hay không”.
Tính chất “khung” của Công ước thể hiện ở việc thiếu vắng
những mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm cụ thể. Thay vào đó, Công ước
chỉ quy định việc một chương trình giám sát môi trường nhằm thu
thập thông tin để đánh giá mức độ nghiêm trọng của ô nhiễm, tiếp
theo là việc đàm phán những nghị định thư nhằm giảm thiểu sự phát
tán của những chất thải ôn nhiễm không khí cụ thể. Cách tiếp cận
“khung” này cho phép các quốc gia từng bước đạt được những thỏa
thuận sơ khởi tại thời điểm Công ước ra đời, khi mà các quốc gia
thành viên chưa thể đạt được sự đồng thuận về những biện pháp
nhăm giải quyêt một vân đê môi trường cụ thể nào đó. Cho đến nay,
đã có 8 nghị định thư về giám sát cũng như về các chất gây ô nhiễm
không khí cùng với những mục tiêu giảm thiểu cụ thể và các lịch
trình lần lượt được ban hành kèm với công ước khung đầu tiên, qua
đó đã mở rộng phạm vi cam kết của các quốc gia.
70 Công ước được ký kết giửa các nước ở châu Âu, đồng thời Mỹ và Canada
cũng tham gia Công ước này.
250
Điều đáng lun ý là Công ước này ban đầu không đề cập ưách
nhiệm dân sự cũng như vấn đề tuân thủ mặc dù Công ước cũng đã có
những điều khoản về thông báo và tham vấn ừong trường họp có
nguy cơ xảy ra ô nhiễm xuyên biên giới đáng kể. Một cơ chế theo dõi
việc không tuân thủ Công ước của các quốc gia thành viên đã được
bổ sung kể từ năm 199471 cùng với việc thành lập một ủy ban có
nhiệm vụ xem xét việc tuân thủ các nghĩa vụ của Công ước và
các nghị định thư kèm theo.72
2.2.2. Chổng suy thoái tầng ozone
Vấn đề suy thoái tầng ozone đã được nhìn nhận như là
một vấn đề môi trường đáng quan tâm kể từ cuối những năm
1970. Kể từ năm 1981, UNEP đã xúc tiến các cuộc đàm phán
để ký kết Công ước Vienna về bảo vệ tang ozone vào năm
1985. Cũng giống như Công ước về ô nhiễm không khí tầm xa
xuyên biên giới, Công ước Vienna 1985 áp dụng một cách tiếp
cận “khung”, thể hiện ở việc Công ước chủ yếu đề cập nhu cầu
đánh giá nguyên nhân và hậu quả của vấn đề suy thoái tầng
ozone và khả năng hợp tác trao đổi thông tin và công nghệ có
liên quan. Điều này có thể được giải thích bởi lợi ích đối lập
giữa các quốc gia.73 Những khác biệt về lợi ích này đã được
giải quyết bởi việc thông qua Nghị định thư Montreal về các
71 Cụ thể, một cơ chế theo dõi việc tuân thù Công ước đã được đưa vào kể từ
năm 1994 theo khuôn mẫu cùa việc kiểm soát tầng ozone cùa Nghị định thư
Montreal năm 1987.
72 ửy ban này được thành lập vào năm 1997 có tên gọi là ửy ban về việc thực
hiện Công ước (Implementation Committee ).
73 Cụ thể Mỹ quan tâm đến việc thiết lập những quy tắc bình đẳng cho việc
điều chỉnh các chất làm suy thoái tànậ ozone trong khi đó các nước đang phát
triển quan tâm đến vấn đề đàm bào rang những hạn chế đổi với việc sù dụng
các chất gây suy thoái tầng ozone sẽ không làm phương hại đến chính sách
phát triên công nghiệp, đồng thời vẫn đảm bào việc tiêp cận đối với những
công nghệ thay thế trong trường hợp những hạn chế này được áp dụng. EU,
nơi có nhiều các nhà sản xuất lại quan tâm đếii chi phí cho các bước tiến hành
đồng thời không tin tường vào các kết luận khoa học về tác hại cùa những
chất thải gây suy thoái.
251
chât gây suy thoái tâng ozone năm 1987. Bên cạnh việc đưa ra
những mục tiêu cắt giảm cụ thể, tiến tới loại bỏ các chất gây
suy thoái tâng ozone, bằng những sửa đổi bổ sung tiếp theo,
Nghị định thư đã đê xuất những biện pháp khuyến khích dưới
hình thức tài chính747
5và kỹ thuật để thu hút các quốc gia đang
phát triên tham gia. Bên cạnh đó, một cơ chế giám sát việc
không tuân thủ cũng được ban hành. Cụ thể, việc đảm bảo
tuân thủ Nghị định thư sẽ được thực hiẹn bởi các quốc gia
thông qua hô trợ (cung câp tài chính thông qua quỹ đa phương
hoặc hô trợ kỹ thuật) cũng như áp dụng một số biện pháp chê
tài (như việc đựa ra khuyên cáo và/hoặc ngưng không áp dụng
những đặc quyên quy định tại Điều 5 về việc trì hoãn không
thực hiện các biện pháp kiểm soát dành cho các nước đang
phát triển). Ngoài ra, các sửa đổi của Nghị định thư cũng đã
bô sung thêm những mục tiêu nghiêm ngặt hơn cũng như lịch
trình và phương pháp khôi phục tầng ozone.
2.2.3. Biến đổi khỉ hậu
Tại Hội nghị Rio năm 1992, những cuộc đàm phán để đi
đến một điêu ước quôc tế khung về biến đổi khí hậu được xúc
tiến trên cơ sở sự công nhận của Đại hội đồng LHQ ràng bầu
khí quyên là “môi quan tâm chung cùa nhân loại” và nghiên
cứu của ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu cung cấp
những định hướng quan trọng nhằm điều chỉnh việc phát thải
khí gây hiệu ứng nhà kính ở quy mô toàn cầu. Kết quả là Công
ước khung của LHQ về biến đối khí hậu đã được thông qua
vào năm 1992.73
Muc tiêu của Công ước là nhàm đạt được sự ổn định các
nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa
đươc sư can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống
74Cụ thể như việc thành lập 1 quỹ đa phương (Multilateral Fund).
75 Con° ước được mở để ky vào ngày 30 tháng 5 năm 1992 và bắt đầu có hiệu
lực tìr noày 21 tháng 5 năm 1994. Tại thời điểm tháng 5 năm 2011, Công ước
đã có 194 thành viên.
252
khí hậu.76 Công ước quy định tất cả các bên ký kết có nghĩa vụ
tiến hành kiểm kê các nguồn khí gây hiệu ứng nhà kính và các
bể hấp thụ (sinks), thiết lập các chương trình quốc gịa và
những chương trình khu vực khi thích hợp đê giảm thiêu sự
biến đổi khí hậu toàn cầu; hợp tác đê chuẩn bị thích ứng với
những tác hại của khí hậu biến đổi và phát triển nghiên cứu
khoa học. Công ước khẳng định việc áp dụng chung cho cả
các quốc gia phát triển và đang phát triên trong đó có tính đên
những trách nhiệm chung nhưng có khác biệt và những ưu
tiên, những mục tiêu và những hoàn cảnh phát triên của từng
khu vực và quốc gia. Ngoài ra, Công ước còn ấn định trách
nhiệm của các quốc gia phát triển trong việc cung câp các
nguồn tài chính mới và bổ sung để đáp ứng cho những chi phí
mà các quốc gia đang phát triển phải gánh vác khi tuân thủ
Công ước. Nguồn tài chính trong khuôn khổ Công ước là Quỹ
môi trường toàn cầu (Global Environemental Facility) do
Ngân hàng Thế giới, UNEP và Chương trình phát triên của
LHQ (United N ations’ Development Programme, UNDP)
quản lý.
Các quốc gia thành viên của Công ước được chia thành
3 loại:
- Các quốc gia phát triển và những quốc gia có nền kinh
tế chuyển đổi (Phụ lục 1);77
- Các quốc gia phát triển chi trả các chi phí cho các quôc
gia đang phát triển (Phụ lục 2). Nhóm này bao gồm các quôc
gia thành viên của OECD và những quốc gia được xêp vào
danh sách các nền kinh tế chuyển đổi vào năm 1992;78
76 Điều 2 Công ước khung cùa LHQ về biển đồi khí hậu năm 1992.
' Hiện nay có 41 quốc gia thuộc nhóm này, bao gồm Liên minh châu Âu.
Hiện nạy nhóm này bao gồm 23 quôc gia và Liên minh châu Âu. Níia và
Canada đông ý tham gia Nghị định thư vào năm 2002.
253
- Các quốc gia đang phát triển (không nằm trong danh
sách các quốc gia ở phụ lục 1).
Một vấn đề đáng lưu ý nữa đó là việc thông qua Nghị
định thư Kyoto năm 1997, theo đó các nước phát triển đã đưa
ra những cam kết rõ ràng và cụ thể về mục tiêu và lịch trình
cho việc cắt giảm những khí gây hiệu ứng nhà kính chủ yếu và
phát triển những cơ chế quốc tế nhằm đảm bảo việc tuân thủ
những cam kết đó. Cụ thể :
- Những quốc gia thuộc Phụ lục 1 cam kết giảm thiểu
mức độ thải khí gây hiệu ứng nhà kính nhằm đạt đến dưới
mức mà những quốc gia này đặt ra vào năm 1990. Các quốc
gia thuộc nhóm này sẽ phârt bổ lượng khí thải được phép
hàng năm cho các nhà sản xuất của mình. Tuy nhiên, các nhà
sản xuất có thể được phép thải nhiều hơn số lượng đó nếu họ
mua số lượng phát thải hoặc giải quyết số lượng vượt quá đó
thông qua một cơ chế được nhất trí bời các quốc gia thành
viên Công ước.
- Những quốc gia đang phát triển không phải giảm mức
phát thải trừ khi các quốc gia phát triển đã cung ứng cho họ
đầy đủ tài chính và công nghệ. Quy định này cho phép các
quốc gia đang phát triển tránh được những hạn chế cho sự phát
triển kinh tế của họ với lý do rằng sự phát thải gắn liền với
khả năng công nghiệp. Đồng thời, các quốc gia này có thể bán
định mức phát thải cho những nhà sản xuất của những quốc
gia gặp khó khăn trong việc đáp ứng chỉ tiêu phát thải. Ngoài
ra, các quốc gia đang phát triển có thể nhận được vốn và công
nghệ từ các quốc gia xếp vào Phụ lục 2. Tuy nhiên, các quốc
gia đang phát triên cũng có thê tự nguyện xin đưa vào Phụ lục
1 nếu như họ đáp ứng đủ các tiêu chí của quốc gia phát triển.
Nghị định thư cũng thành lập ra một cơ quan thực thi
{Compliance Committee) bao gồm một ủy ban hỗ trợ và một
ủy ban về việc thực thi có mục đích tạo điều kiện, thúc đẩy và
254
đảm bảo thực thi Nghị định thư. Nhằm đảm bảo tính hiệu quả
của nó, Nghị định thư Kyoto sẽ chỉ có hiệu lực nếu có đủ 55
quốc gia tham gia trong đó bao gồm các quốc gia thành viên
thuộc Phụ lục 1 đại diện cho 55% tổng số lượng khí thải
dioxide của nhóm này tại thời điểm năm 1990. Nghị định thư
Kyoto đã bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 16 tháng 2 năm 2005
với việc có đủ số thành viên và đại diện số phần trăm lượng
khí thải dioxide theo quy định.79
2.3. Bảo vệ đa dạng sinh học
Sự tương tác giữa con người và các thực thể sống khác
là chủ đê bàn cãi từ lâu trong lịch sử và chủ yếu xoay quanh
vân đê vai trò, quyền lợi và trách nhiệm của con người đôi
với các thực thể sống. Trải qua quá trình khai thác, sừ dụng
và biến đổi tự nhiên, con người đã nhận ra nguy cơ đe đọa
ngày càng tăng đối với sự đa dạng sinh học do việc khai thác,
tàn phá môi trường sổng, sự ô nhiễm và các hoạt động dân
đên hậu quả tiêu cực làm tổn hại đến tiến trình sinh hóa. Từ
đó, những nỗ lực nhằm điều chỉnh việc sử dụng và bảo vệ các
giống loài động thực vật đã được các quốc gia tiến hành
trong khuôn khổ pháp luật quốc gia, ví dụ như giới hạn việc
săn băt và đánh cá đối với những giống loài quý hiêm. Những
nô lực ờ phạm vi liên quốc gia sau đó cũng dân dân được
quan tâm do sự cư trú của giống loài động thực vật ở nhiêu
quôc gia và nhu cầu bảo vệ chúng khỏi sự khai thác cạn kiệt
tại vùng biển cả.
Tuy nhiên, ban đầu, việc bảo vệ đa dạng sinh học chỉ
được quy định rải rác trong nhiều văn kiện pháp lý quôc tê và
thông thường các văn bản này chỉ nhằm bảo vệ những giống
loài cụ thể hoặc chỉ đưa ra những biện pháp cấm đoán mà
không đề ra những biện pháp nhằm bảo vệ các điều kiện của
79 Mặc dù đã có hiệu lực, cho đến nay Mỹ vẫn chưa tham gia Nghị định
thư Kyoto.
255
môi trường sống gắn liền với sự tồn tại của những giông loài
đó. Những thỏa thuận quốc tế sau này đã chú trọng đên vai trò
của các giống loài trong hệ sinh thái nơi chúng xuât hiện và sự
cần thiết phải bảo vệ sự đa dạng về gen trước những đe dọa do
sự ô nhiễm một cách vô ý hoặc tai nạn như từ việc tràn dâu,
thuốc trừ sâu hoặc trước những đe dọa khác đến môi trường
sinh sống của các động vật hoang dã. Cách tiếp cận ở góc độ
sinh thái như hiện nay được đề cập trong các nguyên tắc quan
trọng ghi nhận tại Tuyên bố Stockholm năm 1972 (Nguyên tắc
4), sau đó là trong Hiến chương thế giới về tự nhiên năm 1982
(nguyên tắc 2 và 3). Sự cần thiết của một hệ thống các quy
phạm hoàn chỉnh nhằm mục đích bảo vệ đa dạng sinh thái của
trái đất đã dân đên sự ra đờivcủa Công ước LHQ về đa dạng
sinh học, được thông qua tại Hội nghị Rio năm 1992. Trên cơ
sở đó, các điêu ước quốc tế về bảo vệ đa dạng sinh học lần
lượt ra đời và được chia thành 3 nhóm cơ bản:
- Các điều ước quốc tế về bảo vệ đa dạng sinh học ở
mức độ chung nhất;
- Các điều ước quốc tế nhằm chống lại những mối đe
dọa cụ thể đối với đa dạng sinh học;
- Các điêu ước quốc tế đa phương và song phương
nhằm mục đích bảo vệ các nhóm loài cụ thể hoặc những nhóm
được phân loại đặc biệt như cá voi, dơi, hải cẩu và các loài
chim di trú.
2.3.1. Các điêu U'ớc quôc tê về báo vệ đa dạng sinh học
ở mức độ chung
Công ước về đa dạng sinh học được thông tại Hội nghị
Rio vào ngày 22/5/1992 và băt đâu có hiệụ lực từ ngày
29/12/1993.80 “Đa dạng sinh học” được định nghĩa tại Điều 2
80 Hiện tại đã có 193 quốc gia, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế là thành viên
của Công ước LHQ về đa dạng sinh học.
256
của Công ước là “tính (đa dạng) biến thiên giữa các sinh vật
sông của tất cả các nguồn bao gồm các hệ sinh thái tiếp giáp,
trên cạn, biển, các hệ sinh thải thủy vực khác và các tập hợp
'ình thái mà chúng là một phần. Tỉnh đa dạng này thể hiện ở
trong mỗi bộ loài, giữa các loài và các hệ sinh học”. Công
ước có 3 mục tiêu cơ bản:
- Bảo tồn sự đa dạng sinh học;
- Sử dụng một cách bền vững các thành phần của đa
dạng sinh học;
- Chia sẻ một cách hợp lý và công bằng các lợi ích có
được từ việc tiếp cận và sử dụng đúng đắn các nguồn gen.
Công ước đề cập những vấn đề cơ bản, đồng thời quy
định các biện pháp nhằm bảo tồn và sử dụng bên vững đa dạng
sinh học, theo đó:
- Các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp ở
phạm vi quốc gia nhằm ngăn chặn sự tàn phá đối với các
giống loài, môi trường sống và hệ sinh thái. Các biện pháp
bao gờm việc thông qua các quy định vê bảo vệ đa dạng sinh
học, trách nhiệm pháp lý, điều chỉnh công nghệ sinh học và
các quy định về việc tiếp cận và chi trả cho việc sử dụng
các nguồn gen;
- Các quốc gia có trách nhiệm áp dụng các quy định của
Công ước trong phạm vi lãnh thổ cũng như đối với các hoạt
động diễn ra trong phạm vi quyền tài phán của mình. Công
ước nhấn mạnh chủ quyền của các quốc gia trong việc quyết
định tiếp cận các nguồn gen dựa trên nên tảng pháp luật quốc
gia. Các nghĩa vụ của quốc gia bao gồm việc xác định những
thành phần của đa dạng sinh nọc và những ưu tiên cũng như
các biện pháp bảo tồn đặc biệt cũng như xây dựng quy trình
theo dõi tiến trình và các hoạt động có khả năng gây tác hại
đối với đa dạng sinh học (Điều 7). Các quốc gia có nghĩa vụ
phát triển chiến lược và kế hoạch quốc gia, đưa vấn đề bảo vệ
257
đa dạng sinh học vào các kế hoạch và chương trình của từng
ngành cũng như vào chính sách chung (Điều 6 và Điều 10);81
- Công ước đưa ra khái niệm “bảo tồn nội vi” {in situ)
tại Điều 2, theo đó "bảo tồn nội vi" là sự bảo toàn các hệ sinh
thái, các môi trường sống tự nhiên, là sự duy trì và phục hồi
dân số của các loài đến số lượng mà chúng có thể sinh tồn
được trong môi trường của chúng. Các biện pháp bảo tồn nội
vi được quy định chi tiết tại Điều 8, bao gồm từ việc thiết lập
các khu vực bảo tồn cho đến khôi phục lại các hệ sinh thái bị
xuống cấp và bảo vệ môi trường sống tự nhiên. Việc bảo vệ hệ
sinh thái, điều chỉnh và quản lý nguồn sinh học được thực hiện
trên quan điểm bảo đảm sự an toàn đa dạng sinh học dù ở
trong hay ngoài phạm vi của cầc khu bảo tồn.
- “Sử dụng bền vững” cũng là một nội dung quan trọng
của Công ước và được định nghĩa là “sử dụng các bộ phận
hợp thành của đa dạng sinh học với cách thức và mức độ sao
cho đa dạng sinh học không bị suy giảm về lâu dài, bằng cách
đó duy trì tiêm năng của đa dạng sinh học đê đáp ứng nhu cầu
về nguyện vọng của các thế hệ hiện tại và tương lai” (Điều 2).
Các quôc gia có nghĩa vụ điêu chỉnh hoặc quản lý các nguôn
sinh học đang khai thác, phát triển các phương pháp bền vững
và giảm thiêu các tác hại đối với đa dạng sinh học, xúc tiến
nghiên cửu, đào tạo và giáo dục cộng đồng cũng như các biện
pháp kỹ thuật như việc đánh giá tác động môi trường.
- Điều chỉnh việc tiếp cận đối với các nguồn di truyền
và kiến thức cổ truyền, bao gồm việc tiếp cận có sự đồng ý
trước của bên ký kết cung cấp nguồn gen. Các quốc gia có
nghĩa vụ tạo ra các điều kiện thuận lợi để thúc đẩy việc tiếp
cận các nguồn gen để các quốc gia khác có thể sử dụng một
81 Theo Phụ lục 1 của Công ước, những đối tượng cần được quan tâm trong
việc xác định và theo dõi bao gôm: hệ sinh thái và môi trường sông; các giống
loài và cộng đồng; các bộ gene và các loại gene có ý nghĩa quan trong về mặt
xã hội, kinh tế và khoa học.
258
cách đúng đắn cũng như không được áp dụng các biện pháp
hạn chế có thể làm phương hại đến các mục tiêu của Công
ước. Kết quả của việc nghiên cứu và phát triển cũng như
những lợi ích có được từ việc sử dụng thương mại và những
sử dụng khác các nguồn gen phải được chia sẻ một cách hợp
lý, công bằng với bên ký kết cung cấp nguồn gen.
- Công ước cũng yêu cầu các quốc gia đảm bảo việc tiếp
cận và chuyển giao công nghệ, bao gồm cả công nghệ sinh học
cho các chính phủ và cộng đồng địa phương đã cung cấp kiên
thức cổ truyền cũng như các nguồn đa dạng sinh học khác; kêu
gọi hợp tác về khoa học và kỹ thuật;
- Công ước xác định mối liên hệ pháp lý giữa nghĩa vụ
bảo tôn đa dạng sinh học của các quôc gia đang phát triên và
nghĩa vụ tài chính của các quốc gia phát triển. Theo đó, các
quốc gia phát triển được yêu cầu cung cấp *
‘các nguôn tài
chính mới và bổ sung” cho các quốc gia đang phát triển nhăm
tiến hành các biện pháp cần thiết để thực thi các nghĩa vụ
- Quốc gia phải báo cáo về việc tuân thủ các cam kêt
trong Công ước.
Ngoài ra, trong lĩnh vực bảo vệ đa dạng sinh học, các
quốc gia đã ký kết nhiều điều ước quốc tê đa phương và khu
vực khác có liên quan.82
82 Có thể kể đến những điều ước quốc tế tiêu biểu sau:
- Công ước Bonn về những loài động vật hoang dã di trú năm 1979. Công
ước này xác lập một khung pháp lý theo đó các quôc gia có nghĩa vụ thực hiện
đon lè hoặc hợp tác nhàm bảo tồn các loại động vật hoang dã di trú và môi
trường sông cùa chúng;
- Công ước về bảo vệ thiên nhiên và gìn giữ đội sông hoang dã giũa các nước
thuộc tây bán cầu năm 1940. Công ước này đề cập việc thiết lập những khu
bảo tồn, bảo vệ các loại động vật di trú và đang bị đe dọa tuyệt chùng, giám
sát và điều chinh hoạt động thương mại liên quan đến các loại động thực vật
hoang dã;
259
2.3.2. Các điều ước quốc tế nhằm chống lại những mối
đe dọa cụ thể đối với đa dạng sinh học
Hiện tại, có 5 công ước quốc tế riêng biệt bảo vệ động
vật hoang dã hoặc bảo vệ những giống loài cụ thể thông qua
việc bảo vệ môi trường sống và các biện pháp cấm mua bán.
2.3.2.1. Các công ước liên quan đến việc bảo vệ môi
trường sổng
Một số điều ước quốc tế quy định việc bảo vệ môi
trường sống trong khi một số điều ước khác quy định bảo vệ
các giống loài đặc biệt thông qua việc thành lập các khu bảo
tồn. Khái niệm “môi trường sống” được định nghĩa là “bất kỳ
khu vực nào thuộc phạm vi cư trú của một giống loài bao gồm
- Hiệp ước hợp tác giữa các nước vùng Amazone năm 1980 (Bolivia, Brazil,
Colombia, Ecuador, Guyana, Peru, Suriname và Venezuela); Công ước về bào
tồn đa dạng sinh học và bảo vệ các khu vực hoang dã Trung Mỹ năm 1992;
Công ước về quản lý và bảo tôn hệ sinh thái rừng tự nhiên và phát triền trông
rừng năm 1993; Hiệp định vê hành lang sinh thái Trung Mỹ năm 1996.
- Công ước về bảo vệ thiên nhiên năm 2003 ký kết giữa các quôc gia thuộc
Liên minh châu Phi;
- Công ước Apia về bảo tồn thiên nhiên ở Nam Thái Bình Dương năm 1976
nhấn mạnh đến việc thành lập các khu bảo tồn cũng như bảo vệ các loài động
vật di trú và đang bị đe dọa.
- Công ước ASEAN về bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên nãm
1985. Hiện nay Công ước này vân chưa có đủ số thành viên phê chuẩn để có
thể có hiệu lực;
- Công ước châu Âu về bảo tồn động vật hoang dã và môi trường sống thiên
nhiên năm 1979. Mục tiêu của Công ước là bảo tồn các loài động thực vật
hoang dã. ngoài việc ghi nhận những nội dung quan trọng về bảo tồn đa dạng
sinh học như trong các điều ước quôc tê khu vực khác, Công ước nàỵ thành
lập mọt thiet che đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ, đồng thời ấn định
những nghĩa vụ cụ thể cho các quốc gia, thay vì đơn thuần kêu gọi việc tuân
thủ từ phía các quốc gia thành viên.
260
các điểụ kiện sống thích hợp cho loài đó”.S3 Bảo vệ môi
trường sống là mục tiêu chủ yếu của Công ước năm 1971 về
những vùng đất ngập ước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt
ỉà nơi cư trú của các loài chim nước (Ramsar) hay Nghị định
thư Geneva năm 1982 liên quan đến những khu bảo tồn đặc
biệt ở Địa Trung Hải. Trong nhiều điều ước quốc tế khu vực
khác, việc thiết lập những khu bảo tồn, chẳng hạn như các
công viên quốc gia hoặc khu bảo tồn thiên nhiên và các biện
pháp bảo vệ thường được quy định cụ thể.*
84
Alexandre Kiss and Dinah Shelton, Guide to International Environmental
Law (Martinus Nijhoff Publishers, 2007) trang 186.
84 Công ước Ranisar là điểu ưởc quốc tế về môi trường toàn cầu duy nhât điêu
chỉnh một vân đê sinh thái, cụ thể là việc bảo tồn và sử dụng khôn khéo {wise
use) các vùng đất ngập nước là nơi cư ngụ của các loài chim hoang dã. Các
điêu khoản ban đầu cùa Công ước đã được làm rồ thông qua các Hướng dân
{Guidelines) thông qua tại Hội nghị của các bên ký kêt. Công ước xây dựng
một cơ chế điều chỉnh mà cốt lõi là việc niêm yết các địa điểm {site) và
chuyển giao việc bào vệ chúng bàng luật quốc gia. Cụ thể, các bên ký kêt
được yêu câu sẽ chỉ định những vùng đât ngập nước thích hợp trong phạm VI
lãnh thô của mình và chúng sẽ được đưa vào danh sách các vùng đât ngạp
nước có tầm quan trọng quốc tế sau khi thỏa mãn các tiêu chí về việc xác định
một vùng đất như thế. Cac quốc gia sẽ báo cáo 3 năm một lần cho các bên ký
kết khác về việc thực hiện điều ước, qua đó có điều kiện đánh giá các biện
pháp thực hiện ở phạm vi quốc gia.
Những địa điểm được đưa vào danh mục của Ramsar sẽ được bảo vệ băng
luật của mỗi quốc gia. Một quỹ hỗ trợ dành cho việc bảo tồn và sử dụng khôn
khéo các vùng đất ngập nước cũng được thành lập nãm 1990 nhằm thúc đây
sự tuân thủ việc thực hiện Công ước cùng với các hình thức trợ giúp kỹ thuạt
khác thông qua Cơ quan tư vấn cùa Công ước Ramsar. Các hình thức trợ
giúp kỹ thuật này chủ yếu là việc cung cấp thêm thông tin về các vân đê cũng
như mối đe dọa cỏ thể xảy ra. Tuy nhiên, việc không phát triển và bảo tôn
những vùng đất ngập nước cũng như sử dụng khôn khéo chúng có thê dân
dên việc những vùng này được đưa vào “Báo cáo nhừne địa diêm cùa Công
ước Ramsar cần sự lưu tâm đặc biệt'1 đề ra vào năm 1990 tại Hội nghị
Montreaux trong đó chỉ rõ những đe dọa cho những vùng được bảo vệ này,
thậm chí các vùng bão vệ này có thê được dưa ra khỏi danh sách. Xem
261
2.3.2.2. Công ước điều chỉnh việc mua bản các loài
động vật hoang dã
Việc điều chỉnh hoạt động mua bán, mà cụ thể là cấm
việc khai thác quá mức, được coi như một trong những biện
pháp bảo vệ các giông loài liên quan. Điều này là quan trọng
bời lẽ đôi với một sô quốc gia, đặc biệt là các nước nghèo,
việc buôn bán các loài động thực vật là một nguồn thu nhập
đáng kê. Điêu ước quốc tế quan trọng trong lĩnh vực này là
Công ước vê buôn bán quốc tế các loại động thực vật hoang dã
nguy cấp năm 1973 (CITES). Công ước CITES quy định việc
bảo vệ các loài động thực vật hoang dã đang bị đe dọa thông
qua việc cấm mua bán đồng thời điều chỉnh hoạt động mua
bán đôi với những giống loài khác có thể được khai thác
thương mại. Mục tiêu của Công ước là nhằm bảo đảm sự bền
vững và lợi ích kinh tế của các quốc gia xuất khẩu.85 Việc
kiểm soát xuất nhập khẩu các giống loài động thực vật đang bị
đe dọa và các sản phâm ờ quy mô toàn cầu được thực hiện
thông qua một cơ chế cho phép. Cơ chế này đòi hỏi các quốc
gia thành lập những cơ quan có thẩm quyền (.Management and
Scientific Authorities). Các cơ quan này có chức năng quản lý
và cấp phép, đồng thời tư vấn về tác động của những hoạt
động mua bán đối với các giống loài. Bên cạnh đó, các quốc
gia phải ban hành luật đê thực hiện Công ước CITES ở phạm
vi quốc gia trong đó nghiêm cấm việc buồn bán các loài động
thực vật này, các biện pháp chế tài đối với vi phạm và quy
định việc thu giữ tang vật. Công ước cũng thành lập ban thư
ký có nhiệm vụ theo dõi việc thực hiên các nghĩa vụ của các
quôc gia và thúc đây trao đôi thông tin thu thập liên quan đến
việc thực hiện của các quôc gia và cũng như nghĩa vụ báo cáo
hàng năm. Công ước CITES phân loại các loại động thực vật
Patricia Birnie and Alan Boyle, International Law and. the Environment,
Oxford. 2nd, 2002, tr. 545-599.
85Alexandre Kiss and Dinah Shelton, trang 186.
262
cần được bảo vệ tại 3 phụ lục đính kèm, trong đó mỗi loại sẽ
được áp dụng những biện pháp bảo vệ cụ thể.86
2.3.3. Các điều ước quốc tế về bảo vệ những giống loài
cụ thể
Một số lượng lớn các điều ước quốc tế được ký kết
nhằm bảo vệ một số loài động vật đặc biệt như gấu Bắc Cực
hoặc bảo tồn các nhóm loài động vật như cá voi, hải cẩu và
các loại chim. Các điều ước quốc tế này thường ở dạng điều
ước khu vực ở nơi các nhóm loài đó cư trú. Trong số các điều
ước thuộc nhóm này, các điều ước về đánh cá và bảo vệ sinh
vật biển là những điều ước phổ biến nhất.87
Công ước của LHQ về luật biển năm 1982 có những quy
định quan trọng liên quan đến bảo tồn tài nguyên sinh vật
biển. Theo đó, các quốc gia ven biển có nghĩa vụ bảo tồn tài
nguyên sinh vật biển trong những khu vực thuộc quyền tài
phán của mình (lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
đĩa). Trong đó, vùng đặc quyền kinh tế có tầm quan trọng lớn
nhất đối với bảo vệ tài nguyên sinh vật biển. Theo Công ước,
các quốc gia có các quyền chủ quyền trong việc thăm dò và
khai khác, bảo tồn và quản lý đối với các nguồn tài nguyên
thiên nhiên sinh vật và không sinh vật. Quyền chủ quyền này
86 Phụ lục I cấm việc mua bán những loài động thực vật đang có nguy cơ tuyệt
chùng, tuy nhiên Phụ lục có một số ngoại lệ cho phép việc xuất khẩu, tái xuất
hoặc nhập khẩu trên cơ sờ giấy phép. Phụ lục này hiện liên quan đến 800 loài.
Phụ luc II cho phép việc mua bán có giới hạn một số loài động thực vật không
thuộc điện có nguy cơ tuyệt chùng tuy nhiên có khà năng xảy ra nguy cơ này
nêu như việc mua bán không được kiêm soát. Việc câp phép chi giới hạn đôi
với việc xuât khâu hoặc tái xuất khẩu. Phụ lục này hiện liên quan đến 32,500
loài. Phụ lục III bao gồm các giống loài được quy định bởi pháp luật quốc gia
và được đưa vào trong trường hợp các quôc gia đê nghị các thành viên CITES
khác hợp tác nhăm kiêm soát việc mua bán đôi với chúng. Phụ lục này hiện đê
cập 170 loài.
87 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, llđd, tr. 187.
263
cho phép quốc gia ven biển có khả năng tiến hành mọi biệ1
1
pháp cân thiêt, kê cả khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tơ
pháp đê bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà mình
đã ban hành theo đúng Công ước (Điều 73).
Đông thời, các quốc gia ven biển có nghĩa vụ thi hành
các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý để các nguôn
lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình khỏi bí
ảnh hường do khai thác quá mức. Công ước yêu câu các quôc
gia hợp tác với các tổ chức quốc tế trong những trường cân
thiêt nhăm bảo tôn hoặc khôi phục số lượng các loài bị khu1
thác đê có thê đảm bảo tôi đa sự khai thác bền vững (Điều 61)-
Ngoài rạ, các quốc gia ven biển phải chú ý đến tác động cùn
chúng đôi với các loài quân hợp (associated) với các loài được
khai thác hoặc phụ thuộc vào các loài đó để duy trì hoặc khôi
phục các đàn {stocks) của những loài quần hợp hay phụ thuộc
này ở một mức độ làm việc sinh sản của chúng khỏi nguy cơ
bị tổn hại nghiêm trọng (Điều 61 khoản 4).88
Đối với vùng biển quốc té, Công ước yêu cầu tất cả
các quốc gia có nghĩa vụ định ra các biện pháp có thể cần
thiết để áp dụng đổi với các công dân của mình nhàm bảo
tồn tài nguyên sinh vật của biển cả hoặc hợp tác với các
quốc gia khác trong việc định ra các biện pháp như vậy cũng
như đòi hỏi các quốc gia hợp tác với nhau về vấn đề này
(Điều 117-118).
Công ước của LHQ về luật biển năm 1982 với những
quy định về đánh bắt cá đã trở thành khuôn mẫu cho các điều
ước quốc tế khu vực về vấn đề này. Tương tự như các đàn cá,
8
8 Nguyên văn: ‘7n taking such measures the coastal State shall take into
consideration the effects on species associated with or dependent upon
hat'vested species with a view to maintaining or restoring populations ofsuch
associated or dependent species above levels at which their reproduction niơy7
become seriously threatened'.
264
những sinh vật biển khác có nguy cơ bị đe dọa như rùa biển,
các loài động vật biển có vú, hải câu, gâu Băc Cực, dơi và
nhiều loại chim khác hiện đã được bảo vệ bàng những điều
ước quốc tế cụ thể khác.
Một mối đe dọa đối với đa dạng sinh học hiện nay là sự
xuất hiện các giống loài có khả năng xâm lấn hoặc có tiêu diệt
các giống loài khác ở nơi cư trú của chúng, ví dụ như các loài
châu chấu sa mạc có khả năng làm thiệt hại cho mùa màn«
hoặc các loại thực vật khác. Những giống loài này thường có
khả năng sinh sản nhanh dẫn đến ảnh hường nghiêm trọng đến
hệ sinh thái, v ấn đề này đã được đề cập tại Hội nghị lần thứ 6
của các bên ký kết Công ước về đa dạng sinh học về việc mở
rộng Điều 8(h) của Công ước, theo đó các bên ký kết có trách
nhiệm “ngăn chặn việc giới thiệu, kiểm soát hoặc loại trừ
những giong loài lạ có khả năng đe dọa hệ sinh thải môi
trường sổng hoặc đổi với các giong loài đang hiện hữu" .
2.4. Kiểm soát quốc tế đối với các chất và chất thải
độc hại (hazardous or toxic substances and wastes)
Các chất độc hoặc nguy hại xuất hiện do những hoạt
động của con người có thể gây ra những thiệt hại to lớn đối
với môi trường, tài nguyên thiên nhiên và sự vận động của hệ
sinh thái.
Ở phạm vi quốc tế, kể từ cuối những năm 1970 đã xuất
hiện các quy tắc điều chình đối với các chất nguy hại và hoạt
động của con người mà tạo ra hoặc có khả năng tạo ra hậu quả
xấu cho môi trường hoặc những chất nguy hại mà hậu quả của
chúng có thể chuyển dịch từ lĩnh vực này sang những lĩnh vực
khác của môi trường. Ke từ đầu những năm 1990 nguyên tắc
về sự phòng ngừa trước đã được hình thành và trờ thành
nguyên tắc quan trọng điều chỉnh những nguy cơ dẫn đến thiệt
265
hại không thể lường trước được hoặc không thể khôi phục lại
được cho môi trường, về cơ bản, các quy định quốc tế trong
lĩnh vực này liên quan đến các hóa chất, chất thải độc hại, các
nguyên liệu hạt nhân và công nghệ sinh hóa.
2.4.1. Kiểm soát đối với các ỉtóa chất nguy hại
Các văn kiện quốc tế liên quan đến việc kiểm soát đối
với các chất nguy hại được thông qua từ nửa sau của thập niên
1980. Tuy nhiên, các quy định kiểm soát đối với các chất độc
hại hoặc nguy hiểm đã có trước đó trong các văn kiện điều
chỉnh những lĩnh vực cụ thể, chẳng hạn như việc xả thải xuống
biển hoặc sông nội địa. Nhìn chung, các quy định này chú
trọng đến điều chỉnh việc sản xuất, buôn bán (bao gồm cả việc
vận chuyển), sử dụng và loại trừ các chất nguy hại đó.
2.4.1.1. Công ước Rớtterdam về cơ chế thông bảo trước
sự đồng ỷ đối với một sổ loại hóa chất và thuốc trừ sâu độc
hại trong thương mại quốc tế năm 1998
Công ước Rotterdam ký kết năm 1998 và có hiệu lực từ
năm 2004 thiết lập cơ chế về sự đồng ý được thông báo trước
đối việc nhập khẩu các chất độc hại (nhiều chất trong số này
được điều chỉnh bằng Công ước Stockholm về các chất hữu cơ
gây ô nhiễm lâu dài năm 2001).89
Cụ thể Công ước ấn định những nghĩa vụ cơ bản cho các
các bên như sau:
89Các Phụ lục cùa Công ước bao gồm:
- Phụ lục 1: Những thông tin phải thông báo;
- Phụ lục II: Những tiêu chí áp dụng cho việc đánh giá đôi với các loại hóa
chất bị cấm hoặc đặc biệt hạn chê nêu ỡ Phụ lục III;
- P h ụ lụ c III: C á c h ó a c h ấ t đ ò i h ỏ i p h ả i c ó s ự đ ồ n g ý th ô n g b á o tr ư ớ c ;
- Phụ lục IV: Thông tin và những tiêụ chí áp dụng cho việc đánh giá đối với
các loại thuốc trừ sâu đặc biệt nguy hiêm nêu ờ Phụ lục HI;
- Phụ luc V: Thông tin yêu cầu đối với việc xuất khẩu;
- Phụ lục VI: Giải quyết tranh châp.
266
- Đối với các hóa chất xuất khẩu liệt kê ở Phụ lục III
cũng như các hóa chất bị cấm hoặc đặc biệt hạn chế trên lãnh
thổ của mình, quốc gia phải tuân thủ quy định việc dán nhãn
nhằm đảm bảo cung cấp thông tin về nguy cơ hoặc những tác
hại cho sức khỏe con người hoặc môi trường dựa trên cơ sờ
những tiêu chuẩn quốc tể. Trách nhiệm cung cấp thông tin
được xác định cho các nhà sản xuất hoặc đóng gói các hóa
chất này;
- Các bên phải đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của
dân chúng về việc xử lý hóa chất và quản lý tai nạn xảy ra và
những biện pháp an toàn áp dụng cho các hóa chất được liệt kê
ở Phụ lục III.
2.4.1.2. Công ước Stockholm về các chất hữu cơ gây ô
nhiễm lâu dài năm 2001
Công ước Stockholm về các chất hữu cơ gây ô nhiêm
lâu dài được ký kết năm 2001 giữa 154 các quốc gia và Liên
minh châu Âu.90 Các chất hữu cơ gây ô nhiễm lâu dài chứa các
chất độc hại, lâu tiêu hủy, tích lũy lâu dài và có thê di chuyên
qua biên giới thông qua không khí, nước hoặc các loài di trú.
Chúng gây ra nguy hại cho sức khỏe con người và hệ sinh
thái, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển.
Trên cơ sở nguyên tắc phòng ngừa trước và nguyên tăc
bên gây ô nhiễm phải đền bù, Công ước Stockholm xác định
trách nhiệm của nhà sản xuất chất hữu cơ gây ô nhiễm trong
việc giảm thiểu tác hại do sản phẩm của họ và cung cấp thông
tin cho khách hàng, chính phủ và công chúng về những thành
phân nguy hại trong các hóa chất đó.
Công ước phân loại các chất hữu cơ gây ô nhiễm làu dài
theo từng nhóm, trên cơ sở đó quy định các biện pháp liên
90 Tại thời điểm tháng 4 năm 2011 đã có 173 quốc gia và tẩ chức là thành viên
của Công ước.
267
quan đến sử dụng và sản xuất, trách nhiệm của các bên ký kết.
Cụ thể:
- Đối với nhóm các hóa chất được xếp ở phụ lục A, bao
gôm các thuôc trừ sâu và hóa chât đa clo diệt trùng
(Polychlorinated Biphenyls PCBs), các bên ký kết phải cấm
hoặc áp dụng các biện pháp pháp lý và hành chính nhằm hạn
chế việc sản xuất và điều chỉnh việc xuất nhập khẩu đối với
chúng. Phụ lục B yêu cầu các bên ký kết phải hạn chế đối với
việc sản xuất, sử dụng thuốc diệt cỏ DDT
(dichlorodiphenyltrichloroethane);
- Các bên ký kết phải áp dụng các biện pháp cần thiết
như cấm hoặc tuân thủ các quy định về hành chính đối với
việc sản xuất ra mà không phải dự tính trước (unintentional
production) các hóa chất liệt kê ở Phụ lục c (chủ yếu là
thuốc diệt trùng PCBs và dioxin). Để thực hiện điều này, các
bên phải phát triển và thực thi một kế hoạch hành động nhằm
xác định, phân loại và quy định việc xừ lý chúng bàng các
biện pháp kỹ thuật hiện hữu và thực tiễn bảo vệ môi trường
tốt nhất;
- Các quốc gia có thể áp dụng các biện pháp xử lý rò ri
chất độc hại từ các kho chứa và chất thải, cụ thể như chỉ định
các kho chứa hóa chất và các biện pháp cụ thể để đảm bảo
chất thải được quản lý, thu thập, vận chuyển và cất giữ trong
những điều kiện bảo vệ môi trường đúng đắn và cuối cùng
đảm bảo các chất hữu cơ gây ô nhiễm lâu dài được tiêu hủy
hoặc biến đổi để không gây ra nguy hại đối với môi trường.
2.4.2. Kiểm soát chất thải dộc hại
Vấn đề chất thải và tác động của chất thải đối với môi
trường là hậu quả của thời đại công nghiệp hóa và sự bùng nô
về dân số. Bên cạnh đó, vân đê xử lý chất thải ờ quy mô toàn
cầu có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi hiện tượng vận chuyên
268
chất thải xuyên biên giới ngày càng phổ biến.91 Cuối cùng, ô
nhiễm môi trường do các chất thải độc hại cũng dẫn đến nhu
cầu kiểm soát và hạn chế tác hại của chất thải.
Công ước Basel về vận chuyển xuyên biên giới các chất
thải độc hại và việc xử lý năm 1989 là điều ước quốc tế đầu
tiên trong lĩnh vực này, đồng thời đề cập đến việc xử lý việc
buôn bán các chất độc hại nhằm tránh chi phí xử lý ngày càng
cao tại các nước phát triển sang các nước đang phát triển và
các nước Đông Âu.929
3Cụ thể, Công ước điều chỉnh vấn đề vận
chuyển xuyên biên giới các chất thải độc hại và xử lý chúng.
Ngoài Công ước, còn có một Nghị định thư về trách
nhiệm dân sự và bồi thường thiệt hại, bao gồm những thiệt
hại cho môi trường, tuy nhiên Nghị định thư này vẫn chưa có
hiệu lực.
Theo định nghĩa tại Điều 1, các chất thải độc hại được
thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước bao gồm những chât
được liệt kê tại Phụ lục I và và có một trong sô các đặc diêm
như có thể nổ, cháy, độc hại hoặc bào mòn như được quy
định tại Phụ lục III. Bên cạnh đó. các chất thải độc hại cũng
thuộc phạm vi điều chỉnh cùa Công ước nếu như chúng được
định nghĩa theo luật của quốc gia xuất khẩu hoặc quốc gia
nhập khẩu.
Những nội dung cơ bản của Công ước Basel bao gồm:
91 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tlđd, tr. 210.
92 Catherine Redwell, tlđci, tr. 706.
93 Điều này thể hiện ở các Phụ lục của Công ước, cụ thể:
- Phụ lục I phân loại các chất thải cần có sự kiềm soát;
- Phụ lục II phân loại các chất thải cần sự quan tâm đặc biệt'
- Phụ lục III tiêu chuân hóa các đặc điêm gây Ịiại cũa các chất thải;
- Phụ lục IV điều chinh các hoạt động xử lý chất thải;
- Phụ lục V quy định các thông tin về chất thãi nguy hại cần phải thông báo;
Phụ lục VI quy định về trọng tài.
269
- Việc tạo ra các chất thải độc hại và các chất thải khác
cũng như việc vận chuyển xuyên biên giới cần phải được hạn
chế đến mức thấp nhất, phù hợp với việc quản lý hiệu quả và
đúng đăn về mặt môi trường áp dụng cho môi loại (Điêu
4(2)(a)và(b);
- Bên ký kết không thể đưa các chất thải độc hại vào
lãnh thổ một bên ký kết khác, nơi việc nhập khẩu như vậy là
bị cấm đoán (Điều 4(l)(b). Tương tự, việc đưa các chất độc
hại cũng không thể được tiến hành, nếu quốc gia tiếp nhận
không có đủ các phương tiện để xử lý chất thải (Điêu 4(1 )(b),
(c) và (g);
- Các quốc gia có chủ quyền trong việc cấm xuất nhập
khâu các chất thải độc hại, chẳng hạn như từ chối chuyên chở
tới nước mình các chất thải độc hại (Điều 4(1) và (12), đông
thời có quyền đòi hỏi sự tôn trọng các quyền này từ phía các
quôc gia khác;
- Việc vận chuyển các chất thải độc hại xuyên biên giới
phải có sự đông ý trước bằng văn bản của quốc gia nhập khâu
hoặc các quôc gia nơi chât thải quá cảnh (Điều 4(1 )(c);
- Các quốc gia xuất hoặc nhập khẩu có nghĩa vụ đảm
bảo chât thải vận chuyên phải được giám sát đầy đủ vê mặt
môi trường. Các tàu vận chuyển chất thải độc hại phải được
đóng gói và dán nhãn và di chuyển phù hợp với những quy tắc
và tiêu chuẩn quốc tế được thừa nhận rộng rãi (Điều 4(7)(b).
Các chất thải độc hại khi được vận chuyển phải có các tài liệu
kèm theo từ thời điểm chúng bắt đầu được vận chuyển cho đến
khi chúng được xử lý (Điêu 4(7));
- Các quốc gia nên xem xét coi việc vận chuyển trái
phép các chât thải độc hại là tội phạm hình sự (Điều 4(3);
- Khi quốc gia cho nhập khẩu chất thải độc hại không có
khả năng để xử lý các loại chất thải đưa vào nước mình một
cách hợp pháp và băng các biện pháp đảm bảo ã ĩ toàn cho
môi trường, quôc gia xuât khâu có nghĩa vụ phải đưa chúng
270
trờ lại quốc gia mình hoặc tìm kiếm biện pháp xử lý chất thải
đó đảm bảo cho môi trường (Điều 8);
- Nghiêm cấm việc buôn bán các chất thải độc hại với
các quốc gia không phải là thành viên Công ước (Điều 4(5).
Ngoài ra Công ước cũng nghiêm câm việc chuyên xử lý chất
thải độc hại từ các nước thành viên OECD sang các nước
ngoài ÒECD;94
- Công ước quy định trách nhiệm bồi thường của các quốc
gia và cả các pháp nhân đôi với các thiệt hại cho môi trường;
- Một cơ chế thực thi được đưa vào Công ước Basel
nhằm thúc đẩy việc phát hiện sớm những vấn đề liên qưan đến
việc thực thi (ví dụ như hành vi buôn lậu); nghĩa vụ báo cáo
của các quốc gia thành viên về vấn đề thực hiện.
Hiện nay, ngoài Công ước Basel, một số điều ước quốc
tế ở tầm khu vực cũng đã được ký kết nhằm điều chỉnh viêc
vận chuyển các chất thải độc hại.95
2.4.3. Kiểm Sỡát các chất phóng xạ
Kiểm soát chất phóng xạ là một trong những vấn đề
được quan tâm ở phạm vi quốc tế, điều này xuất phát từ thực
94 Việc cấm chuyển xử lý chất thải độc hại từ quốc gia này sang quốc gia khác
tương tự như quy định trong các điều ước quốc tế về chống ô nhiễm môi
trường như Nghị định thư London năm 1996 hay Công ước khu vực năm
1992 về bảo vệ môi trường biển ở Đông Bắc Đại Tây Dương.
95 Chẳng hạn, Công ước về bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi
trường khu vực Nam Thái Bình Dương năm 1987, Công ước về cấm nhập
khẩu các chất thải độc hại vào châu Phi nãm 1991 và Công ước về sự kiểm
soát đối với việc vận chuyển các chất thải độc hại xuyên biên giới trong
phạm vi châu Phi năm 1992; Hiệp định khu vực vê việc vận chuyên các chất
thải độc hại xuyên biên giới ký giữa 6 quốc gia Trung Mỹ năm 1992; Nghị
định thư vê việc ngăn chặn ô nhiễm Địa Trung Hải do việc vận chuvên
xuyên biên giới và xừ lý các chất độc hại năin 1996. Một số Hiệp định song
phương dựa trên khuôn mẫu cùa Công ước Basel đã được nhiều quốc gia ký
kết, tiêu biểu như Hiệp định giữa Mỹ và Canada năm 1986 và giữa Mỹ và
Mexico năm 1986.
271
tế rằng các hoạt động liên quan tới năng lượng hạt nhân có
tính chất đặc biệt nguy hiểm có khả năng gây ra tác động hủy
diệt lớn tới môi trường liên quốc gia. Điều này được minh
chứng qua thảm họa của lò phản ứng hạt nhân tại nhà máy
điện Chernobyl năm 1986 đã gây thiệt hại cho nhiều quốc gia
ở châu Âu.
Với việc một số quốc gia sở hữu và có khả năng làm
giàu plutonium để sử dụng vào các mục đích quân sự hoặc
thương mại, nguy cơ rò rỉ hạt nhân ra môi trường hoàn toàn có
khả năng xảy ra, đặc biệt trong quá trình vận hành các lò phản
ứng hạt nhân, vận chuyển các chất phóng xạ cũng như do tác
động của thiên tai. Chính vì vậy, những điều ước quốc tế đâu
tiên ở tầm khu vực và toàn cầu đều chú trọng đến trách nhiệm
bồi thường cho những thiệt hại do phóng xạ gây ra. Trong lĩnh
vực này, vai trò của 'Tổ chức Năng lượng thế giới
(Intenationaỉ Atomic Energy Agency, IAEA) có ý nghĩa hêt
sức quan trọng. Dưới sự bảo trợ của mình, IAEA đã xúc tiên
nhiều cuộc đàm phán nhàm hình thành khuôn khổ điều chinh
an toàn phóng xạ cũng như đưa ra nhiều đề xuất cho việc áp
dụng các biện pháp bảo vệ cụ thể.
Luật môi trường quốc tế điều chỉnh hoạt động kiểm soát
và đảm bảo an toàn phóng xạ thể hiện ờ những lĩnh vực chủ
yếu sau đây:
về vũ khí hạt nhân, điều ước quốc tế quan trọng nhất là
Hiệp ước vê câm thử vũ khí hạt nhân ở môi trường khí quyên,
trong không gian và dưới nước ký năm 1963 với sự tham gia
của gần như tất cả các quốc gia trên thế giới. Tiếp theo đó,
Hiệp ước về không phổ biến vũ khí hạt nhân được ký năm
1968, theo đó mỗi quốc gia không có vũ khí hạt nhân có nghĩa
vụ đảm bảo các chẩt phóng xạ, trang thiết bị và thông tin hạt
nhân sẽ không được sử dụng để phát triển vào mục đích quân
sự. Các quốc gia có nghĩa vụ châp nhận các tiêu chuân quôc tê
về bảo dam an toàn hạt nhân dưới sự giám sát của IAEA, bao
272
gồm nghĩa vụ báo cáo, xây dựng các thiết bị giám sát và hoạt
động giám sát tại các cơ sở hạt nhân (Điều III).
Bên cạnh đó, Hiệp ước Nam Cực ký năm 1959 cũng có
những điều khoản cấm các vụ thử hạt nhân cũng như vũ khí và
các chất thải phóng xạ trên vùng Nam Cực. Tương tự, việc
đem vũ khí hạt nhân lên mặt trăng và quỹ đạo quanh mặt trăng
cũng bị câm theo Hiệp định điêu chỉnh hoạt động của các quôc
gia trên mặt trăng và các bộ phận khác nhau của thiên hà năm
1979. Vào năm 1996, các hình thức thử vũ khí hạt nhân đã bị
cấm hoàn toàn theo Hiệp định về cấm thừ vũ khí hạt nhân toàn
diện 1996 cùng với Nghị định thư vê việc thi hành.
về kiểm soát an toàn phóng xạ, một trong số các điều
ước quan trọng nhất là Công ước năm 1980 về bảo vệ các chât
phóng xạ. Các quy định trong nhóm này liên quan đên các lĩnh
vực cụ thể sau đây:
- Kiểm soát việc vận chuyển quốc tế các chất phỏng xạ:
Những quy định về vấn đề này thường được thông qua trong
các điều ước quốc tế về vận chuyển đường bộ, đường săt,
đường biên và đường hàng không, ví dụ như Bộ quy tăc của
IMO vê vận chuyên an toàn các nguyên liệu bức xạ, plutonium
và chât thải có độ phóng xạ cao băng tàu biển năm 1993. Bên
cạnh đó IAEA cũng ban hành Quy tăc ứng xử vê việc vận
chuyển quôc tế các chất thải phóng xạ năm 1991. Theo đó, chủ
tàu có trách nhiệm trong việc săp xêp và đóng kiện đê đảm
bảo sự an toàn bao gồm cả việc dán nhãn và đánh dâu, áp
dụng các biện pháp kiểm soát cân thiêt trong quá trình vận
chuyên và lưu kho khi quá cảng và câm việc tiếp xúc với các
kiện hàng vận chuyền. Ngoài ra, vấn đề vận chuyển các chât
phóng xạ qua vùng biển của quốc gia khác còn được điệu
chỉnh bàng công ước của LHQ về luật biển, đặc biệt tại Điều
17 liên quan đến quyền qua lại vô hại.
- Kiêm soát an toàn hạt nhân: Dưới sự bảo trợ của
IAEA, Công ước về an toàn hạt nhân đã được ký kết vào năm
1994. Công ước đề ra một số nghĩa vu cùa các quốc gia trong
việc đảm bảo an toàn hạt nhân, bao gôm: nghĩa vụ thiết lập và
273
duy trì sự bảo vệ tại các cơ sờ hạt nhân nhằm chống lại nguy
cơ rò rỉ phóng xạ (Điêu 1 (ii), kiểm tra càng sớm càng tốt sự
an toàn của các cơ sở hạt nhân (Điêu 6); thiêt lập và duy trì
khung pháp lý nhăm điêu chỉnh an toàn của các cơ sở hạt
nhân, bao gồm hệ thống cấp phép, kiểm tra và giám định đảo
bảo sự phù hợp với các quy định và giấy phép (Điều 7). Công
ước còn đưa ra các mô tả cụ thê diễu kiện dành cho các địa
điểm xây dựng công trình hạt nhân (Điều 17), việc thiết kế và
xây dựng (Điêu 18) và vận hành (Điều 19).
- Việc tiêu hủy các chất thải phỏng xạ: Các quốc gia có
nghĩa vụ kiểm soát chặt chẽ việc xư lý các chất thải phóng xạ
trong phạm vi lãnh thô của mình nhằm đảm bảo không gây ra
những tác hại môi trường xuyên biên giới. Ngoài ra van đế xử
lý chat thải phóng xạ ngoài lãnh thổ hoặc phạm vi tài phán của
quốc gia được điêu chỉnh bởi các điều ươc quốc tế liên quan
đến việc thải đổ chất thải ra biển, như Công ước London vê
ngăn ngừa việc gây ô nhiễm do thải đổ chất thải và các chất
khác xuống biển năm 1972, trong đó có quy định tại Điều IV
và Phụ lục I cấm việc nhận chìm các chất thải có độ phóng xạ
cao hoặc các chất có độ phóng xạ cao khác xuống biển.
Hành động khẩn cấp trong trường hợp xảy ra sự cố hạt
nhân: Đây là van đề đặt ra sau sự cố Chernobyl năm 1986.
Với vai trò tích cực của IAEA, hai công ước quan trọng đã
được thông qua bao gôm Công ước về thông báo sớm các sự
cô hạt nhân năm 198696 và Công ước về sự trợ giúp trong
trường hợp xảy ra sự cô hạt nhân năm 1986.97
96 Công ước vể thông báo sớm các sự cố hạt nhân 1986 quy định một số vân
đề cụ thể sau:
- Các quốc gia có nghĩa vụ thông báo ngay lập tức cho các quốc gia khác có
khả năng bị ảnh hưởng bởi sự cô hạt nhân đên môi trường;
- Việc thông báo phải thực hiện càng sớm càng tốt và quốc gia nơi có xảy ra
sự cố hạt nhân phải cung cấp các thông tin thích đáng vê sự cô;
- Quốc gia bị ảnh hưởng có thê yêu cầu cung cấp các thông tin thêm hoặc
tham vẩn nhằm hạn chế đến mức thấp nhất có thể hậu quả rò ri phóng xạ trên
phòmg vi lãnh thổ cùa mình;
274
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, giáo trìn h
1. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, Công
an nhân dân, 2007
2. Kiss (Alexandre) and Shelton (Dinah), Guide to
International Environmental Law, Martinus Nijhoff
Publishers, 20079
7
Nghĩa vụ thông báo áp dụng cho tất cà các sự cố liên quan đến bất kỳ phản
ứng hạt nhân, bất kỳ cơ sở làm giàu hạt nhân hoặc quá trình quàn lý chất
thải phóng xạ nào bao gồm việc vận chuyển và cất giữ nhiên liệu hạt nhân
hoặc trong quá trình vận hành như sản xuất, sử dụng, cất giữ, tiêu hủy hoặc
vận chuyên đồng vị phóng xạ, kê cả việc sừ dụng tàu vũ trụ dùng năng
lượng hạt nhân. Tuy nhiên nghĩa vụ thông báo này không áp dụng đối với
vũ khí hạt nhân.
97 Công ước về trợ giúp trong trường hợp sự cố hạt nhân ì 986 quy định
những vấn đê cơ bản sau:
- Nghĩa vụ giúp đỡ cho những quốc gia là nạn nhân của thảm họa hạt nhân;
- Bât kỳ quôc gia nào đối diện với sự cố hạt nhân đều có quyền yêu cầu giúp
đỡ không phụ thuộc vào nguồn gốc của sự cố hoặc trường hợp khẩn cấp xảy
ra ở trong lãnh thô hoặc trong phạm vi mà quốc gia đó đang thực hiện quyên
tài phán hoặc dưới sự kiểm soát của mình;
- Các biện pháp và hình thức trợ giúp trong trường hợp xảy ra sự cố: Công
ước dự kiến hai trường hợp giúp đỡ khi có yêu cầu trợ giúp: (i) các biện pháp
nhăm ngăn chặn và (ii) các biện pháp tiến hành khi sự cố đã xảy ra. Cụ thê,
đôi với trường hợp thứ nhất, các quôc gia có thê thông báo và chỉ định IAEA
vê các chuyên gia, điều kiện trợ giúp và tài chính, cơ quan chức năng chiu
trách nhiệm, kê hoạch hành động khần cấp, việc thực hiện chương trình trợ
giúp và kiêm soát phóng xạ. Trong trường hợp thứ hai, quốc gia yêu câu sự
trợ giúp cần cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết và có thể yêu câu sự giúp
đỡ liên quan đên chữa trị y tế, sơ tán tạm thời những người liên quan tới vụ tai
nạn hoặc rò rỉ phóng xạ đến một nơi khác tiên lãnh thổ của mình hoặc mọt
nước khác;
- Quốc gia yêu cầu sự trợ giúp có đặc quyền kiểm soát, điều phối và giám sát
đôi với mọi trợ giúp, cung cap thiết bị và cơ sờ dịch vụ tại địa phương cho
việc quản lý hiệu quả việc trợ giúp. Ngoài ra quôc gia yêu cầu trợ giúp có the
thanh toán lại các chi phí cho những quốc gia trợ giúp cũng như những cá
nhân hoặc tô chức tham gia hoạt động trợ giúp.
275
3. Sands (Phillips), Principles o f International
Environmental Law, Cambridge, 2nd ed, 2003
4. Shaw (M alcolm N), International Law, 6th ed,
Cambridge University Press, 2008
5. Triggs (Gillian), International Law. Contemporary
Principles and Practices, LexisNexis Butterworth, 2011, 899
Các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam
1. Hiến chương Liên hợp quốc 1945
2. Công ước quốc tế về điều chỉnh hoạt động đánh bắt
cá voi năm 1946
3. Công ước về đánh bắt cá trên vùng biển cả thuộc
Bắc Thái Bình Dương năm 1952
4. Công ước Ramsar 1971
5. Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982
6. Nghị định thư M ontreal năm 1987
7. Công ước về ngăn ngừa các ô nhiễm từ tàu thuyền
(MARPOL) số 1973/78
8. Công ước về các dòng sông quốc tế 1979
9. Công ước khu vực năm 1979 về ô nhiễm không khí
tầm xa xuyên biên giới
10. Công ước về đánh giá tác động đối với môi trường
trong bối cảnh xuyên biên giới năm 1991
11. Công ước khu vực năm 1992 về bảo vệ môi trường
biển ở Đông Bấc Đại Tây Dương
12. Công ước về bảo vệ môi trường Đông Bắc Đại Tây
dương năm 1992 (OSPAR)
13. Công ước về đa dạng sinh học năm 1992
14. Công ước của Liên hợp quốc năm 1992 về biến đổi
khí hậu
15. Công ước về hiệu ứng xuyên biên giới của các vụ tai
nạn vê công nghiệp năm 1992
16. Tuyên bố Rio năm 1992
276
17. Nghị định thư Kyoto năm 1997
18. Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của dân
chúng và tiêp cận tư pháp đối với những vấn đê môi trường
1998
19. Nghị định thư về an toàn sinh học năm 2000 ban
hành trong khuôn khổ Công ước về đa dạng sinh học
20. Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với
thiệt hại do ô nhiễm khoang chứa dâu 2001
21. Nghị định thư Cartagena về đa dạng sinh học năm
2003
Các bản án và vụ việc
1. Trail Smelter (Canada V United States), UNRIAA,
vol. Ill (Sales No. 1949.V.2)
2. Gabcikovo-Nagymaros Project (Hungary V.
Slovakia), Judgment, 1. ICJ Reports 1997
3. Metalclad Corporation V. The United Mexican
States (ICSID Case No. ARB(AB)/97/l)
4. MOX Plant case, Request for Provisional Measures
Order (Ireland V. the United Kingdom) (3 December 2001)
International Tribunal for the Law of the Sea, ILR vol. 126
(2005)
5. Arbitration regarding the Iron Rhine (“Ijzeren Rijn”)
Railway (Belgium V Netherlands) 2005
6. Case Concerning Pulp Mills on the River
Uruguay (Argentina V. Uruguay), Judgment of 20 April 2010
Website
1. International Court of Justice <http://www.icj-
cij.org/homepage/index.php>
2. International Law Commission
< http://www.un.org/law/ilc/index.htm>
3. Cổng thông tin điện tử Tổng cục Môi trường, Bộ Tài
nguyên và Môi trường
<http://vea.gov.vn/vn/Pages/trangchu.aspx>
2 7 7
CHƯƠNG XII
LUẬT KINH TÉ QUÓC TẾ
I. KHÁI QUÁT VÈ LUẬT KINH TÉ QUÓC TÉ
Theo cách hiểu chung, luật kinh tế quốc tế là hệ thống
các quy phạm của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ quốc tế
trong lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế có không ít các
quan hệ kinh tế quốc tế được điều chỉnh bởi những hệ thống
quy phạm khác của luật quốc tế, chẳng hạn như quan hệ liên
quan tới hoạt động kinh tế trên biển và đại dương (như hàng
hải, đánh bắt cá, khai thác dầu khí và các tài nguyên dưới đáy
biển v.v.) sẽ được điều chỉnh bởi luật biển quốc tể. Quan hệ
giữa các quốc gia liên quan tới vận chuyển hàng không sẽ
thuộc phạm vi điều chỉnh của luật hàng không quốc tế.
Trong khoa học pháp lý, phạm vi điều chỉnh của luật
kinh tế quốc tế thường được hiểu là bao gồm quan hệ thương
mại quốc tế, cũng như quan hệ quốc tế trong lĩnh vực tài chính
và đầu tư.
Trong giai đoạn phát triển hiện nay, vai trò của luật kinh
tế quốc tế ngày càng trở nên quan trọng. Luật kinh tế quốc tế
chính là xương sông cho sự phát triển của các quan hệ hợp tác
quốc tế giữa các quôc gia trên thế giới. Sự hình thành và vận
hành của các định chế kinh tế toàn cầu (Quỹ tiền tệ quốc tế -
International Monentary Fund, IMF; Ngân hàng Thế giới -
World Bank, WB; Tổ chức Thương mại thế giới - World
Trade Organization, WTO); các liên minh kinh tế khu vực
(Liên minh châu Âu —European Union, EU; Khu vực tự do
mậu dịch ASEAN —ASEAN Free Trade Area, AFTA; Khu
vực tự do mậu dịch Bắc Mỹ - North America Free Trade Area,
NAFTA; Khu vực tự do mậu dịch úc — New Zealand —
Australia - New Zealand Free Trade Area, ANZFTA); liên
khu vực (Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
278
-A sia Pacific Economic Cooperation, APEC)... đều được xây
dựng dựa trên cơ sở các quy phạm luật kinh tế quốc tế.
Phần 1 của Chương sẽ giới thiệu tổng quan về khái
niệm và lịch sử phát triển của luật kinh tế quốc tế (1.1),
nguồn của luật kinh tế quốc tế (1.2), phạm vi điều chỉnh của
luật kinh tế quốc tế (1.3) và các nguyên tắc cơ bản của luật
kinh tế quốc tế (1.4)
1.1. K hái niệm và lịch sử phát triển của luật kinh tế
quốc tế
Luật kinh tế quốc tế là một bộ phận cấu thành của hệ
thống luật quốc tế. Tuy nhiên, so với các ngành luật khác của
hệ thống luật quốc tế, ngành luật này được hình thành tương
đối muộn. Các điều ước quốc tế điều chỉnh về quan hệ kinh tê
giữa các quôc gia chỉ xuất hiện từ cuôi thê kỷ XIX - đâu thê
kỷ XX như: các điều ước về trao đổi hàng hóa, thanh toán, vận
tải, bưu chính viễn thông, sở hữu công nghiệp, quyền tác giả.
Chẳng hạn, Hiệp định Cobden - Chevalier ký kêt ngày
23/1/1860 giữa Anh và Pháp nhằm cắt giảm thuế quan đôi với
nguyên liệu và phần lớn các loại thực phẩm lưu thông giữa hai
nước; Công ước Berne về bảo hộ các lác phẩm văn học và
nghệ thuật (1886)... Sự phát triển của luật kinh tế quốc tế chịu
ảnh hưởng của các học thuyết kinh tế, đặc biệt là các học
thuyết về lợi thế tuyệt đối (của Adam Smith) và học thuyết vệ
lợi thế tương đối (của David Ricardo) được hình thành vào thê
kỷ XVIII-XIX. Các quốc gia phương Tây sau khi tiên hành
cuộc cách mạng công nghiệp đã dần nhìn thây lợi ích của việc
hợp tác kinh tế quốc tế. Các học thuyết kinh tê này đã cô súy
cho sự phân công lao động theo hướng chuyên môn hóa giữa
các quốc gia trên thế giới và tự do hóa thương mại quôc tê.
Các thỏa thuận, điều ước quốc tể vê hợp tác kinh tê - thương
mại quốc tế đã hình thành nên các quy phạm, nguyên tắc pháp
lý của luật kinh tế quốc tế.
279
Tuy nhiên, chỉ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, các
quôc gia trên thế giới mới thật sự thống nhất trong việc xây
dựng và phát triển quan hệ quốc tế trên nền tảng hợp tác kinh
tế và trao đổi thương mại quốc tế tự do. Sự hình thành của các
định chế quốc tế về tài chính, tiền tệ và thương mại dưới sự
bảo trợ của LHQ cũng đã tạo dựng một nền tảng quan trọng
cho sự phát triển của luật kinh tế quốc tế hiện đại.
Sự xuất hiện trên trường quốc tế các quốc gia độc lập»
mới thoát khỏi chế độ thuộc địa trong thập niên 50 - 60 của
thế kỷ XX, mong muốn độc lập về kinh tế đã dẫn tới thay đổi
lớn trong luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Trong
những năm 1970, các quốc gia đang phát triển đã yêu càu cải
tổ cơ cấu của hệ thống thương mại và tài chính để hướng tới
một trật tự kinh tế mới (New International Economic Order,
NIEO). LHQ đã thông qua hàng loạt nghị quyết quan trọng vê
vấn đề này như Tuyên bố về việc thiết lập trật tự kinh té thê
giới mới,1 Hiến chương về quyền và nghĩa vụ kinh tế của các
quốc gia.2Những văn bản này đã ghi nhận các nguyên tắc và
quy phạm của luật kinh tế quốc tế, trong đó có các nguyên tắc
bình đẳng vê chủ quyền trong việc hợp tác giữa các quốc gia,
quyền ưu đãi dành cho các quốc gia đang phát triển nhằm xóa
bỏ khoảng cách giữa các quốc gia đang phát triển và phát
triển.3 Nội dung của các nguyên tắc này được phản ánh rõ nét
trong các điều ước thương mại đa phương của WTO liên quan
tới chế độ đãi ngộ ưu đãi dành cho các nước đang phát triển.
1 Tuyên bố về thiết lập trật tự kinh tế thế giới mới (Declaration on the
Establishment of a New International Economic Order), UNGA Res.3201(S-
VI), 01/5/ 1974.
2 Hiến chương về quyền và nghĩa vụ kinh tế của các quốc gia (Charter of
Economic Rights and Duties ofStates), UNGA Res.3 2 8 1(XXIX), 12/12/1974.
3 Verwey w. D. “The Principles of a New International Economic Order and
the law of the General Agreement on Tariffs and Trade (GATT)”, Leiden
Journal ofInternational Law, Vol.3, No.2, 1990, tr. 123.
280
Sự chấm dứt của chiến tranh lạnh vào ciiối thập niên
1980 đã tạo ra một bước ngoặt mới trong quan hệ kinh tế quốc
tế. Nó giúp hình thành nên một thế giới “đa cực” với nhiêu
liên minh kinh tế - thương mại giữa các quốc gia trên thế giới.
Các quy phạm của luật kinh tế quốc tế đã nhanh chóng phát
triển trong khuôn khổ hệ thống thương mại đa phương của
WTO và các thỏa thuận tự do mậu dịch giữa các quốc gia trên
thế giới.
Tóm lại, luật kinh tế quốc tế là một ngành luật thuộc hệ
thống luật quốc tế bao gồm những nguyên tắc, quy phạm do
các chủ thể của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên nhằm
điều chỉnh mối quan hệ kinh tế (trật tự kinh tế, thương mại,
tiền tệ, cân bằng cán cân thanh toán, đầu tư,...) giữa các chủ
thể của luật quốc tế (cơ bản và chủ yếu là các quốc gia).
Ở đây cần lưu ý khái niệm “chủ thể pháp luật kinh tế
quôc tê” và “thực thể tham gia vào quan hệ kinh tê quôc tê”.
Quan hệ kinh tế quốc tế có sự tham gia của nhiều thực thể để
thực hiện các hoạt động kinh tế xuyên biên giới và thiết lập
môi trường kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên, chủ thể quan hệ
kinh tế quốc tế chỉ bao gồm những thực thể có năng lực chủ
thể pháp luật quốc tế. Quốc gia là chủ thể pháp luật cơ bản của
luật kinh tế quốc tế. Từ góc độ lý luận, tư cách chủ thể của
quốc gia thể hiện trước hết ở khả năng của quốc gia trong việc
thiết lập các quy phạm pháp luật quốc tế và tiếp nhận các trách
nhiệm quôc tê, bao gồm ký kết các điều ước quốc tế và tham
gia vào việc điều chinh các quan hệ kinh tế quốc tế. Chủ thê
của luật kinh tế quốc tế cũng bao gồm các định chế, liên minh
pháp lý của các quốc gia và các tổ chức kinh tế quốc tế (liên
chính phủ). Trong khi đó, thực thể tham gia vào quan hệ kinh
tê quôc tê có thê bao gồm cà các quôc gia, tổ chức của chính
phủ cũng như các thiết chế phi chính phủ, tổ chức kinh tế,
công ty xuyên quốc gia... Các thực thể này với tư cách là chủ
281
thể pháp luật chung sẽ chịu sự điều chỉnh bởi cả các quy phạm
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia.
1.2. Nguồn của luật kỉnh tế quốc tế
Luật kinh tế quốc tế là một ngành của luật quốc tế. Do
đó nguồn của luật kinh tế quốc tế cũng được đề cập tại Điều
38 Quy chế Tòa án quốc tế. Nguồn của luật kinh tế quốc tế
bao gồm các điều ước quốc tế về kinh tế, các tập quán quốc tế,
các nguyên tắc chung của luật, các phán quyết của tòa án và
các công trình nghiên cửu của các luật gia về luật quốc tế.4
Như vậy, luật quốc gia không phải là nguồn của luật kinh tế
quốc tế.
Các nguyên tắc, quy phạm của luật kinh tế quốc tế chủ
yếu được ghi nhận trong các điều ước quốc tế. Trong một thời
gian dài, điều ước quốc tế 4a phưomg trong lĩnh vực kinh tế là
nguồn cơ bản và chủ yếu của luật kinh tế quốc tế, đặc biệt là
Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT 1947), hệ
thống các Hiệp định Marrakesh 1994 về việc thành lập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO), Quy chế của Ngân hàng
Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Bên cạnh đó, các
điều ước quốc tế của các liên kết kinh tế song phương (Hiệp
định thương mại Việt - Mỹ, Hiệp định khu vực tự do mậu dịch
Mỹ - Singapore) và khu vực (NAFTA, EU, AFTA) cũng được
coi là nguồn của luật kinh tế quốc tế.
Các quốc gia chưa tham gia vào các điều ước quốc tế đa
phương về kinh tế có thể áp dụng các quy phạm của các điều
ước quôc tê đó với tư cách là tập quán quôc tê.
Ngoài hai nguồn cơ bản nói trên, luật kinh tế quốc tế còn
có nguồn quan trọng là các nghị quyết của các tổ chức quốc tế
và hội nghị quốc tế - thường được gọi là nguồn “luật mềm”. Ở
đây, thuật ngữ luật mềm (soft law) được sử dụng để chỉ những*
2
8
2
4 Điều 38 Quy chế Tòa án quốc tế cùa LHQ.
282
loại văn bản chứa đựng thỏa thuận giữa các quốc gia hoặc ghi
nhận hành vi pháp lý đơn phương của một tổ chức kinh tế
quốc tế, như các khuyến nghị, nghị quyết của tổ chức quốc tế
hay tuyên bố chung của các quốc gia trong một diễn đàn quốc
tế (sau một vòng đàm phán hoặc hội nghị thượng đỉnh giữa
các nguyên thủ quốc gia). “Luật mềm” có thể đóng vai trò là
tiền thân của “luật cứng”. Nó cũng có thể đóng vai trò thay thế
“luật cứng” trong những lĩnh vực còn tồn tại nhiều ý kiến bất
đồng giữa các chủ thể của luật quốc tế, ví dụ trong lĩnh vực
đầu tư, Bộ quy tắc của Ngân hàng Thế giới về đối xử đối với
đầu tư trực tiếp nước ngoài được ban hành bởi ủ y ban phát
triển của Ngân hàng Thế giới là một “luật mềm” có vai trò
quan trọng. Tuy không mang tính ràng buộc về mặt pháp lý
đối với các quốc gia thành viên của tổ chức này nhưng văn
bản trên cũng góp phần làm thay đổi pháp luật quốc gia theo
hướng ngày càng mờ cửa và bảo vệ nhà đầu tư nước ngoài.
Tương tự, Tuyên bố Doha của WTO về Hiệp định về các khía
cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
(Trade related aspects o f intellectual property rights
agreement, TRIPS) và sức khỏe cộng đồng cũng là một văn
bản mang tính định hướng không có giá trị ràng buộc, tuy
nhiên nó cũng đã thiết lập nên một nguyên tắc quan trọng
trong việc cân bằng lợi ích kinh tế (của chủ sở hữu patent
dược phâm) và lợi ích cộng đông (bảo vệ sức khỏe cộng đông)
trong trường hợp khẩn cấp.
1.3. Phạm vi điều chỉnh của luật kinh tế quốc tế
Như đã đề cập ở trên, sau Chiến tranh thế giới thứ II,
một trật tự kinh tế mới được chính phủ các quôc gia trên thê
giới, khởi đầu là Anh và Mỹ, xây dựng dựa trên cơ sờ công
bằng, bình đẳng chủ quyền và hợp tác quốc tế. Ngay từ ban
đầu, trật tự kinh tế quốc tế mới này hướng đến việc điều chỉnh
ba lĩnh vực trụ cột là tài chính, tiền tệ và thương mại. Bởí lẽ,
đây là ba lĩnh vực tối quan trọng để tái thiết sau những thiệt
283
hại nặng nề do hai cuộc đại chiến thế giới cũng như CUỘC đại
khủng hoảng (Great Depression) trên phạm vi toàn cầu trong
suốt thập niên 1930 gây ra. Năm 1944, hội nghị Bretton
Woods được triệu tập nhằm bàn luận về việc xây dựng các quy
định điều chỉnh hai lĩnh vực tài chính - tiền tệ. Năm 1947 -
1948, hội nghị La Havana được tổ chức nhằm bàn luận về việc
điều chình hợp tác trong lĩnh vực thưcmg mại. Suy cho cùng,
đây là ba lĩnh vực chính yếu nhất trong quan hệ quốc tế.
Chúng bổ sung cho nhau và cùng giữ vai trò đảm bảo sự ổn
định, phát triển của kinh tế quốc tế, sự phồn vinh, thịnh vượng
của cộng đồng quốc tế. Một hệ thống tài chính vững mạnh tạo
điều kiện cho các trao đổi quốc tế (về hàng hóa dịch vụ -
thương mại quốc tế) diễn ra một cách năng động. Đổi lại, sự
lưu chuyển trơn tru của các trao đổi quốc tế giúp giảm thiểu
nguy cơ về mất cân bằng thạnh toán và khủng hoảng tài chính.
Chính vì những lẽ trên, luật kinh tế quốc tế với tư cách là
khung pháp lý của trật tự kinh tế quốc tế, phải là một hệ thống
quy phạm điều chỉnh các quan hệ kinh tế quốc tế, chủ yếu là
các quan hệ giữa các chủ thể trong những lĩnh vực sau: thương
mại quốc tế, tài chính - tiền tệ quốc tế và đầu tư nước ngoài.
Nhìn chung, cũng giống như thương mại trong nước3,
nội hàm quan hệ thương mại quốc tế không đồng nhất với
quan hệ mua bán mà rộng hơn rất nhiều. Nó có thể bao gồm
tất cả các quan hệ giữa các chủ thể của luật kinh tế quốc tế
liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, mua bán, vận chuyển,
dịch vụ, giao dịch tài chính, sở hữu trí tuệ5
6... Tuy nhiên, giới
hạn phạm vi của các hoạt động thương mại quốc tế đến đâu,
có bao gồm hai mảng tài chính - tiên tệ quốc tế và đâu tư nước
5 Ví dụ định nghĩa hoạt động thương mại tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại
năm 2005: “ Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đâu tư, xtic tiên thương mại và các
hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
6 Xem them Patrick Daillier et al, tlđd, tr. 1241 và Gérard Comu, Vocabulaire
juridique, Association Henri Capitant, PUF, 9e ed, 2011.
284
ngoài hay không vẫn là một chủ đề chưa đạt đưực sự thống
nhất trong khoa học pháp lý quốc tế.
Đối tượng điều chỉnh đầu tiên của luật kinh tế quốc tế
mà ta sẽ trình bày là quan hệ pháp luật tài chính - tiền tệ bời lẽ
tiền tệ chỉnh là phương tiện thiêt yêu đê đảm bảo vê mặt cung
cấp tài chỉnh cho các hoạt động đầu tư cũng như mua bản
hàng hóa và cung ứng dịch vụ7 (1.3.1). Sau đó chúng ta sẽ
xem xét quan hệ pháp luật thương mại quôc tê (1.3.2) và pháp
luật về đầu tư quốc tế (1.3.3).
1.3.1. Q uan h ệ p h á p luật tài chính - tiền tệ
Quan hệ tài chính - tiền tệ quốc tế là một loại quan hệ
đóng vai trò “chất bôi trơn” cho các quan hệ khác thuộc phạm
vi điều chỉnh của luật kinh tế quốc tế. Ngày nay, trong khoa
học pháp lý, rất khó để tách bạch rạch ròi những quan hệ nào
thuộc về tài chính, quan hệ nào là tiền tệ. Quan hệ tài chính -
tiền tệ phát sinh trong mọi lĩnh vực hợp tác kinh tế quôc tê
khác nhau giữa các quốc gia, chẳng hạn trong tín dụng quôc
tế, hoạt động thương mại quốc tế, trong lĩnh vực đầu tư, trong
hoạt động vận chuyển quốc tế. Thông thường, các quôc gia
tham gia vào một quan hệ tài chính - tiền tệ quốc tê nhăm
hướng đến khách thể là tin dụng quốc tế hoặc sự hợp tác trong
việc điều chỉnh nhằm đảm báo sự ổn định của dòng lưu thông
tiền tệ.
Quan hệ tín dụng quốc tế có thể được điều chinh bời các
thỏa thuận tín dụng song phương theo đó các quốc gia có thê
xây dựng một hiệp định tín dụng dài hạn (trên năm năm), hiệp
định tín dụng trung hạn (từ một đến năm năm), hiệp định tín
dụng ngắn hạn (đến một năm). Theo dó, quốc gia cho vay tín
dụng cho quốc gia vay tín dụng vay một khoản tiền xác định
hoặc cung cấp cho quốc gia này một khối lượng hàng hóa nhât
định. Đôi lại, quốc gia vay tín dụng cổ nghĩa vụ thanh toán các
7 Xem thêm sách Patrick Daillier et al, tlđcỉ. tr. 1176.
285
khoản nợ tín dụng trong thời hạn xác định và theo các điêu
kiện mà hai bên đã thỏa thuận và ghi nhận trong hiệp định tín
dụng, đông thời quôc gia vay tín dụng phải trả một khoản lãi
cho bên kia. Ngoài ra, với sự ra đời của các tổ chức quốc tê
liên chính phủ quy mô toàn cầu trong lĩnh vực tài chính - tiên
tệ quôc tê như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thê
giới (WB) cũng như quy mô liên khu vực như Ngân hàng phát
triên châu Á (Asia Development Bank, ADB), hiệp định tín
dụng còn có thê là điêu ước quốc tế song phương giữa quôc
gia có nhu câu vay vôn với một trong các tổ chức này. Ví dụ>
một quốc gia có thể vay vốn ngắn hạn nhằm khắc phục khó
khăn trong cán cân thanh toán với IMF hoặc vay vốn dài hạn
và trung hạn để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tê
với WB.
về quan hệ hợp tác -trong việc điều chỉnh nhằm đảm bảo
sự ôn định của dòng (lưu thông) tiền tệ, quản lý tiền tệ chính
là một trong những nhiệm vụ cốt lõi để thực hiện chủ quyên
quôc gia và chức năng đôi nội của nhà nước. Tuy nhiên, chính
sách tiên tệ của một quốc gia có thể vượt ra ngoài biên giới
lãnh thô và gây ảnh hường đên các giao dịch thương mại quôc
tê. Ví dụ, việc một quôc gia phá giá đồng nội tệ của mình (làm
thạy đôi tỉ giá hối đoái của nó so với tiền tệ quốc gia khác) có
thê giúp quốc gia đó thu hút được nguồn vốn đầu tư từ nước
ngoài, làm tăng giá hàng hóa nước ngoài từ đó giảm nhập
khâu và theo chiêu ngược lại, giảm giá hàng hóa sản xuât
trong nước từ đó làm tăng xuất khẩu. Một thương nhân sẽ
không thể tiến hành hoạt động nhập khẩu nếu quốc gia nơi có
trụ sở của thương nhân trên ban hành quy định về tạm ngừng
thanh toán hàng nhập khẩu. Trong một thế giới, nơi các nền
kinh tế phụ thuộc lẫn nhau một cách tương đối, quốc gia có
nền kinh tế càng mạnh thì ảnh hưởng của chính sách tiền tệ
nội địa của nó đến thương mại quốc tế càng lớn. Do vậy, các
quốc gia phải hợp tác với nhau để ngăn ngừa sự trở lại của các
chính sách bào hộ mậu dịch đã gây nên cuộc đại khủng hoảng
286
trong những năm 1930, đe dọa đến sự phát triển của cộng
đồng quốc tế. Đảm bảo sự ổn định của dòng lưu thông tiền tệ
cũng chính là sự đảm bảo cho dòng vốn đầu tư quốc tế và giao
dịch thương mại quốc tế được thông suốt, góp phần vận hành
hiệu quả nền kinh tế quốc tế.
Quan hệ pháp luật tài chính - tiền tệ là quan hệ giữa các
chủ thể của luật kinh tế quốc tế (chủ yếu là giữa các quôc gia)
được điều chỉnh bởi các hệ thống tài chính - tiền tệ quốc tê.
Trong khoa học pháp lý, khái niệm hệ thống tài chính - tiên tệ
quốc tế được thừa nhận rộng rãi hiện nay là “tập hợp các quy
tắc và thỏa thuận quốc tế được xâv dựng bởi các quốc gia và
các tổ chức quốc tế nhằm ngăn ngừa khủng hoảng tiền tệ và
khắc phục nỏ”.8
Hệ thống tài chính - tiền tệ quốc tế là hệ thống liên quôc
gia (khác với hệ thống mang tính chất tư nhân như các thị
trường thuộc “euro-market”) được hình thành vào tháng
7/1944 trong khuôn khổ của Hội nghị tài chính - tiền tệ của
LHQ tổ chức tại Bretton Woods, New Hampshire, Hoa Kỳ với
việc thành lập hai tổ chức quốc tế là IMF và WB. Hệ thống tài
chính - tiền tệ này mang tính chất đa phương có phạm vi toàn
cầu với mục tiêu cơ bản là bảo đảm sự ổn định của hệ thông
tiền tệ và tài chính quốc tế. Cả IMF và WB đều là các tổ chức
liên chính phủ và chỉ điều chỉnh các vấn đề liên quan tới quan
hệ tài chính - tiền tệ giữa các quốc gia và quyền và nghĩa vụ
của quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tể.
Bên cạnh hệ thống tài chính - tiền tệ đa phương, cũng
tôn tại hệ thông tài chính khu vực có phạm vi ảnh hưởng giới
hạn đối với từng khu vực cụ thể. Trên bình diện khu vực, sự ra
đời và tồn tại của khu vực đồng euro, mặc dù đang đứng trước
những thách thức rất lớn từ cuộc khủng hoảng nợ công ờ một
8 Dominique Carreau, Patrick Juillard, tlđ d , tr. 552.
2 8 7
số nước trong khu vực, đã thực sự nâng tầm quan hệ hợp tác
giữa các quốc gia trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ quốc tế.
1.3.2. Quan hệ pháp luật thương mại quốc tế
Quan hệ pháp luật thương mại quốc tế có thể được hiêu
là quan hệ giữa các chủ thể tiến hành các hoạt động thương
mại quốc tế được luật (thương mại) quốc tế điều chỉnh.9
Quan hệ pháp luật thương mại quốc tế giữa các quốc gia
được hình thành và vận hành trên cơ sở các chính sách và quy
phạm pháp luật do các quốc gia thỏa thuận thiết lập nên. Tuy
nhiên, lịch sử cho thấy, các quốc gia thường rất bảo thủ trong
việc hợp tác phát triển thương mại vì họ không muốn chia sẻ
các nguồn tài nguyên mình sở hữu. Các chính sách pháp luật
thương mại quốc gia thường mang nặng tính bảo hộ (sản xuất
trong nước) và không tạo, điều kiện thuận lợi cho hợp tác trao
đổi thương mại, gây tác động tiêu cực đến dòng lưu chuyển
hàng hóa, dịch vụ, đầu tư quốc tế.10 Bảo hộ mậu dịch tràn lan
dẫn tới hậu quả là sự hình thành các hệ thống thị trường độc
quyền và chia cắt thị trường quốc tế, tác động tiêu cực tới sự
trao đổi, sử dụng các nguồn lực và tài nguyên một cách hiệu
quả. Đó được coi là một trong những yếu tố cơ bản dẫn tới
những mâu thuẫn kinh tế sâu sắc giữa các quốc gia và những
cuộc chiến tranh trên phạm vi khu vực và toàn cầu nửa đầu thế
kỷ XX.
9 Tại Việt Nam, khái niệm thương mại quốc tế được hiểu rất rộng, bao gồm cả
các hoạt động thương mại (vi mô) của các thương nhân (thương mại quốc tế
tư) và hoạt động thương mại quốc tế giữa các quốc gia và các định chế kinh tế
quốc tế (thương mại quôc tê công). Trong phạm vi chương này, phù hợp với
khái niệm vê luật kinh tê quôc tê, chúng ta chì xem xét các quan hệ pháp luật
thương mại quốc tế dưới góc độ kinh tế vĩ mô hay còn gọi là các quan hệ
thương mại quốc tế công. Xem thêm Mai Hồng Ọùy và Trân Việt Dũng, Luật
Thương mại quốc tế, Nxb. ĐHỌG TP.HCM, 2012.
10 Xem Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh,
Nxb. Hồng Đưc, 2012, tr. 42-50.
288
Sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, các quốc gia đã
hướng tới thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế mới trên cơ sở
gia tăng hợp tác kinh tế - thương mại quốc tế thông qua quá
trình tự do hóa thương mại đa phương. Nét đặc trưng của quan
hệ pháp luật thương mại quốc tế hiện đại nằm ở việc quốc gia
chấp nhận ràng buộc trong các cam kết mở cửa thị trường nội
địa, hạn chế bảo hộ và bảo đảm sự ổn định trong chính sách và
pháp luật thương mại. Điều này đồng nghĩa với việc quốc gia
nhượng bộ một phần chủ quyền của mình trong lĩnh vực
thương mại. Mối quan hệ này tạo ra một nền tảng quan trọng
cho sự phát triển của hệ thống pháp luật thương mại quốc tế và
hợp tác kinh tế - thương mại.
Trong bối cảnh đó, quan hệ pháp luật thương mại quốc
tê giữa các quôc gia được điêu chỉnh thông qua các công cụ
pháp lý chủ yếu là điều ước quốc tế đa phương và khu vực
(bao gồm cả các điều ước song phương).
Các điều ước quốc tế trong lĩnh vực thương mại quốc tể
chủ yếu điều chỉnh ba mảng: thương mại hàng hóa, thương
mại dịch vụ, thương mại liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ.
Các điều ước này thiết lập những quy tắc cho hoạt động
thương mại quốc tế giữa các chủ thể, ví dụ như quy chế đối xử
tối huệ quốc (Most Favoured Nation treatment, MFN), đối xử
quốc gia (National Treatment, NT); thực hiện cắt giảm thuê
quan và loại bỏ hạn ngạch; biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ; và đưa ra các biện pháp giải quyết tranh châp thương mại
(nếu có).
Nhìn chung, điều ước thương mại quốc tế khu vực được
coi là công cụ quan trọng để quốc gia xúc tiến quan hệ hợp tác
thương mại với đối tác thương mại chiến lược của mình. Tuy
nhiên, trong nhiều trường hợp, đặc điểm, kết quả và ảnh
hưởng của các hiệp định thương mại khu vực. nhất là các hiệp
định song phương phụ thuộc vào cán cân thương mại của các
2 8 9
quôc gia thành viên và trong nhiều trường hợp phụ thuộc vậo
quan hệ chính trị - kinh tế của quốc gia. Ở góc độ này, điên
ước quôc tế đa phưomg thường đảm bảo tốt hơn sự cân bằng
tương đối cho lợi ích thương mại của cộng đồng các quốc gia-
Hệ thống thương mại quốc tế đa phương (toàn cầu) hiện
nay được điêu phối và giám sát bởi Tổ chức Thương mại th6
giới (WTO). Cụ thể, WTO đã thiết lập một khung pháp lý ch°
các lĩnh vực thương mại theo một hệ thống như sau:
-Khung pháp lý điều chỉnh quan hệ pháp luật thương
mại hàng hóa quốc tể bao gồm Hiệp định chung về thuế qu&n
và mậu dịch (GATT) 1947/1994 và các hiệp định đa biên vê
thương mại hàng hóa (dưới hình thức phụ lục IA của Hifp
đinh thành lập WTO và nhằm mục đích giải thích các điên
khoản của GATT).
-Khung pháp lý điều chỉnh quan hệ pháp luật thương
mại dịch vụ quốc tế dựa trên nền tảng là Hiệp định chung vẻ
thương mại dịch vụ (General Agreement on Trade in Services
- GATS) (Phụ lục IB của Hiệp định thành lập WTO). Mực
đích cơ bản của GATS là thiêt lập một khuôn khổ đa biên chơ
những nguyên tắc và quy tắc của thương mại dịch vụ nhằm mở
rộng thương mại trong lĩnh vực này trong điều kiện minh bạch
và tự do hóa từng bước.
- Khung pháp lý điều chỉnh quan hệ pháp luật về quyền
sở hữu trí tuệ dựa trên nên tảng là Hiệp định TRIPS. Hiệp định
TRIPS là một hiệp định đa phương tổng hợp và thống nhất các
quy định vê sở hữu trí tuệ đã tôn tại trong các điêu ước quốc tê
về quyền sở hữu trí tuệ (như Công ước Paris, Công ước Berne,
Công ước Rome và Hiệp ước về quyền sở hữu trí tuệ đối với
mạch tích hợp). Các thành viên của WTO bị ràng buộc bởi
Hiệp định TRIPS, bất kể họ có phải là thành viên của các điêu
ước quốc tế đó hay không.
290
Sự lưu chuyển đồng vốn nhàn rỗi từ nơi đang có sẵn
đến nơi có nhu cầu đóng vai trò rất quan trọng trong việc vận
hành và phát triển kinh tể ở cấp độ quốc gia hay quốc tế. Đầu
tư nước ngoài cũng vì thế mang lại nhiều lợi ích đặc biệt cho
những quốc gia nhận đầu tư là nước đang phát triển. Nhò
nguồn vốn này, họ có thể giải quyết những khó khăn về kinh
tế xã hội như lạm phát, thất nghiệp, tạo môi trường cạnh tranh
và thông qua tiếp nhận đầu tư nước ngoài, quốc gia tiếp nhận
còn có điều kiện học tập và ứng dụng công nghệ tiên tiến,
hiện đại. Ở chiều ngược lại, quốc gia xuất khẩu đầu tư cũng
nâng được hiệu quả sử dụng vôn đầu tư. Nhà đâu tư của quôc
gia này có điêu kiện tiếp cận nguôn nguyên liệu và nguôn
nhân lực giá rẻ để hạ giá thành sản xuất, nâng cao năng lực
cạnh tranh.
Giữ vai trò quan trọng như vậy, nhưng trong các văn bản
pháp luật kinh tế quốc tế hiện nay (dù mang tính ràng buộc
hay chỉ có giá trị như “luật mêm”), khái niệm hoạt động đâu tư
nước ngoài không được đề cập hoặc được đề cập nhưng không
đạt được sự thừa nhận rộng rãi. Bộ văn bản hướng dân
“Những nguyên tác định hướng của Ngân hàng Thế giới vê
đôi xử đôi với đầu tư trực tiêp nước ngoài” ban hành ngày
21/9/1992 bởi ủ y ban phát triển của Ngân hàng Thế giới
(WB) và Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đên
thương mại (Agreement on Trade-Related Investment
Measures, TRIMS) (trong khuôn khổ các Hiệp định đa biên
của WTO) đêu không định nghĩa thê nào là đầu tư nước ngoài.
Trong bản dự thảo của Hiệp định đa biên về đầu tư
{Multinational Agreement on Investment, MAI) của Tổ chức
Hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for Economic Co­
operation and Development, OECD), khái niệm đầu tư nước
ngoài được định nghĩa là “ ... bao gồm tất cá các loại vốn đầu
tư là tài sán hữu hình, động sán hay bất dộng sản tài sản vô
1.3.3. Quan hệ pháp luật về đầu tư quốc tế
291
hình như các quyển sở hữu trí tuệ cũng như các tài sản đặc
biệt nhiỉ cổ phiếu, trải phiếu... không phân biệt hình thức đầu
tư trực tiếp hay giản tiếp”. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không
được công nhận rộng rãi bởi cộng đồng quốc tế .1
1
Đầu tư nước ngoài, theo định nghĩa của MAI, có thê
hiểu khái quát là việc nhà đầu tư quốc gia này đưa vào quốc
gia khác vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến
hành hoạt động đầu tư. Tài sản ở đây bao gồm cả tài sản hữu
hình và tài sản vô hình. Đầu tư nước ngoài có thể được thực
hiện dưới hai hình thức: đầu tư trực tiếp và gián tiếp. Tiêu chí
để phân biệt hai hình thức này chính là việc có hay không
hành vi trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.12 Tuy
nhiên, việc xác định thế nào là “trực tiếp tham gia quản lý hoạt
động đầu tư” là chủ đề chưa được thống nhất hiện nay.
Quan hệ pháp luật về đầu tư nước ngoài thuộc phạm vi
điều chỉnh của luật kinh tế quốc tế được hiểu là mối quan hệ
giữa các quốc gia trong việc hợp tác điều chỉnh hoạt động
đầu tư nước ngoài (theo hướng ngày càng mở rộng tự do lưu
chuyên dòng vôn đâu tư, bảo hộ quyền sở hữu của nhà đâu
tư nước ngoài).13 Khung pháp lý đảm bảo cho sự hợp tác đó
chính là các điều ước quốc tế. Tuy nhiên, như đã trình bày ở
trên, bởi nhiều lý do trong đó có sự không thống nhất về nội
hàm của hoạt động đầu tư nước ngoài, cho đến nay cộng
đồng quốc tế vẫn chưa thiết lập được một điều ước quốc tế
đa phương toàn cầu điều chỉnh toàn bộ quan hệ về đầu tư
nước ngoài.
1
1 Hiệp định MAI được soạn thào bời OECD hiện vẫn chưa được ký kết do
khône nhận được sự ùng hộ cần thiết của các quốc gia trên thế giới.
12 xém thêm Điều 3.2, 3.3 Luật Đầu tư 2005, Phụ lục D Bộ quy tắc về tự do
hóa dòng vốn đầu tư năm 2013 của OECD
1
3 Patrick Daillier et al, tlđd, tr. 1170-1181, cũng xem Giáo trình Luật Kinh tế
quốc tế (Me.ìicờvnapoờiioe jKonoMimecKoe npciGÒ), Học viện quốc gia
Moscow về quán hệ kinh tế quốc tế (MGIMO), KHoPyc, Moscow, 2012, tr.
182-189
292
Bộ văn bản hướng dẫn “Những nguyên tắc định hướng
của Ngân hàng Thế giới về đối xử đối vời đầu tư trực tiếp
nước ngoài” của thiết rhế này hiện là văn bản duy nhất đề cập
một cách có hệ thống các vấn đề trong quan hệ đầu tư quốc tế.
Văn bản này hướng đến khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước
ngoài bằng cách đặt ra các nguyên tấc điều chỉnh hành vi của
các quốc gia trong lĩnh vực này như nguyên tắc đối xừ công
bằng, nguyên tắc tối huệ quốc, đối xử quốc gia cũng như đặt
ra các điều kiện chặt chẽ cho việc quốc hữu hóa tài sản của
nhà đầu tư nước ngoài nhưng cho đến nay các nguyên tắc này
không mang tính ràng buộc đối với các quốc gia và không
phải là một điều ước quốc tế đa phương toàn cầu (mặc dù đã
được công nhận bởi Ngân hàng Thế giới), cần lưu ý ở đây là
Bộ văn bản hướng dẫn này vẫn đề cao chủ quyền quốc gia,
thông qua việc ghi nhận nguyên tắc quyền tự do của quốc gia
trong việc quyết định chấp nhận nguồn vốn đầu tư từ nước
ngoài. Điều đó có nghĩa là tự do hóa sự lưu chuyên dòng vôn
đầu tư nước ngoài vẫn bị hạn chế bởi chủ quyền của quốc gia.
Điều ước quốc tế đa phương toàn cầu đề cập hoạt động
đầu tư nước ngoài có thể kể đến ở đây là Hiệp định về các
biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại TRIMs của WTO.
Tuy nhiên văn bản pháp lý quốc tế này chỉ áp dụng đôi với
thương mại hàng hóa của doanh nghiệp đầu tư trực tiêp nước
ngoài và chỉ hướng đến xóa bỏ các biện pháp đầu tư gầy cản
trở thương mại của quốc gia nhận đầu tư chứ không chứa
đựng các quy định toàn diện điều chỉnh hoạt động đâu tư, như
bảo đảm đầu tư nước ngoài (quv định ấn định các điều kiện
cho việc trưng thu tài sản của nhà đầu tư nước ngoài, nguyên
tắc bồi thường - mức bồi thường trong trường hợp trưng thu
tài sản), giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư
nước ngoài...1
4
1
4 Xem Giáo trình Luật Thương mại quốc tế Đại học luật TP.HCM —Phàn I
(Luật WTO), Nxb. Hồng Đức, 2012
293
Hiện nay, quan hệ pháp luật về đầu tư nước ngoài giữa
các quốc gia nói chung chỉ được điều chỉnh bằng các điều ước
về hợp tác đầu tư song phương hoặc điều ước mang tính khu
vực (hiệp định khu vực tự do thương mại hay hiệp định vê liên
minh thuế quan). Nội dung của các điều ước quốc tê này
thường bao gồm các vấn đề cơ bản như sau:
- Xác định rõ nội hàm của đầu tư nước ngoài, từ đó
xác định phạm vi điều chỉnh của hiệp định. Thông thường hoạt
động đầu tư nước ngoài được hiểu rất rộng, không phân biệt
đầu tư trực tiếp hay gián tiếp.
- Quy định trình tự thủ tục cho phép các nhà đầu tư
nước ngoài tiến hành các hoạt động đầu tư mà họ quan tâm,
đây gọi là giai đoạn tiền đầu tư và trình tự thủ tục này được
chia thành 3 loại tùy theo quốc gia lựa chọn mô hình hệ thống
nào: hệ thống khai báo; hệ thống xin cho; hệ thống hỗn hợp.
- Quy định việc áp dụng các nguyên tắc đối xử quốc
gia và đối xử tối huệ quốc cho các nhà đầu tư của các quốc gia
thành viên hiệp định.
- Quy định các biện pháp bảo đảm cho các nhà đầu tư
nước ngoài yên tâm khi tiến hành các hoạt động đầu tư (quy định
ấn định các điều kiện cho việc trưng thu, quốc hữu hóa tài sản
của nhà đầu tư nước ngoài, nguyên tắc bồi thường - mức bồi
thường trong trường hợp trưng thu, quốc hữu hóa tài sản; quy
định cho phép tự do chuyển vốn, tài sản ra nước ngoài, ví dụ
chuyển lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh, vốn đầu tư,
các khoản thanh lý đầu tư trong trường hợp chấm dứt hoạt động
đầu tư tại nước nhận đầu tư ra nước ngoài).
- Quy định các vấn đề trong lĩnh vực giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư nước ngoài.
294
Các nguyên tắc cơ bản của luật quôc tê cũng chính là
các nguyên tắc cơ bản của luật kinh tê quôc tê... Tuy nhiên,
các nguyên tắc cơ bản sau đây có ý nghĩa quan trọng đặc biệt
trong quan hệ kinh tế giữa các quôc gia:
(i) Nguyên tắc giải quyêt các tranh châp kinh te quoc te
bằng biện pháp hòa bình: tranh châp quôc tê nói chung và
tranh chấp kinh tế quốc tế nói riêng giữa các quoc gia phai
được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình. Cac biẹn phap
hòa bình được đề cập tại Điều 33 Hiên chương LHQ, bao gom
các biện pháp mang tính chính trị như đàm phan, đieu tra,
trung gian và hòa giải; các biện pháp tư pháp bao gôm trọng
tài và tòa án.16 Trong Hiến chương của hiệp hội các quôc ^ia
E)ông Nam Á đây được coi là một nguyên tăc mang tính nên
tảng. Nguyên tắc này buộc các quốc gia phải hướng tới những
hiện pháp hòa bình khi giải quyết các tranh chấp trong quan hệ
kinh te quoc tế và tranh việc áp dụng vũ lực hay biện pháp tiêu
cực như chiến tranh, đong thời nâng cao vai trò và ảnh hưởng
của các cơ chế giải quyết tranh châp quoc te;
(ii) Nguyên tắc tôn trọng các cam kết C|uốc tê (Pacta sunt
sẹrvanda): Trong bôi cảnh quan hệ kinh tể quốc tế nguyên
tắc, theo đó các quốc gia phải thực hiện cac cam e , oa
thuận cua mình cung như những quy phạm pháp luật kin 1 tê
quoc te một cách tận tam, thiện chí và đầy đủ, có ý n^hĩa quan
trọng. Neu cac quy pham pháp luật trong nước của quôc g a đó
không phù hợp vm cac quy định trong cac đ ều ước quốc tế về
kinh té mà quôc gia đó la thành viên thì quốc gia đó có ngh a
vụ phải sủa rói bổ s u n g Tay h i^
Pháp luật quốc gia cho phù hạp vói các cam kết kinh quôc
tể.
1 .4 . C á c n g u y ê n tắ c c ủ a lu ậ t k in h tê q u ô c tê
Xem Chương II
Hiến chương LHQ, Điều 33.
295
Bên cạnh đó, luật kinh tế quốc tế có các nguyên tắc đặc
thù sau:
(i) Nguyên tắc các quốc gia có chủ quyền trong việc lựa
chọn hệ thống kinh tế phù hợp với ý muốn của nhân dân, mà
không có bất kỳ hình thức can thiệp, ép buộc hay đe dọa nào.
(ii) Nguyên tắc các quốc gia có chủ quyền vĩnh viễn đối
với tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế của
mình.1
7
18 Cụ thể, các quốc gia có quyền:
- Quy định và thực hiện thẩm quyền về đầu tư nước ngoài
trong phạm vi quyền tài phán của quốc gia mình. Quốc gia
không bị buộc phải dành sự đối xử ưu đãi cho đầu tư nước ngoài;
- Điều tiết và giám sát hoạt động của các tập đoàn, công
ty xuyên quốc gia trong phạm vi quyền tài phán của quốc gia
mình và thực hiện các biện pháp để đảm bảo rằng các hoạt
động này được thực hiện theo quy định của pháp luật và các
chính sách kinh tế và xã hội của quốc gia. Tập đoàn xuyên
quốc gia không được can thiệp vào công việc nội bộ của quốc
gia tiếp nhận đầu tư.
- Quốc hữu hóa, trưng thu tài sản của thể nhân và pháp
nhân nước ngoài có bồi thường thích hợp theo quy định của
pháp luật quốc gia tiếp nhận đầu tư.
(iii) Nguyên tắc các quốc gia có quyền tham gia vào
thưong mại quốc tế và các hình thức hợp tác kinh tế khác mà
17UNGA Res.3281(XXIX), Điều 1.
1
8 UNGA Res.3281(XXIX), Điều 2.1; UNGA Res.3201(S-VI), Principle (e).
Chù quyền đối với tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia {Permanent
sovereignty over natural resources -PSNR) được đề cập tại Nghị quyết cúa
Đại họi đồng LHQ năm 1962 (ƯNGA Res. 1803 (XVII), 14/12/1962,
"Permanent sovereignty over natural resources").
296
không có bất kỳ sự phân biệt nào về chính trị, kinh tế và xã
hội.19 Các quốc gia có quyền tham gia vào các tổ chức kinh tế
quốc tế để phát triển nền kinh tế của quốc gia mình. Tương
ứng, tất cả các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền đó (bằng
cách hạn chế áp dụng các biện pháp kinh tế và chính trị).20
(iv) Nguyên tắc đối xử ưu đãi và thuận lợi hơn dành cho
các quốc gia đang phát triển.21 Việc áp dụng nguyên tắc này
có thể thể hiện qua hình thức cung cấp, hỗ trợ tài chính và kỹ
thuật cho các quốc gia đang phát triển.22 hoặc dành cho các
quôc gia đang phát triên những ưu đãi trong tât cả các lĩnh vực
hợp tác kinh tế quốc tế.23
(v) Trong quan hệ thương mại, luật kinh tế quốc tế có
các nguyên tắc đặc thù nổi bật nhất là: nguyên tắc các quốc
gia dành cho nhau quy chế MFN, nguyên tắc NT và nguyên
tắc minh bạch.24
II. M ỘT SỐ CHỦ THẺ CHỦ YÉU CỦA LUẬT KINH
TÉ QUÓC TẾ
về mặt lý luận cũng như thực tiễn, quốc gia có chủ
quyền luôn đóng vai trò trung tâm trong quá trình hình thành
và phát triển của trật tự kinh tế quốc tế. Quốc gia, chủ thể chủ
yếu của luật quốc tế đàm phán, ký kết và tham gia vào các
điều ước quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, qua đó tạo cơ sở cho
các hoạt động kinh tế quốc tế. Đồng thời, quốc gia không chỉ
tiến hành quan hệ kinh tế với quốc gia khác, mà còn trực tiếp
tham gia các quan hệ kinh tế với thể nhân và pháp nhân nước
i9UNGA Res.3281(XXIX), Điều 4.
20UNGA Res.3281(XXIX), Điều 5.
21 GATT 1994, Art.7.
22 UNGA Res.3201(S-VI), Principle (1). UNGA Res.3281(XXIX), Điều 13(1),
(2), (3), (4).
23 UNGA Res.3201(S-VI), Principle (n). UNÒA Res.3281(XXIX), Điều 9.
24 GATT 1994, Điều 10.
2 9 7
ngoài (đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư và thương mại). Bên
cạnh đó, trong quan hệ kinh té quốc tế hiện đại các tổ chức
kinh tế đóng một vai trò rất đặc biệt. Trật tự kinh tế mới đánh
dấu sự ra đời và phát triển của các tổ chức kinh tế quốc tế liên
chính phủ ở cả cấp độ toàn cầu và khu vực như IMF, WB,
WTO hoặc EU, ASEAN, NAFTA... Các tổ chức này tạo điều
kiện cho sự hình thành và phát triển của pháp luật kinh tế quốc
tế và đặc biệt, trực tiếp điều phối quan hệ kinh tế quốc tế giữa
các quốc gia, bao gồm việc thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc
gia trong việc hoạch định chính sách kinh tế theo các nguyên
tắc của luật kinh tế quốc tế, hỗ trợ các quốc gia gặp khó khăn
trong việc vận hành nền kinh tế quốc nội cũng như khi tham
gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế, giải quyết các tranh chấp
phát sinh giữa các quốc gia trong hoạt động kinh tế quốc tế...
Bên cạnh đó, với quá trình toàn cầu hóa ngày nay, quan hệ
kinh tế quốc tế cũng chịu sự tác động của các thực thể kinh tế
dân sự, đặc biệt là công ty đa quốc gia. Mặc dù không phải là
chủ thể của luật kinh tế quốc tế nhưng các tổ chức kinh tế này
là hạt nhân quan trọng cho sự vận hành của các hoạt động hợp
tác kinh tế quốc tế, chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các chính
sách kinh tế vĩ mô và tác động trở lại đến sự hình thành các
quy phạm luật kinh tế quốc tế.
Phần này sẽ giới thiệu về các tổ chức kinh tế toàn cầu
(2.1) và các tổ chức kinh tế khu vực (2.2).
2.1. Các tổ chức kinh tế toàn cầu
Tại Hội nghị thượng đỉnh giữa các nước đồng minh
thắng trận được tổ chức vào năm 1944 tại Bretton Woods,
New Hampshire Mỹ, các cường quốc kinh tế đã thống nhất
thành lập một hệ thống tài chính tiên tệ toàn cầu - còn gọi là
Hệ thống Bretton Woods, có khả năng đẩy mạnh sự hợp tác
kinh tế đa phương trên phạm vi toàn cầu. Hệ thống Bretton
298
Woods được dự định sẽ là một hệ thống các định chế kinh tế
quốc tế trong khuôn khổ LHQ với ba trục cơ bản là IMF, WB
và Tổ chức Thương mại thế giới (International Trade
Organization —“ITO”)25. Trong đó, IMF bảo đảm cho sự ổn
định của tiền tệ và tạo điều kiện cho sự trao đổi chính sách
tiền tệ giữa các quốc gia; WB hỗ trợ tái thiết các quốc gia bị
tàn phá trong chiến tranh và hỗ trợ tài chính cho các nước
đang phát triển trong việc xây dựng và phát triển kinh tế. ITO
sẽ là tổ chức điều phối và xúc tiến hợp tác thương mại quốc tế.
ITO đã không bao giờ được thành lập nhưng ý tưởng về ITO
đã được thực hiện bằng sự ra đời của GATT và của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO) sau này, với tư cách là tổ chức
kinh tế toàn cầu uy tín nhất hiện nay.
2.1.1. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF)
2.1.1.1. Tổng quan
Quỹ tiền tệ quốc tế được chính thức thành lập ngày
27/12/1945, khi 29 quốc gia thống nhất ký kết và phê chuẩn
Bản hiến chương IMF (Articles of Agreement of IMF). Quỹ
tiền tệ quốc tế có trụ sở chính đặt tại Washington (Mỹ) và có
hai văn phòng chi nhánh tại Paris và Geneva.
Buổi đầu thành lập, IMF chỉ là một tổ chức có chức
năng giám sát hoạt động của hệ thống tài chính - tiền tệ qụôc
tế. Trong quá trình phát triển, IMF đã trực tiếp hỗ trợ hệ thông
này thông qua việc cung cấp các khoản vay tài chính lớn cho
các nước thành viên của tô chức đê họ nhanh chóng khăc phục
khủng hoảng tài chính hoặc tái thiết kinh tế, qua đó bảo đảm
25 Vấn đề thành lập ITO không được đề cập chính thức tại các văn bàn cùa
Bretton Woods, tuy nhiên các nước tham gia hội nghị đã công nhận sự cân
thiết của một tổ chức quốc tế cho thương mại bên cạnh IMF và World Bank.
Xem Jackson John, “The World Trade Organization: Constitution and
Jurisprudence”, Royal Institute of International Affairs, UK, 1998, tr. 15-16.
2 9 9
sự ôn đinh tài chính. Hiện nay, IMF là một tổ chức quốc tê co
uy tín với 188 thành viên và quản lý số vốn trên 775 tỷ USD.2
2.1.1.2. Mục tiêu và chức năng
Theo quy định của Hiên chương IMF, bốn mục tiêu hoạt
động cơ bản của Quỹ tiền tệ quốc tế la:2
6
27
(ì) Thúc đây hợp tác quốc tế thông qua một thiết ehe
thường trực cỏ trách nhiệm cung cấp một bộ máy tư vấn yà
cọng tac nham giải quyêt các vân đề tiền tệ quốc tế; tạo điêụ
kiện mở rộng và tăng trường cân đối hoạt động thương mại
quoc te (qua đo tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, tho
nhạp thực te và phát triên nguôn lưc sản xuất của tất cả các
thành viên);
(li) Tang cương ôn định ngoại hối nhằm duy trì một cách
có trật tự hoạt động giao dich ngoại hối giữa các thành viên,
tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh-
(in) Hô trợ thiêt lập hệ thông thanh toán đa phương giữa
các nước thành viên;
(1V
) Cung câp cho thành viên nguồn tài chính từ Quỹ đê
đảm bảo duy trì khả năng tài chính và tạo cơ hội cho thành
viên sửa chữa sự mât cân đôi trong cán cân thanh toán quốc tế.
Khi mới được thành lập, IMF có hai chức năng cơ bản là
(i) giám sát thanh toán quôc tê và tỷ giá hối đoái cố định của
hệ thống Bretton Woods (qua đó giúp chính phủ quốc gia quản
lý tỷ giá hôi đoái và giúp họ tập trung vào tăng trưởng kinh tế)
và (ii) cung câp ngăn hạn vôn đê hỗ trợ quốc gia cân bằng
thanh toán. Sự trợ giúp vôn của Quỹ trong thời kỳ khủng
26 IMF, “Membership” trong “About IMF”, 2010.
http://www.imf.org/extemal/np/sec/memdir/members.aspx (truy cập lần cuối
28/8/2012)
27 Điều I, Hiến chưong IMF.
300
hoàng tài chính của quốc gia có ý nghĩa ngăn chặn sự lây lan
của khủng hoảng kinh tế quốc tế.
Sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods dựa trên cơ
sỏ tỷ giá hối đoái cố định (theo bản vị là đồng USD)28, các
quốc gia thành viên của IMF đã tự xác định tỷ giá hối đoái.
Tuy nhiên, theo quy định sửa đổi của Điều IV của Hiến
chương, các thành viên vẫn tiếp tục cam kết hợp tác với Quỹ
và các thành viên khác để bảo đảm một trật tự trao đổi tiền tệ
trong thương mại quốc tế và xúc tiến một hệ thống tỷ giá hôi
doái ổn định. IMF vẫn sẽ giám sát chính sách hối đoái của các
quôc gia thành viên, và có thêm chức năng hướng dân quôc
§ia thành viên xây dựng và áp dụng các chính sách tài chính
đôi với tỷ giá hôi đoái. IMF khuyên khích các quôc gia thành
viên áp dụng hệ thông tỷ giá hối đoái tự do cho đông tiên quôc
gia để xúc tiến thương mại quốc tể.
Hiện nay, IMF cũng thực hiện chức năng giám sát chính
sách kinh tế và tài chính của quốc gia thành viên. Việc giám
sát này được IMF thực hiện dưới 2 hình thức: Thứ nhát, giám
sát song phương thông qua các cuộc họp, trao đôi với các quôc
gia thành viên, hay còn gọi là ‘Tham vấn theo Điều IV” của
bản Hiên chương IMF. Trong các cuộc họp này, đại diện của
quôc gia thành viên IMF sẽ giải trình chính sách và kệ hoạch
phát triển kinh tế của quốc gia. Trong những năm gần đây,
IMF cũng yêu cầu báo cáo về các vấn đề liên quan khác có
28 Hệ thống Bretton Woods có một nhiệm vụ quan trọng bào đảm sự on Ị1Ị
tiền tệ quốc tế. Khi hệ thống được hình thành năm 1945, My đa dưng ra ao
trợ hệ thống này bằng cách bảo đăm duy trì giá trị đông USD băng vang (-5
USD = 1 ounce vàng). Tuy nhiên, do những khoản chi không lô tr° ns
chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã không còn khả năng bào đảm giá tri đong
bằng vàng và từ bỏ chính sách này vào năm 1971. Với việc Mỹ tư bo bao ^am
sự on định của tỷ giá USD, hệ thống Brentton Woods không thê vận hann va
đã chấm dứt tồn tạĩ vào năm 1973. Tuy nhiên, các tổ chức quốc tế do hệ thông
Bretton Woods thiết lập nên (IMF, WB) vẫn tiếp tục được duy trì và phát trien
tới nay.
301
ảnh hường tới quản lý kinh tế của quốc gia như vấn đề xã hội,
môi trường, thị trường lao động... Thứ hai, IMF thực hiện
giám sát đa phương thông qua trao đổi các vấn đề chính sách
kinh tế và tài chính giữa các quốc gia thành viên. IMF kiêm
tra cả chính sách của các liên kết khu vực, chẳng hạn như
Liên minh tiền tệ châu Âu (European Monetary Union) hay
Liên minh tiền tệ và kinh tế của các nước Trung Phi (Central
African Monetary and Economic Union), và các chính sách
liên quan của quốc gia có tầm ảnh hưởng khu vực. IMF sau đó
gửi ý kiến của mình về các vấn đề khu vực cho từng quốc gia
thành viên trong buổi tham vấn theo Điều IV.
Bên cạnh đó, IMF cũng tiến hành các hoạt động hỗ trợ
kỹ thuật thông qua các dự án nghiên cứu, thống kê, dự báo, và
phân tích kinh tế trên phạm vi toàn cầu, khu vực và từng nền
kinh tế/ thị trường cụ thể; tư vấn chính sách tài chính - kinh tế
cho chính phủ và ngân hàng trung ương của các quốc gia
thành viên, đào tạo chuyên gia để hỗ trợ các quốc gia thành
viên nâng cao khả năng quản lý kinh tế.
2.1.1.3. Cơ cẩu tổ chức
Cơ câu tô chức của IMF bao gồm 3 cơ quan đầu não là
(i) Hội đông quản trị (Board o f Governers); (ii) Hội đồng điều
hành hay còn gọi là Hội đông giám đốc (Executive Board) và
(iii) Giám đốc điêu hành (Managing Director). Bên cạnh đó
Quỹ cũng có những cơ quan chuyên trách hỗ trợ hoạt động của
các cơ quan trên trong từng lĩnh vực và dự án cụ thể.
* Hội đồng quản trị
Hội đồng quản trị IMF là cơ quan lãnh đạo cao nhất của
IMF. Hội đồng quản trị gồm đại diện của các nước thành viên
và do mỗi nước bổ nhiệm. Mỗi thành viên được quyền bổ
nhiệm tối đa 2 ủy viên quản trị với nhiệm kỳ 5 năm, và có thể
30 2
yêu cầu một ủy viên quản trị của một thành viên khác đại diện
cho mình. Hội đồng quản trị hiện có 187 ủy viên.
Hội đồng quản trị họp mỗi năm một lần. Hội đồng quản trị có
thẩm quyền phê duyệt các báo cáo hàng năm về hoạt động của IMF,
xem xét việc kết nạp thành viên mới và khai trừ thành viên ra khỏi
tổ chức, xem xét việc thay đổi vốn pháp định, đồng thời biểu quyết
bổ nhiệm, miễn nhiệm các giám đốc của Hội đồng điều hành. Mặc
dù về mặt pháp lý Hội đồng quản trị là cơ quan tối cao của IMF,
trên thực tế cơ quan này ủy quyền phần lớn các quyền hạn của mình
cho Hội đồng điều hành.29
Hội đồng quản trị IMF được tư vấn bởi hai ủy ban cấp
bộ trưởng là (i) ủ y ban tài chính và (ii) ủ y ban phát triển30.
* Hội đồng điều hành
Hội đồng điều hành là cơ quan chấp hành của IMF (còn
gọi là Hội đồng giám đốc). Hội đồng giám đốc gồm 24 giám
đốc chấp hành đại diện cho 188 quốc gia thành viên, trong đó
8 thành viên có mức vốn góp lớn nhất mỗi thành viên được bổ
nhiệm 1 giám đốc (bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp,
Trung Quốc, Nga, và Arab Saudi); 16 giám đốc còn lại do Hội
nghị toàn thể bầu ra theo nhóm thành viên có tính đến khu vực
địa lý (một nhóm có thể giao động từ 4 tới 22 nước). Hội đồng
quyết định tất cả các vấn đề liên quan tới sự vận hành của IMF
trong nền kinh tế quốc tế. Hội đồng điều hành thường đưa ra
IMF, Governance Structure, trong “About the IMF”, 2010.
[http://www.iinf.org/external/about/histcoop.htin]
(truy cập lần cuối: 28/8/2012).
30 ù y ban phát triển là một ủy ban hỗn hợp, có nhiệm vụ tham mưu cho Hội
đồng Thống đốc của IMF và Ngân hàng thế giới về các vấn đề liên quan đến
phát triển kinh tế ở các quốc gia mới nổi và đang phát triển, ủ y ban này có 24
thành viên (thường là các bộ trưởng tài chính). Nó đại diện cho các thành viên
cùa IMF và Ngân hàng Thế giới và chù yếu phục vụ như là một diễn đàn để
xây dụng sự đồng thuận liên chính phù về các vấn đề phát triển quan trọng.
303
những quyết định dựa trên cơ sở đồng thuận, tuy nhiên ^
không đạt được đông thuận thì vấn đề sẽ được biểu quyết theơ
đa số.
* Giảm đốc điều hành
Giám đôc điêu hành của IMF là người đứng đầu tổ
có vai trò điêu hành hoạt động của tổ chức và là Chủ tịch
Hội đông điêu hành. Giám đôc điều hành của IMF cũng đôttể
thời là Chủ tịch Hội đồng điều hành.
Trong lịch sử, Giám đốc điều hành quản lý của iM Ị
luôn là người châu Au, trong khi Chủ tịch của Ngân hàng
giới luôn do Mỹ bổ nhiệm. Tuy nhiên, truyền thống này ngàỵ
càng bị lung lay^ với sự trỗi dậy của các thành viên đến t**
những nền kinh tế mới nổi trên thế giới.3
1
2.1.1.4. Thành viên
Mọi quôc gia đêu có thể đăng ký và trở thành viên củ3
IMF nêu săn sàng găn bó, trung thành với các chức năng
nguyên tăc chủ đạo của Quỹ được quy định trong bản Hi®1
3
chương IMF và các văn bản khác của to chức. Quyền và nghĩ3
vụ của thành viên IMF đối với Quỳ được xác định trên cơ sờ
“hệ thống hạn ngạch”.
Mỗi quốc gia thành viên IMF sẽ được cấp một mức hạn
ngạch dựa trên vai trò của quốc gia trong nền kinh tế thế giới-
Mức hạn ngạch sẽ được xem xét lại theo định kỳ.32 Dựa trện
hạn ngạch của quốc gia IMF sẽ xác định các vấn đề như quyền1
1 Năm 201 ; các quốc gia trong nhóm BRIC (nhóm liên minh bốn nước
Nga, An Độ và Trung Quốc) đã đua ra một tuyên bô chung cho răng
truyên thông bô nhiệm một người châu Âu là giám đôc điều hành của IMF la
khong phù hợp với tinh thân của Hiên chương IMF
“ Lân rà soát gần đây nhât năm 2010 Ban điều hành của IMF đã nhất trí
chuyên hơn 6% quyền bỏ phiếu tại IMF tìr các nền kinh tế công nghiêp phát
triên sang cho các nền kinh tê mới nôi như Trung Quốc Brazil.
3 0 4
biểu quyết, quyền tiếp cận các khoản viện trợ của IMF và
quyền rút vốn đặc biệt {Special Drawing Right - SDR).33
* Quyền hiểu quyết
Quốc gia thành viên đều được tham gia biểu quyết. Tuy
nhiên giá trị của quyền biểu quyết của mỗi quốc gia khác nhau
tùy vào hạn ngạch được phân bổ. Cụ thể, mỗi quốc gia thành
viên được phân số “phiếu bầu cơ bản” bằng 5,502% tông sô
phiếu bầu cộng thêm 1 “phiếu bầu bổ sung” cho mỗi 100.000
SDR hạn ngạch.34 Như vậy, các quốc gia thành viên sẽ có sổ
phiếu bầu cơ bản bằng nhau, tuy nhiên các nền kinh tê lớn sẽ
có quyền biểu quyết cao hơn dựa trên các phiếu bổ sung xác
định bởi S D R .35 Theo cách phân bổ này, Hoa Kỳ, nước đóng
góp nhiều nhất cho IMF (khoảng 40 tỷ USD) có 421.965 phiếu
(tương đương 16,76% tổng số quyền biểu quyết) trong khi đó
Venezuela có 2,659 phiếu (1,08% tổng số quyền biểu quyết)
hay Tuvalu chỉ có 759 phiếu (0.03% của tổng số quyền biểu
quyết). Hiện nay cổ phần cùa Việt Nam tại IM F là 460.7 triệu
SDR, chiếm 0,193% tổng khối lượng cổ phần và Việt Nam có
tỷ lệ phiếu bầu là 0,212% tổng sổ quyền biểu quyết.
33 S D R (Q u yền rút vố n đặc b iệt) đ ư ợ c IM F đặt ra năm 1969 th eo đ ề n gh ị củ a
10 n ư ớ c Ịrong C âu lạc b ộ Paris gồm : B ì, C anada, Pháp, Ý , N h ật B ản , H à Lan,
T hụy Đ iển , A n h , M ỹ, Đ ứ c. S D R là tài sản d ụ trữ có tính chất q u ố c tế nhằm b ồ
su n g ch o tài sàn dự trữ của các q u ốc gia thành viên . S D R có thể đ ư ợ c sừ d ụ n g
trong quan h ệ tín dụng giữ a các nư ớc thành viên IM F v ớ i quỹ này cũ n g như
trong thanh toán cán cân th ư ơ n g m ại giữ a các q u ốc gia. K hi IM F g iả i n gân ,
S D R có thể quy đ ổ i ra m ột loại tiền tệ m ạnh nào đó như U S D , E uro, P ou n d s
hoặc Y ên N h ậ t ...
34 B lo m b erg , B rock , J L aw ren ce B roz "The P olitical E co n o m y o f IM F V o tin g
P ow er". C on feren ce Paper, International P olitical E co n o m y S o ciety (1PES),
P rinceton U n iv ersity , (1 0 /0 1 /2 0 0 6 )
h ttp ://w w w .p rin ceto n .ed u /~ p cg lo b a l/co n feren ces/IP E S /p a p ers/b ro z_ b lo m b erg
_ F 1 0 3 0 _ l.p d f (tra cứ u lần cu ối 2 8 /8 /2 0 1 2 )
35 B lo m b erg , B rock , J L aw ren ce B roz, tldd, 2 0 0 6
305
* Quyền tiếp cận các khoản viện trợ của IM F
Số tiền viện trợ của IMF dành cho một quốc gia thành
viên sẽ được xác định trên hạn ngạch dành cho quốc gia thành
viên đó. Ví dụ, đối với gói viện trợ “Stand-By and Extended”
(SBEA), một loại tín dụng phổ biến mà IFM áp dụng cho các
nước đang gặp khủng hoảng tài chính và cần hỗ trợ khẩn cấp,
quốc gia thành viên có thể vay lên đến 200% hạn ngạch hàng
năm và 600% tích lũy. Tuy nhiên, IMF sẽ có thỏa thuận điều
kiện ràng buộc rất khắt khe với các quốc gia tiếp cận gói viện
trợ SBEA.
Các quốc gia thành viên IMF khi vay của Quỹ sẽ không
phải thế chấp, tuy nhiên chính phủ của quốc gia liên quan sẽ
phải sửa chữa sự mất cân đối kinh tế vĩ mô thông qua việc
thay đổi chính sách tài chính - kinh tế. Nếu các điều kiện trong
thỏa thuận viện trợ của IMF không được quốc gia đáp ứng,
việc cho vay sẽ bị ngưng lại.
Bên cạnh nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các cam kết trong
thỏa thuận vay với IMF, quốc gia thành viên cũng phải cam
kêt xây dựng và áp dụng các chính sách kinh tê - tài chính bảo
đảm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có trật tự với sự ổn định giá
cả hợp lý và phù hợp với hoàn cảnh của mình, không thao
túng tỷ giá hối đoái hoặc hệ thống tiền tệ dẫn tới ngăn cản sự
điêu chỉnh cán cân thanh toán hoặc để đạt được một lợi thế
cạnh tranh không lành mạnh so với các thành viên khác.
2.1.2. N gân hàng Thế giớ i
2.1.2.1. Tổng quan
Ngân hàng Thế giới (WB)36 được thành lập vào ngàỵ
27/12/1945 trên cơ sở thỏa ước Bretton Woods như một tổ
36 "N g â n h à n g th ế g i ớ i ” (W o r ld B an k) k h á c v ớ i “N h ó m N g â n h à n g th ế g i ớ i ”
(W o r ld B a n k G ro u p ). N h ó m N g á n h à n g th ế g iớ i là n h ổ m c á c to c h ứ c tà i ch ín h
b a o g ồ m c á N g á n h à n g q u ô c tê tá i th iế t v à p h á t tr iể n (IB R D ) v à H iệ p h ộ i p h á t
306
chức tài chính quốc tế cung cấp những khoản vay nhằm hỗ trợ
các nước châu Âu tái thiết kinh tế sau chiến tranh thế giới II.
Sau đó, WB mở rộng hoạt động sang các chương trình thúc đẩy
phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo ưên toàn thế giới.
WB bao gồm hai cơ quan là Ngân hàng quốc tế tái thiết
và phát triển (International Bank fo r Reconstruction and
Development, IBRD) và Hiệp hội phát triển quốc tế
(International Development Association, IDA)37. Hai cơ quan
này huy động vốn từ tất cả các nước thành viên thông qua việc
phát hành trái phiếu và đóng góp của một số nền kinh tế lớn.
WB sử dụng nguồn tài chính này để cung cấp các khoản vay
ưu đãi (không lãi suất và dài hạn) cho các nước thành viên
đang phát triển để giúp họ thực hiện các dự án phát triển (chủ
yêu là các dự án phát triên cơ sở hạ tâng, giáo dục, phát triên
năng lượng, bảo tồn môi trường, phát triển y tế cộng đồng và
cải thiện điều kiện vệ sinh). Năm 2012, WB là nhà cung câp
vốn cho trên 1.800 dự án trong các lĩnh vực khác nhau tại các
quốc gia đang phát triển trên thế giớ i.38 Cùng với các tổ chức
chuyên môn khác của LHQ, WB đang đóng một vai trò quan
trọng trong việc thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ của LHQ.
Tính tới 1/2012 WB đã có 188 thành viên, bao gồm hầu
hết các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc, ngoại trừ
triể n q u ố c t ể (ID A ) v à b a c ơ q u a n k h á c là : C ô n g ty T à i c h ín h q u ắ c tế
(International F inance C orporation, IF C ), T ru n g tâ m Q u ố c t ế g iã i q u y ê t tr a n h
c h ấ p đ ầ u tir in tern a tio n a l C entre for Settlem ent o f Investm ent D isputes,
IC S ID ) v à C ơ q u a n B á o lã n h đ ầ u tư đ a p h ư ơ n g (M ultilateral Investm ent
G uarantee A g en cy , M IG A ). B a c ơ q u a n cò n lạ i c ủ a n h ó m N g â n h à n g T h ế g iớ i
c ó liê n q u a n tớ i IB R D v à ID A , n h ư n g h o à n to à n đ ộ c lậ p v ề m ặ t p h á p lý v à tà i
chính.
37 ID A đu ợ c thành lập vào 1960
38 W orld Bank, “A bout T he W orld Bank (FA O sV ’.
(http://w eb.w orldbank.O rg/W B SIT E /E X T E R N A L /E X T SIT E T O O L S/0,,con te
n tM D K :20147466~m en u P K :344I89~p ageP K :98400~ p iP K :98424~th eS iteP K :
9 5 4 7 4 ,oo.htm l ) (Truy cập lần cuối 27 /8 /2 0 1 2 ).
3 0 7
Andorra, Cuba, Liechtenstein, Monaco, Nauru, CHDCNP
Triều Tiên, Tuvalu và Vatican.
2.1.2.2. Mục tiêu và chức năng
Mục tiêu cơ bản của Ngân hàng Thế giới là hỗ trợ sự
phát triên và nâng cao mức sống của người dân tại các quôc
gia thành viên. Theo Hiến chương WB/IBRD các mục tiêu cự
thể của Ngân hàng39 là:
(i) Hỗ trợ trong việc tái thiết và phát triển của các vùnể
lãnh thổ của các thành viên bằng cách tạo điều kiện thuận lợ1
cho việc đầu tư vốn cho mục đích sản xuất (phục hồi các nên
kinh tế bị phá hủy hoặc bị gián đoạn do chiến tranh, tái thiêt
các cơ sở sản xuất vì nhu cầu hòa bình, và khuyến khích sự
phát triển của các cơ sở sản xuất và các nguồn lực của các
nước đang phát triển);
(ii) Thúc đẩy đầu tư tư nhân bàng cách đứng ra bảo lãnh
hoặc tham gia trong các khoản vay và các khoản đầu tư khác
được thực hiện bởi các nhà đầu tư tư nhân;
(iii) Thúc đẩy tăng trưởng dài hạn cân bàng thương mại
quốc tế và duy trì sự cân bằng cán cân thanh toán bằng cách
khuyến khích đầu tư quốc tế đối với sự phát triển của các
nguồn lực sản xuất của các thành viên, qua đó giúp nâng cao
năng suất, chât lượng cuộc sông và điều kiện lao động trong
lãnh thổ của họ;
(iv) Thu xếp các khoản vay quốc tế hoặc bảo đảm liên
quan đến các khoản vay quốc tế thông qua các kênh khác đê
các dự án hữu ích và cấp bách hơn sẽ được thực hiện trước; và
(v) Thực hiện các hoạt động tạo ảnh hưởng cho đầu tư
quốc tế về điều kiện kinh doanh tại các vùng lãnh thổ của các
thành viên thời kỳ sau chiến tranh, để hỗ trợ họ trong việc*
3
0
8
39 Đ iều 1 Hiến chương thành lập IBR D
308
chuyển đổi thuận lợi từ nền kinh tế trong thời kỳ chiến tranh
sang nền kinh tế thời bình.
Chức năng cơ bản và chủ yếu của WB là cung cấp các
khoản vay nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế cho các quốc gia
thành viên đang phát triển. Chức năng này của WB cũng
tương tự như IMF. Tuy nhiên, khác với IMF (chỉ cung cấp các
khoản vay ngắn hạn nhằm bình ổn cán cân thanh toán để bình
ổn nền tài chính đang bị khủng hoảng), WB thường cung cấp
các khoản vay dài hạn với mục đích phát triển kinh tế và đặc
biệt là củng cố cơ sờ hạ tầng (đường sá, hệ thống tưới tiêu, đê
điều...). So với IMF, WB hoạt động giống như một ngân hàng
đầu tư hơn là một tổ chức tài chính quốc tế vì WB chủ yếu
tham gia vào các hoạt động tài chính đa phương cho mục đích
phát triển. IBRD và IDA cung cấp các khoản vay cho mục
đích đầu tư phát triển cho chính phủ của quốc gia thành viên
hoặc các tô chức tư nhân được chính phù quôc gia thành viên
bảo lãnh.
2.1.2.3. Cơ cẩu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của WB tương tự như IMF, bao gồm ba
cơ quan chính là (i) Hội đồng quản trị (Board o f Governers);
(ii) Hội đông giám đốc (Board o f Directors) và (iii) Chủ tịch
{President) - người đứng đầu WB (có nhiệm kỳ 5 năm). Ngoài
ra, Ngân hàng còn các cơ quan chuyên trách có chức năng hỗ
trợ các cơ quan điều hành của WB và các chi nhánh đặt tại các
quốc gia thành viên để giám sát các dự án được ngân hàng trợ
giúp vốn.
* Hội đồng quản trị
Hội đông quản trị là cơ quan quyền lực cao nhất của
WB, có quyên quyết định các vân đê quan trọng của WB. Hội
đông quản trị là cơ quan đại diện cho tất cả các thành viên của
WB. Môi thành viên của WB đều có. 1 đại diện tại Hội đồng
3 0 9
quản trị, thông thường là bộ trưởng tài chính hoặc bộ trưởng
kinh tế.
Theo Hiến chương, Hội đồng quản trị sẽ quyết định các
vấn đế như chấp nhận/khai trừ thành viên, tăng/giảm cổ phần
ủy quyền, xác định việc phân phối lợi nhuận của Ngân hàng,
quyết định bổ sung/sửa đổi Hiến chương, ký kết các thỏa
thuận hợp tác với những tổ chức quốc tế khác, quyết định
chấm dứt hoạt động của Ngân hàng, quyết định gia tăng/cắt
giảm số thành viên của Hội đồng điều hành... Tuy nhiên,
tương tự như tại IMF, Hội đồng quản trị của WB chỉ họp định
kỳ mỗi năm một lần và ủy quyền điều hành công việc cụ thể
cho Hội đồng giám đốc.
* Hội đồng giám đốc
Hội đồng giám đốc là cơ quan điều hành hàng ngày quan
trọng nhất của WB. Hội đồng gồm 25 thành viên. Năm giám
đốc điều hành được bổ nhiệm bời các thành viên nắm số cổ
phần lớn nhất là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Pháp và Vương
quốc Anh. Ngoài ra có 3 thành viên đặc cách được bổ nhiệm
giám đốc là Trung Quốc, Nga và Saudi Arabia. Các giám đốc
còn lại của Hội đồng được bầu bởi các thành viên khác thông
qua Hội đồng quản trị. 40
Hội đồng giám đốc là cơ quan điều hành thường trực
của WB có chức năng quản lý, giám sát các hoạt động của các
cơ quan của WB, bao gồm phê duyệt các khoản vay và bảo
40 T heo quy định của Đ iều V Phần 4(b) H iến chương, H ội đồng quản trị phải
quyết định số lượng giám đốc trong H ội đồng giám đốc trên cơ sờ tỷ lệ thuận
với sự gia tăng của số lượng thành viên củạ W B. Trước 1/11/1992, H ội đồng
20 giám đốc, trong đó có 17 ngưởi được bâu. N ăm 1992, trong số lượng lớn
các thành viên m ới đã gia nhập N gân hàng, số lượng các giám đốc điều hành
được bầu tãng lên đến 20. Hai chô ngôi m ới là cùa N ga và m ột nhóm với đại
diện là Thụy Sĩ, đưa tổng số giám đôc trong Hội đồng giám đôc lên 24 người.
V ới sự khởi đầu hạn ngày 1/11/2010, số lượng các giấm đốc điều hành tiếp
tục tăng lên thành 25 người.
310
lãnh, các chính sách mới, ngân sách quản trị, chiến lược hỗ trợ
quôc gia và các quyết định tài chính và vay vốn.
Tương tự như tại IMF, mọi vấn đề sẽ được Hội đồng
giám đốc quyết định trên cơ sở biểu quyết hạn ngạch. Một
quôc gia thành viên sẽ có một mức hạn ngạch trong việc đóng
góp vào vốn của Ngân hàng (được xác định trên kích cỡ của
nên kinh tê của họ) được thể hiện dưới hình thức số cô phân
sở hữu. Mỗi nước thành viên của WB được phân bổ 250 phiếu
cộng thêm một lá phiếu cho mỗi cổ phần nắm giữ trong vốn cổ
phân của Ngân hàng.
Năm 2010, quyền biểu quyết tại WB được thay đổi và
nâng cao vai trò của các nước đang phát triển, đặc biệt là
Trung Quôc. Hiện nay nước thành viên có quyên biêu quyêt
cao nhất là Mỹ (15.85%), tiếp sau đó là Nhật Bản (6.84%),
Trung Quốc (4.42%), Đức (4.00%), Anh (3.75%), Pháp
(3.75%), Ắn Đọ (2.91%), Nga (2.77%), Ả Rập Saudi (2.77%)
và Y (2.64%).414
2Việt Nam hiện thuộc nhóm các quôc gia có
quyền biểu quyết trung bình tại WB - tương ứng với 2,55%.
Trong thời gian tới có thể các nền kinh tế mới nôi khác, như
Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Mexico, Singapore, Brazil, Tây Ban
Nha... cũng sẽ được gia tăng cổ phần và quyền biểu quyêt tại
Ngân hàng. Sự gia tăng quyền biểu quyết của các nước đang
phát triển sẽ chủ yếu làm giảm tỷ lệ quyền biểu quyết của các
nước phát triển. Tuy nhiên, Mỹ vẫn tiếp tục là quôc giạ duỵ
nhất có quyền phủ quyết (veto) tuyệt đối đối với các vấn đề
quan trọng của WB và đặc biệt là những vấn đề ảnh hưởng tới
lợi ích kinh tế của mình.43
41 IB R D , 2 0 1 0 V otin g P ow er R ealignm ent (R eport), W orld B ank G roup,
2011.
42 N h ư trên
43 W ade, R obert H unter, “ T he U s R ole in the M ala ise at the W orld Bank: G et
U p, G u lliv er!,” G 24 D iscu ssion Paper Series, 2 001; CŨ112 xem Stephany
311
2.1.2.4. Thành viên
Ngân hàng Thế giới có 188 thành viên. Quốc gia muốn
trở thành thành viên của WB bắt buộc phải là thành viên của
IMF và chỉ các thành viên của IBRD mới được tham gia vào
các tổ chức, cơ quan của WB (VD: IDA, ICSID).
Các thành viên (thực tế được gọi là cổ đông) của
WB/IBRD có quyền sở hữu số cổ phần tương ứng với kích
thước của nền kinh tế của mình và số tiền góp vốn vào ngân
hàng (thông qua việc mua trái phiếu hoặc khoản hỗ trợ trực
tiếp cho Ngân hàng). Hiện nay, các quốc gia thành viên có thu
nhập cao cùng nhau nắm giữ khoảng 65,92% cổ phần của
WB/IBRD. Tính tới năm 2012, Mỹ là cổ đông lớn nhất với
16,03% cổ phần, tiếp sau đó là Nhật Bản (9,59%) và Đức
(4,39%). Tổng số vốn cổ phần của WB vào năm 2012 là trên
190 tỷ USD.44 Số lượng cổ phần sờ hữu sẽ có tác động tới
quyền tham gia biểu quyết của thành viên tại WB.
Chỉ các quốc gia thành viên WB thuộc nhóm nghèo và
đang phát triển mới được vay từ IBRD và IDA. Các quốc gia
vượt khỏi ngưỡng này sẽ không là đổi tượng được vay từ WB.
WB sẽ xác định ngưỡng của nền kinh tế để xét điều kiện cho
vay dựa trên tổng thu nhập quốc dân bình quân đầu người của
nước thành viên. Điêu kiện vay được áp dụng cho các nước
thành viên sẽ được WB duy trì cho đến khi họ có thể bảo đảm
sự phát triển lâu dài mà không cần phụ thuộc vào nguồn vốn
ưu đãi của Ngân hàng.
Từ năm 1970 đến 2011, 25 quốc gia vay “tốt nghiệp”
nhóm các quốc gia đủ điều kiện để cho vay IBRD/IDA, mặc
dù sáu trong số những quốc gia này sau đó đã quay trờ lại là
G riffith-Jones, Governance of the World Bank, Report prepared for D FID ,
2010, tr. 4
44 M oss Todd et al, “The A B C s o f the General Capital Increase”, Report,
Center for G lobal D evelopm ent, 2011.
3 1 2
nền kinh tế có mức thu nhập thấp và tiếp tục là khách hàng
vay của Ngân hàng.45
2.1.3. Tỏ chứ c Thư ơng m ại th ế g iớ i
2.1.3.1. Tổng quan
Như đã được phân tích ở phần trên (1.3.2), tổ chức quốc
tế điều phối và xúc tiến thương mại trên phạm vi toàn cầu có
vai trò quan trọng đối với việc phát triển hợp tác kinh tế quốc
tê giữa các quốc gia. Nó đảm bảo một cơ chê thương mại vận
hành dựa trên các nguyên tắc và thủ tục pháp lý ổn định giúp
cho các quốc gia có thể tin tường và chia sẻ tài nguyên, sử
dụng hiệu quả nhất các lợi thế tương đối của các quôc gia đê
cùng hường lợi từ trao đổi thương mại. Thông qua hệ thông
thương mại quốc tế, các quốc gia sẽ loại bò các chính sách bảo
hộ mậu dịch và xúc tiến tự do hóa thương mại trên cơ sở có đi
có lại.
Tại Hội nghị Bretton Woods, các quốc gia đã đàm phán
xây dựng một tổ chức thương mại toàn cầu có tên là Tổ chức
Thương mại quốc tế (International Trade Organisation - ITO)
bên cạnh Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới, và coi đó
là ba trụ cột của kinh tế quốc tế trong trật tự kinh tê mới thời
hậu chiến. Tuy nhiên việc thành lập và phát triển một định chế
quốc tế có khả năng ràng buộc các quốc gia trong lĩnh vực
thương mại không đơn giản như trong lĩnh vực tài chính, tiên
tệ. Đề án thành lập ITO đã thất bại vì không cỏ được ủng hộ
cần thiết của nhiều quốc gia, trong đó có Mỹ. Từ năm 1947 tới
1994, cộng đồng quốc tế không có một tổ chức quôc tê chính
thức điêu phôi thương mại mà chỉ dựa vào một cơ chê mang
tính tạm thời (ad hoe) của Hiệp định chung vê thuê quan và
thương mại (GATT). Phải tới năm 1994, ý tưởng thành lập
45 H eckelm an, Jac C. et al, “Crossing the Threshold: An Analysis of IBRD
Graduation Policy”, (R eport), The W orld B ank D evelop m en t R esearch
Group, N e w Y ork, 2 0 1 1 .
^ 1 o
3 1 3
định chế thương mại quốc tế để xúc tiến thương mại mới chín
muồi và sau hơn tám năm đàm phán các quốc gia đã thống
nhất về sự ra đời của Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO).
WTO có trụ sở chính đặt tại Geneva, Thụy Sĩ với 154
thành viên (tính đến năm 2012). Hiện đây là tổ chức quốc tế
có tầm ảnh hưởng lớn nhất đối với kinh tế quốc tế và quá trình
toàn cầu hóa. Thông qua hệ thống thương mại đa phương của
mình, WTO đã liên tục thúc đẩy tự do thương mại, loại trừ các
hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối thương mại hàng hóa,
xúc tiến quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ, tháo gỡ các
hình thức bảo hộ mậu dịch, loại bỏ các biện pháp phân biệt đối
xử trong quan hệ thương mại quốc tể, hỗ trợ quá trình hội
nhập của các quốc gia đang phát triển vào hệ thống thương
mại quốc tế và tối đa hóa mức độ minh bạch trong chính sách
và các thủ tục thương mại của các quốc gia thành viên.46
2.1.3.2. Mục tiêu và chức năng
Theo quy định của Hiệp định Marrakesh (Hiệp định
thành lập WTO)47, WTO được thành lập để đạt được các mục
tiêu như sau:
(i) Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hóa và dịch
vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững
và bảo vệ môi trường;
(ii) Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải
quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các thành
viên trong khuôn khô của hệ thông thương mại đa phương,
phù hợp với nguyên tăc cơ bản của công pháp quôc tê; bảo
đảm cho các nước đang phát triên đặc biệt là các nước kém
phát triển được hưởng những lợi ích thực chất từ sự tăng
trưởng của thương mại quốc tế.
46 X em Đ ại học Luật TP. H ồ C hí M inh, G iáo trình Luật Thươngmại quắc lể—
Phần Ị (Luật WTO), tlđd tr. 43-44.
47 Phần giớ i thiệu, H iệp định M aưakesh
314
(iii) Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho
người dân các nước thành viên, đảm bảo các quyền và tiêu
chuẩn lao động đối thiểu.
WTO thực hiện các mục tiêu trên thông qua việc thiết
lập những thỏa thuận tưcmg hỗ và cùng có lợi theo hướng cắt
giảm thuế quan và các hàng rào cản trở thương mại khác và
theo hướng loại bỏ sự phân biệt đối xử trong các mối quan hệ
thương mại quốc tế. WTO cũng xây dựng một cơ chế thương
mại đa phương chặt chẽ, ổn định và khả thi, bao gồm các hiệp
định đa biên và hiệp định nhiều bên.
WTO có 5 chức năng quan trọng48 như sau:
(i) Giám sát, tạo điều kiện thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ
thuật cho các nước thành viên trong việc thực hiện các nghĩa
vụ thương mại quốc tế của họ;
(ii) Là diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước
thành viên về những mối quan hệ thương mại đa biên trong
những vấn đề được điều chỉnh theo các hiệp định thương mại
của tổ chức;
(iii) Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành
viên liên quan đến việc thực hiện và giải thích hiệp định
thương mại đa biên và hiệp định nhiều bên của WTO49;
48 Đ iều III, H iệp định M arrakesh
49 T rong khuôn khổ W T O , các hiệp định được phân thành hai nhóm : H iệp
định thư ơng m ại đa biên (M ultilateral Trade A greem en t) và H iệp định th u o n g
m ại nhiều bên (Plurilateral Trade A greem ent). H iệp định thưcm g m ại đa biên
là các hiệp định m à tất cả các thành viên của W T O đều phải tham g ia ký kêt,
như m ột điều kiện bắt buộc đối với các thành viên cùa tổ chứ c (vd: G A T T ,
G A T S , T R IPS, D S U ). H iệp định thương m ại nhiều bên là các hiệp định m ang
tính tự n guyện (chì có giá trị bắt buộc đối với các thành viên W T O đã cô n g
nhận phê chuấn) được ký kết giữ a các nước 'thành viên trong quá trình đàm
phán tự do hoá thương m ại.
315
(iv) Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các
nước thành viên, bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do
hoá thương mại và tuân thủ các quy định của WTO; và
(v) Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc
tế khác như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới
(WB) trong việc hoạch định những chính sách và dự báo về
những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu.
2.1.3.3. Cơ cẩu tổ chức
WTO có một cơ cấu gồm 4 cấp: (i) Hội nghị bộ trưởng;
(ii) Cơ quan quản lý thường trực gồm Đại hội đồng WTO,
Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) và Cơ quan rà soát
chính sách thương mại; (iii) Các cơ quan thực hiện chức năng
hành chính - thư ký gồm v
Tổng giám đốc và Ban thư ký
WTO; và (iv) Các cơ quan chuyên trách thừa hành và giám
sát việc thực hiện các hiệp định thương mại đa biên, bao gồm
Hội đồng GATT, Hội dong GATS và Hội đồng TRIPS cùng
các ủy ban và tiểu ban chuyên trách về các lĩnh vực cụ thể
trong thương mại quốc tế như ủy ban Nông nghiệp, ủy ban
Chống bán phá giá, ủ y ban về xuất xứ hàng hóa, ủ y ban về
dịch vụ tài chính ...
* Hội nghị bộ trưởng
Hội nghị bộ trưởng WTO là cơ quan lãnh đạo chính trị
cao nhất của WTO bao gồm đại diện cấp bộ trưởng của tất cả
các thành viên. Hội nghị họp ít nhất hai năm một lần. Điều
IV. 1 Hiệp định thành lập WTO quy định Hội nghị bộ trưởng
WTO thực hiện tất cả các chức năng của WTO và có quyền
quyết định mọi hành động cần thiết để thực hiện những chức
năng đó. Đặc biệt, Hội nghị bộ trưởng WTO có quyền tối cao
trong việc diễn giải các Hiệp định đa biên và nhiều bên của tổ
316
chức cũng như quyết định cho phép miễn trừ trách
nhiệm/hghĩa vụ của thành viên WTO.50
Hội nghị có trách nhiệm thiết lập các ủy ban chuyên
trách thực hiện các chức năng khác nhau theo quy định của
các hiệp định thương mại của WTO. Tổng giám đốc, người
đứng đầu WTO, cũng được chỉ định tại Hội nghị bộ trường.
Các vấn đề nghị sự sẽ được Hội nghị bộ trưởng quyết
định thông qua biểu quyết. Khác với IMF và WB, tất cả các
thành viên của WTO đều có quyền quyết định ngang bằng
nhau (một phiếu bầu). Mặc dù Hội nghị hoạt động theo
nguyên tắc đồng thuận (consensus), trên thực tế một số vấn đề
có thể được quyết định thông qua bỏ phiếu đa số nếu các nước
thành viên không đạt được sự đồng thuận. Ví dụ: việc bổ sung
một điều khoản của hiệp định thương mại đa biên hay quyết
định chấp thuận một thành viên mới có thể được thông qua với
2/3 phiếu của tất cả các thành viên.5
1
* Đại hội đồng, Cơ quan giải quyết tranh chấp và Cơ
quan rà soát chính sách thương mại
Trong thời gian giữa các khóa họp của Hội nghị bộ
trường WTO, các chức năng của Hội nghị bộ trưởng do Đại
hội đồng (General Council) đảm nhiệm.52 Đại hội đồng hoạt
động trên cơ sở thường trực tại trụ sở của WTO ở Geneva,
Thụy Sĩ. Thành viên của Đại hội đồng WTO là đại diện ờ cấp
đại sứ của chính phủ tất cả các thành viên (mỗi thành viên có
quyền cử một đại diện, hoặc ủy quyền cho đại diện của một
thành viên khác đại diện cho mình tại các phiên họp của Đại
hội đồng).
50 Đ iệu IX , H iệp định M arrakesh.
51 Đ iệu X , X I, H iệp định M arrakesh
52 Đ iều IV :2, H iệp định M arrakesh.
3 1 7
Đại hội đồng còn thực hiện những chức năng khác được
trao trực tiếp theo các hiệp định thương mại đa biên, trong đó
quan trọng nhất là chức năng giải quyết tranh chấp và chức
năng kiểm điểm chính sách thương mại. Cụ thê, Đại hội đông
trở thành “Cơ quan giải quyết tranh chấp” (Dispute Settlement
Body, DSB) khi thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp và
là “Cơ quan rà soát chính sách thương mại'” (Trade Policy
Review Body, TPRB) khi thực hiện chức năng rà soát chính
sách thương mại của các quốc gia thành viên.
Các quyết định của Đại hội đồng cũng được thông qua
trên các nguyên tắc tương tự như Hội nghị bộ trường, ngoại
trừ trường hợp Đại hội đồng được nhóm họp với tư cách là Cơ
quan giải quyết tranh chấp. Trong khuôn khổ cơ chế giải quyết
tranh chấp của WTO, mọi quyết định sẽ được đưa ra trên cơ sở
đồng thuận nghịch (negative consensus).5
2
1
* Các cơ quan thừa hành giám sát việc thực hiện các
hiệp định thirơng mại
WTO có 3 hội đồng (Council) được thành lập để giám sát
việc thực thi 3 hiệp định thương mại đa biên nền tảng của hệ
thống WTO là: Hội đồng GATT, Hội đồng GATS và Hội đồng
TRIPS. Tất cả thành viên đều có quyền tham gia vào hoạt động5
3
53 X em Giáo trình Luật Thương mại quốc tế Đại học luật TP.HCM- Phần ỉ
(Luật WTO), tlđd, Ghi chú 1, tr. 408. Đồng thuận nghịch (negative consensus)
là một nguyên tắc biểu quyết cita DSB mà theo đỏ một quyết định sẽ phải
được thông qua trừ khi tại cuộc họp cùa DSB, các thành viên đồng thuận
không thông qua quyết định đó. Nhự vậy, chi cần một thành viên cuộc họp cùa
DSB thông qua quyết định thì quyết định sẽ được thông qua. Nguyên tắc này
khác với nguyên tăc "đông thuận” ở điêm nguyên tăc đông thuận đòi hói
quyêt định chi có thê được thông qua khi tát cá thành viên đôngý. Nguyên tăc
đồng thuận nghịch là một phát kiến quan trọng và tiến bộ cùa WTO giúp
tránh tình trạng thủ tục GQTC bị đình trệ (như thời GATT) khi một hoặc một
số quốc gia càn trở bằng cách biêu quyết không chấp nhận khuyển nghị
GQTC liên quan.
318
của 3 hội đồng này. Các hội đồng nói trên đều phải trực tiếp báo
cáo công việc của mình trước Đại hội đồng WTO.
Ngoài ra, trong WTO còn có các cơ quan được các hội
đông của WTO thành lập với tư cách là cờ câu trực thuộc
{subsidiary bodies) để giúp các hội đồng này trong việc thực
hiện các chức năng kỹ thuật, ví dụ như “ủy ban về thâm nhập
thị trường'”, “ủy ban về trợ giá nông nghiệp” và các “nhóm
công tác” {working group) được thành lập trên cơ sở tạm thời
để giải quyết những vấn đề cụ thể, ví dụ như các “nhóm công
tác về việc gia nhập WTO” của một số nước.
* Tổng giám đốc vờ Ban thư ký WTO
Với tư cách là một tổ chức quốc tế thực thụ, WTO có
một Ban thư ký rất quy mô, bao gồm khoảng 500 viên chức và
nhân viên chính thức. Đứng đầu Ban thư ký WTO là Tổng
giám đôc WTO. Tông giám đốc WTO do Hội nghị bộ trưởng
bô nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm. Ngoài vai trò điêu hành, Tông
giám đốc của WTO còn có một vai trò chính trị rất quan trọng
trong hệ thống thương mại đa phương. Các quyền hạn và trách
nhiệm cụ thể của Tổng giám đốc do Hội nghị bộ trưởng quyết
định. Biên chế Ban thư ký WTO do Tổng giám đốc quyết
định. Tông giám đốc và thành viên Ban thư ký WTO được
hường quy chế tương tự như viên chức các tổ chức quốc tế,54
hoạt động độc lập và chỉ tuân theo các quyết định và tôn chỉ
của WTO.
2.1.3.4. Thành viên
WTO là một tổ chức quốc tế rất đặc thù, bởi tổ chức này
quy định một cơ chế mềm dẻo về tư cách thành viên của tố
chức. Cụ thể, WTO chỉ đòi hỏi các thành viên của mình phải
là những chủ thể độc lập, tự chủ về kinh tế quốc tế. Vì vậy,
thành viên của WTO bao gồm không chỉ các quốc gia có chủ
54 X em thêm chư ơng Luật tổ chức quốc tế cùa giáo trình này.
319
quyền mà cả các vùng lãnh thổ thuế quan độc lập. Ví dụ: Hong
Kong, Macao của Trung Quốc là thành viên sáng lập WTO
hay Đài Loan là thành viên gia nhập WTO (từ ngày
01/01/2002). Bên cạnh đó, WTO còn có thành viên là tổ chức
liên kết khu vực như Liên minh châu Âu (EU).
Nhìn chung, các thành viên của WTO đều có quyền
ngang nhau trong việc tham gia quyết định các vấn đề của tổ
chức. Điều này thể hiện rõ nét thông qua việc mỗi thành viên
có quyền biểu quyết ngang bằng nhau cho dù thành viên đó là
quốc gia hay vùng lãnh thổ hải quan.
Trong khuôn khổ hệ thống thương mại của WTO, các
thành viên dù phát triển hay đang và kém phát triển, dù là
thành viên sáng lập hay thành viên gia nhập đều có các quyền
và nghĩa vụ đôi với hệ thống thương mại đa phương. Đặc biệt,
các thành viên phải bảo’đảm sửa đổi chính sách thương mại,
chính sách kinh tế phù hợp với các quy định của WTO và các
cam kêt thương mại trong biểu cam kết của nước mình.55 Khi
tham gia vào hệ thống WTO, các quốc gia không được phép
bảo lưu bât kỳ một điêu khoản nào của Hiệp định Marrakesh
và các hiệp định đa biên của W T0.56 Quy định này là một nét
đặc thù của WTO khác với hầu hết các điều ước đa phương
của các tổ chức qụốc tế khác như IMF, WB (các điều ước đa
phương của các tô chức này cho phép các quốc gia tham gia
được quyền bào lưu một số điều khoản).
Các thành viên WTO nhận được những quyền lợi rõ
ràng từ hệ thông thương mại đa phương của tổ chức, chăng
hạn như được tiêp cận thị trường của các đối tác trong các lĩnh
vực thương mại hàng hóa, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ
thuận lợi hơn; được tiêp cận cơ chế giải quyết tranh chấp và rà
soát chính sách thương mại của WTO... Tuy nhiên, họ cũng sẽ
55 Điều XVI.4, Hiệp định Marrakesh.
56 Điều XVI.5, Hiệp định Marrakesh.
3 20
có những nghĩa vụ pháp lý trong việc mở cửa thị trường và
bảo đảm quy chế không phân biệt đối xử trong thương mại.37
Các nghĩa vụ này được quy định cụ thể trong các hiệp định
của WTO và các cam kết của các thành viên. Khi thành viên
không thực hiện đúng nghĩa vụ pháp lý của mình và vi phạm
tới quyền lợi của các thành viên khác thì sẽ có thể đối mặt với
thủ tục khiếu kiện được quy định tại Thỏa thuận về quy tắc và
thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO (Dispute Settlement
Understanding - DSU).
Tuy nhiên WTO cũng quy định một số quy chế ưu đãi
cho các nước đang phát triển (ví dụ như miễn nghĩa vụ, kéo
dài thời hạn phải thực hiện nghĩa vụ mở cửa thị trường, cho
phép các thành viên áp dụng chế độ thương mại ưu đãi hơn đối
với các quốc gia đang phát triển so với các thành viên khác ...)
để giúp họ có thể nhanh chóng phát triển và thu hẹp khoảng
cách về trình độ phát triển với các thành viên khác.
2.2. Các tổ chức kinh tế khu vực
Hiện nay, các quốc gia hướng đến mức độ hội nhập kinh
tế ngày càng cao trong phạm vi khu vực. Trong xu hướng đó,
các tổ chức kinh tế khu vực đóng vai trò tạo thuận lợi cho việc
hợp tác kinh tế giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ trong khu
vực. Ngay cả các thành viên của WTO (có mục tiêu toàn cầu
hóa thương mại) cũng được thành lập các thiết chế kinh tế khu
vực nhàm tạo thuận lợi hơn cho thương mại giữa các lãnh thổ
hải quan gần gũi nhau về địa lý, chính trị, kinh tế xã hội. Phần
này nghiên cứu tổ chức kinh tế khu vực đã và đang đạt đến
mức độ hội nhập cao nhất - Liên minh châu Âu (2.2.1) và tổ
chức kinh tế khu vực mà Việt Nam đang là thành viên - Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) (2.2.2). cần lưu ý
rằng các tổ chức này không chỉ đơn thuần theo đuổi mục đích5
7
57 X em Giáo trình Luật Thương mại quốc tế Đại học Luật TP.HCM—Phần I
(Luật WTO), tlđd. tr. 94-133.
321
liên kết kinh tế khu vực mà còn hướng đến sự liên kết toàợ
diện vê các mặt chính trị, văn hóa, xã hội. Trong phạm Y
?
chương này, ta chỉ xem xét một chức năng duy nhât của các tơ
chức này là tạo thuận lợi cho hợp tác kinh tế khu vực.
2.2.1. Liên minh châu Âu
Nhu cầu hợp tác liên chính phủ để tái thiết sau 2 cuộc
đại chiến thế giới cũng như phòng ngừa những mầm mống cùa
hiêm họa chiến tranh thảm khốc trong tương lai đã làm các
quốc gia châu Âu, vốn có sẵn nhiều điều kiện thuận lợi chơ
việc nhất thể hóa, tiến đến thiết lập một thiết chế quốc tế khỢ
vực có mức độ hội nhập sâu rộng nhất thế giới hiện nay te
Liên minh châu Âu (European Union - EU)58. Tổ chức này đã
tạo ra một trật tự pháp luật đặc thù, không phải là luật quôc
gia cũng không giống với luật quốc tế truyền thống. Thậm chí»
có tác giả cho răng luật của Liên minh châu Âu là “luật siêư
quốc gia”.59
2.2.1.1. Mục tiêu
Mục tiêu của Liên minh châu Âu là duy trì bảo vệ hòa
bình và thịnh vượng, thiết lập nền tảng phát triển, tiến tới hợp
nhất về kinh tế vì lợi ích chung của các dân tộc châu Âu thông
qua việc xây dựng một khu vực kinh tế rộng lớn, một thị
trường tự do, thống nhất, tạo điều kiện cho việc thống nhất
chỉnh trị và hài hòa vê xã hội trong liên minh. Trong những
mục đích đó, hợp tác kinh tế quốc tế đóng vai trò rất quan
trọng, nó là tiên đê và là nhân tô thúc đẩy hợp tác trong các
lĩnh vực khác như hợp tác vê chính trị, chính sách xã hội. Thật
vậy, các hiệp ước đóng vai trò nguồn cội pháp lý cho sự hình
58 Với 27 quốc gia thành viên, 500 triệu dân và sử dụng 23 ngôn ngữ chính
thức.
59 Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAN17'
2012. tr. 759.
322
thành của Liên minh châu Âu được xây dựng bắt nguồn từ nhu
cầu hợp tác trong lĩnh vực kinh tế giữa các quốc gia châu Au.
2.2.1.2. Khung pháp lý cho quan hệ hợp tác kinh tế
Liên minh châu Âu được hình thành trong một quá trình
lâu dài và là kết quả của sự hợp nhất của nhiều thiết chê hợp
tác kinh tế khu vực của các nước châu Âu. Nền tảng pháp lý
cho Liên minh châu Âu là các hiệp định hợp tác kinh tế giữa
các quốc gia châu Âu bao gồm:
-H iệp ước Paris (18/4/1951) thành lập Cộng đồng than
thép châu Âu (ECSC) (hết hiệu lực năm 2002) nhằm thống
nhất việc sản xuất và phân phối hai sản phẩm chính là thép và
than trên toàn lãnh thổ châu Âu, tạo ra sự phụ thuộc giữa các
quốc gia thành viên trong lĩnh vực này nhằm ngăn ngừa việc
một quốc gia sử dụng vũ lực để tiếp cận và độc chiêm hai
nguồn tài nguyên quan trọng cho phát triển công nghiệp của
châu Âu là than và thép .
-C ác Hiệp ước Rome (25/3/1957) thành lập Cộng đồng
năng lượng nguyên tử châu Âu (EURATOM) và Cộng đồng
kinh tế châu Âu (EEC) nhằm tạo ra một sức mạnh tổng hợp
dưới hình thức một thị trường chung mà lao động, hàng hóa
được tự do di chuyển như trong một thị trường nội địa.
-H iệp ước M aastricht (7/2/1992) nhằm thành lập một
Liên minh tiền tệ châu Âu và tạo lập nền tảng cho một liên
minh chính trị.
-H iệp ước Amsterdam (2/10/1997) trên cơ sở sửa đổi
Hiệp ước M aastricht, Hiệp ước này đã tạo cơ sở pháp lý dể
đồng EU, đồng tiền chung của các nước châu Âu chính thức
ra đời với tư cách đầy đủ của một đồng tiền thực thụ và đi
vào hoạt động từ ngày 01/01/1999 trong phạm vi 11 nước.60
60 Đức, Pháp, Ireland, Bì, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Ý, Luxembourg Phần Lan.
òlò
Khung pháp lý nêu trên cùng với các văn bản pháp ^
khác do các cơ quan chức năng của Liên minh châu Âu
hành đã tạo ra các điều kiện cần và đủ cho việc hình thà*1*
một thị trường chung hay còn gọi là thị trường nội địa
Âu với 4 cột trụ - 4 “tự do”: tự do dịch chuyển hàng hóa,
do dịch chuyển người lao động, tự do dich chuyển vốn, tự d°
cung ứng dịch vụ và tự do thành lập doanh nghiệp. ^
trường nội địa châu Âu còn được bảo đảm vận hành bằng
điều phối chặt chẽ về chính sách kinh tế giữa các nước thà*1,
viên (nhằm phòng tránh trường hợp thâm hụt ngân sách
nhiều của các nước thành viên) và sự ra đời của đồng
chung châu Âu - euro.
2.2.1.3. Cơ cẩu tồ chức
Hiện nay Liên minh châu Âu bao gồm 7 thiết chế với c^°
hoạt động được phân công cụ thể nhằm hoàn thành các mục tiêư
hướng tới sự liên kết toàn diện của khối.
*Hội đồng châu Âu (European Council)
Thành viên của Hội đồng châu Âu bao gom Chủ tịch ủy
châu Âu cùng những người đựng đầu nhà nước và chính phủ cư?
các nước EU. Cơ quan này đê ra các định hướng và ưu tiên ve
chính sách tổng thê. Mặc dù là diễn đàn cấp cao nhưng Hội đông
châu Âu không có thẩm quyên lập pháp. Nó đóng vai trò như mộ*
diễn đàn chính trị cho các quôc gia trong khối, từ đó tạo điều kiệ1
1
thuận lợi cho các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế.
* Hội đồng Liên minh châu Âu (Council of the Europeati
Union) J .
Hội đồng Liên minh châu Au là cơ quan có quyên quyêt địnn
cao nhất của EU. Mỗi thành viên EU cử một đại diện tại Hội đông
này, là bộ trưởng phụ trách vấn đề đang thảo luận. Cùng với Nghi
viẹn châu Au Hội đồng Bộ trưởng quyết định những vấn đề vê
pháp luật va ngan sách của Liên minh Châu Âu, đồng thòi điêư
hành chinh sách chung về ngoại giao và an ninh.
324
* Nghị viện châu Ầu (European Parliament)
Nghị viện châu A.U được thành lập thông qua bâu cừ trực
tiếp và đại diện cho tiếng nói của người dân EU và có nhiệm
kỳ 5 năm. Nghị viện châu Âu là một trong những thiêt chê lập
pháp chủ yếu của EƯ, quyết định những vân đê vê pháp luật
và ngân sách của EU cùng với Hội đông Liên minh châu Au,
giám sát toàn diện các công việc của Eư, có quyên miên
nhiệm ủ y ban châu Âu và áp dụng quyền phủ quyết đối với
việc gia nhập EU của các nước ứng cử viên.
Hội đồng Bộ trưởng và Nghị viện châu Âu ra các văn bản
theo cơ chế đồng quyết định nhàm quy định cách thức thực hiện các
mục tiêu quy định ưong các điều ước. Các văn bản này bao gôm
quy chế, chi thị, quyết định, khuyến nghị hay ý kiên. Trong sô đó,
chỉ duy nhất quy chế là văn bản pháp luật có hiệu lực ràng buộc,
được áp dụng trực tiếp cho các nước thành viên mà không cân “nội
luật hóa” bằng luật quốc gia của các nước thành viên.
* ủy ban châu Âu (European Commission)
Uỷ ban châu Âu bao gồm 27 ủy viên độc lập, mỗi ủy viên là
đại diện của một nước EU. ủ y ban châu Âu là cơ quan châp hành
của EU, có thẩm quyền đề xuất pháp luật. Đồng thời, đây là cơ
quan giám sát thực thi các điều ước quổc tế, đàm bảo việc thực thi
pháp luật và không vi phạm các điều ước quốc tế của các nước
thành viên EU.
* Tòa kiểm toán châu Âu (European Court ofAuditors)
Tòa kiểm toán châu Âu là thiết chế giám sát và đảm bảo việc
quản lý tốt các hoạt động tài chính của EƯ. Tòa tiến hành kiểm toán
đối với các cá nhân và tổ chức sử dụng nguồn tiền của EU. Hàng
năm, Tòa xây dựng một báo cáo tài chính được đăng trên Công báo
Liên minh châu Âu, báo cáo này tạo áp lực lên các thiết chế và cơ
325
quan hành chính để buộc họ phải đảm bảo việc quàn lý tốt ngân
quỹ. Tòa kiểm toán châu Âu phải được các cơ quan lập pháp của
EU tham vấn trước khi ban hành các đạo luật để điều chỉnh quan hệ
tài chính hoặc có ảnh hưởng tài chính đến hoạt động của Liên minh.
* Ngân hàng trung ương châu Âu (European Central
Bank)
Ngân hàng trung ương châu Âu là thiết chế điều hành chính
sách tiền tệ của khu vực đồng tiền chung châu Âu bao gồm 17 nước
thành viên. ECB đóng vai trò quan trọng ừong việc đảm bảo sự vận
hành của thị trường nội địa châu Âu thông qua việc đảm bảo sự ổn
định của giá cả, quản lý nguồn cung tiền và ấn định lãi suất. Cơ
quan này hoạt động độc lập với chính phủ các nước thành viên.
* Tòa án Công lý châu Âu (Court ofJustice)
Tòa án Công lý châu Âu bao gồm 27 thẩm phán (tương ứng
với số lượng thành viên EƯ) và 8 tổng chưởng lý. Nhiệm vụ của
Tòa án Công lý châu Âu là: giải thích luật EU, đảm bảo tính thống
nhất trong việc áp dụng luật EU ở tất cả các nước thành viên; giải
quyết tranh chấp về pháp luật giữa các chính phủ của các nước
thành viên EƯ và các thiết chế của EU. Vì thế, Tòa án này có vai
ưò rất quan trọng trong việc đảm bảo tính chính xác trong việc áp
dụng khung pháp lý điều chinh quan hệ pháp luật kinh tế giữa các
quốc gia trong Liên minh.
Ngoài ra, Ngân hàng đầu tư châu Âu (European Investment
Bank —“EIB”) tuy không nằm trong các thiết chế chính của Liên
minh châu Âu nhưng giữ vai trò quan trọng, có ảnh hưởng đến quan
hệ pháp luật kinh tế quốc tế giữa các thành viên Liên minh. Đây là
thiết chế có sứ mệnh đóng góp cho sự phát triển cân bằng cùa thị
trường chung châu Âu. Ngân hàng tài trợ nguồn vốn vay cho các dự
án phát ưiển trong những vùng kém phát triển nhất, các dự án tạo
việc làm cũng như hiện đại hóa và chuyển đổi doanh nghiệp. Ngân
hàng đầu tư châu Âu còn cung cấp các khoản vay cho các quốc gia
326
thứ 3 trong khuôn khổ các chính sách hợp tác ngoại khối và đóng
góp vào sự phát triển của Liên minh.
2.2.1.4. Cơ chế ra quyết định
Các văn bản pháp luật quan ữọng nhất, mang tính ràng buộc
đều được thông qua tại ủy ban châu Âu (đối với các quyết định) và
2 thiết chế có thẩm quyền lập pháp là Nghị viện châu Âu và Hội
đồng Liên minh châu Âu (đối với quy chế và chỉ thị).
Khác với hai thiết chế kinh tế toàn cầu phụ trách về tài chính
- tiền tệ như WB và IMF61 và cũng không giống với đa số các tổ
chức quốc tế khác (như LHQ),62 Liên minh châu Âu là một tổ chức
khu vực hợp tác toàn diện trong đó số phiếu biểu quyết của các
nước thành viên phụ thuộc vào tầm quan trọng của họ trong Liên
minh. Tổng cộng 345 phiếu bầu của tất cả 27 thành viên được phân
bổ căn cứ trên diện tích lãnh thổ và sức mạnh kinh tế của mỗi thành
viên, theo đó các nước lớn như Đức, Pháp, Ý và Vương quốc Anh
được 29 phiếu; Tây Ban Nha và Ba Lan được 27 phiếu; Roumania -
14, Hà Lan - 13; Bỉ, Hy Lạp, Hungary, Bồ Đào Nha và Cộng hòa
Séc đều được 12 phiếu; Áo, Bungaria và Thụy Điển có 10 phiếu...
và Malta chỉ có 3 phiếu. Cách phân clũa này được Liên minh châu
Âu xem là giúp cho các quốc gia nhỏ được đại diện tốt tại các thiết
chế của EU, cụ thể Malta với khoảng 420.000 dân được 3 phiếu bầu
và Đức với khoảng 82 triệu dân chỉ có 29 phiếu bầu.
Chế độ ra quyết định trong các cơ quan cùa Liên minh châu
Âu dựa trên phương pháp biểu quyết đa số tuyệt đối: việc thông qua
văn bản pháp luật trong khuôn khổ Hội đồng Bộ trưởng đòi hỏi
phải đạt tỉ lệ 255 /345 phiếu đại diện cho 14 thành viên của Liên
61 Tại các tổ chức này, thành viên được xem nhu cổ đông cùa công ty cồ phần
và số phiếu biểu quyết phụ thuộc vào số lượng cổ phần nắm giữ (vì thực tê
chức năng chủ yếu của WB và IMF là cho vay và nguôn quỹ cho vay có được
từ việc góp vốn cùa các thành viên).
62 Đa số tổ chức quốc tế này tuân thủ nguyên tắc “mỗi nước, 1 lá phiếu” dựa
trên bình đăng về mặt chù quyền giữa các quốc gia.
327
minh. Tuy nhiên, kể từ năm 2014, văn bản sẽ được thông qua khi h
lệ đa số các nước tham gia bỏ phiếu tối thiểu là 15 nước và và
thiểu 65% dân số châu Âu ủng hộ. Ngoài ra, đối với các chủ 0e
mang tính nhạy cảm như chính sách đối ngoại và an ninh chunể’
việc ra quyết định sẽ phải dựa trên cơ sở đồng thuận
2.2.2. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Ả
2.2.2.1. Tổng quan
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association ° f
Southeast Asian Nations, ASEAN) là tổ chức liên kết của khu vựỹ
Đông Nam Á (ĐNA) được thành lập ngày 8/8/1967 theo Tuyên hh
Bangkok, Thái Lan. Hiện nay thành viên của ASEAN bao gồm
quốc gia trong khu vực.63
So với các tổ chức khu vực khác trên thế giới, sự liên kết khư
vực của ASEAN rât đặc thù vì mặc dù cùng nằm trong một khu vVỸ
địa lý, song các quốc gia thành viên ASEAN lại rất khác nhau vê
chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa. Đặc biệt, trình độ phá*
triển kinh tế của các thành viên ASEAN không đồng đều. Để vượt
qua những khác biệt này và hướng tới phát triển hội nhập khu vực’
ASEAN đã thiết lập một mô hình liên kết đặc thù trên cơ sờ "sh
thống nhất trong đa dạng" {unity in diversity). Mô hình này vậfl
hành trên cơ sở các nguyên tắc nền tảng sau:
(i) tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đặc tính
dân tộc của mỗi quốc gia thành viên;
63 Vào thời điểm được thành lập 1967, ASEAN chị gồm 5 quốc gia thành viên
bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Năm 1984
ASEAN kết nạp thêm Brunei Darussalam làm thành viên thứ 6. Trong thập
niên 1990 ASẼAN đã hoàn tất việc kết nạp các quốc gia ĐNA (ASEAN-lO).
bao gồm Việt Nam (1995), Lào (1997) Myanmar (1999) và Cambodia (1999)-
Hiện ASEAN đang xem xét việc mở rộng phạm vi thành viên cho Đông
Timor và Papua Tân Guinea - cà hai quốc gia nàỵ hiện đang được hường quy
chế quan sát viên ASEAN.
328
(ii) tôn trọng quyền của mỗi quốc gia trong việc quản lý đất
nước và không bị can thiệp từ bên ngoài;
(iii) không can thiệp vào vấn đề nội bộ của thành viên;
(iv) giải quyết mọi bất đồng hoặc tranh chấp trong hoà bình;
(v) không sử dụng hoặc đe dọa sừ dụng vũ lực; và
(vi) bảo đảm hợp tác hiệu quả giữa các thành viên.64
Mô hình liên kết khu vực của ASEAN với tinh thần nhấn
mạnh bản sắc khu vực và tin tưởng lẫn nhau trong hợp tác được coi
là nền tảng bảo đảm cho sự phát triển bền vững và lâu dài của tô
chức. Tất cả các hiệp định của ASEAN đều được đàm phán theo
một quy trình chặt chẽ giữa các lãnh đạo để bảo đảm các vấn đê đạt
được sự thống nhất tuyệt đổi. Quá trình tham vấn và đồng thuận
được ASEAN thiết kế nhằm bảo đảm cách tiếp cận dân chủ khi đưa
ra quyết định. Vì vậy, các chính sách của ASEAN sẽ luôn bảo đảm
không hợp pháp hóa những vấn đề gây tổn hại hoặc hạ thấp lợi ích
của từng quốc gia hoặc cơ chế hợp tác khu vực. ASEAN được coi
là một trong những khu vực phát ưiển kinh tế nhanh và năng động
nhât của thế giới trong ba thập niên ưở lại đây.
2.2.2.2. Mục tiêu và chức năng
Mục tiêu cơ bản mang tính nền tảng của ASEAN là duy trì
và thúc đây hòa bình, an ninh, ổn định và tăng cường hợp tác giữa
các quôc gia trong khu vực, bảo đảm hòa binh trong khu vực Đông
Nam A. Trên cơ sở mục tiêu nền tảng đó, ASEAN đã đề ra 15 mục
tiêu và chức năng trong Hiến chương của tổ chức65 trong đó có các
diêm quan trọng liên quan tới sự phát ưiển kinh tế khu vực như sau:
- Duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực;
- Nâng cao khả năng tự cường khu vực thông qua đẩy mạnh
hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội;
64 JJX V N , Quá trình ra đời và phát triển của Hiệp hội ASEAN
[http://vvww.vietnamplus.vn/Home/Qua-trinh-ra-doi-va-phat-tnen-cua-Hiep-
hoi-ASEAN/201010/65408.vnplus] [xem lần cuối ngày 23/2/2013]
65 Hiến chưcmg ASEAN, Điều 1.
3 2 9
" Xay clựng m ọ t tỉlỊ trurrng và c ơ sở sòn x u ấ t d u y nliut vóa '''
011 đinh, tllịllll vượng, khá năng cạnh tranh và liên kết kinh tê c3ơ’
tạo thuận lợi cho thưorng mại và đàu tư, thông qua di chuyển tự
hang hoa, dịch vụ và dòng đâu tư; di chuyển thuận lọi của cữC
doanh nhan và lực lượng lao động, di chuyển tự do các dòng vốn;
Giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển tronể
ASEAN thông qua hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau-
- Tăng cường dân chủ, thúc đẩy quản trị tốt và pháp quy^t*"
thuc đay va bao vệ nhân quyên và các quyền tư do cơ bản
người dân ASEAN;
Thuc đay phát tnên bên vững nhằm bảo vệ môi trườnể
khu vực, duy trì các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bao tồn di sảo
văn hóa và chất lượng cuộc sống cao của người dân khu vực;
- Phat trien nguôn nhân lực thông qua hợp tác chặt chẽ hơn
trong lĩnh vực giáo dục và đào'tạo lâu dài, trong khoa học và công
nghệ đê tăng cường quyền năng cho người dân ASEAN và thuc đẩy
cộng đong ASEAN;
- Đê cao bản săc ASEAN thông qua việc nâng cao hơn nữO
nhận thức về sự đa dạng văn hóa và các dl sản của khu vực; và
- Duy trì vai trò trung tâm và chủ động của ASEAN như lò
đọng lực chủ chôt trong quan hệ và họp tác với các đổi tác bên
ngoài trong một cấu trúc khu vực mờ, minh bạch và thu nạp.
ASEAN đang nỗ lực xây dựng Cộng đồng ASEAN, một liên
minh khu vực tương tự như Liên minh châu Au. Tháng 12/1997,
lãnh đạo các nước ASEAN đã thông qua văn kiện Tầm nhìn
ASEAN 2020, với mục tiêu tổng quát là đưa ASEAN ưở thanh “một
nhóm hài hoà các dân tộc Đông Nam Á, gắn bó trong một cộng
đông các xã hội đùm bọc lân nhau”. Tại Hội nghị ASEAN năm
2003, ASEAN đã ra Tuyên bố hòa hợp ASEAN II (hay còn gọi là
Tuyên bố Ba-li II), nhất trí đê ra mục tiêu hinh thành Cộng đồng
ASEAN vào năm 2020 với ba trụ cột chính: Cộng đồng an ninh
330
(A S E A N Security Com m unity, ASC), Cộng »lồng, kinh tó lẤSEÀN
Economic Community, AEC) và Cọng ổồng văll lìóâ - xẫ llội
(ASEAN Socio-Cultural Community, ASCC).
Để kịp thích ứng với những chuyển biến nhanh chóng và
phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực, ASEAN tiếp tục thông
qua Chương hình hành động Vientian năm 2007 nhằm đẩy nhanh
tiến trình liên kết nội khối dựa ưên cơ sở pháp lý là Hiến chương
ASEAN, nhất trí mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm
2015 (thay vì vào năm 2020 như thỏa thuận trước đây). ASEAN đã
xây dựng các kế hoạch tổng thể (Blueprint) để xây dựng APSC,
AEC và ASCC với các mục tiêu và thời hạn hoàn thành liên minh
cụ thể. Trong đó, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ tạo ra một
thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, nơi có sự
lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có
tay nghề; từ đó nâng cao tính cạnh ưanh và thúc đẩy sự thịnh vượng
chung cho cả khu vực; tạo sự hấp dẫn với đầu tư —kinh doanh từ
bên ngoài đối với Liên minh. AEC sẽ được hình thành ưên nền tảng
khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA) đã được các quốc gia
thành viên ASEAN thiết lập từ năm 1992.
2.2.2.3. Cơ cẩu tổ chức
ASEAN có một cơ cấu tổ chức khá phức tạp với ba cấp
nhằm đảm bảo xúc tiến hợp tác và hội nhập khu vực, như sau:
a. Các cơ quan hoạch định chính sách
- Hội nghị những người đứng đầu nhà nước/chính phủ
ASEAN (ASEAN Summit) còn gọi là Hội nghị cấp cao ASEAN và
là cơ quan quyền lực cao nhất cùa ASEAN. Hội nghị cấp cao
ASEAN lần thứ 4 họp tại Singapore năm 1992 quyết định những
người đứng đầu chính phủ ASEAN mỗi 3 năm họp chính thức 1 lần
và họp không chính thức ít nhất 1 lần để đề ra phương hướng và
chính sách chung cho hoạt động của ASEẠN và quyết định các vấn
đê lớn. Từ sau Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 5, giữa các cuộc
họp cấp cao chính thức 3 năm một lần, hàng năm các thành viên
đều tổ chức họp cấp cao không chính thức.
- Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (ASEAN Ministerial
Meeting, AMM) - có trách nhiệm đề ra và phối hợp các hoạt
động của ASEAN. AMM có trách nhiệm báo cáo với Hội nghị
cap cao ASEAN.
- Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic
Ministers, AEM) - được thể chế hóa tại Hội nghị cấp cao ASEAN
lần thứ 2 năm 1977 tại Kuala Lumpur (Malaysia). Cũng như AMM,
AEM họp chính thức hàng năm. Ngoài ra AEM có thệ họp không
chính thức khi càn thiết nhằm chỉ đạo các hoạt động hợp tác kinh tê
trong ASEAN. AEM có trách nhiệm phải báo cáo công việc lên
những người đứng đàu chính phủ ASEAN tại các Hội nghị cấp cao.
Trong AEM có Hội đồng AFTA được thành lập để theo dõi, phối
hợp và báo cáo việc thực hiện chương trinh ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung (CEPT) của AFTA.
- Hội nghị Bộ trưởng các ngành, bao gồm Hội nghị Bộ
trưởng tài chính (AFMM) và Hội nghị Bộ trưởng giao thông vận tải
(ATM) và các hội nghị Bộ trưởng năng lượng, khoa học công nghệ
và môi trường, lao động, nông nghiệp và phát triển nông thôn, lâm
nghiệp, các hội nghị cấp Bộ trường hoặc tương đương khác.
- Hội nghị liên tịch các Bộ trưởng (Joint ministerial meeting,
JMM) được tổ chức khi cần thiết để thúc đẩy sự hợp tác giữa các
ngành và trao đổi ý kiến về hoạt động của ASEAN. JMM bao gồm
các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Kinh tế ASEAN, dưới sự
đồng chủ tịch của Chủ tịch AMM và Chủ tịch AEM.
- Cuộc họp các quan chức cao cấp (Senior Officials Meeting,
SOM) chịu trách nhiệm về hợp tác chính trị giữa các quốc gia
ASEAN và nhóm họp khi cần thiết. SOM báo cáo trực tiếp
cho AMM. ASEAN cũng tổ chức các cuộc họp thường kỳ của
các quan chức kinh tế cao cap (Senior Economic Officials
Meeting, SEOM) và kết quà của hội nghị phải được thông báo
trực tiếp cho AEM.
332
b. Các ủy ban chuyên trách
- ủ y ban thường trực ASEAN (ASEAN Standing
committee, ASC): bao gồm Chủ tịch là Bộ trưởng ngoại giao
của nước đăng cai Hội nghị AMM sắp tới, Tổng thư ký
ASEAN và Tổng giám đốc của các Ban thư ký ASEAN ở các
quốc gia. ASC thực hiện công việc của AMM trong thời gian
giữa 2 kỳ họp và báo cáo trực tiếp cho AMM.
- Các ủy ban hợp tác chuyên ngành: hiện ASEAN có 6
ủy ban hợp tác chuyên ngành hay còn gọi là ủy ban phi kinh tế
{non - economic Committees) hoạt động trong các lĩnh vực
khoa học và công nghệ, văn hoá và thông tin, môi trường, phát
triển xã hội, kiểm soát ma. túy và các vấn đề về công chức.
Các ủy ban này xem xét và kiến nghị những vấn đề liên quan
đến họp tác của ASEAN về việc triển khai, chuyển giao công
nghệ và nghiên cứu trong lĩnh vực cụ thể mà ủy ban phụ trách.
c. Ban thư ký
Ban thư ký ASEAN được thành lập theo hiệp định ký tại
Hội nghị cấp cao làn thứ hai Bali năm 1976 để tăng cường
phối hợp thực hiện các chính sách, chương trình và các hoạt
động giữa các bộ phận khác nhau trong ASEAN. Từ năm
1992, Ban thư ký ASEAN được mờ rộng vê cơ cấu và có
phạm vi trách nhiệm rộng lớn hơn trong việc đê xuất, khuyến
nghị, phối hợp và thực hiện các hoạt động của ASEAN; chuẩn
bị kế hoạch, chương trình, phối hợp, thống nhất và quản lý tất
cả những hoạt động hợp tác đã được thông qua; phôi hợp tiến
hành các cuộc đối thoại của ASEAN với các tô chức quốc tế
và khu vực cũng như đối với bất cứ bên đối thoại được phân
công và quản lý các quỹ hợp tác của ASEAN.
Đứng đầu Ban thư ký là Tổng thư ký ASEAN, được
những người đứng đầu chính phủ ASEAN bổ nhiệm iheo
khuyến nghị của Hội nghị AMM với nhiệm kỳ là 3 năm và có
thể gia hạn thêm 1 nhiệm kỳ.
2.2.2.4. Hợp tác kinh tê với các khu vực khác
ASEAN luôn hướng tới tận dụng tối đa các ưu thế về đị2
ly, chinh tn, chiên lược và kinh tế, qua đó giữ vai trò cân bằng
vạ đieu hòa lợi ích của các nước lớn ờ khu vực. ASEAN cũng
rât nô lực trong việc xây dựng và phát triển hợp tác đa phương
với các đôi tác thương mại khác như Mỹ, ủc, Án Đọ, Nhật
Ban, EU, Hàn Quôc, Nga... để qua đó củng cố vị thế của khôi
và từng quôc gia thành viên. ASEAN đã thiết lập quan hệ hợp
tác trao đổi với các đối tác theo mô hình ASEAN+1 (các nước
ASEAN cùng đàm phán với một quốc gia đối tác)66’
ASEAN+3 (các nước ASEAN cùng đàm phán với 3 đối tác
Đông Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc). Ngoài
rạ, ASEAN còn là nhân tô quan trọng của các khuôn khổ hợp
tác khu vực và liên khu vực khác như Diễn đàn hợp tác kinh tế
châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị Ẩ - Âu (Asia'
Europe Meeting; ASEM) và Diễn đan hợp tác Đông Á - Mỹ
Latinh (Forum for East Asia-Latin America Cooperation,
FEALAC).
Các mô hình hợp tác này đã đem lại những hiệu quả
thiêt thực cho ASEAN và các thành viên của tổ chức. Chẳng
hạn ASEAN+3 đã dẫn tới sự hình thành của 52 cơ chế hợp tác
ơ cac cap khac nhau va cac lĩnh vực hơp tác giữa các đối tác
và ASEAN được mở rộng ra nhiều lĩnh vực (bao gồm cả ao
ninh - chính trị, kinh tế, tài chính - tiền tệ, nông nghiệp, khoa
học và công nghệ, giao thông vận tải, năng lượng, môi trường,
du^lịch, công nghệ thông tin, y tế, lao đọng, van hóa, phòng
chống tội phạm xuyên quốc gia và an sinh xa hội). Trong đó,
hợp tác kinh tế, tài chính - tiền tệ của ASEAN+3 là lĩnh vực
đại kết quả tích cực nhất. Cụ thể, ASEAN+3 đã hợp tác xử lý
66 ASEAN hiện có quan hệ đối thoại và hợp tác với 10 nước trên cơ sở
ASEAN+1, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Ọuốc, Ấn Độ, Pakistan,
Australia, New Zealand, Nga, Hoa Kỳ và Canada và 1tổ chức khu vực là Liên
minh châu Âu (EU) và 1 tổ chức quốc tế là LHQ.
334
hiêu quả tác động của khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn
cầu. VỚỊ việc ra Tuyên bố về đối phó với khủng hoảng kinh tế
và tài chính toàn cầu vào 2/6/2009, ASEAN+3 đã thể hiện
quyết tâm của các nước trong việc tăng cường hợp tác để đưa
ra các biện pháp cụ thể xử lý hiệu quả tác động tiêu cực của
khủng hoảng đối với kinh tế khu vực.
Thông qua quan hệ đối ngoại, ASEAN đã tranh thủ được
Sự hợp tác và hỗ trợ thiết thực từ các đối tác bên ngoài, phục
Vụ mục tiêu an ninh và phát triển của Hiệp hội; đồng thòi góp
phần quan trọng thúc đẩy và kết nối các mối liên kết khu vực
với nhiều tầng nấc khác nhau ở châu Á - Thái Bình Dưcmg.
ASEAN cũng đã đóng một vai trò quan trọng đối với quá trình
hội nhập của Việt Nam, đặc biệt trong quá trình đàm phán gia
nhập WTO.
Mặc dù vậy, ASEAN vẫn chưa phát huy được tối đa tính
hiệu quả vì những khó khăn và thách thức nội tại của khu vực
liên quan tới sự đa dạng về văn hoá, tôn giáo, kinh tế, chính trị
của các quốc gia.
Cuối cùng, cần lưu ỷ rằng trong quan hệ kinh tế quốc tế
hiện đại, mặc dù chưa được công nhận là chủ thể của luật quốc
tế nói chung cũng như luật kinh tế quốc tế nói riêng, các công
ty đa quôc gia ngày càng được khẳng định vai trò và tầm ảnh
hưởng của mình. Với nhu cầu quốc tế hóa ngành sản xuất và
phát triển thị trường mới nhằm tránh những rào cản thương
mại ở các nước mua hàng, sử dụng được lợi thế so sánh của
nước sở tại... một công ty có thể đầu tư vốn trực tiếp để thành
lập và điều hành các chi nhánh hoặc công ty con ở nước ngoài.
Tập hợp các công ty trong nhóm đó gọi là công ty đa quốc gia,
không phân biệt nguồn vốn công ty là nguồn vốn tư nhân hay
nguồn vốn công.
Trong quá trình hoạt động nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi
nhuận, công ty đa quốc gia mang lại rihững tác động tích cực
cho nền kinh tế quốc gia (cả quốc gia xuất khẩu đầu tư và
quốc gia tiếp nhận đầu tư), đồng thời sự phát triên của các
công ty đa quốc gia cũng thể hiện được tinh thân toàn câu hóa
kinh doanh, vốn là một trong những đặc trưng của trật tự kinh
tế quốc tế hiện nay. Nhờ có nguồn vốn đầu tư trực tiêp, quôc
gia tiếp nhận đầu tư có thể giải quyết những khó khăn vê kinh
tế xã hội như lạm phát, thất nghiệp, tạo môi trường cạnh tranh
(với các nhà đầu tư trong nước) và học hỏi được kinh nghiệm
quản lý thông qua sự thành lập và hoạt động của công ty con
của công ty đa quốc gia. Ở chiều ngược lại, quốc gia nơi có trụ
sở chính của công ty đa quốc gia cũng nâng được hiệu quả sử
dụng vôn đâu tư, cân băng cán cân xuât nhập khâu.
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm thuận lợi nêu trên, hoạt
động của công ty đa quốc gia có thể gây ra những ảnh hưởng
tiêu cực đôi với nên kinh tế quốc gia và trật tự kinh tế quốc tê.
Đối với quôc gia xuất phát địểm, việc hoạt động sản xuất được
chuyên ra nước ngoài kéo theo việc “xuất khẩu” công nghệ
mới, tái đầu tư vốn ngoài lãnh thổ của công ty đa quốc gia để
tận dụng lợi thê so sánh của nước sở tại, sừ dụng nguồn nhân
lực tại nước đó thay vì quốc gia nơi có trụ sở của công ty
m ẹ... khiến cho quốc gia này gặp nhiều khó khăn trong phát
triển kinh tê. Thực trạng này thường diễn ra tại các nước phát
triển, vốn là “cái nôi” của các công ty đa quốc gia. Trong khi
đó, quốc gia tiếp nhận đâu tư (thường là quốc gia đang phát
triển) chịu phụ thuộc vào đông vôn đâu tư từ nước ngoài, từ
đó dẫn đến chính sách kinh tê, chính trị bị lệ thuộc. Quốc gia
tiếp nhận đầu tư còn đứng trước thực trạng tài nguyên thiên
nhiên bị tàn phá dq các công ty đa quôc gia chỉ quan tâm đên
lơi nhuân và thực hiện chiến lược kinh tế toàn cầu của mình
thay vì lợi ích phát triển của nước sở tại. Ngoài ra, cán cân
thanh toán xuất nhập khẩu phụ thuộc nhiều vào sự thay đổi
cua các “giao dịch nội bộ” trong công ty đa quốc ẹia (giữa
cong ty mẹ và cảc công ty con). Các giao dịch này nàm trong
chiến lược “chuyển gia” {transfer pricing) nhắm đối phó với
336
các quy định về thuế thu nhập không giống nhau giữa các
quôc gia nơi có chi nhánh (hoặc công ty con) và quốc gia nơi
có trụ sở của công ty mẹ, gây thất thu thuế cho nhà nước (kể
cả quốc gia tiếp nhận đầu tư lẫn quốc gia xuất khâu đâu tư).
Đối với trật tự kinh tế quốc tế mới, mặc dù sự phát triển
lớn mạnh của các công ty đa quốc gia thể hiện được phân nào
3ự tự do và toàn cầu hóa kinh doanh nhưng các hoạt động của
nó, cụ thể là chiến lược chuyển giá đã và đang tiếp tục gây ảnh
hường đến nguyên tắc tự do cạnh tranh giữa các chù thê tham
gia vào hoạt động kinh tế quốc tế - một trong những nguyên
tăc định hướng của trật tự kinh tế quốc tế mới. Ngoài ra, các
công ty đa quốc gia, với lượng dự trữ vôn dôi dào (có nhiêu
trường hợp còn hơn cả dụ trữ tài chính của quôc gia) có khả
năng làm mất ổn định tỳ giá hối đoái, xâm phạm đên một
trong những mục tiêu của hệ thống tài chính - tiên tệ quôc tê
ra đời sau Hội nghị Bretton Woods năm 1944. Ví dụ điên hình
là hoạt động đầu cơ ngoại tệ của một sô công ty tài chính đa
quốc gia của Mỹ đã dẫn tới khủng hoảng tài chính tại Thái
Lan và sau đó lan rộng thành khủng hoảng tài chính châu A
(1997-1999).
Tuy không phải là chủ thể của luật kinh tế quốc tế và
không tham gia trực tiếp vào quá trình đàm phán, xây dựng
luật kinh tế quốc tế nhưng công ty đa quôc gia có sức ảnh
hưởng lớn đến trật tự kinh tế quốc tế. về mặt ý tưởng lập
pháp, hoạt động của công ty đa quốc gia làm phát sinh nhu cầu
thiết lập cơ chế điều chỉnh hoạt động kinh tế quốc tế đa
phương. Ngoài ra, với nguồn lực tài chính dôi dào, công ty đa
quốc gia có thể thực hiện các cuộc vận động hành lang {lobby)
nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tê của mình (ví dụ tạo áp lực
để buộc quốc gia nơi có trụ sờ của công ty mẹ và quốc gia nơi
nó dự định thành lập công ty con đám phán hiệp định song
337
phương nhằm mở cửa thị trường cho việc lưu chuyển đồnể
vốn, bảo hộ nhà đầu tư, giải quyết tranh chấp về đầu tư..-)-
Cộng đồng quốc tế hiện đang đàm phán một cơ chế đa phươnể
mang tính ràng buộc để điều chỉnh hoạt động của các công ty
đa quốc gia, hạn chế những tác động tiêu cực của nó đến nẻ1
1
kinh tế quốc gia cũng như trật tự kinh tế quốc tế. Đây là một
trong những khuynh hướng phát triển đáng chú ý của luật kinh
tế quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, giáo trình, từ điển
1. Carreau (Dominique), Juillard (Patrick), Droit
International Économique, L.G.D.J, Paris, 1990
2. Cornu (Gérard), Vocabulaire juridique, Association
Henri Capitant, PUF, 9e ed, 2011
3. Daillier (Patrick), Forteau (Mathias), Pellet (Alain)*
Droit International Public, L.G.D.J, Paris, 2009
4. Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật
Thương mại quốc tế - Phần I (Luật WTO), Nxb. Hồng Đức,
TPHCM, 2012
5. Đại học Luật Hà Nội, Giảo trình Luật Quốc tể,
Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2007
6. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại
quốc tế, Nxi). Công an nhân dân, Hà Nội, 2012
7. Đại học MGIMO, Giảo trình Luật Kinh tể quốc tế
(MexcflyHapoÆHoe 3KOHOMHHecKoe npaBo), KiroPyc,
Moscow, 2012, tr. 182-189
8. Mai Hồng Quỳ, Trần Việt Dũng, Luật Thương mại
quốc tể, Nxb. ĐHQG, TPHCM, 2012
338
Tài liệu tham khảo khác
1. Blomberg (Brock), Broz (J Lawrence) "The
Political Economy of IMF Voting Power", Conference Paper,
International Political Economy Society (IPES), Princeton
University, (10/01/2006)
http://www.princeton.edu/~pcglobal/conferences/IPES/paper
s/broz_blomberg_F 1030_l.pdf (xem lần cuối 28/8/2012)
2. Griffith-Jones (Stephany), Governance o f the World
Bank, Report prepared for DFID, 2010
3. Heckelman (Jac c.) et al, “Crossing the Threshold:
An Analysis o f IBRD Graduation Policy”, (Report), The
W orld Bank Development Research Group, 2011
4. IBRD 2010 Voting Power Realignment (Report),
W orld Bank Group, (2011)
Todd (M oss) et al, “The ABCs of the General Capital
Increase”, Report, Center for Global Development, 2011
5. TTXVN, Quá trình ra đời và phát triển của Hiệp hội
ASEAN [http://www.vietnamplus.vn/Home/Qua-trinh-ra-doi-
va-phat-trien-cua-Hiep-hoi-ASEAN/201010/65408.vnplus]
[xem lần cuối ngày 23/2/2013]
6. Verwey w. D., “The Principles of a New
International Economic Order and the law of the General
Agreement on Tariffs and Trade (GATT)”, Leiden Journal o f
International Law, Vol.3, N o.2, 1990, tr.123
7. Wade, Robert Hunter, “The Us Role in the M alaise
at the W orld Bank: Get Up, G ulliver!,” G24 Discussion
Paper Series, 2001
3 3 9
Các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam
1. Hiến chương LHQ 1945
2. Quy chế Tòa án Công lý quốc tế 1945
3. Hiến chương IMF 1945
4. Hiến chương WB/IBRD 1945
5. Tuyên bố về thiết lập trật tự kinh tế thế giới
(.Declaration on the Establishment o f a New Internatiott
Economic Order), UNGA Res.3201(S-VI), 01/5/ 1974.
6. Hiến chương về quyền và nghĩa vụ kinh tế của c3c
quôc gia (Charter o f Economic Rights and Duties o f States)’
UNGA Res.3281(XXIX), 12/12/1974.
7. Hiệp định Marrakesh thành lập WTO 1994
8. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994
9. Hiến chương ASEAN 2007
10. Luật Đầu tư năm 2005
11. Luật Thương mại năm 2005
T rang web của các tố chức quốc tế
1. International Monetary Fund
<http://www.imf.org/external/about/histcoop.htm>
2. World Bank < http://web.worldbank.org >
3. World Trade Organization < http://www.wto.org>
4. European Union <Europa.eu/index_en.htm>
5. Association of Southeast Asian Nations
<www.asean.org>
340
CHƯƠNG XIII
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
TRONG LUẬT QUÓC TẾ
I. KHÁI NIỆM
1.1. Định nghĩa và đặc điểm của tranh chấp quốc tế
Khi hợp tác quốc tế ngày càng gia tăng, các tranh chấp
quốc tế vẫn tiếp tục phát sinh. Các chủ thế luật quốc tế đều nhận
thức rõ tranh chấp quốc tế thời nào cũng có và tác động tiêu cực
đến quan hệ quốc tế. Một câu hỏi thường đặt ra là: làm thế nào
để giải quyết tranh chấp quốc tế đem lại hiệu quả cao nhất, có thể
vừa đảm bảo quyền lợi họp pháp cho các bên tranh châp, vừa
không tổn hại đến hòa bình, an ninh quốc tế?
Từ trước tới nay, các bên tranh chấp đã sử dụng nhiều
phương thức để giải quyết những xung đột, bất đồng giữa họ.
Mặc dù vậy, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất trong các
văn bản pháp lý quốc tế về tranh chấp quốc tế. Tính đến thời
điểm hiện nay, khi đề cập giải quyết tranh chấp quốc tế, Hiến
chưcmg LHQ cũng chi xác định các biện pháp hòa bình mà các
bên tranh chấp có thể áp dụng.
Từ góc độ thực tiễn, có thể hiểu tranh chấp quốc tế là hoàn
cảnh thực tế, trong đó các chủ thể tham gia có những quan điểm,
đòi hỏi trái ngược nhau vê những vân đê liên quan tới lợi ích của
họ. So với tranh chấp trong luật quốc gia, tranh chấp quốc tế có
hai đặc thù cơ bản. về chủ thê, chủ thể của tranh chấp quốc tế
chính là chủ thể của luật quốc tế. Mặc dù quốc gia không là chủ
thể duy nhất của luật quốc tế, nhung quan hệ quốc tế chủ yếu vẫn
là quan hệ giữa các quốc gia, vì vậy, trong thực tiễn quốc tế, hầu
hết các tranh chấp quốc tế chủ yếu xảy ra giữa các quốc gia. Đỗi
tượng điêu chinh cùa tranh chảp quôc iê phải là quan hẹ pháp
luật thuộc đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế.
341
biệt với thuật ngữ “tình thế” - tức là khả năng có thẻ dấn đên
tranh chấp hoặc gây ra tranh chấp. Hiến chương LHQ đã sử
dụng nhiều lần và cùng lúc hai thuật ngữ này, ví dụ “HĐBẠ có
quyển điều tra mọi vụ tranh chấp hoặc mọi tình thế có thể dân
đên sự bất hòa giữa các nước để xác định xem vụ tranh châp
hay tình thế ẩy nếu kéo dài có thể đe dọa nền hòa bình và an
ninh quốc tế không"}
Tình thế tranh chấp được hiểu là một tình huống quan hệ
quốc tế, trong đó ờ một thời điểm và địa điểm cụ thể, xuất hiện
mâu thuẫn lợi ích giữa các bên hữu quan, tạo ra sự căng thẳng
trong quan hệ quốc tế nhưng chưa kéo theo những ỵêu câu hay
đòi hỏi cụ thể của các bên hữu quan. Ví dụ: tình thế tranh chấp
có thê xuất hiện do các vụ đụng độ biên giới, sự tập trung quân
đội của quốc gia này tại khu vực biên giới. Như vậy, một tình thê
tranh châp cụ thể có khả năng tạo ra các vấn đề tranh chấp và trở
thành tranh chấp, nhưng không phải tất cả các tình thế tranh chấp
đêu trờ thành tranh chấp. Tình thế tranh chấp được hình thành
trước khi phát sinh tranh chấp và vẫn có thể được duy trì kể cả
sau khi tranh chấp đã được giải quyết.
Việc phân biệt tranh chấp và tình thế tranh chấp có ý nghĩa
quan trọng trong thực tiễn hoạt động của LHQ. Cụ thể, khi xem
xét và giải quyêt các vụ tranh chấp quốc tế tại HĐBA, quốc gia
tham gia vào vụ tranh chấp không được quyền biểu quyết. Trong
trình tự thủ tục làm việc này đã áp dụng một trong các nguyên
tăc pháp luật chung của luật quốc tế: nguyên tắc không ai là quan
tòa trong chính các vụ việc của mình. Còn khi xem xét các “tình
thế” tranh chấp, các quốc gia có liên quan vẫn đảm bảo có quyền
biểu quyết.
Theo tinh thần của Điều 34 Hiến chương LHQ thì cà
“tranh chấp” và “tình thế” có điểm chung là nếu kéo dài sẽ gây
1 Điều 34 Hiến chương LHQ.
342
nguy hiểm cho nền hòa bình và an ninh quốc tế. Cũng theo
Điều 34, cơ quan duy nhất có quyền “định danh” các tranh
chấp và tình thế như vậy thuộc thẩm quyền của Hội đồng Bảo
an(HĐBA).
1.2. Phân loại tranh chấp quốc tế
Trong khoa học luật quốc tế, việc phân loại tranh chấp quốc
tê được thực hiện dựa trên những tiêu chí khác nhau, cụ thê:
- Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia tranh chấp, có thể
phân loại tranh chấp thành tranh chấp song phương và tranh chấp
đa phương. Tranh chấp song phương là tranh chấp chỉ có hai chủ
thể luật quốc tế tham gia trực tiếp, ví dụ: Ấn Độ và Pakistan là
các bên tham gia vào vụ tranh chấp vùng đất Cashmir đã kéo dài
trên nửa thế kỷ. Tranh chấp đa phương là loại hình tranh chấp mà
trong đó có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể luật quốc tế, ví dụ
vụ tranh chấp về quần đảo Trường Sa trong khu vực biển Đông
giữa các nước ở khu vực địa lý này. Trong tranh chấp đa phương,
có tranh chấp đa phương khu vực chỉ liên quan đến một khu vực
địa lý xác định, như tranh chấp đa phương khu vực biển Đông
nêu trên. Tranh chấp đa phương toàn câu là loại tranh chấp có
phạm vi bao trùm toàn bộ hoặc số lớn các quốc gia trên thế giới,
đây là loại hình tranh chấp quốc tế có tác động nghiêm trọng, gây
hậu quả tiêu cực trực tiếp cho cộng đồng quốc tế.
- Căn cứ vào mức độ nguy hại, có thể phân loại tranh chấp
quốc tế thành tranh chấp quốc tế nghiêm trọng và tranh chấp
quốc tế thông thường. Tranh chấp quốc tế nghiêm trọng là loại
tranh chấp có nguy cơ phá hoại hòa bình và an ninh quốc tế. Ví
dụ: tranh chấp giữa Israel với các nước Ả Rập về các vùng lãnh
thổ mà Israel chiếm đóng. Tranh chấp quốc tế thông thường là
tranh chấp không dẫn đến nguy cơ đe dọa hòa bình và an ninh
quốc tế.
- Căn cứ vào nội dung vụ tranh chấp, có thể phân loại tranh
chấp thành tranh chấp về thương mại; môi trường, tranh chấp về
343
quyền và nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế, tranh chấp lãnh
thổ và biên giới quốc gia...
- Căn cứ vào quyền năng chủ thể luật quốc tế của các bên
tranh chấp, có thể phân loại tranh chấp thành tranh chấp giữa các
quốc gia, giữa các tổ chức quốc tế liên chính phủ hoặc các chủ
thể khác của luật quốc tế.
- Căn cứ vào điều 34 Hiến chương LHQ có thể phân loại
tranh chấp thành tranh chấp định danh và tranh chấp thông
thường.
- Căn cứ vào tính chất vụ tranh chấp, có thể phân loại
tranh chấp thành ừanh chấp chính trị và tranh chấp pháp lý.
Cần lưu ý rằng, việc phân loại các tranh chấp quốc tế nêu
trên chỉ mang tính qui ước và luật quốc tế không quy định cụ thể
về cách thức, nguyên tắc phân loại các tranh chấp quốc tế.
1.3. Thẩm quyền giải qủyết tranh chấp quốc tế
Xuất phát từ bản chất pháp lý của luật quốc tế là sự thỏa
thuận, thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế cũng có những
điểm khác biệt so với thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo luật
quôc gia. Dựa trên cơ sở thực tiễn và lý luận, thẩm quyền giải
quyết tranh chấp quốc tế thuộc về các chủ thể pháp lý sau đây:
- Các bên trong tranh chấp: trong thực tiễn quan hệ quốc
tế, các bên tranh chấp thường trực tiếp giải quyết tranh chấp
quốc tế phát sinh giữa họ và thường đạt kết quả cao, nhất là đối
với các tranh châp song phương. Trong trường hợp các bên hữu
quan không yêu câu chủ thê khác đứng ra giải quyết thì không
một tòa án quốc tế, trọng tài quốc tế hay bất kỳ tổ chức quốc tế
nào có thâm quyên giải quyêt vụ tranh chấp đó.
- Các cơ quan tài phản quốc tế: thẩm quyền giải quyết
tranh chấp còn được các bên tranh chấp trao cho các cơ quan tài
phán quốc tế. Đây là những cơ quan hình thành trên cơ sở thỏa
thuận hoặc thừa nhận của các chủ thể luật quốc tế nhằm thực
344
hiện chức năng giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể luật quốc
tê với nhau. Cơ quan tài phán quôc tê có thâm quyên giải quyêt
tranh chấp bao gồm tòa án quốc tế và trọng tài qụốc tế.
Tòa án quốc tế là thuật ngữ pháp lý quốc tế chung để chỉ
cơ quan xét xử và giải quyết các loại hình tranh chấp quốc tế
thuộc phạm vi điều chỉnh của luật quốc tế. Trong thực tiễn quan
hệ quốc tế, có nhiều loại tòa án quốc tế khác nhau. Có tòa án
quốc tế là một trong các cơ quan chính của tổ chức quốc tế liên
chính phủ như Tòa án Công lý quốc tế (TACLQT) của LHQ2
3
đóng trụ sở tại La Haye (Hà Lan), hay Tòa án của Liên minh
châu Au có tru sở tại Brussels (Bỉ). Đồng thời còn xuât hiện các
tòa án quôc tế được thành lập và hoạt động dựa trên cơ sở một
điều ước quốc tế hữu quan, ví dụ Tòa án quốc tế về Luật biển
được hình thành theo các quy định có liên quan của Công ước
LHQ về luật biển năm 1982/ về nguyên tắc, các tòa án quốc tế
khác nhau sẽ có cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, chức năng và phạm
vi giải quyết tranh chấp quốc tế không giống nhau. Các vẩn đề
pháp lý này đều được quy định trong các bản quy chế của chính
tòa án quốc tế đó.
Trọng tài quốc tế là cơ quan tài phán quốc tế có mục đích
giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể luật quốc tế bởi các quan
tòa do các bên tham gia tranh chấp lựa chọn trên cơ sở tôn trọng
luật quốc tế. Việc giải quyết theo con đường trong tài phải dựa
trên sự chấp thuận của các bên tranh chấp. Sự đồng ý này có thể
được thê hiện sau (ex post) khi tranh châp đã xảy ra hoặc có thê
thỏa thuận từ trước trong các điều ước quốc tế hoặc các điều
khoản chuyên biệt trong điều ước quốc tê giữa các quôc gia,
được gọi là điêu khoản trọng tài. Nội dung của các quy định trên
thường đề cập đối tượng tranh chấp, nguyên tắc và thủ tục xét
xử, cơ câu của tòa trọng tài, trách nhiệm của các bên trong việc
thông qua và thực hiện các phán quyêt của trọng tài.4
2 Điều 92 Hiến chương LHQ và Điều 1 quy chế TACLQT năm 1945
3 Xem phụ lục VI Công ước 1982 về quy chế của tòa án quốc tế luật biển
4 Cân phân biệt trọng tài quốc tế đang được đề cập ớ đây với trọng tài thương
mại quốc tế, như Trọng tài thương mại quốc tế Singapore, Tokyo, Paris... là
345
Các cơ quan của lổ chức quốc tế liên chỉnhphủ: trong cơ
câu tô chức của các tổ chức C
ỊIỊO
C tẹ Hên phình phủ toàn Gầu pũng
Ịli-Ịừ khu VUC, ỊỊgòàỊ ịiịiCriịg cơ ^|jácụì phuypn riiqii cq Cị^ịíịc nqqg
giàì quyết trạnh cháp C
ỊU
Ọ
C tế? nhự ỊACLC^Ỉ pủ^ Tpạ án
của Liên minh châu Âu hay cơ quan giãi quyết tranh châp
{Dispute Settlement Body, DSB) cùa WTO... còn có các cơ quan
chức năng mặc dù có thẩm quyền chủ yếu trong các lĩnh vực
hoạt động khác của tố chức quốc tế, nhưng trong quá trình vận
hành của mình vẫn có các hoạt động liên quan đến giải quyêt
tranh chấp quốc tế. Ví dụ: HĐBA của LHQ ngoài chức năng chủ
yếu là duy trì hòa bình và ninh quốc tế vẫn có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp quốc tế nếu tranh chấp đó có khả năng đe
dọa hòa bình và an ninh quốc tế; hoặc Hội nghị cấp cao
ASEAN,*
5 Tổng thư ký ASEAN6 trong tổ chức quốc tế ASEAN
cũng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế.
1.4. Cơ sở pháp lý của giải quyết tranh chấp quốc tế
Giải quyết tranh chấp quốc tế là một định chế trong hệ
thống lẶiật quốc tế, vì thế nguồn luật của nó không có gì khác so
với nguồn của luật quốc tế nói chung mà khoản 1 Điều 38 Quy
chế tòa án quốc tế LHQ đã đề cập.7 Tuy nhiên, trong thực tiễn
giải quyết tranh chấp quốc tế, ngoài các quy phạm pháp luật
quốc tế, ở một số trường hợp ngoại lệ, cơ quan giải quyết tranh
chấp quốc tế (cụ thể là trọng tài quốc tế) có thể áp dụng quy
phạm pháp luật trong nước để giải quyết tranh chấp quốc tế trên
cơ sờ thòa thuận của các bên tranh chấp. Ví dụ, trong vụ Trail
co quan giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia vào
quan hệ thương mại quốc tế, trong đó có những chù thể không phải là chủ thể
của luật quốc tế.
5 Điều 26 Hiến chương ASEAN năm 2007 quy định: nếu có 1 tranh chấp chưa
được giải quyết, sau khi đã áp dụng các điều khoản theo quy định, tranh chấp
đó sẽ được trình lên cấp cao ASEAN để quyết định.
6 Điều 27 Hiến chương ASEAN năm 2007.
7 Xem thêm chương Nguồn của luật quốc tế.
346
Smelter 1941 (Mỹ kiện Canada),8 các bên tranh chấp đã thỏa
thuận bên cạnh việc ốp dụng luật quốc tế, Tòa Trọng tài có
quyên áp ƠỊing các quy Uịniỉ en*
Nguồn luật quan ừqíìg llllất điều chỉnhj j f c gịàị Cịụỵết
tranh chấp quốc tế là các điêu ước quôc tê, cụ the;
- Công ước vê giải qưyêt hòa binh cac xung đọt qưoc t-L
được thông qua tại Hội nghị La Haye lân thư nliat vao nam S)J
và được bổ sung vào năm 1907 tại Hội nghị La Haye lan thư hai.
Đây là công ước quốc tế đa phương toàn câu đâu tien ve giai
quyết hòa bình các tranh chấp quôc tê;
- Tuyên bố chung về giải quyêt hòa bình các tranh chap
quốc tế được Hội quốc liên thông qua ngày 26 thang 9 nam
1928, sau đó được LHQ chấp nhận bằng một nghị quyêt của
ĐHĐ ngày 28 tháng 4 năm 1949 (có bổ sung và chỉnh lý);
- Hiến chương LHQ có vai trò đặc biệt trong việc giải
quyết tranh chấp quốc tế, đã ghi nhận nhiêu điêu khoan quan
trọng liên quan tới việc giải quyết hòa bình các tranh chap quoc
tế9. Nhằm mục đích phát triển các điêu khoản này, ĐHĐ LHQ
đã thông qua một số các nghị quyết và tuyên bô vê giải quỵêt
hòa bình các tranh chấp quốc tế, trong đó có Tuyên bô Manila
năm 1982;
- Trong sổ các điều ước quôc tê khu vực vê giải quyet hòa
bình các tranh chấp quốc tế, cần phải kê đên Hiệp ước Liên Mỹ
về giải quyết hòa bình các tranh châp năm 1948 (còn được gọi
tên là Hiến chương Bogota); Công ước châu Au vê giải quyêt
hòa bình các tranh chấp được Hội đông châu Au thông qua vào
năm 1957, Công ước về hòa giải và trọng tài trong khuôn khổ tổ
chức an ninh và họp tác châu Âu (Organization for Security and
Co-operation in Europe. OSCE) năm 1992. Cũng cân ghi nhận
8 Xem thêm: Nations unies - United Nations, Reports of International Arbitral
Awards, 2006, http://untreaty.un.org/cod/riaa/cases/vol iii/1905-1982.pdf
9 Xem chương VI của Hiên chương LHQ từ Điêu 33 đên Điêu 38.
347
Hiến chương của các tổ chức quốc tế khu vực như: liên đoàn các
nước A Rập, Liên minh châu Phi, Tổ chức các nước châu Mỹ ^
gân đây nhất, Hiến chương của tổ chức quốc tế ASEAN10cũoẽ
chứa đựng các điêu khoản điêu chỉnh việc giải quyết hòa bìnl1
các tranh chấp quốc tế;
- Các điều ước quốc tế đa phương điều chỉnh sự họp tác
giữa các chủ thê luật quốc tế trong các lĩnh vực chuyên môn khác
nhau cũng chứa đựng các điêu khoản về giải quyết tranh chấp. V 1
dụ: Công ước vê trách nhiệm quốc tế đối với thiệt hại phát sinh d°
phương tiện vũ trụ gây ra năm 1972, Công ước luật biển 1982.
Ngoài ra, trong thực tiễn quan hệ quốc tế, các quốc gia đỏ1
khi còn thỏa thuận kí kết các điều ước quốc tế song phương dành
riêng cho việc giải quyết tranh chấp quoc tế phát sinh giữa họ, ví
dụ các hiệp định vê trọng tài —hòa giải.
1.5. Ý nghĩa của việc giặi quyết tranh chấp quốc tế
Thực tiễn đã chửng minh ràng, hiệu quả của hoạt động hợp
tác quôc tê cao hay thấp phụ thuộc khá nhiều vào kết quả của
việc giải quyêt tranh chấp quốc tế.
Xuât phát từ lý luận và thực tiễn giải quyết tranh chấp
quoc te, có thê khăng định việc giải quyết tranh châp quôc tê cơ
hiệu quả sẽ đem lại những ý nghĩa to lớn sau đây:
- Giải quyết tranh chấp quốc tế góp phần bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho các bên tranh chấp nhất là những tranh
châp mà một bên ở vị thế yếu hơn, qua đo bảo đảm trật tự pháp
lý quốc tế và trật tự quan hẹ hợp tác quốc te-
- Giải quyết tranh chấp quốc tế sẽ góp phần thúc đẩy việc
thực thi và tuân thủ luật quốc tế. Thông thương các vụ tranh chấp
phát sinh chủ yêu từ các hành vi vi pham luât quốc tế. Việc giải
quvết hòa bình các tranh chấp quốc tế đảm bảo cho các bên hữu
10 Xem Hiến chương ASÌĨAN 2007 có hiệu lực ngày 15/12/2008, chương VIII
từ Điều 22 đến Điều 28.
348
quan có hành vi xử sự phù hợp theo luật định, chấm dứt hành vi
xâm phạm, qua đó góp phần khôi phục quan hệ họp tác quốc tế,
duy trì hòa bình và an ninh quôc tê.
- Việc giải quyết tốt đẹp các tranh chấp quốc tế sẽ góp
phần nâng cấp chất lượng các quy phạm hiện hành và xây dựng
nên các quy phạm mới của luật quốc tế theo quan điểm dân chủ
và tiến bộ, phù hợp với xu thế chung của nhân loại. Ví dụ, khi
giải quyết tranh chấp giữa Anh và Na Uy về ngư trường ở biển
Bắc, trong phán quyêt của mình, TACLQT đã khăng định
phưcmg pháp đường cơ sở thẳng mà Na Uy sừ dụng không có gì
trái với luật quốc tế. Hiêu theo nghĩa này, phương pháp đường cơ
sở thẳng của Na Uy hoàn toàn được chấp nhận dưới góc độ luật
quốc tế. Cùng với thời gian và dựa trên phán quyết này, nhiều
quốc gia đã sử dụng phương pháp đường cơ sở thẳng của Na Uy
để xác định vùng biển của mình. Từ thực tiễn quốc tế đó, sau này
phương pháp đường cơ sở thẳng đã được ghi nhận trong luật biển
quốc tế,11trở thành quy phạm mới dân chủ và tiến bộ.
1.6. Các đảm bảo ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp
theo luật quốc tế
Trong thực tiễn, hiện tượng tranh chấp quốc tế là khó
tránh khỏi. Điều cần làm là ngăn chặn tối đa sự phát sinh các
tranh chấp trong quan hệ quốc tế, đồng thời giải quyết có hiệu
quả các tranh chấp đã xuất hiện, qua đó đảm bảo sự ổn định của
trật tự xã hội quốc tế. Với mục đích đó, cộng đồng quốc tế nói
chung và các chủ thể tranh chấp nói riêng cần có những thái độ
đúng đắn như:
- Thực thi, tuân thủ nghiêm chỉnh có thiện chí các nguyên
tăc và quy phạm luật quốc tế
Việc thực thi này dựa nguyên tắc Pacta sunt servanda.
Việc thực thi và tuân thủ có thiện chí. tận tâm các nguyên tắc và
1
1 Xem Điều 7 Công uớc của LHQ về luật biển 1982.
3 4 9
quy phạm luật quốc tế không chỉ là một đảm bảo cần thiết chơ
quá trình giải quyết tranh chấp mà còn góp phần quan trọng ngãẠ
ngừa và hạn chê tới mức tối đa các tranh chấp phát sinh.
thực tê đã chứng minh đa số các tranh chấp phát sinh từ các hàn!1
vi vi phạm luật quốc tế hoặc hành vi không thiện chí trong qn^t*
hệ luật quôc tế. Chính vì vậy, việc các chủ thể luật quốc tế, nhât
là các quốc gia tuân thủ nguyên tắc tận tâm và thiện chí thực hiệ1
^
các cam kêt quôc tê sẽ làm cho các tranh chấp quốc tế không c°
điều kiện xuất hiện.
Mặt khác, việc thực thi tuân thủ nghiêm chỉnh các quyêt*
và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể luật quốc tế luôn đảm bảơ
cho quan hệ quốc tế phát triển tốt đẹp, loại trừ các nguy cơ tạo
xung đột, mâu thuẫn dẫn đến tranh chấp quốc tế.
- Kí kết các điều ước quốc tể chuyên môn hoặc điều khoát*
đặc biệt về giải quyết tranh chấp quốc tể
Việc tăng cường kí kết các điều ước chuyên môn về giải
quyết tranh chấp, cũng như đưa vào các điều ước quốc tế chung
các điều khoản liên quan đến giải quyết tranh chấp quốc tế là
đảm bảo cho tiên trình giải quyết các tranh chấp phát sinh. Các
điều ước quốc tế hay các điều khoản về giải quyết tranh chấp
thường quy định các vấn đề cơ bản sau đây: thành lập cơ quan có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp và quy định các biện pháp giải
quyết cụ thể (ví dụ: Điều 11, mục 3 phụ lục V Công ước luật
biển 1982);1
2 cam kết chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh
châp của TACLQT của LHQ (quy định này được ghi nhận trong
1
2 Điều 11 mục 3, phụ lục V Công ước luật biền 1982: ‘7. Theo đúng mục 3
của phần XV bất kỳ bên nào trong một vụ tranh chấp có thể đưa ra hòa giài
theo thủ tục đã trừ định ở mục này, cỏ thể bắt đầu thu tục bằng một bản thônễ
báo gửi cho bên kia trong vụ tranh chấp; 2. Bát kỳ bên nào trong vụ tranh
chấp, khỉ đã nhận được thông báo đã được trù định ở khoận 1, thì bắt buộc
phái chấp nhận thủ tục hòa giàf
350
một loạt các điều ước quốc tế khác nhau);13 xác lập nghĩa vụ phải
sử dụng một số các biện pháp giải quyết hòa bình cụ thê (ví dụ:
khoản 3 Điều 24 Hiến chương ASEAN).14
- Tự nguyện thực hiện các phản quyết giải quyết tranh
chấp
Giải quyết tranh chấp quốc tế chỉ có ý nghĩa và giá trị đích
thực, nếu các quyết định giải quyết tranh chấp được các bên tự
nguyện thực thi và tuân thủ theo đúng tinh thần của nguyên íăc
Pacta sunt servơnda. Luật quốc tế không có bộ máy cưỡng chế
tập trung, thường trực (như quân đội, cảnh sát, tòa án, đội thi
hành án...), vì vậy để các quyết định của các cơ quan tài phán
quốc tế đã tuyên được thi hành, đòi hỏi thiện chí rất lớn của bên
thua kiện. Các điều ước quốc tế thường quy định việc thực hiện
các phán quyết trước hết dựa vào ý thức tự nguyện của bên thua
kiện. Trong trường hợp phán quyết không được tự nguyện thực
hiện thì luật quốc tế cho phép bên thắng kiện hoặc cơ quan quốc
tế có thẩm quyền (do các nước thành viên thỏa thuận ấn định) sử
dụng các biện pháp chế tài phù hợp.1
5
13 Điều 29 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
1974; Điều 34 công ước về quy chế người không quốc tịch 1954; Điều 14
công ước về giảm tình trạng không quốc tịch 1961.
14 Khoản 3 Điều 24 Hiến chưcmg ASEAN: nếu không có quy định cụ thê
khác, các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng các hiệp định
kinh tế ASEAN sẽ được giải quyết theo nghị định thư ASEAN vê tăng cường
cơ chế giải quyết tranh chấp.
1
5 Ví dụ: Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chê giải quyêt tranh chấp
năm 2004 quy định, SEOM sẽ giám sát việc thực hiện các kết luận và khuyến
nghị trong báo cáo của Ban hội thẩm và cơ quan phúc thâm đã được SEOM
thông qua (khoản 6 Điều 15). Nếu hết thời hạn đền bù sau sáu mươi ngày hay
thời hạn được các bên tranh chấp nhất trí, bên thắng kiện có thể đề nghị
SEOM cho phép tạm ngưng những ưu đãi hoặc nghĩa vụ khác đối với nước
thua kiện (khoản 2 Điều 16). Hoặc Hiên chương LHQ quy định: mỗi thành
viên LHQ phải cam kết tuân thù các phán quyết cùa TACLQT về vụ tranh
chấp mà họ tham gia. Trong trường hợp không tự nguyện thực thi các phán
quyết này, theo yêu cầu cùa bên kia HĐBA LHQ có quyền kiến nghị hoặc
351
II. KHÁI QUÁT VÈ CÁC BIỆN PHÁP HÒA BÌNH
GIẢI QUYẾT TRANH CHÁP QUÔC TÉ
2.1. Khái niệm và phân loại các biện pháp hòa bình
Hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế là một trong
bảy nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại.16 Đây là nghĩa
vụ pháp lý quốc tế của các quốc gia và chủ thể khác của luật
quốc tế. Căn cứ vào Điều 33 của Hiến chương LHQ và nội dung
cơ bản của nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, có
thể định nghĩa các biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp
quốc tế là các phương tiện, cách thức, thủ tục mà các chủ thể của
pháp luật quốc tế có nghĩa vụ phải dùng để giải quyết các tranh
chấp, bất đồng trên cơ sở nguyên tắc hòa bình giải quyết ữanh
chấp quốc tế để duy trì hòa bình, an ninh quốc tế, phát triển quan
hệ hòa bình, hợp tác giữa các quốc gia.17
Các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế có
thể được phân loại dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau.
Căn cứ vào giá trị pháp lý của các quyết định giải quyết
tranh châp, các biện pháp hòa bình được phân loại thành các
biện pháp đưa ra phán quyết có hiệu lực bắt buộc đối với các bên
hữu quan (như giải quyết tranh chấp thông qua tòa án quốc tế và
trọng tài quốc tế) và các biện pháp không đưa đến việc giải quyết
quyết định sử dụng những biện pháp cân thiêt để đảm bảo phán quyết được
chắp hành (Điều 94 Hiến chương LHQ).
16Xem chương Lý luận chung về luật quốc tế.
17 Xem Điều 33.1, Hiến chương LHQ: “Cúc bẽn đương sự trong các cuộc
tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc tranh chập ây có thế đe dọa đến hoà
bình và an ninh quốc tế, trước hẻt, phải cô găng tìm cách giải quyết tranh
chấp bằng con đường đàm phán, điêu tra, trung gian, hoà giài, trọng tài, toà
án sừ dimg những tổ chức hoặc những điêu ước khu vực, hoặc bằng các biện
pháp hoà bình khác tìty thẹo sự lựa chọn của mình" và Tuyên bố về những
nguyên tắc cùa luật quoc tế điều chinh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các
quốc gia phù hợp với Hiên chương LHQ 1970.
352
tranh chấp có hiệu lực ràng buộc đối với các bên hữu quan (như
điêu tra, trung gian, hòa giải).
Căn cứ vào chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp quốc tế
giữa các bên, có thể phân loại thành các biện pháp giải quyết
trực tiếp (như đàm phán) và biện pháp giải quyết gián tiếp, tức
thông qua sự trợ giúp của bên thứ ba (như hình thức điều tra,
trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án).
Căn cứ vào hình thức giải quyết tranh chấp, có thể chia
các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp thành ba nhóm:
- Các biện pháp mang tính ngoại giao, gồm: đàm phán,
trung gian, điều tra và hòa giải. Biện pháp đàm phán chỉ liên
quan đến các bên tham gia tranh chấp. Các biện pháp ngoại giao
còn lại có sự tham gia (ở mức độ khác nhau) của bên thứ ba vào
quá trình giải quyết tranh chấp quốc tế, nhung có đặc điểm
chung là bên thứ ba không có quyền đưa ra quyết định giải quyết
có hiệu lực đối với các bên tranh chấp;
- Các biện pháp tư pháp giải quyết tranh chấp quốc tế, gồm
trọng tài quốc tế và tòa án quốc tế. Việc sử dụng các biện pháp
này cũng có sự tham gia của bên thứ ba, nhưng khác với nhóm
trên, bên thứ ba ở nhóm này có quỵền đưa ra các quyết định có
hiệu lực ràng buộc các bên tranh chấp;
- Các biện pháp được quy định trong khuôn khổ các tổ
chức quốc tế hoặc thỏa thuận khu vực (ví dụ: Công ước châu
Âu năm 1957 về giải quyết hòa bình các tranh chấp; Nghị
định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp
năm 2004...).
2.2. Các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp
quốc tế
2.2.1. Đàm phản
Đàm phán giải quyết tranh chấp qũổc tế là sự tiếp xúc trực
tiếp giữa các chủ thể luật quốc tế là các bên tranh chấp để tìm ra
ÒDÒ
cách thức giải quyết tranh chấp đó một cách hiệu quả, phù hợp
với luật quốc tế. Đàm phán không chỉ là biện pháp giải quyêt
tranh chấp quốc tế mà còn thường được tiến hành nhăm mục
đích trao đổi quan điểm, ý kiến giữa các quốc gia về các vấn đê
không nhất thiết có tính tranh chấp, như trao đổi thông tin, thỏa
thuận chính sách hay ký điều ước quốc tế.
Theo quy định tại Điều 33 khoản 1 Hiến chương LHQ,
đàm phán được xếp ở vị trí đầu tiên trong số các biện pháp hòa
bình giải quyết tranh chấp quốc tế. Vì vậy, cũng cần phân biệt
giữa đàm phản giải quyết tranh chấp quốc tể được ghi nhận tại
khoản 1 Điều 33 với đàm phán để kỷ kết điều ước quốc tế. Hai
khái niệm này khác biệt về mục đích, tính chất, giá trị pháp lý.
Đàm phán là biện pháp đon giản và quan trọng nhất trong
số các biện pháp giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế. So với
các biện pháp giải quyết tranh chấp còn lại, đàm phán có nhiều
ưu thế: (i) thông qua đàm pháh, các bên tranh chấp có cơ hội trực
tiếp trình bày quan điểm của mình và xem xét ý chí, quan điểm
của bên đôi thoại, qua đó tăng cường sự hiểu biết nhau hơn, xây
dựng lòng tin, giảm bớt những nghi kị, tránh được những căng
thẳng, bất đồng có nguy cơ phát triển thành những xung đột dẫn
đến sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực (ii) đàm phán loại
bỏ khả năng tham gia của bên thứ ba vào vụ tranh chấp, từ đó
tránh sự can thiệp của các bên thứ ba và thỏa mãn được yêu cầu
bảo mật. Đàm phán còn giúp các bên chủ động và tiết kiệm thời
gian, giảm tôi đa chi phí tôn kém.
Đàm phán để giải quyết tranh chấp quốc tế được tiến hành
trên cơ sở nguyên tăc bình đăng và tôn trọng lẫn nhau, không can
thiệp vào công việc nội bộ của nhau, với sự thể hiện thiện chí
giải quyết tranh châp quôc tê.
Đàm phán có mối quan hệ mật thiết với các biện pháp hòa
bình khác. Cụ thể, đàm phán có thể chỉ là giai đoạn khởi đầu của
một phương thức giải quyêt tranh chấp khác, đồng thời đàm phán
354
có thể là hệ quả của việc áp dụng các phương thức giải quyết
tranh chấp trước đó. Ví dụ: nhờ vào biện pháp môi giới, trung
gian hay kết quả của xét xử trọng tài mà các bên tranh chấp cùng
ngôi vào bàn để đàm phán.
về thể thức, thủ tục, thời gian và cấp đàm phán, luật quốc
tê hoàn toàn không có quy định bắt buộc nào. vấn đề này hoàn
toàn thuộc thẩm quyền của các bên có liên quan. Trong thực tiễn
quan hệ quốc tể, đàm phán có thể được thực hiện ở các cấp độ
khác nhau: giữa những người đúng đầu nhà nước, đứng đầu
chính phủ, bộ trưởng ngoại giao hoặc giữa những đại diện có
thẩm quyền của các bên hữu quan.
2.2.2. Trung gian và hòa giải
Trung gian và hòa giải là những biện pháp giải quyết hòa
bình các tranh chấp quốc tế với sự tham gia của bên thứ ba. Bên
thứ ba có thể là một quốc gia, nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế,
các cá nhân có uy tín quôc tê hoặc cơ quan quôc tê được thành
lập. Thông thường bên thứ ba là bên khách quan trong vụ tranh
chấp và có quan hệ hữu nghị với cả hai bên tranh chấp, được các
bên tranh châp yêu câu. Ngoài ra, bên thứ ba có thê tự mình đưa
ra yêu cầu đóng vai trò trung gian, hòa giải.
Cơ sở pháp lý của biện pháp trung gian và hòa giải được
ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế như: Công ước La Haye
1907, khoản 1 Điều 33 của Hiến chương LHQ, Công ước về luật
biển 198218, Nghị định thư của Hiến chương ASEAN về cơ chế
giải quyết tranh chấp19, Nghị định thư ASEAN 200420.
Khi áp dụng biện pháp trung gian, bên thứ ba tạo điều kiện
thuận lợi cho các bên tham gia tranh chấp xúc tiến các hoạt động
18 Điệu 248 Công ước cùa LHQ về luật biển 1982.
19 Điều 6 Nghị định thư cùa Hiến chương ASEAN về cơ chế giải quyết tranh
chấp.
20 Điều 4 Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp
2004.
355
đàm phán, đưa ra các lời khuyên hoặc chỉ dẫn cho các bên trong
vụ tranh chấp, nhàm mục đích giúp đỡ các bên đạt được thỏa
thuận giải quyết tranh chấp. Như vậy, trong vai trò trung gian,
bên thứ ba có nhiệm vụ làm dịu sự căng thẳng cũng như trung
hòa các đòi hỏi, mâu thuẫn giữa các bên tranh chấp.
Theo xu hướng mới những năm gần đây, bên thứ ba đóng
vai trò trung gian không chỉ là các quốc gia mà có thể là các cá
nhân nổi tiếng trên thế giới.21 Bên cạnh đó, vai trò trung gian có
thể được các tổ chức quốc tế và cơ quan quốc tế đảm nhiệm.
Khi nghiên cứu về biện pháp trung gian, cần liên hệ với
biện pháp môi giới. Biện pháp môi giới không được đề cập
trong Điều 33 Hiến chương LHQ, nhưng theo khoa học luật
quốc tế, môi giới cũng là một biện pháp giải quyết hòa bình
tranh chấp quốc tế, trong đó có sự tham gia của bên thứ ba.
Nhiệm vụ của bên môi giới là dàn xếp, tạo điều kiện thuận lợi
cho các bên tranh chấp gặp nhau, đàm phán trực tiếp. Khi các
bên tiên tới đàm phán trực tiếp với nhau thì vai trò của bên môi
giới sẽ châm dứt. Như vậy, nguyên tắc, cách thức, vai trò của
trung gian và môi giới về cơ bản là giống nhau. Sự khác nhau
chủ yêu giữa hai biện pháp này là mức độ tham gia vào quá
trình đàm phán của các bên tranh chấp. Bên trung gian tham gia
sâu hơn vào quá trình giải quyết tranh chấp, như cùng tham gia
đàm phán với các bên tranh chấp, đưa ra những lời khuyên, chỉ
dẫn cho các bên tranh chấp. Mặc dù vậy, trên thực tế việc phân
biệt trung gian và môi giới không phải lúc nào cũng dễ dàng.
Lúc đâu, bên thứ ba có thể đóng vai trò môi giới để tạo điều
kiện cho các bên tranh chấp thực hiện các cuộc đàm phán trực
21 Ví dụ: trong cuộc xung đột vũ trang giữa Nga - Gzuzia đầu tháng 8 năm
2008, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy với tư cách là chủ tịch luân phiên của
Liên minh châu Au đã đóng vai trò trung gian, tạo điêu kiện cho Tỏng thông
Nga Dmitri Medvedev và Tổng thống Gzuzia Mikhail Saakassvili gặp g& và
đạt được sự nhất tri về “một kế hoạch hòa bình”.
356
tiếp, nhưng sau đó bên thứ ba có thể tham gia vào quá trình
đàm phán trong vai trò bên trung gian.22
Từ góc độ pháp lý quốc tế, các đề nghị, khuyến cáo của
bên trung gian liên quan đến vụ tranh chấp không có giá trị pháp
lý ràng buộc. Chúng chỉ có thể là cơ sờ cho các cuộc đàm phán
và thỏa thuận giữa các bên tranh chấp.
Cùng với biện pháp trung gian, các Công ước La Haye
1899 và 1907 còn quy định biện pháp hòa giải, mặc dù hai cônc
ước này không tách biệt giữa hai biện pháp hòa bình này và coi
trung gian, hòa giải là một biện pháp hòa bình. Song, tinh thần
của khoản 1 Điều 33 và thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế
gần đây có xu hướng tách biệt trung gian và hòa giải.
Nhiệm vụ của cơ quan hòa giải là làm sáng tỏ và xác định
những yếu tố tạo nên tranh chấp, có thu nhận thông tin theo con
đường điều tra hoặc bằng các cách thức khác. Khi tiến hành công
việc hòa giải, bên hòa giải có nhiệm vụ trung hòa các bên tham
gia tranh chấp. Bên hòa giải có quyền đề đạt những giải pháp,
phương thức giải quyết tranh chấp, dự thảo nghị quyết và đưa ra
kết luận giải quyết tranh chấp. Như vậy, trong hoạt động hòa giải
bao gồm cả hoạt động điều tra và trung gian. Điều đó khiến
người ta có thể cho rằng hòa giải là biện pháp có tính chất không
hoàn toàn là ngoại giao và cũng không han là biện pháp tư pháp
(tòa án).
Cũng như biện pháp trung gian, quyết định và kết luận của
cơ quan hòa giải chỉ có tính khuyến nghị và tạo cơ sở thuận lợi
cho việc giải quyết tranh chấp. Như vậy, việc từ chối không làm
22 Ví dụ: Liên Xô (cũ) đã từng đóng vai trò môi giới làm dịu căng thẳng giữa
Pakistan và An Độ trong cuộc xung đột vũ trang giữa hai quốc gia. Khi hai
nhà lãnh đạo của hai nước gặp nhau đê đàm phán, họ đã đề nghị Liên Xô (cũ)
tiêp tục với vai trò trung gian. Vai trò trung gian của Liên Xô (cũ) và sự tích
cực giải quyết tranh chấp của Pakistan và Ân Đọ đã dẫn đến việc ký kết Hiệp
định Tasken 1966 giải quyêt tôt đẹp tranh châp vê biên giới vùng đât Cashmir.
357
theo các khuyến nghị của cơ quan hòa giải không được coi là
hành vi vi phạm pháp luật.
Cơ quan hòa giải có thể là ủy ban thường trực hoặc ad hoc.
Thành phân của cơ quan này gồm số lẻ các thành viên được lựa
chọn với tư cách cá nhân, trong đó có thể bao gồm thành viên là
công dân của các bên tranh chấp hoặc chỉ bao gồm công dân của
nước thứ ba do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn.
Thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy, khá nhiều điều ước
quôc tê quy định việc hòa giải như một phương thức mà các
nước thành viên có thể sử dụng mỗi khi có tranh chấp. Ví dụ:
Công ước của LHQ về luật biển 198223, Công ước Vienna 1969
về luật điều ước quốc tế.24
2.2.3. Điều tra
Hoạt động điều tra được coi là biện pháp giải quyết hòa
bình các tranh chấp quốc tế và thường được thực hiện thông qua
ủy ban điêu tra. Nhiệm vụ của ủy ban này là xác định các sự kiện
còn gây tranh cãi, không được hiểu thống nhất giữa các bên tham
gia tranh chấp nhằm làm sáng tỏ thực trạng vụ tranh chấp. Như
vậy, hoạt động điều tra thực chất không giải quyết tranh chấp
quốc tế mà chỉ làm sáng tỏ các sự kiện hoặc hành động dẫn đến
tranh châp, tạo điêu kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh châp.
ủy ban điều tra có hai loại: ủy ban lâm thời (ad hoc) và ủy
ban thường trực. Thực tiễn cho thấy có nhiều ủy ban điều tra
được thành lập dựa trên sự thỏa thuận của các bên tranh chấp,
như thỏa thuận giữa Anh và Nga 1904 về thành lập ủy ban Điều
tra vụ thuyền đánh cá của Anh bị bắn, hay thỏa thuận giữa Anh
và Đan Mạch năm 1961 về thành lập ủy ban Điều tra vụ hải
quân Đan Mạch đã băn tàu đánh cá của Anh.
23 Điều 1 đến Điều 8 phụ lục V của Công ước 1982 về luật biển.
24 Khoản b Điều 66 và phụ lục Công ước Vienna 1969. vê luật điêu ước
quốc tế.
358
về nguyên tắc, thành phần, thời hạn và thẩm quyền của ủy
ban do các bên liên quan thỏa thuận quy định. Vì vậy, thành viên
của ủy ban điều tra có thể chỉ là công dân của các bên tranh chấp
nhung họ không đại diện cho quốc gia mình, có thể gồm cả công
dân của nước trung lập, có thể chỉ có công dần của nước trung
lập được các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn.23
ủy ban điều tra thường giải tán khi báo cáo (kết luận) điều
tra được thông qua. Báo cáo của ủy ban điều tra thường được
thông qua với đa số phiếu. Báo cáo hay kết luận của ban điêu tra
không có hiệu lực ràng buộc các bên tranh chấp. Họ có toàn
quyền chấp nhận hay bác bỏ toàn bộ hay một phần báo cáo của
ủy ban điều tra.2
5
26
2.2.4. Giải quyết tranh chấp thông qua tòa án quốc tế
Giải quyết tranh chấp quốc tế theo trình tự thủ tục tố tụng
của Tòa án Thường trực quốc tế được coi là một trong các biện
pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế. Cùng với trọng tài
quốc tế, tòa án quốc tế được coi là cơ quan tài phán quốc tế. Tòa
án Thường trực quốc tế là một định chế tương đối mới mẻ. Tòa
án Thường trực quốc tế đầu tiên có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp giữa các quốc gia là Tòa án Công lý Trung Mỹ, được
5 quốc gia ở vùng Trung Mỹ thành lập năm 1908. Tòa án quốc tế
25 Ví dụ, trong thời kì chiến tranh Nga - Nhật 1904, một thuyền đánh cá cùa
Anh bị bấn, hai ngư dân Anh bị chết, một số người khác trên thuyền bị thưcmg
nặng, Anh cho rằng quân Nga đã gây thiệt hại đó. Giữa Anh và Nga xảy ra
tranh chấp. Anh và Nga thỏa thuận lập một ủy ban Điều tra gồm đại diện
Nga, Anh, Pháp, Mỹ và Áo. ủy ban đã tiến hành điều tra, tìm ra nguyên nhân,
hoàn cảnh và thú phạm gây hại. ủy ban đi đến kêt luận là quân Nạa đã băn
vào thuyên đánh cá cùa Anh. Từ kết luận này Nga đã châp nhận bôi thường
thiệt hại cho Anh. Xem tại:
http://www.worldcourts.com/ici/eng/decisions/1905.02.26_doggerbank.htm
Hay, năm 1990, theo đề xuất cùa Tổng thư ký LHQ, hội nghị quôc tế Paris đã
chấp thuận cừ phải đoàn điều tra tình hình Cambodia từ ngày 9 đến ngày
14/8/1990.
26 Điều 35 Công ước La Haye 1907.
359
đầu tiên có tầm ảnh hưởng và ý nghĩa toàn cầu là Toà án Công lý
quốc tế thường trực của Hội quốc liên, có các chức năng cơ bản:
giải thích điều ước quốc tế, giải quyết các tranh chấp quốc tế và
đưa ra các kết luận tư vấn. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ II,
tòa án này được thay thế bằng TACLQT của LHQ. Hiện tại,
TACLQT của LHQ là cơ quan tư pháp có quyền lực và ảnh
hưởng toàn cầu.
Khi nghiên cứu tòa án quốc tế, ngoài việc phân biệt giữa
tòa án quốc tế với tư cách là một trong những cơ quan chính của
một tổ chức quốc tế, có chức năng chủ yếu là giải quyết tranh
chấp quốc tế với các tòa án quốc tế được thành lập, hoạt động
dựa trên cơ sở điêu ước quôc tê, cũng cân phân biệt chúng với
các tòa án hình sự quốc tế đang tồn tại và hoạt động.27
Nhìn chung, tòa án quốc tế chỉ có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp giữa các quốc gia khi họ chấp thuận thẩm quyền xét
xử của tòa. Tuy nhiên, trong thực tiễn còn tồn tại loại hình tòa án
quốc tế đặc thù, đó là Tòa án của Liên minh châu Âu (European
Union, EƯ). Tòa án này không chỉ giải quyết các tranh chấp
quốc tế phát sinh giữa các nước thành viên EU mà còn xem xet
các tranh chấp giữa các cơ quan của EƯ, giữa các thể nhân và
pháp nhân của các nước thành viên với các cơ quan của EU. Như
vậy, Tòa án của EU có thẩm quyền giải quyết tranh chấp rất rộng
và đối tượng của tranh chấp cũng rất đa dạng. Có thể nói đây là
đặc thù của EU - một tổ chức quốc tế ‘‘siêu quốc gia” duy nhất
trên thế giới cho đến thời điểm hiện nay.
Như vậy, phạm vi giải quyết tranh chấp của các tòa án
quốc tế khác nhau. Mặc dù vậy, các tòa án quốc tế cũng có
những đặc điểm chung giúp phân biệt với trọng tài quốc tế.
Cụ thể:
- Mỗi tòa án quốc tế đêu hoạt động theo quy chế riêng,
được thông qua từ trước đê quy định thủ tục và điều chỉnh quan
27Xem chương Luật hình sự quốc tê.
3 6 0
hệ giữa tòa với các bên tranh chấp. Ví dụ: TACLQT LHQ hoạt
động theo Quy chế TACLQT năm 1945,28 Tòa án Luật biển hoạt
động theo phụ lục VI về Quy chế của tòa án luật biển, kèm theo
Công ước của LHQ về luật biển năm 1982;
- Trừ một số trường hợp đặc biệt,29 thành phần xét xử của
tòa án quốc tế là cố định, nghĩa là các bên không có quyền lựa
chọn thẩm phán;
- Các bên tranh chấp không có quyền thay đổi các quy tắc,
thủ tục tố tụng của tòa án;
- Phán quyết của mọi tòa án quốc tế đều có giá trị chung
thẩm và bắt buộc các bên liên quan phải triệt để tuân thủ.
Cơ chế đảm bảo thi hành phán quyết của tòa án quốc tế rất
nghiêm ngặt và có hiệu quả. Theo quy chế của tòa hoặc hiến
chương của các tổ chức quốc tế, phán quyết của tòa thường được
bảo đảm thi hành thông qua thẩm quyền của các cơ quan của tổ
chức quốc tế. Ví dụ, Hiến chương LHQ đã trao cho HĐBA
quyền đưa ra những nghị quyết về những biện pháp cần áp dụng
đôi với quốc gia không thực hiện nghĩa vụ theo phán quyêt của
tòa án nhăm đảm bảo cho phán quyêt của tòa được châp hành
nghiêm chinh.30
28 Theo Điều 92 của Hiến chương LHQ: TACLQT LHQ hoạt động theo một
quy chê xây dựng trên cơ sở Quy chế cùa Tòa án công lý quôc tế thường trưc
cùa Hội quốc liên. Quy chế cùa Tòa án quốc tế kèm theo Hiến chương LHQ là
một bộ phận câu thành cùa Hiến chương LHQ ngày 26/06/1945. Nguồn:
http://www.icj-cij.org.
29 Ví dụ: trong phạm vi chức năng của mình TẠCLQT LHQ có thể thành lập
ba loại tòa đặc thù: (1) Tòa rút gọn trình tự tô tụng, theo Điều 29 quy chế
TACLQT, tòa này được thành lập hăng năm theo yêu câu các bên tranh chấp
tòa gôm 5 thâm phán. (2) Tòa đặc biệt, được thành lập theo khoản 1, Điều 26,
quy chế TACLQT, tòa này gồm 3 thẩm phán hoặc nhiều hon theo sự suy xét
cùa tòa. (3) Tòa ad hoc được thành lập theo sự thỏa thuận của các bên, số
lượnẹ thẩm phán cũng được các bên ¡hóa thuận.
30 Đieu 94 Hiến chương LHQ
361
Ngoài chức năng chủ yếu là giải quyết tranh chấp quốc tê
và đưa ra các kết luận tư vấn pháp lý trong các vụ việc cụ thê, tòa
án quốc tế còn có thể góp phần giải thích và củng cố hoàn thiện
các quy phạm luật quốc tế. Đồng thời, hiệu quả hoạt động của
tòa là rất lớn. Thông qua hoạt động của tòa án quốc tê, tranh
chấp quốc tế có thể được giải quyết triệt để; phán quyết do tòa án
quốc tế đưa ra thường đảm bảo được tính công bằng và khách
quan; các phán quyết của tòa án quốc tế thường được các bên tôn
trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh.
2.3. Giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài quốc tế
Giống như tòa án quốc tế, trọng tài quốc tế không có
thẩm quyền đương nhiên giải quyết tranh chấp quốc tế. Thẩm
quyền của tòa trọng tài là thẩm quyền tùy nghi, phụ thuộc vào ý
chí của các bên tranh chấp và ý chí đó phải được ghi nhận trong
điều uốc quốc tế chuyên môn'hoặc điều khoản trọng tài. Các
văn bản này còn xác định cụ thể trình tự, thủ tục xét xử, nguồn
luật sử dụng trong xét xừ cũng như thủ tục và giá trị phán quyết
của tòa trọng tài.
Dưới góc độ lịch sử, so với tòa án quốc tế, tòa trọng tài là
biện pháp giải quyết tranh chấp đã được biết từ lâu. Hình thức
này đã xuất hiện vào thời kỳ Hy Lạp cổ đại, sau đó vào thời kỳ
trung đại, khi Giáo hoàng đóng vai trò trọng tài. Tòa trọng tài
phát triển mạnh vào thế kỷ XIX. Năm 1899, Hội nghị hòa bình
La Haye đã pháp điển hóa luật về trọng tài quốc tế. Đồng thời,
cộng đồng quốc tế đã có sự cố gắng định chế hóa cơ chế trọng
tài, bàng cách thành lập Tòa Trọng tài thường trực. Hội nghị hòa
bình La Haye năm 1907 đã phát triển luật về trọng tài, với quy
đinh theo đó trọng tài quốc tế có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp phát sinh giữa các quốc gia với thành phân là các trọng tài
viên do các bên tranh chấp lựa chọn, dựa trên cơ sở tôn trọng luật
pháp quốc tế.
362
về phân loại trọng tài khoa học luật quốc tế sử dụng nhiều
tiêu chí khác nhau để phân loại. Cụ thể:
- Căn cứ vào tính chất hoạt động, trọng tài quốc tế gồm có
trọng tài thường trực (trọng tài theo quy chế) và tòa trọng tài vụ
việc (ad hoe). Trọng tài thường trực là trọng tài hoạt động
thường xuyên, liên tục, có trụ sở, có danh sách trọng tài viên, có
quy chế hoạt động và thủ tục tố tụng. Ví dụ: Tòa Trọng tài
thường trực La Haye được thành lập theo hai Công ước La Haye
1989 và 1907.31 Trọng tài vụ việc được thành lập chỉ để giải
quyết một vụ tranh chấp cụ thể và sẽ chấm dứt hoạt động khi vụ
tranh chấp được giải quyết.
- Căn cứ vào sổ lượng trọng tài viên, trọng tài được chia
thành trọng tài đơn nhất (chỉ có một trọng tài viên) và trọng tài
tập thể (bao gồm từ ba trọng tài viên trở nên).
- Căn cử vào thẩm quyền giải quyết, trọng tài được chia
thành trọng tài có thẩm quyền chung (có chức năng giải quyêt
các tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực khác nhau của đời
sống quốc tế, như trọng tài thường trực La Haye được thành lập
theo Công ước 1899 và 1907) và trọng tài chuyên môn (chỉ có
thẩm quyền giải quvết tranh chấp trong một hoặc một số lĩnh vực
của đời sống quốc tế, như trọng tài quốc tế về luật biển, được
thành lập theo Công ước luật biển 1982).32
Thành phần của cơ quan trọng tài do các bên thỏa thuận
quy định, có thể chỉ bao gồm một trọng tài viên hoặc nhiều trọng
tài viên (hội đồng trọng tài), số lượng trọng tài viên luôn là số lẻ,
để đảm bảo phán quyết của trọng tài được thông qua dễ dàng
theo nguyên tắc đa số phiếu. Trong trường hợp trọng tài được
31 Mặc dù tòa trọng tài thường trực La Haye có trụ sở tại La Haye nhưng các
trọng tài viên không hoạt động thường xuyên, tòa chi có một danh sách trọng
tài viên mà các bên có quyền lựa chọn đê hình thành một thành phần cơ cấu
xét xử
32 Xem phụ lục VII và VIII của Công ước 1982 về luật biền
363
thành lập với một trọng tài viên duy nhất thì người này thường
phải là công dân có uy tín của nước thứ ba. Nếu là hội đồng
trọng tài, thì thông thường mỗi bên tranh chấp có quyền chỉ định
một sô lượng trọng tài viên bàng nhau là công dân nước mình
hoặc nước thứ ba. Các trọng tài viên được chỉ định sẽ thỏa thuận
lựa chọn trọng tài viên khác làm chủ tịch hội đồng trọng tài. về
nguyên tăc, chủ tịch hội đông trọng tài băt buộc phải là công dân
của nước thứ ba. Nếu các bên hữu quan không lựa chọn được,
hoặc trong trường hợp các bên không muốn chi định trọng tài
viên của mình vì một lí do nào đó, họ có thể yêu cầu Chánh án
TACLQT hoặc Tổng thư ký LHQ chỉ định.
Luật được áp dụng để giải quyết các tranh chấp quốc tế là
luật quốc tế liên quan trực tiếp đến vụ tranh chấp. Ngoài ra, các
bên có thể tự do thỏa thuận lựa chọn luật quốc gia, nguyên tắc
pháp luật chung hay quy định chuyên môn nào đó để trọng tài sử
dụng khi giải quyết tranh chấp giữa họ.33
Thủ tục tổ tụng, trình tự phiên tòa trọng tài về nguyên tắc
do các bên tranh chấp ấn định. Thông thường, trình tự phiên tòa
trọng tài bao gôm hai giai đoạn: thủ tục viết và thủ tục nói. Sau
khi các đại diện hoặc cố vấn của các bên đưa ra tất cả các giải
thích, chứng cứ, yêu cầu của họ, chủ tịch tòa trọng tài sẽ tuyên
bố kết thúc phần tranh tụng và sau đó tòa sẽ tiến hành nghị án.
Quyết định của trọng tài sẽ được thông qua theo nguyên tắc nhất
trí hoặc đa sô phiêu.
Phán quyết trọng tài thường được thông qua tại buổi thảo
luận nghị án bàng đa số phiếu và sẽ được tuyên đọc với sự có
mặt của đại diện và cố vấn pháp lý của các bên tranh chấp. Phán
quyết phải có phân chứng minh lập luận của trọng tài. Vê nguyên
tắc, phán quyêt của trọng tài có giá trị chung thâm và hiệu lực
33 Xem thêm: Nations unies - United Nations, Reports of International
Arbitral Awards Trail smelter case (United States, . Canada), 2006,
http://untreaty.un.org/cod/riaa/cases/vol_iii/1905-1982.pdf
364
bắt buộc thi hành đối với các bên. Phán quyết của trọng tài
không thể bị khiếu nại, nhưng có thể được xem xét lại trong
trường hợp xuất hiện các tình tiết và sự kiện ảnh hường có tính
quyết định đến phán quyết, mà trước đó tòa trọng tài chưa được
biết đến. Trong trường họp các bên có quan điểm, yêu cầu khác
nhau về việc giải thích và thi hành phán quyết thì chính cơ quan
trọng tài với cùng thành phần xét xử sẽ xem xét và giải thích.
Trọng tài có nhiều điểm chung với tòa án. Ví dụ, việc giải
quyết tranh chấp tại trọng tài hay tòa án quốc tế đều được thực
hiện dựa trên cơ sờ luật quốc tế; đồng thời phán quyết trọng tài
cũng như phán quyết tòa án quốc tế đều có giá trị chung thẩm và
hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Tuy nhiên giữa
biện pháp trọng tài và tòa án vẫn có sự khác biệt, cụ thể:
- Thứ nhất, về thành phần xét xử, các bên có quyền lựa
chọn trọng tài viên, trong khi đó thành phần xét xử của tòa án
quốc tế là cố định, các bên không có quyền lựa chọn thẩm phán;
- Thứ hai, về thủ tục tố tụng xét xử, các bên có quyền thỏa
thuận quy định thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, vì
vậy thủ tục tô tụng trọng tài đơn giản, linh hoạt và mêm dẻo hơn,
qua đó tiết kiệm thời gian và chi phí, rút ngắn quá trình thông
qua phán quyết. Trong khi đó, thủ tục tố tụng tòa án là cố định,
đã được quy định cụ thể từ trước trong quy chế của tòa;
- Thứ ba, về mức độ bảo mật trình tự tố tụng trong từng vụ
việc, nếu các bên yêu cầu, nội dung giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài sẽ được giữ kín, đảm bảo cho các bên liên quan giữ
được bí mật quốc gia, bí quyết kinh doanh, quy trình kỷ thuật...
và qua đó, góp phần bảo vệ danh dự, uy tín của các bên tranh
chấp. Trong khi đó, giải quyết tranh chấp theo tòa án quốc tế
phải đảm bảo nguyên tắc xét xử công khai;
- Thứ tư, về thể loại tranh chấp quốc tế được giải quyết,
trọng tài không nhũng giải quyết tranh chấp pháp lý mà còn giải
quyết tranh chấp chính trị, vì vậy, phán quyết của trọng tài có thể
365
không mang tính đối nghịch như phán quyết của tòa án quốc tê.
Do đó, sau khi có phán quyết của trọng tài, các bên vẫn có thê
tiếp tục giữ được mối quan hệ với nhau kể cả trong lĩnh vực vừa
xảy ra tranh chấp. Trong khi đó, tòa án quốc tế chỉ giải quyết các
tranh chấp pháp lý.
- Thứ năm, về khả năng kiểm soát hoạt động tố tụng, trình
tự trọng tài do các bên tự quy định, vì thế khả năng kiêm soát
hoạt động trọng tài của các bên rộng hom. Trong khi đó, khi tham
gia thủ tục trước tòa án, các bên không có quyền này.
2.4. Giải quyết tranh chấp quốc tế tại các tổ chức
quốc tế
Các tổ chức quốc tế liên chính phủ có vai ừò đặc biệt quan
trọng trong quá trình giải quyết các tranh chấp quốc tế phát sinh
giữa các quôc gia thành viên. Căn cứ vào các điêu ước quôc tê
thành lập tô chức quốc tế, mỗi tổ chức quốc tế đều có thẩm
quyền và chức năng giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế.
Tuy nhiên, các bên tranh chấp không chỉ tìm đến những cơ chê
giải quyêt được ân định trong khuôn khổ của tổ chức quốc tế mà
họ là thành viên, mà còn có quyền lựa chọn những biện pháp giải
quyết hòa bình khác, vấn đề này thường được quy định trong các
điều ước quốc tế của tổ chức quốc tế, như Điều 28 Hiến chương
ASEAN năm 200734, khoản 3 Điều 2 Hiến chương LHQ.35
Thông thường các tranh chấp liên quan trong khuôn khổ tổ
chức quốc tế được giải quyết theo các cơ chế đã được quy định
trong quy chế tổ chức quốc tế. Việc nâng cao vai trò của tổ chức
quốc tế và gia tăng số lượng các tổ chức quốc tế làm phong phú
34 Theo Điều 28 Hiến chương ASEAN, trừ khi có quy định khác trong hiến
chương này, các quốc gia thành viên có quyên viện dân những hình thức giải
quyết tranh chấp hòa bình được quy định tại Điều 33 khoản 1 của Hiến
chương LHQ hoặc các vãn bàn luật quôc tế khác mà các quôc gia là thành
viên ASEAN.
35 Khoản 3 Điều 2 Hiến chương LHQ ghi nhận: tất cả các thành viên LHQ
giải quyết những tranh chấp quốc tể của họ bằng các biện pháp hòa bình.
366
thêm các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế giữa
các quốc gia. Mỗi tổ chức quốc tế đều có đặc thù, vì vây cơ chế
giải quyêt tranh chấp của chủng cũng có nhiều sự riêng biệt.
Ví dụ, bên cạnh TACLQT, các tổ chức quốc tế chuyên
môn của LHQ, như Tổ chức Nông lương thế giới {Food and
Agriculture Organization, FAO), Tổ chức Hàng không quốc tế
{International Civil Aviation Organization, ICAO), Tổ chức Lao
động quốc tế {International Labour Organization, ILO), Tổ chức
Sức khỏe thế giới {W orldHealth Organization, WHO)... cũng có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế. Trong quy chế cũng
như các điều ước của các tổ chức quốc tế này đều ghi nhận các
biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tê, như đàm phán
trực tiêp giữa các bên, sử dụng cơ chế trọng tài quôc tê và
TACLQT cùa LHQ. Các tranh chấp phát sinh trong khuôn khô
các tổ chức quốc tế chuyên môn của LHQ thường là các tranh
châp liên quan đến thẩm quyền của các tổ chức quôc tê trong
việc giải thích và áp dụng các quy chế và điêu ước quôc tê của tô
chức. Nhìn chung, các tranh chấp phát sinh giữa các quôc gia
thành viên tổ chức quốc tế thường được giải quyêt trong khuôn
khổ của chính tổ chức quốc tế và dựa vào cơ chế giải quyết tranh
chấp của tổ chức quốc tế. Ví dụ: Điều 84, 85, 86 của Công ước
Chicago về hàng không dân dụng quốc tế 1944 quy định vê trình
tự giải quyết tranh chấp quốc tế liên quan đến việc giải thích
hoặc áp dụng công ước và các phụ lục của công ư ớ c/63
6
36 Điều 84 Công ước Chicago giải quyết tranh chấp nếu có sự bất đồng giữa 2
hoặc nhiêu quôc gia ký kết về việc giải thích áp dụng công ước này và các
phụ lục của công ước mà khồng thể giải quyết bàng thương lượng, thì hội
đồng phải quyết định theo thỉnh cầu của bất kỳ quốc gia hữu quan nào. Không
một thành viên nào cùa hội đồng mà là 1 bên tranh chấp được biếu quyết khi
hội đồng xem xét cuộc tranh chấp. Phụ thuộc vào Điều 85 mọi quốc gia ký kết
có thể kháng cáo quyết định cùa hội đồng trọng tài đặc trách được thành lập
theo sự thỏa thuận với các bên khác trong cuộc tranh chấp hoặc kháne, cáo lên
367
Hiện nay, có 17 tổ chức quốc tế chuyên môn của LHQ.
Đây là các tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành lập trên cơ
sở điều ước quốc tế đa phương, còn được gọi là điều lệ của tổ
chức quốc tế.37 Phạm vi thẩm quyền của mỗi tổ chức quôc tế
chuyên môn được quy định trong điêu lệ của tô chức quôc tê đó,
trong Hiến chương LHQ và trong hiệp định song phương giữa
LHQ và tổ chức quốc tế chuyên môn do Hội đồng kinh tế - xã
hội của LHQ thay mặt cho tổ chức quốc tế toàn cầu này kí kết.
Như vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp của từng tổ chức quốc tế
chuyên môn nói trên sẽ khác nhau, phụ thuộc vào phạm vi hoạt
động của từng tổ chức.
Các tổ chức quốc tế khu vực nhìn chung đều quy định về
trình tự, thủ tục và các biện pháp giải quyết hòa bình các tranh
chấp quốc tế phát sinh giữa các quốc gia thành viên của tổ chức.
Việc giải quyết tranh chấp có thể được khởi xướng theo kiến
nghị của quôc gia thành viên tham gia tranh chấp, theo sáng kiến
của HĐBA LHQ hạy theo các quy định hiện hành được ghi nhận
trong quy chế của tổ chức quốc tế khu vực.
III. MỘT SÓ C ơ CHÉ GIẢI QUYÉT TRANH CHÁP
QUÓC TÉ
Hiện nay, có khá nhiều cơ chế giải quyết tranh chấp,
trong đó có cả cơ chế giải quyết tranh chấp tại các tổ chức
quốc tế liên chính phủ toàn cầu (như LHQ, WTO) hay khu vực
(như ASEAN, EU) và cơ chế giải quyết tranh chấp trong các
điều ước quốc tế chuyên môn như Công ước 1982 về luật biển.
Phần này sẽ đề cập cơ chế giải quyết tranh chấp của LHQ,
ASEAN và cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế về luật biển
theo Công ước 1982.
toà án công lý quốc tê thường trực. Kháng cáo như vậy phải được thông báo
cho hội đồng trong vòng 60 ngày, kê từ ngày nhận được thông báo quyết định
hội đồng.
37 Theo Unitied Nation, Structure and organization,
http://www.un.org/en/aboutun/structure/index.shtml
368
3.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp tại Liên hợp quốc
3.1.1. Tòa án C ông lý quốc tế của Liên hợp quốc
3.1.1.1. Khái niệm về Tòa án Công lý quốc tế của Liên hợp
quốc
TACLQT LHQ là cơ quan tư pháp chính của LHQ, hoạt
động ưên cơ sở quy chế của mình. TACLQT là cơ quan chính
của LHQ, còn Quy chế TACLQT là một bộ phận không thể tách
rời của Hiến chương LHQ.38
Tiền thân của TACLQT chính là Tòa án Công lý quốc tế
thường trực (còn gọi là Pháp viện thường trực) bên cạnh Hội
quốc liên. Tuy nhiên TACLQT thường trực không phải là cơ
quan của Hội quốc liên, bởi tòa án này hoạt động dựa trên cơ sở
quy chế hoàn toàn độc lập.
Thành viên LHQ đương nhiên là thành viên của Quy chế
TACLQT. Tuy nhiên, các quốc gia không phải thành viên của
LHQ cũng có thể là thành viên của Quy chế TACLQT. Ví dụ,
Thụy Sĩ, Nhật Bản, Nauru khi chưa là thành viên LHQ vẫn được
thừa nhận là thành viên của Quy chế TACLQT.
Tòa án có trụ sở chính tại thành phố La Haye (Hà Lan),
ngoài ra, tòa cũng có thể tiến hành các phiên xử ngoài La
Haye khi tòa xét thấy cần thiết.39 Ngôn ngữ chính của tòa án
quốc tế là tiếng Anh và tiếng Pháp. Ngoài ra, tòa cũng có thể
cho phép các bên theo yêu cầu của họ sừ dụng ngôn ngữ
khác.40 Khi xét xử, tòa áp dụng nguồn luật quy định tại Điều
38 của Quy chế tòa.
38 Điều 92 Hiến chương LHQ.
39 Điều 22 Quy chế tòa án quốc tế LHQ
40 Điều 39 Quy chế tòa án quốc tế LHQ
369
Cơ sở pháp lý xác định chức năng và hoat đông
TACLQT chủ yêu là Hiến chương LHQ,41 Quy c h ỉ của
TACLQT và nội quy của tòa.424
3
.
3.1.1.2. Thâm quyên chính của Tòa án Công lý quốc tế
Liên hợp quốc
Theo Điêu 36 Quy chế TACLQT, tòa có thẩm quyền
quyet tat ca các tranh châp mà các bên đưa ra cũng như các
đê được quy định riêng biệt trong Hiến chương LHQ hoặc c /c
điêu ước quốc tế có hiệu lực. Cụ thể, tòa án quốc tế có 2 thẩm
quyên như sau:
- Giải quyệt các tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia ph1
4
hợp với quy chế của mình. Tòa án không chỉ giơi hạn thẩn1
quyên xét xử giữa các quốc gia thành viên LHQ. Các quốc
khong phải là thành viên LHQ có thế tham dự vào quá trình giả*
quyêt tranh châp tại tòa với tư cách bên nguyên đơn, bên bị đơn
hoạc bẹn liên quan với điêu kiện đáp ứng các đòi hỏi, yêu cầu ào
Đại hội đông (ĐHĐ) đưa ra trong từng vu cu thể dưa trên cơ sớ
khuyên nghị của HĐBA.44
- Tư van pháp luật, đưa ra các kết luận tư vấn về các vấn
đê pháp lý mà ĐHĐ, HĐBA cũng như các cơ quan khác của
LHQ, cac tô chức quôc tê chuyên môn được sự chấp nhân của
ĐHĐ yêu câu. Riêng đối với ĐHĐ và HĐBA có thể yêu câu tòa
kêt luận tư vân vê bất cứ vấn đề pháp lý liên quan 45
41 Chương XIV Quy định về tòa án quốc tế của Hiến chương LHQ
42 Theo Điều 30 Ọuy chê của tòa, tòa án quốc tế có quyền xây dựng nội qưl
quy định nguyên tắc thực hiện chức năng, các nguyên tắc thủ tục xét xừ cùa
tòa. Ngày 6/5/1946, nội qui của tòa án quôc tê đẩ được thông qua. Năm 19*72,
tòa đã thông qua việc sửa đôi một phân nội qui. Ngày 14/4/1978, tòa thông
qua sửa đổi nội qui lần hai, nhằm cải tô thủ tục tranh tụng trước tòa.
43 Điều 34.1 Quy chế TAQT LHQ.
44 Điêu 93.2 Hiến chương LHQ.
45 Điêu 96 Hiến chương LHQ.
370
* Các phương thức chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh
chấp của Tòa án Công lý Liên hợp quốc
TACLQT có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các
quốc gia chấp nhận thẩm quyền xét xử của tòa. Xuất phát từ
nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia của luật quốc tế,
TACLQT không có thẩm quyên đương nhiên giải quyêt tranh
chấp giữa các quốc gia. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của
tòa được xác lập dựa trên sự chấp thuận của các bên liên quan.
Chấp thuận này có thể là thỏa thuận trước (trước khi có tranh
chấp xảy ra) hoặc thỏa thuận sau (sau khi có tranh châp xảy ra).
Căn cứ vào Điều 36 của Quy chế tòa, sự chấp nhận thẩm quyền
của tòa được thể hiện theo ba phương thức sau:
- Chấp nhận thẩm quyền của tòa án quốc tế theo từng vụ
việc (được gọi là thỏa thuận thỉnh cầu). Đây là phương thức
chấp nhận sau, tức là khi có tranh châp đã xảy ra, các quôc gia
tranh chấp sẽ ký một thỏa thuận, được gọi là thỏa thuận thỉnh
cầu, đề nghị tòa giải quyết tranh chấp giữa họ. Hình thức này đã
được các quốc gia tranh chấp áp dụng rộng rãi như trong vụ Các
đảo Minquiers vả Ecréchous giữa Pháp và Anh,46 vụ Thềm lục
địa biển Bắc giữa Cộng hòa liên bang Đức và Đan Mạch, Công
hòa Liên bang Đức và Hà Lan.47
- Chấp nhận trước thẩm quyền của tòa án trong các điều
ước quốc tế. Ở phương thức này, trong các điều ước quốc tế, các
quốc gia dự liệu trong các điều khoản đặc biệt, theo đó khi có
tranh chấp xảy ra về việc giải thích và thực hiện điều ước quốc
tế, một bên có thể đưa tranh chấp ra TACLQT LHQ. Do đó sau
này khi có tranh chấp xảy ra, chỉ cần một bên (nguyên đơn) gửi
đơn đến tòa, tòa sẽ có thầm quyền giải quyết. Ví dụ như vụ nhân
viên ngoại giao và lãnh sự Mỹ tại Tehran, Mỹ kiện Iran dựa trên
46 Nguyễn Hồng Thao, TACLQT, sđd. tr. 234.
47 Nguyễn Hồng Thao, TACLQT, sđd, tr. 267.
371
Nghị định thư về thủ tục giải quyết bắt buộc các tranh chấp trước
TACLQT mà cả hai nước đã ký và phê chuẩn.
- Chấp nhận trước thẩm quyền của tòa án bằng một tuyên
bố đơn phương. Theo phưcmg thức này, khi cả hai quốc gia tranh
chấp đều có tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền
của tòa và các tuyên bố này đồng thời có cùng phạm vi hiệu lực
đối với một tranh chấp thì tòa có thẩm quyền xét xử tranh chấp
đó.48 Các quốc gia có toàn quyền thể hiện ý chí của mình bằng
tuyên bô đơn phương vào bất cứ thời điểm nào, với những nội
dung hoặc những điều kiện gì để chấp nhận thẩm quyền xét xử
của tòa. Thủ tục đăng ký các tuyên bố đơn phương này được
thực hiện bằng cách gừi cho Tổng thư ký LHQ, Tổng thư ký sẽ
làm nhiệm vụ lưu chiểu.49
3.1.1.3. Cơ cẩu tổ chức của Tòa án Công lý quốc tế của
Liên hợp quốc
a. Các thẩm phán thường trực
Theo Điều 2 Quy chế TACLQT, tòa có cơ cấu là một hội
đồng các thẩm phán độc lập, được lựa chọn không căn cứ vào
quốc tịch, trong số những người có phẩm chất đạo đức tôt, đáp
ứng các yêu câu đề ra ở quốc gia họ để chỉ định chức vụ xét xử
cao nhât, hoặc là những luật gia có uy tín lớn trong lĩnh vực luật
quốc tế.50 Tòa án quốc tế gồm 15 thẩm phán và số thẩm phán cần
thiết để tiến hành xét xử là 9. Trong số 15 thẩm phán, được bầu
chọn theo một trình tự thủ tục do luật quy định, không thê có hai
thành viên cung quốc tịch. Thành phần hội đồng thẩm phán phải
đảm bảo được tính đại diện, tính công bằng giữa các hệ thông
pháp luật cơ bản trên thế giới, giữa các khu vực địa lý cũng như
giữa các hình thái văn hóa chủ yếu trên thể giới.51 Quy định này
48 Điều 36.2 Quy chế TACLQT LHQ.
49 Điều 36.4 Quý chế TACLQT LHQ.
50Điều 2 Quy chế TACLQT LHQ.
5
1 Điều 9 Quy chế TACLQT LHQ.
372
nhằm mục đích đảm bảo cho các quyết định của tòa có hiệu lực
cao và thu hút đông đảo các nước khác nhau trên thế giới áp
dụng biện pháp giải quyết tranh chấp giữa họ bằng con đường
tòa án quốc tế LHQ.
Các thẩm phán có nhiệm kỳ 9 năm và có thể được bầu lại.
Các thẩm phán do ĐHĐ và HĐBA bầu ra. Bầu cử được tiến hành
ba năm một lần nhằm thay đổi một phần ba (5 thẩm phán) thành
phần của tòa. Sau khi trúng cử, 15 thẩm phán sẽ tiến hành bỏ
phiếu kín để bầu ra chánh án và phó chánh án có nhiệm kỳ 3 năm
và có thể được bầu lại. Quy chế của tòa án ghi nhận, thẩm phán
TACLQT làm việc độc lập, không đại diện cho quốc gia mà họ
mang quốc tịch, chỉ đại diện cho công lý quổc tế. Trong thời gian
là thẩm phán, họ không đảm nhiệm chức trách hành chính, chính
trị hoặc nghê nghiệp nào52. Tính độc lập của thẩm phán còn thê
hiện về mặt vật chất, như các khoản lương, phụ cấp, thù lao do
ĐHĐ ấn định.535
4Trong khi thực hiện chức năng của mình, các
thẩm phán của tòa được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại
giao. Quy định này nhằm mục đích đảm bảo cho các thẩm phán
không bị lệ thuộc, chi phối bởi bất cứ chính phủ nước nào, họ
phải toàn tâm toàn ý phục vụ cho tòa.
b. Các thẩm phán ad hoc
Theo Điều 31 Quy chế TACLQT, một hoặc các bên tranh
chấp có thể đề cử các thẩm phán ad hoc (vụ việc) nếu xét thấy
trong thành phần xét xử của tòa không có thẩm phán nào mang
quốc tịch nước mình. Quy định này giúp cân bằng tình thế trước
tòa giữa các bên tranh chấp, tuân thủ nguyên tắc các bên bình
đẳng trước tòa, đồng thời cũng phát huy ưu thế phương thức
trọng tài. Khi lựa chọn các thẩm phán ad hoc, cũng phải dựa trên
tiêu chuẩn của Điều 2 Quy chế tòa liên quan đến việc lựa chọn
52 Điều 16 Quy chế TACLQT LHQ.
53 Điều 32 Quy chế TACLQT LHQ.
54 Điều 19 Quý chế TACLQT LHQ.
các thẩm phán thường trực. Cũng cần phải lưu ý rằng, các thẩm
phán ad hoc không có nghĩa vụ phải bỏ phiếu để bảo vệ quyền
lợi cho bên tranh chấp nào đã lựa chọn họ. Vị thế của các thẩm
phán ad hoc ngang bằng với các thẩm phán thường trực trong
quá trình xét xử.
c. Các phụ thẩm
Tòa có thể tự quyết hoặc theo yêu cầu của các bên tranh
chấp đưa ra trước khi kết thúc thủ tục viết, các phụ thẩm được đề
cử tham gia vào thành phần xét xử của tòa. Họ là những chuyên
gia giỏi trong các lĩnh vực kỹ thuật liên quan đến vụ tranh chấp.
Các phụ thẩm không có quyền biểu quyết.55
d. Thư ký tòa
Thư ký tòa do tòa đề cử.56 Ban thư ký của TACLQT là
một ban thường trực và chỉ phụ thuộc vào tòa, khác với Ban thư
ký của LHQ (một trong sáu cơ’quan chính của LHQ). Nhân viên
của ban thư ký được hưởng chế độ ưu đãi và miễn trừ ngoại giao
như nhân viên LHQ.
Lương của thư ký tòa do ĐHĐ ấn định theo đề xuất của
tòa và cũng được miễn mọi khoản thuế theo tinh thần khoản 8
Điều 32 của quy chế TACLQT. Ban thư ký gồm chánh thư ký,
phó chánh thư ký và các nhân viên. Chánh thư ký và phó
chánh thư ký do tòa bâu theo phương thức bỏ phiếu kín với
nhiệm kỳ 7 năm.
e. Các tòa rút gọn
Như đã trình bày, thông thường TACLQT tiến hành xét xử
bời hội đồng toàn thể. Tuy nhiên, trong khuôn khổ hoạt động của
mình, TAQT còn có loại hình gọi là tòa rút gọn, được thành lập
để giải quyết từng vụ việc cụ thể của tòa. Theo Điều 28 của Quy
chế TAQT, tòa rút gọn có thể được điều hành và thực hiện nhiệm
55 Khoản 2 Điệu 30 - Quy chế TAQT LHQ
56 Khoản 2 Điều 21 - Quy chế TAQT LHQ
374
vụ xét xử ở ngoài La Haye, được thực hiện chức năng của mình
theo lẽ công bằng và chân lý, ngôn ngữ sử dụng do các bên tranh
chấp lựa chọn. Các phán quyết của tòa rút gọn được coi như
phán quyết của tòa toàn thể. Căn cứ vào Điều 26 và 29 Quy chế
TAQT, có 3 loại tòa rút gọn có thể được thành lập theo ý chí của
TACLQT hoặc theo yêu cầu của các bên tranh chấp, cụ thể:
- Tòa rút gọn tạm thời (tòa ad hoc), ở trường hợp này,
thành phần của tòa rút gọn do TACLQT quy định dựa trên sự
nhất trí của các bên.57 Thực tế cho thấy, các bên thường thỏa
thuận thành phần của tòa là 5 thẩm phán. Một số vụ tranh chấp
đã được giải quyết bời tòa rút gọn tạm thời là vụ Vịnh Maine
(Canada/Mỹ) năm 1982; vụ tranh chấp biên giới giữa Burkina
Faso và Mali năm 1985.58
- Tòa đặc biệt: theo khoản 1 Điều 26 quy chế của
TACLQT, nếu thấỵ càn thiết TACLQT có thể thành lập tòa
đặc biệt gồm 3 thẩm phán hoặc nhiều hom, nhàm phân tích
từng vụ việc nhất đinh như vụ việc về lao động, quá cảnh và
liên lạc quốc tế.
- Tòa rút gọn trình tự tố tụng: theo hình thức này, hàng
năm TACLQT lập ra tòa rút gọn trình tự tố tụng, có thành phần
gồm 5 thẩm phán (chánh án, phó chánh án và 3 thẩm phán khác
của tòa toàn thể). Tòa này xem xét và giải quyêt các vụ việc theo
trình tự xét xử sơ bộ nhằm muc đích thúc đẩy việc giải quyết các
vụ việc.59
Những quy định kể trên cho thấy tòa rút gọn là cơ quan tài
phán kết hợp được những thế mạnh của cơ quan tài phán thường
trực với thê thức xét xử trọng tài.
3.1.1.4. Thủ tục giải quyết tranh chấp tại Tòa án Công lý
quôc tê Liên hợp quôc
57 Khoản 2 Điều 26 quy chế TAQT LHQ
ss Nguyễn Hồng Thao, TACLQT, sđd, tr.52
59 Điều 29 - Quy chế TAQT LHQ
375
Theo quy định tại Điều 43 Quy chế tòa, thủ tục tố tụng
của TAQT LHQ gồm 2 giai đoạn kế tiếp nhau: thủ tục viết và
thủ tục nói.
a. Thủ tục viết
Đây là thủ tục đầu tiên trong toàn bộ quá trình giải quyết
tranh chấp tại tòa án quốc tế. Giai đoạn này bao gồm các bước
nộp đơn kiện và nộp cho tòa bản bị vong lục và phản bị vong lục.
Theo quy định tại Điều 40 Quy chế tòa, các vụ việc được
khởi kiện ở tòa, tùy theo từng trường hợp cụ thể, bằng thông báo
thỏa thuận thinh cầu hoặc bằng đơn kiện gửi cho thư ký tòa án.
Như vậy, các bên có thê đông thuận đưa vụ việc ứanh châp của
họ ra trước tòa án bằng con đường thỏa thuận thỉnh cầu. Trong
trường hợp này, không có bên nguyên đơn hoặc bên bị đơn, cả
hai bên tranh chấp có vị thế pháp lý như nhau trước TACLQT.
Ngược lại, một bên có thể đưa tranh chấp ra trước tòa bằng một
đơn khởi kiện dựa trên cơ sở bên kia chấp nhận thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của TACLQT, trong trường hợp này xuất hiện
bên nguyên đơn và bên bị đơn trước tòa án. Trong cả hai trường
hợp phài nêu rõ đổi tượng tranh chấp và các bên tranh chấp.
Thông thường, thỏa thuận thỉnh câu và đơn khởi kiện đều phải
do đại diện được cử giao dịch ký tên và được chuyển cho chánh
thư ký tòa băng đường công văn ngoại giao hoặc do đại sứ của
các bên liên quan trao tận taỵ. Thư ký tòa sẽ chuyển đơn ngay
lập tức cho bên kia và cho tất cả các nước thành viên Quy che
của tòa.60 Việc thông báo này nhăm đê bên bị đơn biết đồng thời
giúp bên thứ ba có thể có quyền lợi liên quan xem xét quyết định
họ có nên xin tòa cho tham dự hay không.
Sau đó, các bên phải chú ý sao cho nộp bản bị vong lục và
phản bị vong lục đúng quy định vê thời gian. Quy chế của tòa,
không quy định thời gian nộp các bản bị vong lục và phản bị
vong lục. Thời gian này do tòa quy định tùy từng trường hợp.
60 Điều 40 Quy chế TACLQT LHQ.
376
Các bản bị vong lục và phản bị vong lục phải trình bày rõ, chi
tiết các sự kiện và pháp lý (Điều 44, nội qui của tòa). Ngoài ra,
các bên phải nộp tất cả các giấy tờ và tài liệu liên quan làm cơ
sở. Mọi giấy tờ của các bên nộp cho tòa phải đồng thời được
chuyển cho bên kia bằng văn bản sao có chứng thực.61 Quy chế
tòa không quy định trình tự nộp các bản bị vong lục và phản bị
vong lục. Thông thường, nếu tranh chấp được đưa ra trước tòa
thông qua đơn kiện của nguyên đơn, tòa ấn định thời gian bên
nguyên gửi bị vong lục và sau đó bên bị gửi phản bị vong lục.
Trong trường hợp tranh châp được đưa ra trước tòa băng thỏa
thuận thỉnh cầu, các bên sẽ thỏa thuận trong bản thỏa thuận thỉnh
cầu đó số lượng và thời gian nộp các bản bị vong lục và phản bị
vong lục. Các bên có thể thỏa thuận mỗi bên nộp một bị vong
lục, sau đó là một phản bị vong lục. Ví dụ, trong vụ tranh chấp
biên giới giữa Burkina Faso và Mali, mỗi bên nộp một bị vong
lực và một phản bị vong lục.62 Nếu thấy các bản bị vong lục và
phản bị vong lục chưa rõ ràng, tòa có quyền yêu câu các bên nộp
bổ sung bản phân tích.63 cần lưu ý, ở bựớc này các bên phải thu
thập tài liệu chứng cứ cho thật đầy đủ để gửi cho tòa, bời khi bắt
đầu thủ tục nói, các chứng cứ chỉ được chấp nhận khi bên kia
đồng ý.64
Ngoài 2 bước như trên, quá trình xét xử của tòa cũng có
thể bị thay đổi bởi những sự kiện như: bên bị đơn đưa ra lý lẽ bác
bỏ thẩm quyền của tòa, bên bị đơn vắng mặt, bên thứ ba xin
được tham dự khi nhận thấy quyền lợi cùa họ liên quan đến vụ
kiện, các bên yêu cầu tòa đưa ra các biện pháp bảo đảm tạm thời,
hợp nhất các vụ kiện. Lúc này, tòa phải thực hiện một số thủ tục
cần thiết như: (i) Tòa áp dụng các biện pháp cần thiết để xác định
thẩm quyền xét xử của mình. Việc xác định này do chính tòa
61 Khoản 3 và 4 Điều 43 Quy chế TACLQT LHQ.
62 Nguyễn Hồng Thao, Tỏa án Công lý quốc íếf sđd, tr. 52.
63 Điều 40 Quy chế TACLQT LHQ.
64 Điều 52 Quý chế TACLQT LHQ.
377
xem xét và quyết định; (ii) Tòa áp dụng những biện pháp bảo
đảm tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên, phải có
thông báo ngay cho các bên và HĐBA. Thủ tục viêt được coi
như kêt thúc sau khi bị vong lục của bên nguyên đã được châp
nhận và thời gian dành cho bên bị đon gửi phản bị vong lục đã
kết thúc. Bên cạnh đó, nếu một bên không trình diện trước tòa
hoặc không đưa ra lý lẽ của mình, theo yêu cầu của bên còn lại,
tòa cũng sẽ chuyển sang thủ tục nói.65
b. Thủ tục nói
Thủ tục nói được hiểu là quá trình tranh tụng được tiến
hành trước tòa dưới sự điều hành của chánh án hoặc phó chánh
án.66 Tranh tụng được tiến hành công khai, nếu như không có
quyết định khác của tòa án hoặc không có yêu cầu của các bên.67
Mỗi phát biểu, trình bày quan điểm, ý kiến về nội dung vụ việc
của mỗi bên tại phiên họp công khai cần phải được thể hiện rõ
ràng, cụ thê và chính xác, chỉ ra các điểm bất đồng giữa hai bên.
Bởi tât cả các lập luận và các sự kiện đã được các bên phân tích
trong các bản bị vong lục và phản bị vong lục, để tiết kiệm thời
gian các bên không nhất thiết nhắc lại tất cả những sự kiện và lập
luận đó ở giai đoạn nói.
Sau khi đại diện của các bên đã trình bày ý kiến, chánh án
sẽ tuyên bố chấm dứt tranh tụng và chuyển sang phần nghị án.
Việc nghị án của tòa được tiến hành thông qua các phiên họp
không công khai và được giữ bí mật.68 Vụ kiện được quyết định
băng phản quyêt của tòa với đa sô phiêu của các thẩm phán có
mặt. Trường hợp sô phiêu ngang nhau, lá phiếu của chánh án
hoặc người thay thê chánh án sẽ có tính quyết định69.
65 Khoản 1 Điều 53 Quy chế TACLQT LHQ.
66 Điều 45 Quy chế TACLQT LHQ.
67 Điều 46 Quy chế TACLQT LHQ.
68 Điều 54 Quý chế TACLQT LHQ.
69 Điều 55 Quy chế TACLQT LHQ.
378
Phán quyết của tòa án sẽ được chánh án tuyên đọc công
khai tại tòa và tất cả các thẩm phán tham gia bỏ phiếu phải có
mặt. Theo Điều 60 của Quy chế tòa, phán quyết của tòa có giá trị
chung thẩm và không được kháng cáo. Đây là một trong những
đặc thù của TACLQT so với một số phương thức trọng tài quốc
tế cũng như phương thức tài phán của các tổ chức quốc tế như
WTO, ASEAN có hai cấp xét xử. Ngoài ra, Điều 60 cùa Quy chế
tòa còn ghi nhận, trong trường hợp có sự bất đồng về việc giãi
thích phán quyết của tòa, theo yêu cầu của bất kỳ bên nào, chính
tòa sẽ có thẩm quyền giải thích. Phán quyết của tòa chỉ có giá trị
đối với các bên tranh chấp và chỉ trong vụ án đó.70 Mặc dù vậy,
trên thực tế, tòa luôn cố gắng bảo đảm sự hài hòa giữa những
phán quyết của mình đưa ra và do đó, phán quyết của tòa trở
thành nguồn bổ trợ của luật quốc tế. Ví dụ, các quốc gia có thể
áp dụng những nguyên tắc mà tòa đưa ra trong vụ Ngif trường
Na Uy, liên quan đến phương pháp đường cơ sở thẳng áp dụng
trong phân định lãnh hải để lý giải cho lập luận của họ liên quan
đến vụ tranh chấp tương tự. Sau này, nguyên tắc đường cơ sở
thẳng thể hiện trong phán quyết của tòa đã trờ thành các tiêu
chuẩn mới của luật quốc tế, thể hiện trong Điều 7 Công ước luật
biển 1982.7
1
Trong trường hợp phát hiện ra các sự kiện pháp lý mà tòa
không biết đến trong quá trình xét xử, đồng thời các sự kiện này
có ảnh hưởng, tác động đến quyết định của tòa, bất kỳ bên nào
cũng có quyền yêu cầu tòa sửa đổi lại phán quyết. Yêu cầu sửa
70 Điều 59 Quy chế TACLQT LHQ.
71 Khoản 1 Điều 7 Công ước luật biển 1982 quy định: Ở nơi nào bờ biển bị
khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay dọc theo bờ
biển, phương pháp đường cơ sở thăng nối liền các điểm thích hợp có thể được
sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng đê tính chiêu rộng lãnh hài.
379
đổi phải đưa ra trong thời hạn chậm nhất là 6 tháng sau khi phát
hiện ra sự kiện mới và trong vòng 10 năm kể từ ngày phán quyết
được công bố công khái.72
3.1.1.5. Trình tự tư ván
Trình tự đưa ra kết luận tư vấn của TACLQT về cơ bản
tương tự như trình tự giải quyết tranh chấp, gồm 2 giai đoạn
chính: viết và nói. Quá trình xác lập nội dung kêt luận tư vân
cũng giống như quá trình nghị án giải quyết tranh chấp quốc tê.
Vì vậy, phần này chỉ đề cập đến một số điểm đặc thù: (i) chủ thê
và điều kiện được tòa án đưa ra kết luận tư vấn và (ii) giá trị của
kết luận tư vấn.
(i) Chủ thể và điều kiện được tòa đưa ra kết luận tư vấn
Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 của Quy chế tòa và
Điều 96 của Hiến chương LHQ, chủ thể có thẩm quyền yêu cầu
tòa ra kêt luận tư vân về mọi vấn'đề liên quan là ĐHĐ và HĐBA.
Ngoài ra, 17 tổ chức chuyên môn của LHQ và các cơ quan khác
của LHQ, như Hội đồng kinh tế —xã hội, Hội đồng quản thác
cũng có quyên đưa ra yêu cầu kết luận tư vấn nhưng chỉ trong
phạm vi hoạt động của mình và phải được ĐHĐ cho phép. Như
vậy, nêu như quôc gia là chủ thể duy nhất có quyền tranh tụng
trước tòa đê giải quyết các tranh chấp, thì chủ thể có quyền yêu
cầu tòa đưa ra kêt luận tư vấn chỉ gồm có ĐHĐ, HĐBA, các cơ
quan khác của Liên họp quốc và các tổ chức quốc tế chuyên
môn. Quôc gia và các tô chức quốc tế liên chính phủ khác (như
ASEAN, EU) và Tông thư ký LHQ không có quyền này.
Cũng cần lưu ý rằng, việc yêu cầu tòa đưa ra kết luận tư
vấn là quyền của các chủ thể được xác định, tuy nhiên tòa có thể
từ chối đưa ra kết luận tư vấn khi có đầy đủ cơ sở pháp lý. Thực
tiễn cho thấy, TAQT đã từ chối đưa ra kết luận tư vấn về tính
hợp pháp của việc sử dụng vũ khí hạt nhân theo yêu cầu của
72 Khoàn 4 và 5 Điều 61 Quy chế TAQT LHQ.
380
WHO năm 1986. Lý do là yêu cầu có nội dung như vậy không
thuộc lĩnh vực chuyên môn của WHO, theo tinh thần của khoản
2 Điều 96 của Hiến chương LHQ.
(ii) Giá trị của kết luận tư vẩn
Nếu như phán quyết giải quyết tranh chấp quốc tế của tòa
án có giá trị chung thẩm và LHQ có cơ chế đảm bảo cho phán
quyết của tòa được thực thi một cách triệt để,73 thì ngược lại, kết
luận tư vấn của TAQT không có giá trị ràng buộc đối với các chủ
thể có quyền yêu cầu tòa, nó chỉ có tính chất khuyến nghị.74
Đồng thời, luật quốc tế cũng không có quy định nào cấm các chủ
thể này chấp nhận hiệu lực ràng buộc của kết luận tư vấn.
3.1.2. H ội đồng B ảo an
HĐBA là cơ quan hạn ché, thường trực và đặc thù của
LHQ. HĐBA gồm 15 thành viên, trong đó 5 ủy viên thường trực
được chỉ định rõ trong Hiến chương và có quyền phủ quyết
(Anh, Pháp, Nga, Mỹ, Trung Quốc), 10 ủy viên không thường
trực được ĐHĐ bầu theo nhiệm kì 2 năm. Chức năng và nhiệm
vụ của HĐBA rất rộng và tập trung chủ yếu vào hai lĩnh vực:
giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế (chương VI của Hiến
chương) và duy trì hòa bình và đấu tranh chống xâm lược
(chương VII của Hiến chương). Như vậy giải quyết ừanh chấp
quôc tê là một trong hai lĩnh vực chủ yêu của HĐBA. Thâm
quyền giải quyết tranh chấp quốc tế của HĐBA được ghi nhận
tại chương VI của Hiến chương (từ Điều 33 đến 38). Dựa trên
những quy định của chương này, có thể khẳng định HĐBA có
toàn quyền giải quyết các tranh chấp quốc tế phát sinh trong đời
sống quốc tế. Thẩm quyền này được thực hiện theo hai loại tranh
chấp: (i) tranh chấp nếu kéo dài có khả năng làm nguy hại hòa
bình và an ninh quốc tế và (ii) tranh chấp thông thường.
73 Điệu 94 Hiến chương LHQ.
74 Điều 96 Hiến chương LHQ.
381
3.1.2.1. Tranh chấp nếu kéo dài cỏ khả năng làm nguy hợi
hòa bình và an ninh quốc tế
Theo Điều 34 Hiến chương LHQ, HĐBA là cơ quan duy
nhất có quyền điều tra, xem xét tranh chấp nào là tranh chấp
nếu kéo dài có khả năng làm nguy hại hòa bình và an ninh quôc
tế. Bên cạnh đó, HĐBA còn có thẩm quyền nghiên cứu những
tranh chấp hoặc tình thế nếu kéo dài có khả năng làm nguy hại
hòa bình và an ninh quốc tế theo kiến nghị của Tổng thư ký
LHQ,73 của ĐHĐ7
5
76 và của một quốc gia (hoặc các quốc gia).77
Điều cân lưu ý là không chỉ quốc gia thành viên LHQ mà cả
quôc gia không phải là thành viên LHQ cũng có thê yêu câu
HĐBA lưu ý đến bất cứ tranh chấp nào thuộc loại trên mà họ là
một bên tranh chấp với điều kiện quốc gia này phải thừa nhận
nghĩa vụ giải quyết hòa bình các tranh chấp theo quy định của
Hiến chương LHQ. Điều này nhằm đảm bảo không chỉ các cơ
quan chức năng của LHQ mà tất cả các quốc gia luôn có ý thức
đối với cộng đồng.
Sau khi điều tra và HĐBA xác định đó là tranh chấp nếu
kéo dài có khả năng làm nguy hại hòa bình và an ninh quốc tế,
HĐBA sẽ mời các bên giải quyết tranh chấp bằng một trong
những phương thức nêu ở khoản 1 Điều 33 Hiến chương, đó là:
đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, thông
qua các tô chức quôc tê hay các hiệp định khu vực, hoặc băng
các biện pháp hòa bình khác do họ tự chọn. Quyền hạn này của
HĐBA còn được mở rộng và phát triển theo Điều 36 Hiến
chương, theo đó trong bất kỳ giai đoạn nào của tranh chấp
HĐBA có thể khuyến nghị các bên một trình tự và biện pháp giải
quyết thích đáng. Bên cạnh đó, HĐBA cũng lưu ý đến biện pháp
mà các bên tranh chấp đã tiến hành nhằm giải quyết các tranh
chấp quốc tế (khoản 2 Điều 36 Hiến chương).
75 Điều 99 - Hiến chương LHQ
76 Khoàn 3 Điều 11 - Hiến chương LHQ
77 Khoản 1 và 2 Điều 35 —Hiến chương LHQ
38 2
3.1.2.2. Tranh chấp thông thường
Khác với tranh chấp nếu kéo dài có khả nặng làm nguy hại
hòa bình và an ninh quốc tế, tranh chấp thông thường là loại
tranh chấp mà nếu như kéo dài thì cũng không cỏ khả năng đe
dọa hòa bình và an ninh quốc tế. Đây là tranh chấp phát sinh
trong mọi lĩnh vực đời sống quốc tế của các quốc gia và không
có nguy cơ đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế.
Điều 38 của Hiến chương quy định, trong bất kỳ vụ tranh
chấp nào do các bên đệ trình, HĐBA có thể giải quyết hòa bình
các tranh chấp quốc tế đó bằng cách đưa ra các khuyến nghị, cần
phải nhìn nhận rằng việc áp dụng quy định này chỉ có thể được
thực hiện với điều kiện được sự đồng ý của các bên tranh chấp
yêu cầu HĐBA. Khuyến nghị được HĐBA đưa ra trên cơ sờ của
Điều 38 Hiến chương không có hiệu lực ràng buộc, bởi vì HĐBA
chỉ tham gia giải quyết tranh chấp với tư cách cơ quan hòa giải
và đưa ra chỉ dẫn kiến nghị.
Tóm lại, dựa trên cơ sở quy định tại chương VI của Hiến
chương, có thể khẳng định rằng, HĐBA có thẩm quyền trong
việc giải quyết tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia với các vai
trò khác nhau như điều tra, trung gian, hòa giải. Trong tất cả các
trường hợp nói trên, HĐBA đưa ra các khuyến nghị phù hợp và
các khuyến nghị này không có hiệu lực bắt buộc đối với các bên
tranh chấp. Vì vậy, không nên nhầm lẫn giữa các quyết định của
HĐBA đưa ra trên cơ sở của chương VI Hiến chương, chỉ mang
tính khuyến nghị. Quyết định có giá trị bắt buộc của HĐBA đưa
ra trên cơ sở chương VII của Hiến chương trong trường hợp hòa
bình bị đe dọa hoặc có hành vi xâm lược.
3.1.3. Đ ại hội đồng và Tổng thư ký Liên hợp quốc
ĐHĐ là cơ quan toàn thể duy nhất của LHQ. ĐHĐ có
thẩm quyền thảo luận tất cả các vấn đề hoặc các công việc thuộc
phạm vi Hiến chương hoặc thuộc quyền-hạn và chức năng của
bất kỳ một cơ quan nào của LHQ được ghi trong Hiến chương,
trừ những vấn đề được quy định trong Điều 12 của Hiến
chương.78 Trên cơ sở tuân thủ Điều 12 Hiến chương, ĐHĐ có
quyền đưa ra khuyên nghị vê việc áp dụng các biện pháp thích
hợp để giải quyết hòa bình mọi tình thế nảy sinh từ bất kỳ nguồn
gốc nào, mà theo sự nhận xét của ĐHĐ, có thể làm hại đến lợi
ích chung, hoặc gây tổn hại cho các quan hệ hữu nghị giữa các
nước.79 Điều đó có thể khẳng định rằng ĐHĐ có thẩm quyền rất
rộng lớn và trong đó có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu
kéo dài có khả năng làm nguy hại hòa bình và an ninh quốc tế.
Tuy nhiên, khác với HĐBA, quyền hạn giải quyết tranh chấp loại
này của ĐHĐ là có hạn chế. Điều này được thể hiện tại nội dung
của Điều 12 Hiến chương, theo đó khi HĐBA thực hiện những
chức năng được Hiến chương này quy định đối với một vụ tranh
chấp hay một tình thế nào đó, thì ĐHĐ không được đưa ra một
kiến nghị nào về tranh chấp hay tình thế ấy, trừ khi được HĐBA
yêu cầu. Điều này cho thấy, ĐHĐ có thể không giải quyết vụ
việc tranh chấp đến tận cùng, vì đến mức độ nào đó, tranh chấp
sẽ phải chuyển sang cho HĐBA giải quyết. Do đó, khi đề nghị
LHQ quan tâm tới các vụ tranh chấp hoặc các tình thế nếu kéo
dài có khả năng làm nguy hại hòa bình và an ninh quốc tế, quốc
gia hữu quan phải tự cân nhắc và phải quyết định ràng, vụ việc
đó nên đưa cơ quan nào xem xét, HĐBA hay là ĐHĐ.
Tổng thư ký LHQ cũng có vị thế nổi bật trong giải quyết
tranh chấp quốc tế. Tổng thư ký hoạt động với tư cách viên chức
hành chính cao nhất của LHQ tại tất cả các cuộc họp của ĐHĐ,
HĐBA, Hội đồng kinh tế - xã hội và Hội đồng quản thác.80 Cũng
cần nhìn nhận rằng, mặc dù được tham gia vào các cuộc họp của
các cơ quan này vì lợi ích của LHQ, Tổng thư ký không được
thỉnh cầu hoặc chấp nhận những chỉ thị từ bất kỳ một chính phủ
78 Điều 10 Hiến chương LHQ
79 Điệu 14 Hiến chương LHQ
80 Điều 98 Hiến chương LHQ
384
hay bất kỳ cơ quan nào khác ngoài LHQ.81 Hơn nữa, quyết định
của những cơ quan này được thông qua bằng hình thức bỏ phiếu
của các quốc gia thành viên trong cơ quan, mà Tổng thư ký LHQ
không được phép đại diện cho bất cứ quốc gia nào, vì vậy không
có quyền biểu quyết thông qua quyết định của những cơ quan
này. Ngoài ra, Tổng thư ký còn có quyền thực hiện các chức
năng được các cơ quan khác như ĐHĐ và HĐBA giao phó với
vai trò trung gian, hòa giải khi giải quyết tranh chấp quốc tế.
Điều 99 của Hiến chương còn quy định Tổng thư ký có thề lưu ý
HĐBA về bất cứ vấn đề nào mà theo Tổng thư ký, có thể đe dọa
hòa bình và an ninh thế giới.
3.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN
ASEAN ra đời năm 1967 theo Tuyên bố của Hội nghị bộ
trưởng ngoại giao các nước Đông Nam Á (Tuyên bố Bangkok
1967). Cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ ASEAN
ngày càng được hoàn thiện thông qua sự hình thành hàng loạt cơ
chế giải quyết tranh chấp như: cơ chế giải quyết tranh chấp về
chính trị được thể hiện trong Hiệp ước thân thiện và hợp tác
Đông Nam Á (Hiệp ước Bali 1976), cơ chế giải quyết tranh chấp
kinh tế theo Nghị định thư Manila 1996 (Nghị định thư 1996); cơ
chế giải quyết tranh chấp kinh tế theo Nghị định thư ASEAN về
tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp 2004 (Nghị định thư
2004), cơ chế giải quyết tranh chấp theo Nghị định thư 2010.
Trong quá trình phát triển của mình, ASEAN có tới ba thủ tục để
giải quyết tranh chấp quốc tế ở các lĩnh vực khác nhau. Để hiểu
rõ cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ ASEAN, cần
nắm được khái quát các cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua
các điều ước kể trên.
Điều 100 Hiến chương LHQ
3 8 5
3.2.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp theo Hiệp ước thân
thiện, hợp tác Đông Nam Á (Hiệp ước Bali 1976)
Tuyên bố Bangkok 1967 đề cập giải quyết tranh chấp quốc
tế. Với mong muốn thúc đẩy hòa bình và ôn định khu vực thông
qua việc tôn trọng luật pháp đồng thòi để giải quyết bất đồng,
tranh chấp giữa các nước, Hội nghị thượng định ASEAN lân thứ
nhất tại Bali (Indonesia) ngày 24/02/1976, các nước thành viên
ASEAN đã ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á
1976. Hiệp ước chỉ có 20 điều, nhưng đã dành trọn chương IV
(từ Điều 13 đến Điều 17) quy định về giải quyết tranh chấp. Để
cụ thể hóa Hiệp ước Bali và tạo điều kiện cho giải quyết tranh
chấp được nhanh chóng, không bị cản trở bởi các bên tranh chấp,
Hội nghị bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 34 tổ chức tại Hà
Nội ngày 23/10/2001 đã thông qua Quy tắc thủ tục của Hội đồng
ì _ _ 82
câp cao.
về chủ thể của tranh chấp, Hiệp ước Bali điều chỉnh việc
giải quyết tranh chấp trước hết là giữa các nước ASEAN tham
gia hiệp ước. Ngoài ra, các nước ngoài ASEAN nhưng cũng là
thành viên của Hiệp ước đông thời liên quan trực tiếp đến vụ
tranh chấp cũng có thể áp dụng Hiệp ước để giải quyết.
về đối tượng tranh chấp, Hiệp ước Bali không có điều
khoản nào về phạm vi giải quỵết tranh chấp cũng như không quy
định giải quyết loại tranh chấp nào: tranh chấp chính trị hay la
lãnh thổ, biên giới; thương mại hay văn hóa. Năm 1996, ASEAN
thông qua Nghị định thư Manila về cơ chế giải quyết tranh chấp
kinh tế, vì thế có thể cho rằng những tranh chấp khác được giải
quyêt theo Hiệp ước Bali.
Cơ quan giải quyết tranh chấp là Hội đồng cấp cao. Đây là
cơ quan không thường trực, được thành lập theo Điều 14 của
Hiệp ước Bali 1976 để giải quyết thông qua “tiến trình khu vực”.
Hội đồng cấp cao chỉ thành lập sau khi tranh chấp xảy ra.8
2
82Quy tắc này thể hiện bằng tiếng Anh tại: http://www.asean.org/3639.htm.
386
Thành phần của Hội đồng cấp cao bao gồm đại diện cấp bộ
trưởng của tất cả các nước thành viên tham gia Hiệp ước là các
nước Đông Nam Á, đồng thời bao gồm bộ trưởng của các nước
thành viên Hiệp ước không phải là các nước Đông Nam Á nhưng
liên quan trực tiếp đến vụ tranh chấp và chấp thuận sẽ giải quyết
theo tiến trình khu vực.83 Chủ tịch hội đồng sẽ là đại diện của
một quốc gia thành viên Hiệp ước đang giữ vị trí chủ tịch ủy ban
thường trực ASEAN hoặc là một đại diện khác của một quốc gia
Đông Nam Á theo quyết định của Hội đồng cấp cao.84 Hội đồng
cũng có thể thành lập những nhóm công tác trên cơ sở ad hoc (vụ
việc) nếu cần thiết để trợ giúp Hội đồng cấp cao.85
Chức năng của Hội đồng cấp cao là xem xét vụ tranh chấp
và tình hình cụ thể có khả năng đe dọa hòa bình và ổn định khu
vực. Theo Điều 15, sau khi xem xét, Hội đồng cấp cao sẽ khuyến
nghị các bên tranh chấp những biện pháp thích hợp để giải quyết
tranh chấp. Hội đồng cấp cao cũng có thể tự đứng ra làm trung
gian dàn xếp, điều tra hoặc hòa giải. Toàn bộ hoạt động của Hội
đồng cấp cao được thực hiện thông qua các cuộc họp. số đại biểu
cần thiết của các cuộc họp gồm tất cả các đại diện của Hội đồng
cấp cao.86
về quy trình giải quyết tranh chấp của Hội đồng cẩp cao,
theo Hiệp ước Bali 1976, khi phát sinh tranh chấp, các bên tranh
chấp phải cùng nhau thương lượng trực tiếp để tìm ra giải pháp.
Trong trường hợp tranh chấp không thể giải quyết bằng thương
lượng trực tiếp, các bên có thể đệ trình lên Hội đồng cấp cao để
giải quyết theo “tiến trình khu vực”. Hiệp ước Bali 1976 khuyến
khích các bên tranh chấp chù động giải quyết thông qua thương
83 Quy tắc 3 —Quy tắc thủ tục của Hội đồng cấp cao 2001.
84 Quy tắc 5 —Quy tắc thù tục cùa Hội đồng cấp cao 2001.
85 Quy tắc 24 —Quy tắc thủ tục cùa Hội đồng cấp cao 2001.
86 Quy tắc 24 - Quy tắc thù tục của Hội đồng cấp cao 2001.
387
lượng hữu nghị trước khi áp dụng các biện pháp khác theo Điều
33 của Hiến chưcmg LHQ.87
Giải quyết tranh chấp tại Hội đồng cấp cao có thể chia
thành 3 giai đoạn:
- Thông báo về tranh chấp: một quốc gia ký kết khi viện
dẫn thủ tục tố tụng của Hội đồng cấp cao sẽ thông báo bằng văn
bản qua con đường ngoại giao cho chủ tịch Hội đồng và những
quốc gia ký kết khác. Thông báo này sẽ nêu rõ (i) nguồn gốc của
tranh chấp hoặc tình thế được chuyển cho Hội đồng; (ii) các bên
tranh chấp và những yêu sách tương ứng của họ; (iii) những cơ
sở mà Hội đồng có thể dựa vào đó để xem xét vụ việc tranh chấp
hoặc tình thế phù hợp với Hiệp ước.88 ít nhất trong vòng 14 ngày
trước khi gửi thông báo như trên, bên ký kết đó phải thông báo
bằng văn bản qua kênh ngoại giao ý định làm như vậy cho quốc
gia thành viên là một bên tranh ehấp.89
- Chấp nhận giải quyết tranh chấp: Khi nhận được thông
báo bằng văn bản nói trên, vị chủ tịch sẽ tìm kiếm sự nhất trí
bằng văn bản từ phía tất cả các bên tranh chấp về việc đồng ý áp
dụng các qui tắc giải quyết tranh chấp như được quy định tại
Điều 1690 của Hiệp ước91. Dựa trên sự chấp thuận bằng văn bản
của các bên tranh chấp, chủ tịch ủy ban sẽ triệu tập một cuộc họp
của Hội đồng cấp cao trong vòng 6 tuần và thông báo cho tất cả
87 Điều 17 Hiệp ựớc Ball 1976.
88Khoản 1 quy tắc 7 - Quy tắc thủ tục của Hội đồng cấp cao 2001.
89 Khoản 2 quy tắc 7 - Quy tắc thủ tục của Hội đồng cấp cao 2001.
90 Điều 16 của Hiệp ước Bali 1976: Các điều khoản trên đây cùa Hiệp ước này
sẽ không được áp dụng đối với một cuộc tranh chấp trừ khi tất cả các bên
tranh châp đông ý áp dụng những điêu khoản đó vào tranh châp. Tuy nhiên,
điều đó không loại trừ việc các bên khác 5 tham gia Hiệp ước không phải là
một bên tranh chấp đưa ra mọi giúp đỡ có thê giải quyêt tranh châp nói trên.
Các bên tranh chấp cần có thái độ sẵn sàng đối với các đê nghị giúp đỡ đó.
91 Khoản 2 quy tắc 7 - Quy tắc thủ tục của Hội đồng câp cao 2001.
3 88
các đại diện cũng như các thành viên khác ít nhất ba tuần trước
khi diễn ra cuộc họp. Thông báo này sẽ gửi kèm với các bản sao
của các thông tin cũng như văn bản chấp thuận có liên quan.92
- Tổ chức cuộc họp của Hội đồng cấp cao để xem xét vụ
việc tranh chấp: hoạt động của Hội đồng cấp cao được tiến hành
thông qua các cuộc họp. số đại biểu cần thiết của các cuộc họp
bao gồm tất cả đại diện của Hội đồng cấp cao.93 Các bên ký kết
là những quốc gia ngoài Đông Nam Á và cũng không liên quan
trực tiếp đến tranh chấp có thể yêu cầu (bằng văn bản) Chủ tịch
cho phép cử đại diện là quan sát viên tại các cuộc họp của Hội
đồng cấp cao. Theo quy tắc 19 của Quy tắc thủ tục của Hội đồng
cấp cao 2001, tất cả các quyết định của Hội đồng cấp cao chỉ
được thông qua trên cơ sở đồng thuận tại mỗi cuộc họp được
triệu tập hợp lệ.
Nhìn về tổng thể, cơ chế giải quyết tranh chấp theo Hiệp
ước Bali 1976 còn một số điểm bất cập. Thứ nhất, cơ chế này
mang đậm tính hòa giải; quyết định của Hội đồng cấp cao chi
mang tính khuyến nghị, không có giá trị bắt buộc. Cơ quan xem
xét giải quyết là Hội đồng cấp cao (đại diện của các bên ký kết) -
một cơ quan mang tính chính trị. Thứ hai, cơ chế này được vận
hành chủ yếu dựa trên phương thức đồng thuận, khiến cho quá
trình giải quyết tranh chấp dễ bị trì trệ, kéo dài. Các bên tranh
chấp có thể cản trở việc bắt đầu cũng như hoàn tất thủ tục giải
quyết tranh chấp bằng việc thể hiện ý kiến phản đối quyết định
đưa tranh chấp ra giải quyết tại Hội đồng cấp cao, trì hoãn cử đại
diện tham gia vào Hội đồng cấp cao hoặc phủ quyết các quyết
định của Hội đồng cấp cao.
92 Quy tắc 10 - Quy tắc thù tục của Hội đồng cấp cao 2001.
93 Quy tắc 12 - Quy tắc thù tục cùa Hội đồng cấp cao 2001.
389
3.2.2. Cơ chế giải quyết tranlt chấp kinh tế của ASEAN
theo Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết
tranh chấp năm 2004
3.2.2. ỉ. Nguyên nhân ra đời Nghị định thưASEAN 2004
Với nhu cầu hợp tác mạnh mẽ về kinh tế giữa các nước
ASEAN, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ IV vào 1992
ở Singapore, các nước thành viên đã ký kết Hiệp định khung về
tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN. Hiệp định thương mại kể
trên đã đặt nền tảng cho hàng loạt các hiệp định khác trong nhiều
lĩnh vực dịch vụ, hàng hóa, thương mại, sở hữu trí tuệ, công
nghiệp... Khi hợp tác kinh tế ngày càng phát triển thì những
tranh chấp về lĩnh vực này càng dễ nảy sinh. Do đó, ASEAN cần
xây dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp về kinh tế. Đáp ứng
nhu cầu này, ngày 20/11/1996, tại Manila (Philippines), các bộ
trưởng kinh tế ASEAN, thay mặt chính phủ của 7 quốc gia:
Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và
Việt Nam đã thông qua Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh
chấp kinh tế của ASEAN (gọi tắt là Nghị định thư năm 1996).
Nghị định thư Manila 1996 là một điều ước quốc tế đặc biệt
nhằm bổ sung một điều ước “mẹ” đã được ký trước nó, đó là
Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN (được
Nghị định thư 1996 gọi tắt là Hiệp định)
So với cơ chế giải quyết tranh chấp về chính trị được thể
hiện trong Hiệp ước Bali 1976 và Quy tắc thủ tục của Hội đồng
cấp cao 2001, cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế của ASEAN
theo Nghị định thư Manila 1996 có nhiều điểm tiến bộ. Thứ nhất,
những quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp có giá trị
pháp lý ràng buộc các bên tranh chấp và đồng thời có những biện
pháp “đình chỉ ưu đãi”, bảo đảm cho việc tuân thủ quyết định
của các cơ quan giải quyết tranh chấp. Thứ hai, thủ tục tô tụng
theo Nghị định thư 1996 rõ ràng và chặt chẽ hơn, bên bị đơn
390
không có “cơ hội” để phủ nhận thẩm quyền của các cơ quan giải
quyết tranh chấp. Tuy nhiên Nghị định thư 1996 vẫn còn một số
điểm bất cập. Thứ nhất, còn tồn tại hai cơ quan giải quyết tranh
chấp quốc tế ở “hai cấp” đó là Hội nghị các quan chức cấp cao
về kinh tế (Senior Economic Officials Meeting, SEOM) và Hội
nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN {ASEAN Economic
Ministers, AEM) mà thành phần tham gia đều là đại diện cùa các
bên ký kết, vì vậy rất dễ dẫn đến việc chính trị hóa một vụ kiện
thương mại. Thứ hai, cơ chế này ủy thác quá nhiều quyền trong
quá trình giải quyết tranh chấp cho Ban hội thẩm, nhưng Ban hội
thẩm chỉ là cơ quan trợ giúp cho SEOM trong quá trình ra quyết
định chứ Ban hội thẩm không có quyền ra quyết định giải quyết
tranh chấp.
Để khắc phục những hạn chế này, ngày 29/11/2004 tại
Vientiane (Lào), các nước thành viên ASEAN đã ký kết Nghị
định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp
2004 (gọi tắt là Nghị định thư 2004) thaỵ thế cho Nghị định thư
1996. Nghị định thư năm 2004 đánh dấu một bước tiến quan
trọng trong việc phát triển cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế
hoàn hảo hơn trong khuôn khổ ASEAN. Nhìn chung, cơ chế
giải quyết tranh chấp quy định trong Nghị định thư là “bản sao”
khá trung thành của cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn
khổ WTO.94
3.2.2.2. Phạm vi giáỉ qavết tranh chẩp
Theo Điều 1 Nghị định thư 2004, Nghị định thư chỉ áp
dụng cho những tranh chấp phát sinh từ nhũng hiệp định được ký
kết trong quá trình họp tác kinh tế của ASEAN. Do vậy, khác với
cơ chế giải quyết của Hiệp ước Ball 1976, phạm vi áp dụng của
Nghị định thư 2004 không bao gồm các tranh chấp về các vấn đề
94 Xem Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, chương “Giãi quyết tranh chấp trong
WTO”, Giáo trình Luật thương mại quốc té, phần 1,2012.
391
chính trị như biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia... Cụ thể,
các tranh chấp có thể được giải quyết bởi cơ chế quy định tại
Nghị định thư 2004 bao gồm hai nhóm:
- Tranh chấp giữa các thành viên ASEAN liên quan đến
quyền và nghĩa vụ của họ theo Hiệp định khung về tăng cường
hợp tác kinh tế 1992 và được sửa đổi, bổ sung năm 1995;
- Tranh chấp phát sinh thẹo các hiệp định được ghi ờ Phụ
lục 1 của Nghị định thư này93 và các hiệp định kinh tế của
ASEAN trong tương lai (gọi tắt là: các hiệp định liên quan)
Như vậy, chỉ những tranh chấp phát sinh từ Hiệp định
khung năm 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 1995) và những
tranh chấp từ các hiệp định liên quan là đổi tượng được giải
quyết theo cơ chế của Nghị định thư 2004. Các hiệp định liên
quan bao gồm 2 nhóm hiệp định: nhóm hiệp định được liệt kê tại
Phụ lục 1 bao gồm 46 hiệp đinh và nhóm hiệp định kinh tế
ASEAN trong tương lai.
Nhiều điều khoản của Nghị định thư cho thấy, các nươc
thành viên Nghị định thư là các chủ thể tham gia vào quá trình
giải quyết tranh chấp. Đồng thời, Nghị định thư cũng cho phép
bất kỳ nước thành viên nào có quyền lợi đáng kể đối với vấn đề
được Ban hội thẩm xem xét và đã thông báo về quyền lợi của
mình cho SEOM có cơ hội được điều trần trước Ban hội thấm và
gửi bản tường trình với tư cách bên thứ ba. Bên thứ ba không có
quyền kháng cáo. Đe bảo vệ quyền lợi của mình, bên thứ ba có
thể sừ dụng trình tự giải quyết tranh chấp thông thường theo
Nghị định thư9
5
96.
Theo khoản 2 Điều 1 của Nghị định thư 2004, các quy
định và thủ tục của Nghị định thư này được áp dụng phù hợp với
các quy định và thủ tục về giải quyêt tranh chấp chuyên biệt hoặc
95 Thẹo phụ lục 1 của Nghị định thư 2004 có 46 Hiệp định
96 Điều 11 Nghị định thư 2004.
392
bổ sung khác trong các hiệp định liên quan. Quy định này khẳng
định ASEAN mong muốn có sự nhất quán giữa các cơ chế giải
quyết tranh chấp trong ASEAN. Tuy nhiên, Nghị định thư cũng
dự liệu, trong trường hợp cỏ sự khác nhau giữa các quy định và
thủ tục của Nghị định thư này với các hiệp định liên quan thì ưu
tiên áp dụng các quy định chuyên biệt hoặc bổ sung. Bên cạnh
đó, cho dù một tranh chấp có thỏa mãn yêu cầu vê chủ thê và đôi
tượng tranh chấp thì Nghị định thư 2004 cũng không hạn chê
việc các nước thành viên sử dụng các diên đàn khác đê giải quyêt
tranh chấp. Các bên ưanh chấp có thể sử dụng các diên đàn giải
quyết tranh chấp khác ở bất cứ giai đoạn nào trước khi một bên
yêu cầu Hội nghị quan chức kinh tế cấp cao (SEOM) thành lập
Ban hội thẩm.97
3.2.2.3. Cơ quan giải quyết tranh chấp
- Hội nghị quan chức kinh tế cấp cao
SEOM bao gồm các viên chức kinh tế cấp cao của các
quốc gia thành viên, họp thường kỳ 2 - 3 tháng một lân. Như
vậy, thành phần của SEOM là tất cả đại diện của các thành
viên ASEAN.
SEOM nhận thông báo tham vấn của bên khởi kiện (khoản
3 Điều 3), thành lập và quyết định các thành viên của Ban hội
thâm (khoản 1 Điều 1), thông qua các báo cáo của Ban hội thâm
và cơ quan phúc thẩm (khoản 1 Điều 9 và khoản 5 Điều 12), xây
dựng quy chế hoạt động của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thâm
(khoản Điều 12); đồng thời theo dõi quá trình thực thi các
khuyến nghị và phán quyết. Khi theo dõi việc thực hiện các
khuyến nghị và phán quyết, SEOM có thẩm quyển cho phép một
bên tranh chấp tạm hoãn thi hành nhượng bộ thương mại trong
khuôn khổ ASEAN nếu thấy cần thiết.
- Ban hội thẩm
97 Khoản 3 Điều 1 Nghị định thư 2004.
393
Chức năng của Ban hội thẩm được quy định tại Điều 7 của
Nghị định thư 2004, theo đó Ban hội thẩm sẽ: (i) đánh giá một
cách khách quan tranh chấp (bao gồm cả việc xem xét các tình
tiết liên quan đến vụ tranh chấp, việc áp dụng và tuân thủ các
điều khoản của Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế
ASEAN hoặc bất kỳ hiệp định liên quan nào và (ii) đưa ra kết
luận và khuyến nghị liên quan đến vụ việc. Ban hội thẩm là một
cơ quan ad hoc bao gồm các cá nhân có năng lực tốt, có kiến
thức đa dạng và kinh nghiệm rộng rãi, được chọn lựa với mục
đích bảo đảm sự độc lập của các thành viên. Vì vậy, công dân
của các thành viên là các bên tranh chấp không được tham gia
vào Ban hội thẩm, trừ khi các bên tranh chấp thỏa thuận khác.98
Ban hội thẩm được đề cừ từ danh sách hội thẩm viên lập theo
giới thiệu của các quốc gia thành viên. Trong quá trình lựa chọn
thành viên cho Ban hội thẩm, công dân các nước thành viên
ASEAN sẽ được ưu tiên lựa chọn.99
Ban thư ký ASEAN là cơ quan duy trì danh sách các hội
thẩm viên và có thẩm quyền đề cử thành phần Ban hội thẩm
trong từng vụ việc. Các bên tranh chấp không được phản đối các
hội thẩm viên được đề cử trừ khi có những lý do bắt buộc. Tiếp
theo đó, Ban thư ký sẽ thông báo đến các nước thành viên ngay
sau khi Ban hội thẩm được thành lập. Trong vòng 20 ngày kể từ
ngày SEOM quyêt định thành lập Ban hội thẩm mà không có sự
nhất trí về thành viên của Ban hội thẩm, theo yêu cầu của bất kỳ
bên tranh chấp nào, danh sách Ban hội thẩm sẽ được chỉ định bởi
Tổng thư ký ASEAN, sau khi Tổng thư ký tiến hành tham vấn
với chủ tịch SEOM và tham khảo ý kiến của các quốc gia liên
quan. Trong vòng 10 ngày kê từ ngày nhận được yêu cầu, Ban
thư ký ASEAN phải thông báo cho các nước thành viên.
Một Ban hội thấm thường bao gồm 3 thành viên. Tuy
nhiên, nếu trong vòng 10 ngày kể từ ngày thành lập Ban hội
98 Điều 1, 2, 3, mục I - Phụ lục II .
99 Điều 1 mục I - Phụ lục II.
394
thẩm, các bên tranh chấp thống nhất được với nhau thì thành
phần Ban hội thẩm có thể gồm 5 thành viên.
- Cơ quan phúc thấm
Cơ quan phúc thẩm là cơ quan giải quyết tranh chấp
thường trực, về thành phần, Cơ quan phúc thẩm của ASEAN
gồm 7 thành viên do các bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM) bổ
nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm và có thể bổ nhiệm lại một lần. Mỗi
vụ kháng cáo được xét xừ bởi 3 trong số 7 thành viên của Cơ
quan phúc thẩm. Quy trình chỉ định 3 thành viên này được thực
hiện trong từng vụ tranh chấp theo quy tắc luân phiên được quy
định tại Quy chế làm việc của Cơ quan phúc thẩm.100
Khác với các thành viên của Ban hội thẩm, không có sự
phân biệt đối với thành viên của Cơ quan phúc thẩm dựa trên
quốc tịch. Tuy nhiên, khi hoạt động, các thành viên này phải
hoàn toàn độc lập với chính phủ mình.1
01
về chức năng, cơ quan phúc thẩm chỉ xem xét và giải
quyết từng vấn đề pháp lý được đề cập trong báo cáo của Ban hội
thẩm và các giải thích pháp lý của Ban hội thẩm.102
3.2.2.4. Ouy trình giải quyết ừ-anh chấp
Theo Nghị định thư 2004, quy trình giải quyết tranh chấp có
thể được chia làm ba giai đoạn chính: giai đoạn tham vấn, giai
đoạn xem xét của Ban hội thẩm và thông qua báo cáo của Ban hội
thẩm (và Cơ quan phúc thẩm, nếu có), giai đoạn thực hiện các
khuyến nghị của Ban hội thẩm (hoặc Cơ quan phúc thẩm nếu có).
a. Tham vấn
Cơ chế giải quyết tranh chấp theo Nghị định thư 2004 bắt
đầu bằng quá trình tham vấn. Đây là giai đoạn mang tính bắt
100 Khoản 1 Điều 12 Nghị định thư 2004.
1
01 Khoản 3 Điều 12 Nghị định thư 2004.
102 Khoản 6 Điều 12 Nghị định thư 2004.
395
buộc của thủ tục giải quyết tranh chấp, nhằm tạo cơ hội cho các
bên giải quyết tranh chấp thông qua con đường ngoại giao để đạt
được sự thỏa thuận có lợi cho cả hai bên. ASEAN khẳng định rõ
ưu tiên “tạo cơ hội thỏa đáng” cho việc giải quyết tranh chấp
bằng đàm phán. Đe đảm bảo hiệu quả và tính chặt chẽ của thủ
tục tham vấn, Nghị định thư 2004 đưa ra những quy định về thủ
tục tiến hành tham vấn và thời hạn tham vấn.
về yêu cầu tham vẩn, khoản 2 và 3 Điều 3 của Nghị định
thư 2004 khẳng định: nước thành viên nào cho là bất kỳ lợi ích
trực tiếp hoặc gián tiếp nào của mình theo hiệp định hoặc hiệp
định liên quan bị mất mát hoặc tổn hại, hoặc việc đạt được bất cứ
mục tiêu nào của hiệp định hoặc hiệp định liên quan đang bị cản
trở do việc nước thành viên khác không thực hiện các nghĩa vụ
của mình theo hiệp định hoặc hiệp định liên quan, hoặc trong
mọi tình huống khác, có thể nêu ý kiến phản đối hoặc đề xuất với
nước thành viên liên quan nhằm mục tiêu giải quyết thỏa đáng
vấn đề. Mọi yêu cầu tham vấn phải được thông báo cho SEOM.
Yêu cầu phải được làm bằng văn bản nêu rõ lý do yêu cầu, xác
định các vấn đề cần tham vấn và cơ sở pháp lý của khiếu nại.
về thời hạn tham vấn, trong vòng 10 ngày sau khi nhận
được yêu câu, thành viên liên quan phải trả lời yêu câu và phải
tiến hành tham vấn trong vòng 30 ngày sau.103 Tuy nhiên, trong
trường hợp khẩn cấp, bao gồm các trường hợp liên quan đến
hàng hóa dễ hư hỏng, các bên phải nỗ lực tối đa để giải quyết
sớm các tranh chấp.104
Nếu tham vấn không đạt được kết quả (cụ thể: bên được
yêu cầu tham vấn không trả lời trong khoảng thời gian 10 ngày
sau khi nhận yêu câu; hoặc bên được yêu câu tham vân không
tham gia tham vân trong vòng 30 ngày sau khi nhận yêu câu; hay
tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong vòng 60 ngày
1
03 Khoản 4 Điều 3 Nghị định thư 2004.
1
04 Khoản 5 Điều 3 Nghị định thư 2004.
396
kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn), tranh chấp sẽ được
trình lên SEOM, nếu bên yêu cầu khiếu nại đề nghị thành lập
Ban hội thẩm.105
Bên cạnh thủ tục tham vấn, các bên có thể giải quyết tranh
chấp thông qua các biện pháp ngoại giao khác như trung gian,
hòa giải vào bất cứ thời điểm nào của quá trình giải quyết tranh
chấp. Để hồ trợ các bên tranh chấp, khi họ thỏa thuận giải quyết
thông qua trung gian, hòa giải, Tổng thư ký ASEAN mặc nhiên
đóng vai trò là người trung gian, hòa giải.106
b. Giải quyết tranh chấp trước Ban hội thẩm, SEOM và cơ
quan phúc thẩm
- Trình tự giải quyết tranh chấp của Ban hội thẩm
+ Thành lập Ban hội thẩm
Yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải bằng văn bản và gửi
cho SEOM. Vê nội dung, ngoài việc chỉ rõ kêt quả tham vân, yêu
cầu thành lập phải xác định biện pháp cụ thể gây tranh cãi và
cung cấp ngắn gọn, rõ ràng về cơ sở pháp lý của đơn kiện.107
Ngoài ra, nếu bên khiếu nại yêu cầu thành lập Ban hội thẩm với
quy chế làm việc khác với quy chế làm việc chuẩn, văn bản yêu
cầu thành lập Ban hội thẩm phải bao gồm nội dung dự thảo của
Quy chế làm việc đặc biệt đó.
Khi có nhiều hơn một thành viên yêu cầu thành lập Ban
hội thẩm để xem xét cùng một vấn đề, một Ban hội thẩm duy
nhất có thể được thành lập để xem xét những đơn kiện này. Nếu
điều này không đạt được và có nhiều Ban hội thẩm được thành
lập, các Ban hội thẩm riêng biệt này sẽ có cùng thành viên và
khung thời gian để giải quyết các tranh chấp đó sao cho phù
105 Khoản 1 Điệu 5 Nghị định thư 2004.
106 Khoản 3 Điệu 4 Nghị định thư 2004.
107 Khoản 3 Điều 5 Nghị định thư 2004.
397
hợp.108 Quy định này nhàm tránh các quyết định về cùng một vấn
đề nhưng lại mâu thuẫn nhau.
Sau khi nhận được yêu cầu của bên khiếu nại, SEOM sẽ
ngay lập tức tổ chức một cuộc họp để thành lập Ban hội thẩm,
trừ khi có sự đồng thuận của SEOM không làm như vậy.109Nếu
cuộc họp của SEOM không được tổ chức trong vòng 45 ngày kê
từ ngày nhận được yêu câu, Ban hội thâm sẽ được thành lập băng
cách gừi quyết định thành lập đến tất cả các thành viên của
SEOM.110 Do vậy, việc thành lập Ban hội thẩm trong cả hai
trường hợp sẽ không vượt quá 45 ngày.
+ Hoạt động của Ban hội thẩm
Ban hội thẩm có thể hoạt động theo thủ tục tố tụng tại Phụ
lục II của Nghị định thư 2004 hoặc xây dựng các thù tục tố tụng
của riêng mình trên cơ sở xem xét quyền lợi của các bên tham
gia và ý kiến của họ111. Thủ tựG tố tụng của Ban hội thẩm được
tiến hành bí mật. Những cuộc thảo luận của Ban hội thẩm cũng
như những giải trình bằng văn bản của các bên sẽ được giữ bí
mật. Tuy nhiên, các bên tranh chấp có nghĩa vụ cung cấp bản
tóm tăt những thông tin mà mình cho là bảo mật đê có thê công
bố công khai theo yêu cầu của phía bên kia.112
Thông thường, thủ tục xem xét của Ban hội thẩm trải qua
hai bước, ơ bước thứ nhất, các bên tranh chấp sẽ gửi cho Ban
hội thẩm văn bản giải trình trong đó trình bày chi tiết vấn đề
tranh châp và những lập luận của mình. Sau đó, Ban hội thẩm sẽ
108Điều 10 Nghị định thư 2004.
109 Khoản 1 Điều 5 Nghị định thư 2004. Đây là một nguyên tắc mới của
ASEAN, theo đó một quyết định chi không được thông qua khi tất cà thành
viên SEOM bõ phiếu không thông qua. Nguyên tắc này khắc phục hạn chê
của nguyên tắc ‘ đồng thuận”, tạo điều kiện cho những quyết định giải quyết
tranh chấp của ASEAN được thông qua và thông qua nhanh chóng.
110Khoản 2 Điều 5 Nghị định thư 2004.
1
1
1 Khoản 1 Điều 8 Nghị định thư 2004.
112Điều 3 mục II Phụ lục II.
398
tổ chức cuộc họp chính thức lần thứ nhất với các bên. Tại cuộc
họp này, bên khởi kiện trình bày quan điểm trước, bên bị kiện
trình bày sau. Bước thứ hai bắt đầu bằng việc Ban hội thẩm nhận
văn bản đệ trình biện hộ hay phản bác của các bên. Sau đó, Ban
hội thẩm tổ chức cuộc họp lần 2, bên bị kiện sẽ được trình bày
quan điểm của mình trước.113 Các bên phải cung cấp cho Ban hội
thẩm toàn bộ nội dung phát biểu của mình bằng văn bản. Như
vậy, theo quy định của Nghị định thư, cuộc họp chính thức giữa
Ban hội thẩm với các bên chỉ được tiến hành hai lần. Đe có thể
có được một kết luận chuẩn xác về nội dung tranh chấp, bất kỳ
lúc nào, Ban hội thẩm cũng có thể đặt câu hỏi và đề nghị các bên
giải trình vào bất cứ lúc nào, hoặc tại các cuộc họp, hoặc bằng
văn bản, đồng thời các thông tin này phải được cung cấp cho bên
tranh chấp còn lại rõ.114
Sau đó, Ban hội thẩm sẽ dự thảo một báo cáo tạm thời và
gừi cho các bên, các bên tranh chấp có cơ hội cho ý kiến về bản
báo cáo tạm thời này. Sau khi xem xét các ý kiến của các bên
tranh chấp, Ban hội thẩm sẽ soạn thảo báo cáo chính thức và
chuyển cho SEOM để thông qua. Theo khoản 2 Điều 8 của Nghị
định thư 2004, thời gian điều tra, xem xét nội dung vụ việc và
lập bản báo cáo của Ban hội thẩm là 60 ngày, hoặc 70 ngày trong
trường hợp ngoại lệ, kể từ ngày Ban hội thẩm được thành lập.
- SEOM thông qua báo cáo cùa Ban hội thẩm
Sau khi Ban hội thẩm chấm dứt những hoạt động kể trên,
trong vòng 30 ngày kể từ ngày Ban hội thẩm trình báo cáo,
SEOM sẽ thông qua báo cáo của Ban hội thẩm, trừ khi một bên
tranh chấp chính thức thông báo cho SEOM về quyết định kháng
cáo của mình hoặc SEOM đồng thuận quyết định không thông
qua báo cáo.
113 Điều 7 mục II Phụ lục II.
114 Điều 8 mục II Phụ lục II.
399
cần lưu ý rằng, SEOM là cơ quan không thường trực và
chỉ nhóm họp từ 2 đến 3 tháng một lần. Nghị định thư 2004 dự
liệu, nếu trong khoảng thời gian 30 ngày không có cuộc họp nào
của SEOM được lên kế hoạch để xem xét thông qua báo cáo của
Ban hội thẩm, việc thông qua báo cáo sẽ được thực hiện bằng
cách gửi văn bản để lấy ý kiến của tất cả các nước thành viên.
Việc không trả lời sẽ được coi là đồng ý mặc nhiên.
- Giải quyết tranh chấp tại cơ quan phúc thẩm
Cơ quan phúc thẩm chỉ có thể đánh giá các vấn đề pháp lý
trong quyết định của Ban hội thẩm và các lý do hỗ trợ cho quyết
định đó. Ngay sau khi thông báo kháng cáo được đệ trình cho
Cơ quan phúc thẩm, Cơ quan phúc thẩm sẽ cử một nhóm gồm 3
thành viên xem xét vụ việc. Kể từ ngày bên kháng cáo thông báo
chính thức về quyết định kháng cáo đến ngày Cơ quan phúc
thẩm trình báo cáo, thời hạn không quá 60 ngày và chậm nhất
không quá 90 ngày (trong trường họp ngoại lệ). Thời hạn này có
thể ngắn hơn trong các trường hợp khẩn cấp, có liên quan đến
hàng hóa dễ hư hỏng.115
Tương tự như Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm dự thảo
báo cáo mà không có sự hiện diện của các bên tranh chấp và chỉ
dựa vào bản giải trình và những thông tin do các bên cung cấp.116
Cơ quan phúc thẩm có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc bác bỏ các
kết luận và khuyến nghị của Ban hội thẩm.117 Sau khi hoàn
thành, báo cáo của Cơ quan phúc thẩm sẽ được trình lên SEOM
để thông qua.
Tương tự như thông qua báo cáo của Ban hội thẩm, khi
thông qua báo cáo của Cơ quan hội thẩm, nguyên tắc đồng
thuận nghịch được áp dụng. Do đó, trừ khi có sự đồng thuận
của SEOM chống lại việc thông qua báo cáo này, báo cáo sẽ
115 Khoản 5 Điệu 3 và khoăn 5 Điều 12 Nghị định thư 2004.
116 Khoản 9 Điềụ 12 Nghị định thư 2004.
117 Khoản 12 Điều 12 Nghị định thư 2004.
4 0 0
được tự động thông qua trong vòng 30 ngày.118 Trong trường
hợp SEOM không tổ chức được cuộc họp để thông qua báo cáo
trong vòng 30 ngày kể từ ngày bảo cáo được gửi đến các nước
thành viên, việc thông qua được thực hiện bằng cách gửi thông
báo đến các nước thành viên. Trong trường hợp này, việc thông
qua báo cáo cũng không vượt quá thời hạn 30 ngày. Khi được
thông qua, báo cáo của Cơ quan phúc thẩm có giá trị ràng buộc
các bên tranh chấp.
c. Thi hành và các biện pháp bảo đảm thi hành kết luận và
khuyến nghị được SEOM thông qua
về thời hạn thực hiện các kết luận và khuyến nghị được
SEOM thông qua, theo Nghị định thư 2004, trong vòng 60 ngày
kể từ ngày SEOM thông qua các kết luận và khuyến nghị hoặc
của Ban hội thẩm hoặc của Cơ quan phúc thẩm, bên thua kiện
phải tuân thủ các kết luận và khuyến nghị đó, trừ khi các bên
tranh chấp đồng ý kéo dài thời gian thực hiện.119 Trong trường
hợp một bên tranh chấp yêu cầu kéo dài thời gian thực hiện
khuyến nghị, bên còn lại sẽ chấp nhận trừ khi có lý do hợp lý để
từ chối. Thời hạn kéo dài phải do các bên thỏa thuận trong vòng
14 ngày kể từ ngày SEOM thông qua các kết luận và khuyến
nghị trong báo cáo của Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm.
về tính phù hợp cùa việc thực thi các kết luận và khuyến
nghị được SEOM thông qua, theo quy định tại khoản 5 Điều 2,
nếu các bên không thống nhất về sự tồn tại hoặc tính phù hợp với
hiệp định liên quan của các biện pháp được thực thi nhằm tuân
thủ các két luận và khuyến nghị trong báo cáo của Ban hội thẩm
hoặc cơ quan phúc thẩm đã được SEOM thông qua, vụ việc có
thể được xem xét bởi một Ban hội thẩm, kể cả Ban hội thẩm đã
xem xét vụ việc từ ban đầu. Nghị định thư cũng quy định thêm
rằng, Ban hội thẩm có thẩm quyền sẽ trình báo cáo trong vòng 60
1,8 Khoản 13 Điều 12 Nghị định thư 2004.
119 Khoản 1 Điều 15 Nghị định thư 2004
401
ngày hoặc chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày tranh chấp được đệ
trình. Trong trường họp chậm trễ, Ban hội thẩm phải thông báo
bằng văn bản cho SEOM về lý do của sự chậm trễ và dự kiến
thời hạn trình báo cáo.
Cần lưu ý rằng, Ban hội thẩm làn này không xem xét về
nội dung vụ việc mà chỉ xác định xem bên thua kiện có thực hiện
khuyến nghị hay không và việc thực hiện khuyến nghị đó có phù
hợp với các hiệp định liên quan của ASEAN hay không. Việc
giải quyết tranh chấp này phải theo thủ tục quy định tại Nghị
định thư 2004, do đó Ban hội thẩm chỉ được thành lập khi các
bên tranh chấp có yêu cầu.
Nếu các biện pháp thực thi kết luận và khuyến nghị không
được tiến hành đúng thời hạn, bên đi kiện có quyền hưởng bồi
thường hoặc áp dụng các biện pháp trả đũa thương mại. cần nhìn
nhận răng, bôi thường và trả đũa thương mại hoặc các nghĩa vụ
khác là các biện pháp khắc phục tạm thời khi bên thua kiện
không thực hiện các kết luận và khuyến nghị trong báo cáo của
Ban hội thâm hoặc cơ quan phúc thẩm đã được SEOM thông qua
theo khoản 2 Điêu 16, bên thua kiện phải tiến hành thương lượng
với bên khởi kiện, nhằm thỏa thuận mức đền bù thỏa đáng cho cả
hai bên.
Trong trường hợp các bên không thể thống nhất về biện
pháp bôi thường trong thời hạn 20 ngày kể từ khi kết thúc thời
hạn thực hiện các kêt luận và khuyến nghị, theo yêu cầu của
bên đi kiện, SEOM sẽ ra quyết định cho phép bên đi kiện có
thê áp dụng các biện pháp trả đũa thương mại thông qua việc
tạm dừng các ưu đãi.120 Theo quy định tại khoản 3(a), 3(b) và
3(c) Điều 16, bên đi kiện có thể thực hiện trả đũa thương mại
với ba cấp độ sau:
- Tạm ngừng ưu đãi và những nghĩa vụ khác trong cùng
lĩnh vực mà Ban hội thâm hoặc cơ quan phúc thẩm xác định có
120 Khoản 6 Đ iều 16 —N gh ị định thư 2004.
402
vi phạm. Điều này cho thấy, việc trả đũa chỉ được thực hiện
trong phạm vi lĩnh vực liên quan đến vụ kiện. Theo khoản 3 Điều
16, đối với hàng hóa, “lĩnh vực” chỉ tất cả các loại hàng hóa; đối
với dịch vụ “lĩnh vực” chỉ một lĩnh vực chính được xác định
trong lộ trình cam kết hiện nay của Hiệp định khung ASEAN về
dịch vụ.
- Nếu thấy việc tạm ngừng ưu đãi trong lĩnh vực liên
quan đến vụ kiện là không hiệu quả hoặc không thực tế, bên đi
kiện có thể tạm ngừng ưu đãi trong những lĩnh vực khác của
cùng hiệp định.
- Nếu bên đi kiện vẫn thấy việc tạm ngừng ưu đãi là không
hiệu quả hoặc không thực tế, đồng thời nếu tình hình “thực sự
nghiêm trọng” thì có thể tạm ngừng ưu đãi theo một hiệp định
khác. Trường hợp này còn được gọi là trả đũa chéo. Khoản 3
Điều 16 giải thích thuật ngữ “hiệp định” được hiểu là toàn bộ các
hiệp định liên quan đến hàng hóa được liệt kê tại Phụ lục I của
Nghị định thư 2004121 và Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ và
các nghị định thư kèm theo, càn lưu ý ràng, mức độ tạm ngừng
ưu đãi hoặc các nghĩa vụ khác phải tương đương với mức độ
quyền lợi bị mất hoặc tổn hại.122
3.2.3. Cơ chế giải quyết tranh chấp theo Nghị định thư
2010
3.2.3.1. Nguyên nhân ra đời cùa Nghị định thư 2010
Hiến chương ASEAN 2007 đã dành trọn chương VIII (từ
Điều 22 đến Điều 28) cho việc đưa ra các nguyên tắc, cách thức
chung về giải quyết tranh chấp quốc tế. Trong đó, ASEAN khẳng
định: ASEAN sẽ duy trì và thiết lập các cơ chế giải quyết tranh
121 T h eo phụ lục I của N g h ị định thư 2 0 0 4 , danh m ục các hiệp định liên quan
gôm 4 6 hiệp định.
122 K hoản 4 Đ iều 16 —N gh ị định thư 2004.
403
chấp trong tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN.123 Điều 25
Hiến chưcmg ASEAN còn khẳng định sẽ thiết lập các cơ chế giải
quyêt tranh châp phù họp, bao gồm cả hình thức trọng tài, đê giải
quyết những tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp
dụng Hiến chương hoặc các văn kiện khác của ASEAN, trừ khi
có quy định khác. Ngày 04/08/2010, các nước ASEAN đã thông
qua Nghị định thư của Hiến chương ASEAN về cơ chế giải
quyết tranh chấp124(Nghị định thư 2010).
3.2.3.2. Phạm vi giải quyết tranh chấp theo Nghị định thư
2010
Điều 2 của Nghị định thư 2010 ghi nhận, Nghị định thư
chi áp dụng giải quyết các tranh chấp liên quan đến giải thích
hoặc áp dụng Hiến chương ASEAN và các văn kiện pháp lý
khác của ASEAN. Điều 2 của Nghị định 2010 chỉ rõ, văn kiện
pháp lý khác của ASEAN gồm các văn kiện có quy định các
phương thức giải quyết tranh chấp đặc thù. Ví dụ Hiệp ước
Bali về giải quyết tranh chấp chính trị năm 1976 và các văn
kiện trong đó có quy định rõ sẽ áp dụng toàn bộ hoặc một
phần của Nghị định thư này.
3.2.3.3. Thù tục giải quyết tranh chấp theo Nghị định thư
ASEAN 2010
Quy trình giải quyết tranh chấp của Nghị định thư 2010 có
thể chia làm 3 giai đoạn chính: giai đoạn tham vấn, giai đoạn
xem xét của Hội đồng trọng tài hoặc Hội đồng điều phối ASEAN
(nếu bên bị đơn không đồng ý thành lập Hội đồng trọng tài), giai
đoạn thực hiện phán quyết của trọng tài và thỏa thuận giải quyêt
tranh chấp.
123 Khoản 2 Đ iều 22, H iến chưong A S E A N .
124 C ó thể đọc toàn bộ nội dung cùa N gh ị định thư 20 1 0 tại:
http://cil.nus.edu.sg/20l 0/2010-protocol-to-the-asean-charter-on-dispute-
settlem ent-m echanism s/
404
a. Tham vấn
Tương tự như các Nghị định thư trước đó, tham vấn là giai
đoạn bắt buộc của thủ tục giải quyết tranh chấp. Quá trình tham
vấn được tiến hành trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được
yêu cầu tham vấn. Tổng quỹ thời gian cho giai đoạn tham vấn là
90 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn trừ khi các bên
có thỏa thuận khác125. Điều này cho thấy, thời hạn dành cho giai
đoạn tham vấn theo Nghị định thư 2010 là rất dài so với thời hạn
này được quy định trong Nghị định thư 2004 (chỉ có 30 ngày).
Nếu trong thời hạn này, tham vấn không đạt được kết quả (bị
đơn không trả lời trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu
cầu tham vấn; bị đơn không bước vào tham vấn trong vòng 60
ngày sau khi nhận được yêu cầu tham vấn; trong vòng 90 ngày
hoặc bất kỳ thời hạn nào mà các bên ưanh chấp thỏa thuận kể từ
ngày nhận được yêu cầu tham vấn, tranh chấp vẫn không giải
quyết được), bên nguyên đơn có quyền yêu cầu thành lập Hội
đồng trọng tài.
Tương tự như Nghị định thư 1996 và 2004, theo Nghị
định thư 2010, tranh chấp cũng có thể được giải quyết thông
qua môi giới, trung gian, hòa giải. Các biện pháp này được bắt
đầu và kết thúc bất kỳ lúc nào theo sự thỏa thuận của các bên
tranh chấp. Chủ tịch ASEAN hoặc Tổng thư ký ASEAN sẽ
đóng vai trò môi giới, trung gian hoặc hòa giải.126 Các bên tranh
châp được tự do thỏa thuận lựa chọn các biện pháp ngoại giao
nàỵ. Tuy nhiên, nếu các bên sừ dụng các biện pháp này và tranh
chấp được giải quyết thì các bên phải ký một văn bản thỏa
thuận về kết quả đạt được. Lúc này, tranh chấp sẽ chấm dứt,
đông thời các bên bị ràng buộc bởi thỏa thuận đó. Đây là điểm
mới của Nghị định thư 2010 nhằm mong muốn nhanh chóng
giải quyết dứt điểm các tranh chấp thông qua nhiều biện pháp,
đặc biệt biện pháp “phi tài phán”.
125 Đ iều 5 N gh ị định thư 2 0 1 0 .
126 Đ iều 6 N gh ị định thư 2 0 1 0 .
405
Khi tham vấn và các biện pháp môi giới, trung gian, hòa
giải (nếu được các bên thỏa thuận áp dụng) không giải quyết
được tranh chấp, nguyên đơn có thể yêu cầu thành lập Hội đồng
trọng tài để giải quyết tranh chấp. Lúc này, nếu bị đơn, không
chấp thuận thành lập Hội đồng trọng tài hoặc không trả lời yêu
cầu thành lập trọng tài của nguyên đơn, trong vòng 15 ngày kể từ
ngày nhận được thông báo của bên nguyên đơn, nguyên đơn có
thể đệ trình vụ tranh chấp đến Hội đồng điều phối ASEAN. Nêu
bên bị đơn chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, trong 30 ngày kể
từ ngày bên nguyên đơn nhận được trả lời chấp thuận thành lập
trọng tài từ phía bị đơn, các bên sẽ tiến hành thành lập Hội đồng
trọng tài.127
Ngoài ra, trọng tài cũng có thể được yêu cầu giải quyết
tranh chấp từ định hướng của Hội đồng điều phối ASEAN. Ở
trường hợp này, Hội đồng trọng tài sẽ bắt đàu quá trình thành lập
trong vòng 45 ngày, kể từ ngày các bên nhận được thông báo từ
hội đồng điều phối ASEAN về việc giải quyết tranh chấp bằng
Hội đồng trọng tài.
b. Giải quyết tranh chấp tại Hội đồng điều phối ASEAN và
Hội đồng trọng tài
- Thủ tục giải quyết tại Hội đồng điều phổi ASEAN
Hội đồng điều phối ASEAN là một trong 9 cơ quan chính
của ASEAN, bao gôm các bộ trường ngoại giao của tất cả các
nước thành viên ASEAN, họp ít nhất hai lần một năm.128
Khi nhận được yêu cầu của bên nguyên đơn, chủ tịch Hội
đồng điều phối ASEAN sẽ xác định các thủ tục của Hội đồng,
bao gồm tư vấn qua thư, email, video của hội nghị hoặc các
phương thức khác. Trong trường hợp đặc biệt, Hội đồng điều
phối có thể triệu tập cuộc họp khẩn cấp để bày tỏ ý kiến của
127 Khoản 2 Đ iều 1 Phụ lục IV của N ghị định thu 2010.
128 Đ iều 8 Hiến ch u ôn g A S E A N .
406
mình về vụ tranh chấp.129 Sau khi xem xét, Hội đồng điều phối
có thể đi đến quyết định đề nghị các bên tranh chấp giải quyết
các tranh chấp giữa họ thông qua môi giới, trung gian, hòa giải
hoặc trọng tài.130
Thời gian để hội đồng điều phối ASEAN thông báo quyết
định của mình cho các bên tranh chấp là 45 ngày (hoặc 75 ngày
nếu Hội đồng điều phối gia hạn thêm) kể từ ngày tranh chấp
được chuyển tới Hội đồng.131 Hết thời hạn này, nếu Hội đồng điều
phối ASEAN không đưa ra được một quyết định nào về việc giải
quyết tranh chấp, thi một ừong các bên tranh chấp có thể đưa vụ
hanh chấp ra Hội nghị cấp cao ASEAN giải quyết.
Nhìn tổng thể, theo quy định của Nghị định thư ASEAN
2010, Hội đồng điều phối ASEAN không trực tiếp giải quyết tranh
chấp giữa các bên mà chi đóng vai ữò “hướng dẫn” các bên giải
quyết tranh chấp bằng một biện pháp cụ thể. Nếu các bên tranh
châp đông ý với sự chỉ dẫn này của Hội đồng điêu phôi, thì trình tự,
thời hạn để giải quyết bằng từng biện pháp cụ thể đó sẽ tuân theo
các phụ lục tương ứng: phụ lục I (quy định về môi giới), phụ lục II
(quy định vê trung gian), phụ lục III (quy định về hòa giải), phụ lục
IV (quy định về trọng tài) của Nghị định thư ASEAN 2010. Những
quyêt định của Hội đồng điều phối ASEAN chỉ mang tính khuyến
nghị đôi với các bên tranh chấp.
- Giải quyết tranh chấp tại Hội đồng trọng tài
Hội đồng trọng tài được thành lập trên cơ sở thỏa thuận trực
tiêp của các bên tranh chấp hoặc theo định hướng của Hội đông
điều phối ASEAN.
về thành phần, Hội đồng trọng tài gồm 3 trọng tài viên, trong
đó mỗi bên tranh chấp chỉ định một trọng tài viên, đồng thời các
bên tranh chấp thỏa thuận đề cử trọng tài viên thứ ba làm chủ tịch
129 K hoản 2 Đ iệu 9 N g h ị định thư 2 0 0 4 .
130 K hoản 1 Đ iều 9 N g h ị định thư 2 0 0 4 .
131 K hoản 2 và 3 Đ ỉều 9 N gh ị định thư 2 0 0 4 .
4 0 7
Hội đồng trọng tài. Các trọng tài viên này được lựa chọn từ danh
sách trọng tài viên do Tổng thư ký ASEAN lưu giữ. Mỗi quốc gia
thành viên được đề cừ tối đa 10 người vào danh sách trọng tài
• - >1 3 2
viên.
về phạm vi và thời gian hoạt động, Hội đồng ừọng tài phải
tuân thủ quy định liên quan của Nghị định thư ASEAN 2010 và phụ
lục 4 (về quy định trọng tài). Tuy nhiên, Hội đồng trọng tài có thể
sửa đổi thủ tục này dựa trên sự thỏa thuận của các bên tranh chấp
phù họp với Điều 8 của phụ lục 4. Điều này thể hiện tính mềm dẻo
của hình thức trọng tài. Thòi gian hoạt động của Hội đồng trọng tài
không vượt quá 6 tháng, kể từ ngày thành lập cho đến ngày cuối
cùng của phiên họp, trừ khi các bên tranh chấp thỏa thuận kéo dài.
Tưong tự như các trọng tài quốc tế khác, thủ tục giải quyết
tranh chấp của Hội đồng trọng tài có thể chia thành 2 giai đoạn
chính kế tiếp nhau: tố tụng viết và tố tụng nói. Ở giai đoạn viết, mỗi
bên tranh chấp gửi văn bản cho Hộfđồng trọng tài, trong đó nêu các
sự kiện và lý lẽ của mình về vấn đề tranh chấp. Thời hạn để nộp
những văn bản này được ghi nhận trong thòi gian biểu do Hội đồng
trọng tài xác lập trong vòng 15 ngày kể từ ngày Hội đồng trọng tài
được thành lập. cần lưu ý rằng, để đảm bảo cân bằng lợi ích họp
pháp của các bên tranh chấp, đồng thời tôn trọng sự thỏa thuận của
họ, trong suốt thời gian tiến hành tố tụng, Hội đồng trọng tài phải
thường xuyên tham khảo ý kiến của các bên tranh chấp, tạo cơ hội
thích họp cho việc tìm kiếm một giải pháp mà các bên tranh chấp
thỏa thuận.*
133Ở giai đoạn nói, khoản 4 Điều 8 phụ lục 4 khẳng định
Hội đồng trọng tài phải dành ít nhất một buổi để các bên tranh chấp
trình bày quan diêm của mình trước Hội đồng.
Phán quyết của Hội đồng trọng tài được thông qua bằng đa
số phiếu, trường hợp không có đa số, phiếu của chủ tịch hội đồng
trọng tài có tính quyết định. Phán quyết của Hội đồng trọng tài được
1,2 Đ iều 1 phụ lục 4 của N ghị định thư 2010.
133 Khoản 5 Đ iều 8 phụ lục 4.
408
tất cả các ừọng tài viên ký, nếu thiếu chữ ký của trọng tài viên nào
phải nêu rõ lý do. Phán quyết phải được thông báo cho các bên
tranh chấp và Tổng thư ký ASEAN. Neu Hội đồng trọng tài được
thành lập theo chỉ dẫn của Hội đồng điều phổi ASEAN thì phán
quyết phải được thông báo tới Hội đồng điều phối ASEAN.134Phán
quyết của hội đồng trọng tài là chung thẩm và ràng buộc các bên
tranh chấp.135
3.3. Cơ chế giải quyết tran h chấp theo Công ước 1982
về luật biển
3.3.1. Giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp ngoại
giao
Cơ chế giải quyết các tranh chấp về biển là một bộ phận của
Công ước 1982 về luật biển. Tất cả các quốc gia thành viên của
Công ước đều là thành viên của cơ chế giải quyết tranh chấp này.
Công ước luật biển 1982 đã quy định rõ tại các Điều 279,
280, 283 và 284 nghĩa vụ của các quốc gia giải quyết tranh chấp
băng các phương pháp hòa bình. Các thành viên có quyên thỏa
thuận giải quyết ưanh chấp vào bất cứ lúc nào và bằng bất cứ
phương pháp hòa bình nào (Điều 280), ví dụ tiến hành trao đổi về
quan điểm (Điều 283) hay hòa giải (Điều 284).
3.3.2. Giải quyết các tranh chấp bằng tàiphán quốc tể
Trong trường hợp các biện pháp mang tính ngoại giao nêu
trên không thể giải quyết được tranh chấp, theo yêu cầu của một
bên tranh chấp, tranh chấp phải được đưa ra tòa án có thẩm quyền.
Khi ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia Công ước, hay ở bất
kỳ thời điểm nào sau đó, quốc gia này đã tự do lựa chọn một hay
nhiều biện pháp bắt buộc sau đây:136
134 Đ iều 17 phụ lục 4 N gh ị định thư 2010.
135 K hoản I Đ iều 15 N gh ị định thư 2010.
136 Đ iều 2 8 6 và 287 C ông ước Luật B iển 1982.
4 0 9
- Tòa án quốc tế về luật biển được thiết lập theo đúng phụ lục
VII của Công ước;
- Tòa án quốc tế;
- Một tòa trọng tài được thành lập theo đúng phụ lục VII của
Công ước;
- Một tòa ừọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng phụ lục
VIII để giải quyết một hay nhiều loại ừanh chấp đã được quy định
rõ trong đó.
Cần lưu ý rằng, sự lựa chọn các thủ tục bắt buộc nêu ưên cần
phải căn cứ vào thẩm quyền mà Công ước đã trù định cho các tòa
nêu ữên và phải loại trừ các trường hợp được ghi nhận tại Điều 298
của Công ước, cụ thể:
- Các tranh chấp vê việc giải thích hay áp dụng các Điều 15,
74 và 83 liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển hay
các vụ ừanh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử;
- Các ưanh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự, kể cả
hoạt động quân sự của tàu thuyền và phương tiện bay của nhà nước
được sử dụng cho một dịch vụ không có tính chất thương mại, và
các vụ ưanh chấp liên quan đến các hành động bắt buộc chấp hành,
đã được thực hiện trong việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền
hoặc các quyên tài phán mà Điều 297, khoản 2 và 3 đã loại trừ khỏi
thẩm quyền của một tòa án;
- Các vụ tranh chấp mà HĐBA LHQ, ừong khi thi hành các
chức năng của mình do Hiên chương LHQ giao phó có ưách nhiệm
giải quyết, trừ khi HĐBA quỵết định xóa vấn đề ừong chương ưình
nghị sự của mình hay yểu câu các bên tranh chấp giải quyết tranh
chấp của họ bằng các phương pháp đã quy định trong công ước.
3.3.2.1. Giải quyết tranh chấp tại Tòa án Quốc tế về luật biển
Tòa án Quốc tế về luật biển là một ữong số cơ quan tài phán
có chức năng giải quyết những loại tranh chấp nhất định thuộc lĩnh
410
vực luật biển bằng trình tự, thủ tục tư pháp phù hợp với quy định
của Công ước 1982 và Quy chế của tòa. Tòa có trụ sở chính đặt tại
thành phố Hamburg.
a. Cơ cấu tổ chức của Tòa
Tòa án Quốc tế về luật biển là một thiết chế độc lập, có quy
chế là phụ lục VI của Công ước luật biển 1982.
Thẩm phán của Tòa án Quốc tế về luật biển do các quốc gia
thành viên của Công ước bầu. Cụ thể, theo khoản 4 Điều 4 Quy chế
của Tòa án Quốc tế về luật biển, các thẩm phán của tòa này sẽ được
bầu tại các hội nghị của các nước thành viên Công ước. Tòa có 21
thẩm phán chuyên ừách và số thẩm phán cần thiết để tiến hành xét
xử mỗi vụ kiện là 11. Nhiệm kỳ của các thành viên của Tòa là 9
năm và có thể tái đắc cử, cứ sau 3 năm lại thay 1/3 số lượng thẩm
phán. Nếu như các thẩm phán của TACLQT (LHQ) là do ĐHĐ và
HĐBA bầu đồng thời nhưng hoàn toàn độc lập, thì các thành viên
của Tòa án Quốc tế về luật biển không do bất kỳ một cơ quan
quyền lực nào bầu ra. Tòa có một chánh án và phó chánh án do các
thành viên của Tòa bầu với nhiệm kỳ 3 năm và có thể tái đắc cử.
Tòa cũng bổ nhiệm thư ký của tòa và các viên chức khác nếu thấy
cần thiết137.
Bên cạnh các thẩm phán chuyên trách, thẩm phán ad hoc là
thẩm phán do một hoặc các bên ừanh chấp không có thẩm phán
mang quốc tịch nước minh trong thành phần của Tòa đề cử. Quy
định này nhằm đảm bảo sự tuân thủ nguyên tắc các bên bình đẳng
trước Tòa. Các thẩm phán ad hoc tham gia vụ việc có địa vị hoàn
toàn bình đẳng với các thẩm phán khác.138
137 Đ iều 12 phụ lục V I, C ôn g ước về luật biển 1982,
138 K hoản 1 Đ iều 8 nội qui cũa T A Ọ T về luật biến. X em thêm N g u y ễn H ồng
Thao, Tòa Ún quốc tế về luật biên, phụ lục II, tr. 196, N xb . T ư pháp, Hà N ội,
2006.
411
Đối vói những tranh chấp liên quan đến vấn đề khoa học hay
kỹ thuật, theo yêu cầu của một bên hoặc theo Tòa, sau khi tham
khảo ý kiến của các bên, Tòa có thể chọn ít nhất hai chuyên gia
khoa học kỹ thuật vào thành phần xét xử của Tòa. Tuy nhiên, các
chuyên gia này không có quyền biểu quyết.139
Hoạt động xét xử của tòa được thực hiện thông qua các phiên
xét xử thông thường. Ngoài ra, Tòa án Quốc tế về luật biển còn lập
ra các viện để giải quyết các tranh chấp đặc biệt. Phán quyết của các
viện này đều được coi như phán quyết của tòa.
b. Thẩm quyền giải quyết ừanh chấp
Thầm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án Quốc tế về luật
biên được xác định dựa trên hai tiêu chí: nội dung tranh chấp và chủ
thể tranh chấp.
Vê nội dung tranh châp, Tòa án Quốc tế về luật biển có thẩm
quyên giải quyêt các tranh châp liên quan đến việc giải thích, áp
dụng Công ước luật biển 1982.140Thẩm quyền giải quyết các tranh
chập này của tòa có những giói hạn và ngoại lệ được quy định tại
Điêu 297 và 298 của Công ước luật biển 1982
, Vê chị thề ,ham gia tranh chấp, Tòa án Quốc tế về luật biển
co,tham quyen giai quyêt ưanh châp giữa các quốc gia thành viên-
Đông thời, các thực thê không phải là quốc gia thành viên của Công
ươc cung co quyen đưa vụ tranh chấp ra trước tòa, nếu tranh chấp
liên quan đên việc quản lý và khai thác vùng (theo phần XI) cũng
như mọi tranh chấp được đưa ra theo mọi thỏa thuận khác, ¿ u thẩm
quyền của Tòa được các bên tranh chấp chap thuận.1
4
1 Ve chu thể
13^ Đ iều 289 C ông ước luật biền 1982 và Đ iều 15 N ộ i quy của T òa án Quốc tế
vê luật biển.
140 Khoản 1 Đ iều 288 C ông ước 1982, Đ iều 21 Quy chế của Tòa án Q uốc tẽ
về luật biển.
Đ iêu 20 Quy chế của Tòa án Q uoc te vê luật biên.
4 1 2
tham gia tranh chấp, nếu như các bên có quyền tranh bạng trước
Tòa án Công lý của LHQ chỉ là các quốc gia, thì theo quy chế của
Tòa án Quốc tế về luật biển, khi giải quyết những tranh chấp liên
quan đến quản lý và khai thác vùng đáy đại dưcmg, ngoài quốc gia
ra thì các thực thể như cơ quan quyền lực quản lý vùng, xí nghiệp
của cơ quan quyền lực, các pháp nhân, cá nhân được một quốc gia
bảo ượ cũng có quyền tranh tụng.
Ngoài thẩm quyền giải quyết tranh chấp như đã đề cập ở trên,
Tòa án Quốc tể về luật biển (thông qua Viện giải quyết tranh chấp
liên quan đến đáy đại dương) cũng có thẩm quyền đưa ra các ý kiến
tư vấn theo yêu cầu của ĐHĐ hay Hội đồng của cơ quan quyền lực
về những vấn đề pháp lý được đặt ra.142 N hư vậy quốc gia và các
thực thể khác không có quyền yêu cầu Viện giải quyết tranh chấp
liên quan đến đáy biển cho ý kiến tư vấn.
c. Thủ tục tố tụng và giá ưị của phán quyết
Tòa án Quốc tế về luật biển có nhiều điểm tương đồng với
TACLQT của LHQ nhất là thủ tục tố tụng tại phiên tòa và giá trị
pháp lý của phán quyết.
Thủ tục tố tụng theo tòa toàn thể tương tự như TACLQT của
LHQ, gồm hai giai đoạn: tranh tụng viết và tranh tụng miệng. Bên
cạnh đó, Tòa án Quốc tế về luật biển cũng xây dựng ưình tự xét xử
theo thủ tục rút gọn.
Giống như TACLQT, Tòa án luật biển thông qua phán quyết
theo đa số. Trường hợp phiếu thuận và phiếu chống ngang nhau thì
lá phiếu của chánh án hay người thay thế chánh án chủ tọa phiên tòa
là lá phiếu quyết định. Phán quyết của Tòa mang tính chất chung
thẩm và có giá ưị bắt buộc đối với các bên tranh chấp.
3.3.2.2. Giải quyêt trcmh chấp bằng trọng tcú vô luật hiên
142 Đ iề u 191 v à k h o ả n 10 Đ iề u 159 C ô n g ư ớ c lu ật b iển 1 9 8 2 .
413
a. Trọng tài qụốc tế về luật biển
Ở đây, thuật ngữ “trọng tài quốc tế về luật biển” được hiểu là
trọng tài thường trực được quy định theo phụ lục VII của Công ước
luật biển 1982 và “tòa ừọng tài” được hiểu là một hội đồng xét xử
gồm 5 trọng tài viên theo phụ lục VII của Công ước luật biển 1982.
Trọng tài quốc tế về luật biển được thành lập và hoạt động ừên cơ
sở Điều 287, 288 và phụ lục VII của Công ước luật biển 1982.
Trọng tài quốc tế về luật biển có thành phần bao gồm các
ưọng tài viên do các quốc gia thành viên Công ước 1982 chỉ định.
Mỗi quốc gia thành viên có quyền đề cử 4 ừọng tài viên là những
người có năng lực, kinh nghiệm về luật biển, có tư cách đạo đức tốt.
Căn cứ vào đề cử này, Tổng thư ký LHQ sẽ lập một danh sách các
ữọng tài viên. Khi có ữanh chấp xảy ra, dựa vào danh sách các
ưọng tài viên của Tổng thư ký LtỊQ, một hội đồng trọng tài gồm 5
thành viên sẽ được thành lập. Mỗi bên tranh chấp có quyền chỉ định
một thành viên tham gia hội đồng trọng tài. Ba thành viên còn lại do
các bên thỏa thuận cử ra, một trong ba người này sẽ được lựa chọn
là chánh án của tòa trọng tài đó.
Trọng tài quốc tế về luật biển có thẩm quyền giải quyết các
tranh chấp tương tự như Tòa án Quốc tế về luật biển. Bên canh đó,
nếu các bên tranh chấp không chấp thuận cùng một thủ tục để giải
quyết tranh chấp, thì vụ tranh chấp chỉ có thể được đưa ra giải quyết
theo thủ tục trọng tài, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.143Ngoài
ra, một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp mà
không được một tuyên bố còn hiệu lực bảo vệ thì được xem là đã
chấp nhận thủ tục trọng tài quốc tế về luật biển.144
Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, tòa trọng tài tự quyết
định thủ tục của mình bằng cách cho mỗi bên có khả năng bảo vệ
143 K hoản 5 Đ iệu 287 C ông ước luật biện 1982
144 Khoản 3 Đ iều 287 C ông ước luật biển 1982.
414
các quyền của mình và trình bày căn cứ của mình.143 Khi một trong
số các bên trong vụ tranh chấp không ra tòa trình bày các lý lẽ của
mình, bên kia có thể yêu cầu tòa tiếp tục trình tự tố tụng và ra phán
quyết. Việc một bên vắng mặt hay không trình bày lỷ lẽ của mình
không cản ừở trình tự tố tụng.1
4
5
146
Tưcmg tự như phán quyết của Tòa án Quốc tế về luật biển.
Phán quyết của trọng tài quốc tế về luật biển có giá trị chung thẩm,
trừ khi các bên có thỏa thuận khác.147
b. Trọng tài đặc biệt
Trọng tài đặc biệt có thành phần gồm các chuyên viên được
lập ra để giải quyết tranh chấp liên quan đến bốn lĩnh vực như sau:
đánh bắt hải sản, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, hàng hải.148
Tòa trọng tài đặc biệt gồm 5 thành viên do các bên cử. Chánh
tòa họng tài đặc biệt do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn trên
danh sách thích họp và là công dân của một quốc gia thứ ba, trừ khi
các bên có thỏa thuận khác.149
Ngoài các quy định riêng liên quan đến thẩm quyền chuyên
biệt và thành phần của tòa, các đặc điểm khác của tòa trọng tài đặc
biệt tương tự như tòa trọng tài quốc tế về luật biển. Nếu được tất cả
các bên trong một vụ ừanh chấp yêu cầu thì tòa trọng tài đặc biệt có
thể thảo ra các khuyến nghị, những khuyến nghị này không có giá
trị quyết định mà chỉ là cơ sờ để các bên tiến hành xem xét lại
những vấn đề làm phát sinh ra tranh chấp.150
145 Đ iệu 5 phụ lục VII C ông ước luật biển 1982.
146Đ iều 8 phụ lục VII C ông ước luật biển 1982.
147 Đ iều 11 phụ lục VII C ông ước luật biển 1982.
148 Khoản 2 Đ iều 2 phụ lục VIII C ông ước luật biển' 1982.
149 Đ iếm a, b, c, d Đ iều 3 phụ lục VIII C ông ước luật biển 1982.
150 Khoản 3 Đ iều 5 phụ lục 8
415
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Sách, giáo trình
1. Lưu Văn Bình, Định chế quốc tế, Luật khoa Sài
Gòn, 1970-1971
2. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb.
Công an nhân dân, 2007
3. Đại học Luật Hà Nội, Giảo trình Luật Quốc tế:
Dùng trong các trường Đại học chuyên ngành luật, ngoại
giao, Nxb. Giáo dục, 2010
4. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Nxb. Khoa hoc -
xã hội, Hà Nội, 1998,
5. Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Giải quyết tranh
chấp thương mại WTO, tóm' tắt 1 sổ vụ kiện và phán quyết
quan trọng của WTO, Nxb, Lao động, Hà Nội
6. Đaị học luật Tp. Hồ Chí Minh, giáo trình luật
thương mại quốc tế, 2012
7. Tăng Kim Đông, Quốc tế công pháp, quyển I, Luật
quốc tế, Sài Gòn, 1975
8. Khoa luật Đại học Tổng hợp Melbourne Australia,
Tài liệu hội thảo quốc tế, Luật quốc tế, các vẩn đề thương
mại và kinh tế ở châu A, các vụ việc và tài liệu, AusAID,
1999
9. Khoa luật quốc tế, Tập bài giảng Tranh chấp và
giải quvết tranh chấp quốc tế, Đại học luật TP.HỒ Chí Minh,
2009
10. Nhà pháp luật Việt-Pháp, Pháp luật cộng đồng
châu Ấu hội nhập quốc tê và khu vực, Hội thảo quốc tế, Hà
Nội, 1999
416
11. Rebeca (M.), Luật quốc tế, Thomson, 2002
12. Nguyễn Bá Sơn, Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Thị
Thu Hương, Lê Đức Hạnh, Tòa Hình sự quốc tê, góc nhìn từ
Việt Nam, Nxb. Thanh niên, TP.HỒ Chí Minh, 2007
13. Nguyễn Hồng Thao, Nguyễn Trung Tín, Lê Thị Mai
Thanh, Giảo trình Luật quốc tế, Đại học Huế, 1997
14. Nguyễn Hồng Thao, Tòa án Công lý quốc tế, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
15. Nguyễn Hồng Thao, Tòa án Quốc tế về luật biển,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006
16. Trần Văn Thắng, Lê Mai Anh, Luật quốc tế lý luận
và thực tiễn, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001
17. Nguyễn Thị Thuận (chủ biên), Nguyễn Thị Yên, Đỗ
Mạnh Hồng, Công Phương Vũ, Luật hình sự quốc tế, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội, 2007
18. Võ Anh Tuấn, Hệ thống Liên hợp quốc, Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2004
19. ủ y ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện luật học,
Liên hợp quốc tổ chức những vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb.
Khoa học —xã hội, Hà Nội, 1985
20. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, một sổ vẩn
đề lý luận cơ bản về luật quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
NỘI, 1994
2 1 . Ngụyễn Thị Yên, Ngô Hữu Phước, Tập bài giảng
Khái luận chung về luật quốc tể, TP. Hồ Chí Minh, 2008
22. Nguyễn Thị Yên, Ngô Hữu Phước, Tập bài giảng
Tranh chấp và giải quyết tranh chấp quốc tế, Tp. Hồ Chí
Minh, 2008.
4 1 7
Văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam
1. Công ước Chicago về hàng không dân dụng quốc tế
năm 1944
2. Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945
3. Quy chế Tòa án Công lý quốc tế năm 1945
4. Tuyên bố Bangkok năm 1967
5. Công ước Vienna về luật điều ước quốc tế năm 1969
6. Tuyên bố về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế
điêu chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quôc gia
phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc năm 1970
7. Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á năm
1976
8. Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử
với phụ nữ năm 1979
9. Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982
10. Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế
ASEAN năm 1992
11. Nghị định thư Manila về cơ chế giải quyết tranh
chấp kinh tế giữa các nước ASEAN năm 1996
12. Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế (ICC), Quy chế
Roma năm 1998
13. Quy tắc thủ tục của Hội đồng cấp cao ASEAN năm
2001
4 1 8
14. Nội quy của Tòa án Quốc tế về luật biển, thông qua
năm 1997, sửa đổi bổ sung năm 2001
15. Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải
quyết tranh chấp năm 2004
16. Hiến chương của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam
Á năm 2007
17. Nghị định thư của Hiến chương ASEAN về cơ chế
giải quyết tranh chấp năm 2010
W ebsite
1. http://www.itlos.org
2. http://www.icj-
cij .org/docket/index.php?p 1=3&p2=2
3. http://www.asean.org/3639.htm
4. http://cil.nus.edu.sg/2010/2010-protocol-to-the-
asean-charter-on-dispute-settlement-mechanisms/
5. http://www.un.org
6. http://www.worldcourts.com/ici/eng/decisions/1905.
02.26_doggerbank.htm
4 1 9
CHƯƠNG XIV
TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ QUỐC TẾ
Mặc dù các quy phạm và nguyên tắc quy định trách nhiệm
pháp lý của quốc gia mới chỉ được xây dựng vào đâu thê kỳ XX,
chế định ừách nhiệm phập lý quốc tế của quôc giạ xuât hiện cùng
với sự ra đời của các quốc gia và tồn tại trong suôt quá trình hình
thành và phát ữiển của quan hệ pháp luật quốc tê. Sau hai cuộc đại
chiến thế giới, một loạt các quy phạm, nguyên tăc mới cua luạt
quốc tế về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quôc gia đã được xây
dựng với nội dung dân chủ và tiến bộ, bảo vệ các nước ngheo va
đang phát triển trước sự bành trướng ảnh hưởng của các nước đệ
quốc - tư bản. Đồng thời, sự phát triên mạnh mẽ của khoa học va
công nghệ đã đẩy nhanh quá trình khai thác và sử dụng các ngụon
tài nguyên thiên nhiên trên quy mô lớn với mục đích phát trien
kinh tế, đặt toàn thể nhân loại trước một hiêm họa khôn lương - o
nhiễm môi trường trên phạm vi toàn cầu. Đe ngăn chặn môi đe
dọa này, luật quốc tế đã hình thành các nguyên tăc và quy phạm
về trách nhiệm pháp luật quốc tế đối với các hành vi gây ô nhiem
môi trường. Rõ ràng cùng với sự phát triển của luật quôc te, cac
quy định về ưách nhiệm pháp lý quốc tế ngày càng được cung co
và phát triển để giải quyết kịp thời các vấn đề pháp lý quôc tê phat
sinh trong đời sống quốc tế, góp phần ổn định và củng cô trạt tự
pháp lý quốc tế.
Chương này trình bày những vấn đề cơ bản của chê đinh
trách nhiệm pháp lý quốc tế. Phần thứ nhất phân tích khai mẹm,
đặc điểm bản chất pháp lý và ý nghĩa của ưách nhiệm pháp lý
quốc tế; nguồn và chủ thể của chế định này và phân tích cac hanh
vi làm phát sinh quan hệ trách nhiệm pháp lý quôc tê. Phân thư
hai nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến xác định và thực
hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với quôc gia trong trương
4 2 0
họrp có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế. Phần thứ ba đề cập
trách nhiệm pháp lý của tổ chức quốc tế liên chính phủ. Phần
cuối cùng giới thiệu nl ' ng vấn đê cơ bản vê trách nhiệm vật chât
đôi với thiệt hại gây ra bởi hành vi mà luật quôc tê không câm.
I. KHÁI NIỆM TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ QUÓC TÉ
1.1. Định nghĩa và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý
quốc tế
Khái niệm ừách nhiệm pháp lý quốc tế đã được đê cập khá
rõ trong một số phán quyết của các tòa án quốc tế. Ví dụ trong vụ
Spanish Zone o f Morocco năm 1923, Tòa thường trực Hội quôc
liên đã kết luận: “trách nhiệm pháp lý là một hệ quả tất yếu của
một quyền. Tất cả các quyền của một chủ thể luật quôc tê đêu
gân với trách nhiệm pháp lý quôc tê. Trách nhiệm pháp lý dân
đên nghĩa vụ thực hiện việc bồi thường nêu những nghĩa vụ được
nói đến không được thực thí”} Đồng thời, trong vụ kiện Nhà
mảy Chorzow (Chorzow Factory Case) (Đức và Ba Lan, 1928),
Tòa án Thường trực quốc tế của Hội quốc liên (tiền thân của Tòa
án Công lý quốc tế) đã kết luận: “Một nguyên tắc của luật quốc
tế được thừa nhận rộng rãi là bất kỳ một sự vi phạm đổi với một
nghĩa vụ quốc tế nào đều sẽ dẫn đến việc bồi thường”.1
2
Những nhìn nhận về định nghĩa trách nhiệm pháp lý quốc
tế kể trên đều có chung một điểm cơ bản là nếu có vi phạm pháp
luật quốc tế và gây thiệt hại thì phải bồi thường. Đây chính là
nguyên tắc mang tính tập quán được khẳng định trong phán
quyết vụ Nhà máv Chorzoxv của Tòa Thường trực của Hội quốc
liên và được khẳng định trong Điều 1 Dự thảo các điều luật về
trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đổi với các hành vi sai
trái quốc tế (Draft Articles on Responsibility o f International
1 Spanish Zone of Morocco Claims (Anh và -Tây Ban Nha) (1924) 2 RIAA
615.
2Factory at Chorzow (Đức và Ba Lan) (1927) PCIJ series A No. 9.
421
Organisationsfor Internationally Wrongful Acts) được thông qua
tại khóa họp lần thứ 61 của ủy ban Pháp luật quốc tế tháng 7
năm 2009. Cụ thể, Điều 1 khẳng định “Mọi hành vi sai trái quốc
tế của một quốc gia dẫn đến trách nhiệm pháp lý quốc tế của
quốc gia đó
Từ thực tiễn và lý luận của luật quốc tế, trách nhiệm pháp
lý quốc tế có thể được định nghĩa là nghĩa vụ pháp lý của chủ thể
luật quốc tế phải loại bỏ thiệt hại mà chủ thể này gây ra cho chủ
thể khác của luật quốc tế do vi phạm nghĩa vụ pháp lý quốc tế
hoặc có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại gây ra do hành vi mà
luật quốc tế không cấm nếu việc bồi thường đó được qui định
trong các điều ước quốc tế chuyên biệt.
Định nghĩa “trách nhiệm pháp lý quốc tế” cũng cần phân
biệt với khái niệm “chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế”.
Tương tự như pháp luật quốc gia, trong luật quốc tế đã tồn tại
chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế từ thời điểm xuất hiện quan
hệ giữa các quốc gia trên thế giới, đây là một chế định pháp lý
riêng biệt và độc lập của luật quốc tế.
Như vậy, có thể định nghĩa chế định trách nhiệm pháp lý
quốc tế bao gồm tổng thể các nguyên tắc, quy phạm luật quốc tế
điều chỉnh các quan hệ pháp lý phát sinh từ các hành vi vi phạm
luật quốc tế hoặc hành vi mà luật quốc tế không nghiêm cấm
(hành vi hợp pháp) của chủ thể luật quốc tế này gây ra thiệt hại
cho chủ thể luật quốc tế khác trong đời sống quốc tế, quy định
các hậu quả pháp lý cho chủ thể gây hại bao gồm nghĩa vụ bồi
thưòng thông qua các hình thức và biện pháp đã được luật quốc
tế xác lập.3
3 Dự thảo các điều luật về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đối với
các hành vi sai trái quốc tế 2009. Xem thêm Malcolm N Shaw, International
Law, Cambridge, 5th ed, 2003, tr. 694.
422
Trách nhiệm pháp lý quốc tế có những điểm đặc thù
sau đây:
- Chủ thể trách nghiệm pháp lý quốc tế là quốc gia và các
chủ thể khác của luật quốc tế (chủ thể gây hại và chủ thể bị hại);
-Trách nhiệm pháp lý quốc tế bao gồm trách nhiệm pháp
lý quốc tế chủ quan (trách nhiệm phát sinh do hành vi vi phạm
luật quốc tế) và trách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan (trách
nhiệm phát sinh từ hành vi mà luật quốc tế không cấm). Tro112
trường họp thứ hai, hành vi thực hiện là họp pháp nhưng theo
quy định của luật quốc tế (cụ thể điều ước quốc tế hữu quan) nếu
gây ra thiệt hại, thì bên gây hại phải bồi thường cho chủ thể bị
hại theo các quy định tương ứng của luật quốc tế. Trong khoa
học luật quốc tế, loại hình trách nhiệm này còn được gọi là trách
nhiệm pháp lý quốc tế khách quan. Ví dụ: việc phóng phương
tiện bay vũ trụ để nghiên cứu và sử dụng khoảng không vũ trụ là
hành vi luật quốc tế không nghiêm cấm, nhưng nếu thiệt hại phát
sinh từ hành vi này thì chủ thể gầy hại phải chịu trách nhiệm
pháp lý quốc tế;
-Trách nhiệm pháp lý quốc tế (bao gồm trách nhiệm khôi
phục lại tình trạng ban đầu hoặc bồi thường thiệt hại của bên gây
hại và quyền đòi bôi thường thiệt hại của bên bị hại) được thực
hiện trên cơ sở các qui định của luật quốc tế. Như vậy, những
quy tắc và cách thức thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế
không thể căn cứ vào pháp luật quốc gia.
1.2. Ý nghĩa của chế định “trách nhiệm pháp lý quốc tế”
Chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế giúp đảm bảo trật tự
pháp lý quốc tế, đồng thời duy trì, củng cố và pháp triển quan hệ
thân thiện, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi giữa các chủ thể luật
quốc tế. Cụ thể:
Thứ nhất, chế định trách nhiệnV pháp lý quốc té giúp bảo
đảm sự tuân thủ nghiêm ngặt các qui phạm pháp luật quốc tế.
423
Nếu thiếu chế định trách nhiệm pháp lý thì các qui phạm pháp
luật sẽ mất đi giá trị đích thực của mình là những khuôn mẫu ứng
xử cho các hành vi của các chủ thể luật quốc tế, và như vậy
chúng chỉ đon thuần mang tính chất chính trị hoặc đạo đức. Mặt
khác, nếu không đặt ra vấn đề trách nhiệm pháp lý quốc tế thì sự
vi phạm các qui phạm của luật quốc tế sẽ trở nên phổ biến vì các
chủ thể luật quốc tế sẽ từ chối thực hiện các nghĩa vụ quốc tế đã
cam kết của mình.
Thít hai, chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế giúp bảo
đảm sự thực hiện nghiêm chinh một trong những nguyên tắc cơ
bản của luật quốc tể: tôn ừọng các cam kết quốc tế. Đây là một
trong những qui phạm mang tính mệnh lệnh (jus cogens), theo
đó, tất cả các chủ thể của luật quốc tế có nghĩa vụ phải tuân thủ
những nghĩa vụ quốc tế mà mình đã cam kết một cách tận tâm và
có thiện chí. Tuy nhiên, không, phải trong mọi trường hợp pháp
luật quốc tế đều được các chủ thể luật quốc tế (trước tiên và chủ
yếu là các quốc gia) tuân thủ một cách triệt để, nhất là khi có
những vẩn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi của họ. Điều này
ảnh hường đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của một hay một số
chủ thể khác, thậm chí cả cộng đồng quốc tế.
Thứ ba, chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế giúp xác
định trách nhiệm pháp lý quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích
chính đáng của các chủ thể bị hại. Nếu không đặt ra vấn đề truy
cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với những hành vi vi phạm
từ phía các chủ thể gây hại thì quyền và lợi ích chính đáng của
các chủ thể bị hại không được khôi phục và như vậy các quy
phạm pháp luật quốc tế sẽ không được bảo đảm thực hiện. Một
hành vi vi phạm pháp luật mà không bị xử lý hoặc có biện pháp
đối phó thích hợp sẽ tạo tiền đề cho những vi phạm tiếp theo của
chủ thể vi phạm đó hay những chủ thê khác của luật quốc tế.
Mặc dù vậy, trong việc xác định trách nhiệm pháp lý quốc
tế nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thê bị
424
hại cũng cần lưu ý đến yếu tố tương xứng. Điều này có nghĩa là
việc thực hiện trách nhiệm phải được xem xét ở mức đô hơp lý
và tương xứng với tính chât, quy mô và mức độ thiệt hại mà chủ
thê gây hại đã gây ra. Điêu này giúp chông lại việc lạm dụng
quyên đòi hỏi thực hiện và áp trách nhiệm pháp lý quốc tế một
cách quá mức.
1.3. Bản chất pháp lý của trách nhiệm pháp lý quốc tế
Trong khoa học luật quốc tế, có các quan điểm khác nhau
vê bản chất pháp lý của trách nhiệm pháp lý quốc tế. Cụ thể, có
hai quan diêm chủ đạo. Quan điểm thứ nhất cho rằng trách
nhiệm pháp lý quốc tế đơn thuần chỉ có ý nghĩa là trách nhiệm
vật chât và như vậy chi yêu cầu bồi thường thiệt hại vật chất đã
phát sinh. Quan điểm thứ hai cho rằng trách nhiệm phải bao gồm
cả nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, cả nghĩa vụ chấm dứt hành vi vi
phạm luật quôc tê, nghĩa vụ khôi phục lại trật tự pháp lý quôc tê
bị vi phạm và hơn thế nữa là sự đảm bảo các hành vi xâm phạm
sẽ không tái phạm trong tương lai.
Trong hai quan điểm nêu trên, quan điểm thứ hai thể hiện
tính dân chủ và tiến bộ có lợi cho các nước nghèo trong quan hệ
quốc tế với các nước giàu về vấn đề trách nhiệm pháp lý quốc tế.
1.4. Nguồn của chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế
Trong lịch sử hình thành và phát triển, nội dung pháp lý
của chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế đã có sự thay đôi cơ
bản, những quy tắc, quy phạm mới đầy tính dân chủ vậ tiến bộ
được hình thành, như quy định trách nhiệm pháp lý quôc tê của
quôc gia đôi với chiên tranh xâm lược, hành vi duy trì chê độ
thuộc địa, tội ác apartheid.... đồng thời các nguyên tăc, quy
phạm cũ và lạc hậu như quy phạm “quyền chiên tranh”, “bảo hộ
và tô nhượng” đã bị loại bỏ.
Trong thời điểm hiện nay, nguồn chù yếu và cơ bản của
định chế trách nhiệm pháp lý quốc tế là tập quán quốc tế và điều
ước quốc tế. Các nguồn này có những dặc điểm sau đâv:
425
Thứ nhất, tập quán quốc tế có số lượng chiếm ưu thế. Điều
này xuất phát từ chỗ những quy tắc điều chỉnh vấn đề thực hiện
trách nhiệm pháp lý, như quyền và nghĩa vụ, các hình thức thực
hiện trách nhiệm pháp lý... hình thành chủ yếu từ thực tiễn quan
hệ giữa các quốc gia. Mặc dù Dự thảo các điều luật về trách
nhiệm pháp lý quốc tế đang được hoàn thiện kể từ năm 1996 đến
nay nhưng phần lớn các quy định ghi nhận trong Dự thảo này đã
tồn tại từ rất lâu trong lịch sử quan hệ quốc tế.
Thứ hai, trong chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế, điều
ước quốc tế cũng có vị trí quan trọng. Trước tiên, cần phải kể
đến Hiến chưcmg LHQ được xác định là điều ước quốc tế đa
phương toàn cầu có vị trí đặc biệt trong hệ thống pháp luật quốc
tế. Hiến chương ghi nhận trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với
hành vi xâm hại nghiêm trọng hòa bình và an ninh quốc tế (như
Điều 39, 41, và 42). Ngoài ra, trách nhiệm pháp lý quốc tế của
quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế cũng được điều
chỉnh trong các điều ước quốc tế đa phương toàn cầu quan trọng
khác, như: Công ước 1973 về ngăn chặn và trừng trị tội phân biệt
chủng tộc, Công ước 1948 về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt
chủng, Công ước 1972 về trách nhiệm pháp lý đối với thiệt hại
phát sinh từ hoạt động vũ trụ, các công ước chuyên môn về bảo
vệ môi trường... Đây là các điều ước quốc tế chuyên biệt quy
định trình tự và thủ tục tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lý
quốc tế đối với chủ thể gây hại. Có thể khẳng định rằng, các điều
ước quốc tế này đã thể hiện tương đối hiệu quả vai trò của mình
trong việc điều chỉnh các vấn đề pháp lý về trách nhiệm pháp lý
quốc tế.
Trong thời kỳ tồn tại của mình, Hội quốc liên đã có nhiều
nỗ lực to lớn trong quá trình pháp điên hóa các quy phạm quốc tế
liên quan đến trách nhiệm của quốc gia đối với thiệt hại gây ra
cho tài sản và tinh thần của mỗi thể nhân. Đi theo xu thế này,
trong khuôn khổ LHQ, tại kì họp lần thứ nhất của ủy ban Pháp
luật quốc tế năm 1949, vấn đề trách nhiệm pháp lý quốc tế đã
426
được quan tâm đặc biệt. Nghị quyết số 799 ngày 7/12/1953 của
Đại hội đồng LHQ đã yêu cầu ủy ban tiến hành nhanh chóng
công việc pháp điển hóa các qui phạm luật quốc tế liên quan đến
trách nhiệm pháp lý quốc tế. Theo định hướng này, từ năm 1969,
Uy ban Luật quốc tế của LHQ bắt đầu công việc soạn thảo. Năm
1996, ủy ban đã dự thảo xong công ước về trách nhiệm pháp lý
của quốc gia. Dự thảo công ước này gồm 3 chương, 60 điều, đã
được gửi tới các quốc gia để lấy ý kiến đóng góp. Trên cơ sở đó,
Uy ban đã hoàn chỉnh dự thảo tiếp theo vào năm 2001 đê tiêp tục
hoàn thiện Công ước.4 Đồng thời, một Dự thảo tương tự về trách
nhiệm pháp lý quốc tế của các tổ chức quốc tế cũng đã được soạn
thảo vào năm 2009.5
Thứ ba, trong những trường hợp cá biệt, những văn bản
pháp luật đơn phương của quốc gia như sắc lệnh, tuyên bố, công
hàm, các tuyên bố của những người có thẩm quyền... có giá trị
độc lập và hoàn chỉnh mà thông qua đó, quốc gia tự nguyện cam
kêt những nghĩa vụ quôc tê đối với quôc gia khác và được các
quôc gia này công nhận thì được coi là cơ sở pháp lý đê xác định
trách nhiệm quốc tế. Việc không thực hiện đúng và đầy đủ những
cam kết, dù là đơn phương, cũng có thể dẫn đến trách nhiệm
pháp lý quốc tế của quốc gia.
Thứ tư, các phương tiện bổ trợ nguồn của luật quốc tế như
nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ và đặc biệt là
4 Dự thảo các điều luật về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đối với
các hành vi sai trái quốc tế (Draft Articles on Responsibility of States for
Internationalỉy Wrongflil Acts) được thông qua tại khóa họp lân thứ 53 của Uy
ban Pháp luật quốc tế, tháng 8 năm 2001. Văn kiện này có thể được gọi là
“Công ước” và được sử dụng trong toàn bộ clnrong này. Từ đây, dự thảo sẽ
được gọi tắt là Dự thảo công ước năm 2001.
5 Dự thảo các điều luật về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đối với
các hành vi sai trái quốc tế (Draft Articles on'Responsibility of International
Organisationsfor Internationallv Wrongful Acts) được thông qua tại khóa họp
lần thứ 61 của ủy ban Pháp luật quốc tế tháng 7 năm 2009.
42 7
những phán quyết của Tòa án Quốc tế và trọng tài quốc tế cũng
đóng vai trò quan ừọng ghi nhận các chế định trách nhiệm pháp
lý quốc tế. Nghị quyết của các tổ chức quốc tế là những văn bản
pháp lý trong đó thể hiện ý chí của các quốc gia về những vấn đề
thuộc chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của tổ chức đó. Mặc dù
không mang tính chất pháp lý bắt buộc (trừ các nghị quyết về
vấn đề thủ tục, vấn đề thuộc hoạt động nội bộ của tổ chức) nhưng
những nghị quyết của tổ chức lại có ý nghĩa quan trọng trong
việc xây dựng quy phạm pháp lý quốc tế và pháp điển hóa luật
quốc tế. Trong số các Nghị quyết của tổ chức quốc tế thì nghị
quyết của Đại hội đồng LHQ có vị trí hết sức quan trọng, ví dụ
như Nghị quyết năm 1960 của Đại hội đồng LHQ về trao trả độc
lập cho các nước thuộc địa.6Các bản án của Tòa án Quốc tế cũng
có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh trách nhiệm pháp lý
quốc tế. Các vụ việc quan trọng đã được Tòa án Quốc tế và trọng
tài quốc tế xét xử thường được viện dẫn trong những vụ việc sau
này liên quan đến vấn đề trách nhiệm pháp lý quốc tế, ví dụ như
các phán quyết của Tòa án Thường trực của Hội quốc liên và
Tòa án Công lý quốc tế trong các vụ Nhà mảy Chorzow năm
1928 (Đức và Ba Lan); Corfu năm 1949 (Anh và Albani); u s
Diplomatic and Consular Hostages (Mỹ và Iran) năm 1979...
Đây là những phương tiện bổ trợ quan trọng làm sáng tỏ những
khía cạnh pháp lý của chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế.7
6 X em thêm chương 2 cùa giáo trình về N guồn của luật quốc tế.
7 N hững khía cạnh pháp lý cùa chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế đã được
thề hiện qua rất nhiều vụ việc do Tòa án C ông lý quốc tế xét xử và các kết
luận tư vấn khác như Reparation for Injuries Suffered in the Service of the
United Nations, A dvisory O pinion, ICJ Reports 1949; Military and
Paramilitary Activities in and against Nicaragua (Nicaragua V. United States
of America), M erits, Judgm ent, ICJ Reports 1986; Legality of the Threat or
Use of Nuclear Weapons, A dvisory O pinion, I.C.J. Reports 1996; Case
concerning the difference between New Zealand and France concerning the
interpretation or application of two agreements concluded on 9 July 1986
between the two States and which related to the problems arising from the
4 2 8
1.5. Chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế
Chủ thể của quan hệ trách nhiệm pháp lý quốc tế cũng là
chủ thể của luật quốc tế và bao gồm:
- Các quốc gia độc lập có chủ quyền.
- Các tổ chức quốc tế liên chính phủ.
- Các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết.
-Các thực thể đặc biệt trong quan hệ quốc tế, như Tòa
thánh Vatican, Monaco, Andorra...
Trong đó, chủ thể quan trọng nhất là quốc gia và sau đó là
tô chức quôc tê liên chính phủ. Trong quan hệ trách nhiệm pháp
lý quôc tê, các chủ thể có thể tham gia với bât kỳ vị trí nào, có
thê là bị đon hoặc nguyên đon, phụ thuộc vào tùng trường họp
cụ thê của bôi cảnh quốc tế. Trách nhiệm pháp lý quôc tê đặt ra
đối với các quốc gia cũng như các chủ thể khác của luật quốc tế,
mặc dù trên thực tế thiệt hại có thể xảy ra đối với các cá nhân.
Điêu này khăng định đặc thù của hệ thống luật quốc tế là chi điêu
chỉnh quan hệ giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật
quốc tế. Trong trường hợp cá nhân bị thiệt hại, nhà nước mà cá
nhận đó là công dân sẽ đứng ra thực hiện trách nhiệm pháp lý
quôc tê nhân danh công dân nước mìph.
1.5. L Quốc gia
Với tư cách là chủ thể cơ bản và chủ yếu của luật quốc tế,
quốc gia cũng được coi là chủ thể quan trọng nhất của chê định
trách nhiệm pháp lý quốc tế. Các quốc gia phải gánh vác trách
nhiệm pháp lý quốc tế đối với các hành vi của chính mình khi
hành vi đó gây ra thiệt hại cho chủ thể khác trong đời sông quôc
tế. Hành vi gây thiệt hại của quốc gia chính là hành vi của các cơ
Rainbow W arrior affair, UNRIAA. vol. XX; Elettronica Sicula S.p.A.
(ELSI), Judgment, ICJ Reports 1989; LaG rand (Germ any v. U nited States o f
Am erica), Provisional Measures, Order of 3 March 1999, ICJ Reports 1999...
429
quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện trong các lĩnh vực hành
pháp, tư pháp và lập pháp, không phụ thuộc vào việc hành vi đó
được thực hiện ở trong hay ngoài lãnh thổ quốc gia. Trách nhiệm
pháp lý quốc tế đặt ra đối với quốc gia khi các hành vi này là các
hành vi được cơ quan nhà nước thực hiện với tư cách là đại diện
quốc gia trên trường quốc tế, kể cả trong trường hợp cơ quan nhà
nước hoạt động vượt quá thẩm quyền hoặc lạm dụng quyền hạn
của mình khi thực thi công vụ. Dự thảo năm 2001 vê trách nhiệm
của quốc gia qui định: "Hành vi của bất kỳ một cơ quan nhà
nước nào sẽ được coi như là một hành vi của quốc gia đó theo
pháp luật quôc tê, bât kê cơ quan này thực hiện chức năng hành
pháp, lập pháp, tư pháp hoặc các chức năng khác; bât kê cơ
quan này có vị trí như thế nào trong hệ thong tổ chức cơ quan
nhà nước của quốc gia và bất kể cơ quan này là cơ quan nhà
nước ở trung ương hay cơ quan nhà nước ở địa phương”.8
Bên cạnh đó, quốc gia không có quyền viện dẫn pháp luật
nước mình, kể cả hiến pháp để lẩn tránh ưách nhiệm pháp lý
quốc tế.9 Điều này thể hiện sự ràng buộc nghiêm ngặt của quốc
gia vào các nghĩa vụ quốc tế trên cơ sở nguyên tắc pacta sunt
servanda.
1.5.2. Tổ chức quốc tế liên chính phủ
Cùng với sự pháp triểĩi mạnh mẽ của quan hệ quốc tế, chủ
thể của trách nhiệm pháp lý quốc tế được mở rộng cho cả các tổ
chức quốc tế liên chính phủ, đồng thời nhóm chủ thể này hiện
nay có sô lượng nhiêu nhât và ngày càng phát triên mạnh mẽ
trong tương lai. Cũng như quốc gia, tổ chức (Ịuốc tế liên chính
phủ phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với các hành
vi do chính mình thực hiện và gây ra thiệt hại cho chủ thê khác
trong quan hệ quốc tế. Hành vi của các cơ quan chức năng, các
viên chức hoặc binh sĩ của tổ chức quốc tế chính là hành vi của
tố chức quốc tế liên chính phủ, khi họ thực thi công vụ được ủy
8Điều 4 Dự thảo năm 2001.
9 Xem mục 2 cùa chương này.
430
quyền. Ví dụ: các quan chức hoặc binh sĩ gìn giữ hòa bình của
LHQ trong khi thực hiện nhiệm vụ tại quốc gia thành viên của
LHQ đã có hành vi, gây thiệt hại vật chất hoặc tinh thần cho
quốc gia hay công dân của nó, thì LHQ phải gánh chịu trách
nhiệm pháp lý quốc tế đối với các thiệt hại do viên chức hoặc
binh sĩ của mình gây ra với tư cách là chủ .thể luật quốc tế.
1.5.3. Dân tộc đang đẩu tranh giành quyền tự quyết
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng
dân tộc của các thập niên 1950 - 1970, các dân tộc đang đấu tranh,
giành quyền tự quyết là nhóm chủ thể luật quốc tế xuất hiện trong
thời kỳ này. Ý nghĩa cũng như vai trò của nhóm chủ thể này đã
được chứng minh qua thực tiễn của lịch sử quan hệ quốc tế. Cho tới
nay, các chủ thê này không còn nhiêu, vì hâu hêt các dân tộc đâu
tranh đòi quyền dân tộc tự quyết đã giành được độc lập và thành lập
quốc gia có chủ quyền, về nguyên tắc, dân tộc đấu tranh giành
quyên tự quyết cũng phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế do
hành vi vi phạm hoặc không trái pháp luật gây thiệt hại của minh.
Theo đó, khi các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang thực thi các nhiệm
vụ được chủ thể này giao phó gây thiệt hại cho chủ thể khác của
luật quôc tê thì dân tộc đâu tranh giành quyên tự quyêt sẽ là chủ thê
gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế10...
Ngoài ra, các thực thể đặc biệt trong quan hệ quốc tế khác
như là Tòa thánh Vatỉcan, Monaco, Andorra... cũng phải chịu
trách nhiệm pháp lý quốc tế với tư cách là chủ thể đặc biệt của luật
quôc tê. Tuy nhiên phạm vi trách nhiệm của họ được giới hạn bởi
10 Ví dụ: các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết phải chịu trách
nhiệm pháp lý quôc tê nêu trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc cùa
mình, các binh sĩ cùa chủ thê này đã thực hiện một số hành vi trái pháp luật
quốc tế như tân công, phá hủy các đại sứ quán, lãnh sự quán cùa các quôc gia
khác đặt trên lãnh thổ đang bị chiếm đóng, gây thưcmg vong cho các nhân sự
trong các cơ quan này. Đây là hành vi vi phạm quy định vê bát khả xâm phạm
của các cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự theo pháp luật quốc te.
431
phạm vi quyền năng chù thể có tính chất đặc biệt của nhóm chủ
thể này.
Cuối cùng, cần nhấn mạnh rằng trong luật quốc tế hiện đại
đã xuất hiện và tiếp tục phát triển định chế trách nhiệm hình sự
quốc tế của cá nhân. Đây là loại hình trách nhiệm pháp lý đặc
biệt đối với các cá nhân phạm tội ác quốc tê, như: tội phạm
chống nhân loại, tội ác chống con người, tội ác chiến tranh...
Chủ thể tham gia quan hệ trách nhiệm hình sự quốc tế với tư
cách là cơ quan xét xử quốc tế là pháp nhân quốc tế, như tòa án
hình sự quốc tế (ICC) hiện nay hay tòa án quân sự Nuremberg và
Tokyo trước kia, còn các cá nhân phạm tội ác quốc tế được coi là
các bị cáo trước tòa.1
1
1.6. Các hành vi làm phát sinh quan hệ trách nhiệm pháp
lý quốc tế
Như đã phân tích ở mục 1.4, hiện nay có hai loại hình
trách nhiệm pháp lý quốc tế: trách nhiệm pháp lý quốc tế chủ
quan và trách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan. Xuất phát từ
nhận thức chung này, hành vi làm phát sinh quan hệ trách nhiệm
pháp lý quốc tế cũng bao gồm hai loại: hành vi vi phạm pháp luật
quốc tế dẫn đến trách nhiệm pháp lý quốc tế chủ quan và hành vi
không vi phạm luật quốc tế dẫn đến trách nhiệm pháp lý quốc tế
khách quan.
1.6.1. Hành vi vi phạm pháp luật quốc tể làm ph át sinh
quan hệ trách nhiệm pháp lý quốc tế
Từ góc độ nghiên cứu của khoa học luật quốc tế, hành vi
vi phạm luật quốc tế được hiểu là các hành vi xừ sự không phù
hợp với các quy định hiện hành của luật quốc tế chung hoặc luật
1
1 Vì sự khác biệt cơ bản giũa loại hình trách nhiệm hình sự quốc tế với trách
nhiệm pháp lý quốc tế, các vấn đề lý luận liên quan đến trách nhiệm hình sự
quốc tế sẽ được nghiên cứu riêng ờ chương Luật hình sạ quốc tế của giáo
trình này.
432
quốc tế khu vực, không phụ thuộc vào tính chất, mức độ cũng
như phạm vi của hành vi vi phạm, không lệ thuộc vào việc hành
vi vi phạm được thể hiện ở dạng hành động hay không hành
động.1
2 Dựa trên cơ sở mức độ nguy hiểm đối với đời sống quốc
tê, trong khoa học luật quôc tê đã có sự phân loại hành vi vi
phạm pháp luật quốc tế thành hành vi tội ác quốc tế và hành vi vi
phạm pháp luật quốc tế thông thường.1
3
1.6.1.1. Hành vỉ tội ác quốc tế
Hành vi tội ác quốc tế được xác định là các hành vi vi
phạm cực kỳ nghiêm trọng luật quốc tế của một chủ thể, làm tổn
hại đến hòa bình và an ninh quốc tế, quyền lợi quan trọng và sự
sống còn của cộng đồng quốc tế, sự tồn tại của một quốc gia, một
dân tộc hoặc một tổ chức quốc tế, chà đạp thô bạo lên các
nguyên tắc cơ bản, các qui phạm jus cogens của luật quốc tế.
Loại hành vi này được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế phô
cập như: Công ước 1948 về chống tội diệt chủng, Công ước 1973
vê chông chủ nghĩa apartheid. Đặc biệt, bôn nhóm hành vi nguy
hiêm cho loài người đã được ghi nhận tại Quy chê Rome năm
2002 về Tòa án Hình sự quốc tế (ICC) dưới dạng những tội ác
quốc tế,14 cụ thể các hành vi tội ác quốc tế được quy định tại
Điều 5 Công ước gồm các tội phạm sau: tội phạm diệt chủng,1
5
12 Điều 2 Dự thảo các điều luật về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia
đối với các hành vi sai trái quốc tế 2009. Xem thêm Malcolm N Shaw,
I n te rn a tio n a l L a w , Cambridge, 5th ed, 2003, tr. 697.
1
3 Xem ủ y ban Pháp luật quốc tế, “Draft articles on Responsibility of States for
Internationally Wrongful Acts, with Commentaries 2001”, Chapter 111,
http://untreaty.un.org/ilc/texts/instruments/english/commentaries/9_6_2001.pdf
1
4 Quy chế Rome 2001 về Tòa án Hình sự quốc tế.
1
5 Quy chế Rome về Tòa Hình sự quốc tế 1998, Điều 6: T ội p h ạ m d iệ t c h u n g
g ồ m c á c h à n h vi: giết các thành viên cũa cộng đồng; gây tôn hại vê thê xác
hoặc tinh thần cho thành viên của cộng đồng; cố tình áp đặt điểu kiện sống lên
một cộng đồng, nhóm người một cách có tính toán nham tạo ra một sự hủy
diệt về mặt thể chất đối với một phần hoặc toàn bộ cộng đồng...
433
tội phạm chống nhân loại,16tội phạm chiến tranh,1
7tội gây chiến
tranh xâm lược.1
8Việc ghi nhận các tội ác quôc tê như vậy chỉ có
tính minh họa, vì theo dự báo của Uy ban Luật quôc tê của LHQ,
trong tương lai có khả năng xuất hiện các loại hành vi tội ác quốc
tế mới.
Trong khuôn khổ luật quốc tế, cộng đồng quốc tế đã nhất
trí một chế độ trách nhiệm pháp lý quốc tế thống nhất có tính đặc
biệt đối với các chủ thể luật quốc tế thực hiện hành vi tội ác quốc
tế.19 Theo đó, ngoài quốc gia bị hại, toàn thể cộng đồng quốc tế
đều có quyền thực hiện các hành động cần thiết để truy cứu trách
16 Quy chế Rome về Tòa Hình sự quốc tế 1998, Điều 7: T ội p h ạ m c h ố n g n h ân
lo ạ i g ô m c á ch h àn h vỉ: giết người, hủy diệt, băt làm nô lệ, trục xuất hoặc
cưỡng bức di chuyển dân cư, cầm tù hoặc những hành vi khác tước doat tự do
về mặt thể xác vi phạm các nguyên tắc cơ bàn cùa pháp luật quốc tế, tra tấn,
hiêp dâm, nô lệ tình dục, cưỡng ép hoạt động mại dâm, cưỡng ép mang thai,
cường ép triệt sản ...
17 Quy chế Rome về Tòa Hình sự quốc tế 1998, Điều 8: T ội á c ch iến tra n h là
những hành vi vi phạm nghiêm trọng Công ước Geneva 1949, chống lại loài
người và những tài sản được bảo vệ theo các điều khoản liên quan của Công
ước này như cố ý tàn sát, tra tấn hoặc những cách đối sự phi nhân tính bao
gồm cả thí nghiệm sinh học, cố ý gây nên sự đau đớn hoặc làm bị thương một
cách nghiêm trọng tới thể xác và sức khỏe, bắt cóc con tin, việc phá hủy trên
diện rộng và chiếm đoạt tài sản không bởi sự cần thiết cho quân sự mà được
tiến hành một cách trái pháp luật và vô đạo đức... Ngoài ra những sự vi phạm
một cách nghiêm trọng luật pháp và tập quán được thừa nhận trong xung đột
vũ trang quốc tế, đạt được trong khuôn khổ PLQT kể tên sau đây cũng là hành
vi tội ác chiến tranh, gồm: tấn công mang tính chất quốc tế có nhấm vào
những cộng đồng dân cư hoặc những cư dân cá biệt không không phải là kẻ
thù, tấn công mang tính chất quốc tế có định hướng vào những mục tiêu dân
sự không phải mục tiêu quân sự...
1
8 Đây là những hành vi cực kì nguy hiểm vi phạm nghĩa vụ quốc tế có ý
nghĩa căn bản để đảm bao hòa bình và an ninh quốc tế, bao gồm các hành vi
như lập kế hoạch, tiến hành chiến tranh xâm lược.
19 Xem ửy ban Pháp luật quốc tế. ‘Draft articles on Responsibility of States
for internationally Wrongful Acts, with Commentaries 2001’ Chapter III, tr.
113-116,
http://untreaty.un.org/ilc/texts/instruments/english/commentaries/9_6_2001.pdf
434
nhiệm đối với chủ thể gây hại trong khuôn khổ luật quốc tế cho
phép, ví dụ như nỗ lực của cộng đồng quốc tế nhằm thực hiện
Điều 41 và 42 của Hiến chưcmg LHQ trong trường hợp có sự
xâm lược.20 Chế độ trách nhiệm pháp lý quốc tế đặc thù như vậy
sẽ đảm bảo ngăn chặn và trừng trị các chủ thể luật quốc tế có
hành vi tội ác quốc tế một cách có hiệu quả.
Cũng cần lưu ý rằng, đối với các hành vi tội ác quốc tế,
bên cạnh việc chủ thể vi phạm phải chịu trách nhiệm pháp lý
quốc té (như nước Đức, Ý, Nhật Bản trong chiến ừanh thế giới
thứ 2 hay Iraq trong quốc chiên tranh vùng vịnh lân thứ nhât
1991), các cá nhân thực hiện các tội ác cũng phải chịu trách
nhiệm hình sự quốc tế. Tuy nhiên những cá nhân phạm tội này
không được coi là chủ thể của luật quốc tế. Trách nhiệm hình sự
của những cá nhân phạm tội này được ghi nhận trong nhiêu điêu
ước quôc tế như quy chế tòa án quân sự quốc tế Nuremberg, tòa
án quân sự quốc tế Tokyo hay gần đây nhất là Quy chế Rome
ngày 17/07/1998 của Tòa án Hình sự quốc tế (International
Crimỉnaỉ Court, ICC).
1.6.1.2. Hành vi viphạm pháp luật quốc tế thông thường
Các hành vi vi phạm luật quốc tế không nằm trong nhóm
hành vi tội ác quốc tế được xác định là các hành vi vi phạm pháp
luật quôc tế thông thường. Các hành vi này được thực hiện
không phù hợp với các qui định của luật quốc tế và gây ra thiệt
hại cho các chủ thê khác trong đời sống quốc tế, nhưng mức độ
thiệt hại không nghiêm trọng như hành vi tội ác quốc tế. Ví dụ:
các hành vi của Pháp nghiêm cấm nhập khẩu thịt bò của Anh vào
thị trường nội địa với lý do là thịt bò “điên” vi phạm các quy
định của luật quốc tế về tự do hóa thương mại. vấn dề đặt ra ờ
đây là quốc gia áp dụng biện pháp cấm cần phải chứng minh tính
hợp lý của biện pháp mà mình đưa ra cũng như có cơ sở đê
khăng định việc cho phép nhập khâu như vậy sẽ làm ảnh hưởng
20 Xem thêm Hiến chương LHQ, Điều 39 - 42.
435
đến sức khỏe cộng đồng... Nếu những chứng minh của Pháp cho
việc đưa ra các biện pháp ngăn cấm như vậy là không đầy đủ thì
hành vi này được xem là hành vi vi phạm pháp luật quốc tế
thông thường gây thiệt hại cho Anh.
Đối với các hành vi vi phạm pháp luật quốc tế thông
thường, chỉ có chủ thể bị hại mới có quyền được truy cứu trách
nhiệm pháp lý, các chủ thể khác hay cộng đồng quốc tế không có
quyền này. Như ở ví dụ trên, chỉ có Anh mới có quyền tiến hành
các thủ tục cần thiết để yêu cầu Pháp thực hiện trách nhiệm pháp
lý quốc tế.
Phân biệt giữa hành vi vi pháp luật quốc tế thông thường
với hành vi không thân thiện trong quan hệ quốc tế là vấn đề
được đề cập trong khoa học luật quốc tế. Hành vi không thân
thiện trong quan hệ quốc tế được hiểu là hành vi của quốc gia
(chủ thể luật quốc tế) làm thiệt hại cho quốc gia khác nhưng
không vi phạm cam kết quốc tế. Chúng đơn thuần chỉ là hành vi
không thân thiện, không hữu nghị trong quan hệ bang giao quốc
tế giữa các nước có liên quan. Các hành vi không thân thiện đó
làm thiệt hại đến lợi ích của quốc gia khác nhưng những lợi ích
này không được luật quốc tế bảo vệ. Trong khi đó, hành vi vi
phạm thông thường luật quốc tế là hành vi được thực hiện trái
với qui định của luật quốc tế. Điểm chung là cả hai hành vi này
đều gây ra thiệt hại cho chủ thể khác trong đời sống quốc tế và
đều dẫn đến hậu quả pháp lý cuối cùng là chủ thể bị hại có quyền
áp dụng các biện pháp trả đũa, phù hợp nguyên tắc tương xứng.
Hành vi không thân thiện xuất hiện nhiều trong thực tiễn đời
sống quốc tế, đặc biệt là quan hệ ngoại giao. Ví dụ: trong quan
hệ ngoại giao giữa Anh và Nga, vì những bất đồng trong vấn đề
điệp viên Nga chạy sang Anh và sau đó bị tử nạn do nghi ngờ là
bị đầu độc, Anh trục xuất ba quan chức ngoại giao Nga (hành vi
không thân thiện), sau đó Nga cũng trục xuất ba quan chức ngoại
giao Anh cùng cấp bậc và chức vụ ngoại giao với các quan chức
Nga bị trục xuất.
436
Trong trường hợp trên, hành vi trục xuất quan chức ngoại
giao Nga của Anh không coi là hành vi trái với luật quốc tê mà
chỉ được coi là hành vi không thân thiện. Còn hành vi trục xuất
quan chức ngoại giao Anh của Nga là hành vi trả đũa tuân theo
nguyên tăc tương xứng.
1.6.2. Hành vi không vi phạm pháp luật quốc tể làm ph át
sinh quan hệ trách nhiệm pháp lý quốc tế
Hành vi không vi phạm pháp luật quốc tế khi gây ảnh
hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác của luật quốc tể làm phát
sinh quan hệ ừách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan. Chẳng hạn
những hoạt động nghiên cứu, sử dụng khoảng không vũ ứụ, xẩy
dựng các lò hạt nhân đê sử dụng năng lượng nguyên tử phục vụ
cho mục đích dân sự... không bị luật quốc tễ cam. tuy nhiên luật
quốc tế quy định các chủ the luật quoc tế phải bồi thường thiệt
hại khi các hoạt động kể trên gây thiệt hại cho các chủ thể khác.
Như vậy, hành vi không vi phạm pháp luật quôc tế có thể là một
trong những cơ sở đê xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế khách
quan. Loại hành vi này được ghi nhận trong một sô các điêu ước
quôc tê vê khai thác và sử dụng khoảng không vũ trụ, ví dụ:
Công ước 1972 về trách nhiệm đối với thiệt hại phát sinh do
phương tiện bay vũ trụ gây ra.
II. TRÁCH NHIỆM PHẬP LÝ QUÓC TÉ CỦA QỤÓC
GIA DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT QUÓC TÉ (TRÁCH
NHIỆM PHÁP LÝ CHỦ QUAN)
Phần này nghiên cứu những vấn đề pháp lý của việc thực
hiện trách nhiệm pháp lý đôi với quôc gia do hành vi trái pháp
luật quốc tế. Trươc hết, phần này phân tích vấn đề quy trách
nhiệm pháp lý đối với quỗc gia dựa trên cơ sở xác định hành vi
của các cơ quan, viên chức nhà nước và hành vi của công dân.
Tiếp theo, phần này trình bày ba căn cứ xác định trách nhiệm
pháp lý quoc tể là hành vi trái pháp luật quôc tê, thiệt hại thực tế
phát sinh và mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật
quốc tế và thiệt hại. Cuối cùng, phân này đê câp vần đê thực hiện
trách nhiệm pháp lý quốc tế, trọng đó bao gônì các trường hợp
miễn trách nhiệm pháp lý quôc tê.
437
2.1. Vấn đề quy trách nhiệm pháp lý đối vói quốc gia
Từ góc độ chủ thể của luật quốc tế, quốc gia sẽ gánh chịu
trách nhiệm pháp lý về các hành vi của mình trong quan hệ bang
giao quôc tê. Hai vân đề quan trọng đặt ra cần phải được làm rõ
trước khi đặt ra vấn đề trách nhiệm đó là: phải có sự tôn tại của
hành vi được quy cho quốc gia và hành vi đó phải được mô tả là
trái với pháp luật quốc tế.21 Trong vụ Con tin ngoại giao Mỹ tại
Tehran năm 1980, Tòa án Công lý quốc tế đã cho rằng, để có thể
quy trách nhiệm pháp lý quốc tế cho nước Cộng hòa Hồi giáo
Iran, trước hết cần phải xác định hành vi đó có thuộc trách nhiệm
của nhà nước Iran hay không, sau đó là việc xem xét có sự phù
hợp hay không giữa những nghĩa vụ quốc tế đang có hiệu lực mà
Iran phải thực hiện, bao gồm các nghĩa vụ điều ước và những
nghĩa vụ phát sinh từ luật quốc tế đang có giá trị thi hành.222
3
Việc quy trách nhiệm cho quốc gia được xác định trên hai
cơ sở chính:
- Hành vi của cơ quan nhà nước, bao gồm cả hành vi của
các viên chức nhà nước,
- Hành vi của công dân quốc gia đó.24
2.1.1. Trách nhiệm pháp lý của quốc gia đối với hành vi
của cơ quan nhà nước
Rõ ràng, các hoạt động của quốc gia chi được thực hiện
thông qua các hành vi thực hiện chức năng của hệ thống cơ quan
nhà nước, ví dụ như hành vi lập pháp của cơ quan lập pháp, hành
21 Xem thêm lập luận cùa Tòa án Thượng trực quốc tế cùa Hội quốc liên trong
vụ Phosphates in Morocco. (Phosphates in Morocco, Judgment, 1938,
P C I.J., Series A/B, No. 74)
22 United States Diplomatic and Consular Staff in Tehran, Judgment, I.C.J.
Reports 1980, tr. 3, tr. 29, đoạn 56.
23 Điệu 4 và 7 Dự thảo Công ước 2001.
24 Điều 5 Dự thào Công ước 2001.
4 3 8
vi xét xử của cơ quan tư pháp...25 Vì vậy, hệ quả pháp lý của
hành vi của các cơ quan nhà nước sẽ được ghi nhận là hành vi
của quốc gia, không phụ thuộc vào việc hành vi xử sự đó do cơ
quan nhà nước ở cấp nào, có thẩm quyền trong lĩnh vực nào thực
hiện. Cụ thể, quốc gia phải chịu trách nhiệm quốc tế bời hành vi
của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
2.1.1.1. Trách nhiệm của quốc gia đổi với hành vi cùa cơ
quan lập pháp
Cơ quan có chức năng lập pháp là cơ quan có chức năng
“nội luật hóa” các điều ước quốc tế mà quốc gia đã kí kết hoặc
tham gia. Hành vi của các cơ quan lập pháp có thể được coi là
hành vi của quốc gia một cách trực tiếp, tức thời. Quốc gia có
trách nhiệm đối với hành vi của cơ quan lập pháp trong những
trường hợp sau đây:
- Ban hành những văn bản pháp luật trái với những nghĩa
vụ pháp lý quốc tế của quốc gia;
-Không ban hành những văn bản pháp luật cần thiết để
thực hiện một nghĩa vụ quốc tế;
- Không hủy bỏ những văn bản trái với các nghĩa vụ quốc
tế.
25 Tòa án Thường trực quốc tế đã lập luận “hành vi của các quốc gia chi có thể
thực hiện bởi và thông qua các cơ quan và người đại diện của mình”. Xem Kết
luận tư vấn của Tòa trong vụ G e rm a n S e ttle r s in P o la n d , A d v is o r y O p in io n ,
1 923, P .C .I.J ., S e r ie s B, N o. 6, tr. 22. Tương tự, Tòa án Công lý quốc tế cũng
tuyên bố “ că n c ứ v à o n h ữ n g n g u y ê n tã c đ ư ợ c g h i n h ậ n r ộ n g r ã i tr o n g lu ậ t
q u ô c tê, h à n h v i c ù a b â t k ỳ c ơ q u a n n h à n ư ớ c n à o p h á i đ ư ợ c c o i là h àn h v i
c ù a q u ô c g ia n ó i tr ê n ... q u y tă c n à y c ó g iá tr ị n h ư m ộ t tậ p q u á n q u ố c t ế ’.
Xem D iffe re n c e R e la tin g to Im m u n ity fr o tn L e g a l P r o c e s s o f a S p e c ia l
R a p p o r te u r o f th e C o m m iss io n o n H u m a n R ig h ts, Advisory Opinion, I.C.J.
Reports 1999, D iffe re n c e R e la tin g to Im m u n ity f r o m L e g a l P r o c e s s o f a
S p e c ia l R a p p o r te u r o f th e C o m m iss io n o n H u m a n R ig h ts, Advisory Opinion,
I.C.J. Reports 1999, tr. 62
439
2.1. ỉ.2. Trách nhiệm của quốc gia đối với hành vi của cơ
quan hành pháp
Quốc gia phải chịu trách nhiệm đối với mọi hành vi vi
phạm của các cơ quan hành pháp, kể cả ở trung ương cũng như
địa phương trong khi các cơ quan đó thực hiện chức năng của
mình. Cụ thể, quốc gia phải chịu trách nhiệm về các hoạt động
công vụ của tổng thống, chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ và
các thành viên cao cấp khác trong bộ máy nhà nước, cũng như
các quan chức ngoại giao - lãnh sự, và hoạt động của lực lượng
vũ trang.
2.1.1.3. Trách nhiệm của quốc gia đối với hành vi của cơ
quan tư pháp.
Các cơ quan tư pháp trong quá trình áp dụng pháp luật để
xét xử đã gây thiệt hại cho các chủ thể khác của luật quốc tế thì
quốc gia sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi đó. Các hành vi của
cơ quan tư pháp có thể dẫn đến trách nhiệm pháp lý quốc tế là:
- Ra bản án, quyết định sai trái với các nghĩa vụ quốc tế;
- Ra bản án, quyết định sai trái, bôi nhọ, xâm phạm quyền
và lợi ích của quốc gia hoặc công dân, tổ chức của quốc gia
khác;
- Từ chối nghĩa vụ xét xử...
2.1.2. Trách nhiệm pháp ỉý của quốc gia đối với hành vi
của các viên chức nhà nước
Quốc gia phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của các
viên chức nhà nước (cảnh sát, thuế vụ, binh sĩ...) trong những
trường hợp họ thực hiện nhiệm vụ nhân danh nhà nước mình
(thừa hành công vụ), hoặc trong trường hợp họ vượt quá phạm vi
thẩm quyền của mình (ultra vires). Theo Điều 7 của Dự thảo
năm 2001 thì "hành vi của một cá nhân hoặc mật tổ chức được
trao quyền thực hiện các yếu tố của quyền lực nhà nước sẽ được
440
coi là hành vi của nhà nước đó theo luật quốc tế nếu như những
người này thực hiện hành vi trong phạm vi thẩm quyền quv định
đó, thậm chỉ vượt quá phạm vi thẩm quyền hoặc trải với sự
hưởng dẫn ”.26
Trong vụ Youman’
s Claim (Mỹ và Mexico) năm 1926, một
nhóm quân đội Mexico được cừ đến bảo vệ chống lại những đe dọa
nhằm vào các công dân Mỹ đang sống tại Mexico, tuy nhiên những
nhóm quân nhân này đã tham gia vào vụ tấn công và kết quả là
công dân Mỹ Neer bị giết chết. Một ủy ban chung được lập ra dê
giải quyết theo đon kiện của Mỹ đã kết luận rằng Mexico phải chịu
trách nhiệm do hành vi bất hợp pháp nói ừên của các binh sĩ
Mexico, mặc dù họ đã làm trái mệnh lệnh mà họ phải thực thi.27
Tương tự, ữong vụ Caire (Pháp và Mexico), một công dân Pháp đã
bị hai cảnh sát Mexico bắn chết khi người này không chịu giao tiền
theo lệnh của cảnh sát. ủy ban trọng tài đã tuyên bố trách nhiệm
vẫn thuộc về Mexico bởi những người này đang thực hiện nhiệm vụ
trong phạm vi thẩm quyền và tư cách của họ. Cụ thể ủy ban nêu rõ
“hành vi của các viên cảnh sát, ngay cả trong trường hợp hành
động ngoài tham quyền... hoặc thậm chí hành động vượt quá chỉ
thị, vân sẽ được quy trách nhiệm cho quốc gia bởi lý do họ đã thực
hiện hành vi với tư cách nhân viên công quyền của mình và sử dụng
các biệnpháp có được từ tư cách đỏ 28
2.1.3. Trách nhiệm pháp lý của quốc gia đổi với những
hành vi của công dãn
Đây là trường hợp liên quan đến những cá nhân, công dần
hành động ‘'không nhân danh nhà nước”, cụ thể những cá nhân,
công dân này không phải là các sĩ quan quân đội, nhân viên hải
quan, cảnh sát ... Hành vi của các cá nhân, công dân nói trên có
26 Điều 7 Dự thào 2001.
27 Y ou m an s C la im (Mỹ và Mexico) (1926) 4 UNRIAA 110.
28 C a ir e C la im (1929) (Pháp và Mexico) 5 RIAA 516.
441
thể dẫn đến trách nhiệm của quốc gia hay không được xem xét
tùy vào các yếu tố sau:
- Hành vi được thực hiện với tư cách đại diện cho quốc gia
(nhân danh nhà nước)
Đây là trường họp mà người thực hiện mặc dù không phải
là viên chức nhà nước nhưng lại hành động theo sự cho phép
hoặc được trao quyền bởi nhà nước. Theo Dự thảo năm 2001 thì
“việc thực hiện hành vi của một người hay một tổ chítc mà không
phải là một cơ quan nhà nước nhưng có sự trao quyển trong luật
của quốc gia đó để thực thi các yểu tổ của quyền lực nhà nước
cũng sẽ được coi là hành vi của quốc gia theo luật quốc tế, miễn
là họ hành động trongphạm vi quyền hạn được phép”.29
- Hành vi thực hiện trong những trường hợp tự “thay thế
quyền lực nhà nước”.
Trong trường hợp này, hành vi của các cá nhân, công dân
đó có thể được coi như là một hành vi nhân danh quốc gia với lý
do họ đã thực hiện hành vi như một viên chức nhà nước do sự
vắng mặt các viên chức nhà nước đó. Ví dụ: hành vi của công
dân trong trường hợp do thiên tai, động đất, hỏa hoạn, tham gia
làm công tác trật tự ... Theo Dự thảo năm 2001 thì: “ Việc thực
hiện hành vi của một người hay một nhóm người cũng sẽ được
coi là một hành vi của quốc gia theo luật quốc tể nếu như người
đó hoặc nhóm người đỏ hành động trong trường hợp thực hiện
những yêu tô của quyên lực trong khi vắng mặt những người có
thấm quyển chỉnh thức và trong những trường hợp cần phải thực
hiện những yếu tố của quyền lực nhà nước”30
- Hành vi thực hiện không nhân danh nhà nước hoặc
không liên quan đến chính sách của nhà nước
39 Điều 5 Dự thảo 2001.
30 Điều 9 Dự thảo 2001.
442
về nguyên tắc, quốc gia không phải chịu trách nhiệm đối
với những hành vi của công dân thực hiện “không nhân danh nhà
nước”, không liên quan đến các chính sách của nhà nước hoặc
những cá nhân, công dân đó không nằm dưới sự kiểm soát của
nhà nước. Ví dụ: trong vụ Con tin Iran ngoại giao giữa Mỹ và
Iran (1980), Tòa án Quốc tế đã khẳng định rằng việc tấn công
của các nhóm binh sĩ, sinh viên Hồi giáo vào Đại sứ quán Mỹ sẽ
không quy trách nhiệm cho phía Iran vì rõ ràng lúc đó, họ không
phải là những viên chức, nhân viên của cơ quan nhà nước. Tuy
nhiên, việc chấp nhận tiếp theo của Giáo chủ Ayatolah Khomeini
và những cơ quan khác của Iran về vụ tấn công và việc tiếp tục
cầm giữ con tin lại có thể coi như là hành vi của nhà nước. Tòa
cho Tằng, những người này đã trở thành những viên chức của nhà
nước Iran và vì thế mà Iran sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý.3
1
Mặc dù vậy, trách nhiệm pháp lý vẫn có thể sẽ được đặt ra
đôi với quôc gia do hành vi của công dần mình, mặc dù việc thực
hiện các hành vi đó không nhân danh nhà nước, khi xảy ra nhũng
trường hợp sau:
+ Việc ngăn chặn những hành vi vi phạm đó là một nghĩa
vụ của quôc gia;
+ Quốc gia đã thất bại trong việc ngăn chặn nhũng hành
vi đó;32
+ Quôc gia đã không áp dụng những biện pháp cân thiêt đê
trừng trị những kẻ phạm tội;
31 Case Concerning United States Diplomatic and Consular Staff in Tehran
(United States ofAmerica V. Iran) (1979), ICJ Reports 1979, tr. 7.
32 Ví dụ, đầu năm 1969, Anh đã bồi thường cho Nam Phi những thiệt hại do
những nhóm biểu tinh gây ra cho Đại sứ quan Nam Phi tại London. Nhóm
biểu tình đã thông báo vẽ cuộc biêu tình vài ngày trước đó, nghĩa là cuộc tân
công là có thể thấy trước được. Tuy nhiên, lúc đó chì có duy nhât một viên
cảnh sát có nhiệm vụ bảo vệ Đại sứ quán.
443
+ Quốc gia đã không tiến hành những biện pháp cần thiết
để điều tra, truy bắt tội phạm;
+ Quốc gia thừa nhận những hành vi bất hợp pháp đó là
hành vi “nhân danh nhà nước”.
- Hành vi thực hiện dưới sự chỉ đạo hoặc điều khiển bởi
quốc gia
Đây là trường hợp hành vi sai trái được thực hiện bởi một
cá nhân hoặc một nhóm cá nhân, từ đó dẫn đến trách nhiệm của
quốc gia liên quan. Cá nhân hoặc nhóm cá nhân này không phải
là công dân của quốc gia liên quan tuy nhiên trên thực tế có sự
liên hệ chặt chẽ với quốc gia thông qua việc chỉ đạo hoặc điều
khiển. Chẳng hạn, các cơ quan của nhà nước có thể tuyển mộ
hoặc xúi giục cá nhân hoặc nhốm cá nhân thực hiện hành vi trái
pháp luật quốc tế như tiến hành các hoạt động quân sự hoặc bán
quân sự chống lại chính quyền của một quốc gia khác, vấn đề
này được quy định tại Điều 8 Dự thảo năm 2001 như sau: “Hành
vi cùa một cả nhân hoặc một nhóm cá nhân sẽ đitợc xem là một
hành vì của quốc gia theo luật quốc tế nếu cả nhân hoặc nhóm
cá nhân này trên thực tế hành động theo sự hưởng dẫn hoặc
dưới sự chỉ đạo hoặc điều khiển của quốc gia đó
Tòa án Công lý quốc tế trong vụ Các hoạt động quân sự
và bán quân sự chổng lại Nicaragua đã lập luận rằng những
hành vi của nhóm vũ trang contra chống lại nhà nước Nicaragua
sẽ được quy trách nhiệm pháp lý cho Mỹ, do đó tuyên bố Mỹ
phải chịu trách nhiệm cho hành vi của nhóm contra trong việc vi
phạm các quy tắc về luật nhân đạo. Cơ sở của tuyên bố này là
việc chính quyền Mỹ đã có sự “điều khiển” trên thực tế, thông
qua việc “lập kế hoạch, chỉ đạo và tài trợ”. Tuy nhiên, Tòa cũng
không chấp nhận yêu cầu của phía Nicaragua cho rằng Mỹ phải
444
chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của nhóm này ihông qua sự
“điều khiển” nói trên.333
4
Cuối cùng, trách nhiệm pháp lý quốc tế cũng có thể quy
cho quốc gia trong trường hợp quốc gia công nhận hoặc thừa
nhận hành vi trái pháp luật quốc tế là hành vi của quốc gia mình.
Vấn đề này được quy định tại Điều 11 Dự thảo năm 2001. Trên
thực tế, Tòa án Công lý quốc tế trong vụ Con tin ngoại giao tại
Tehran đã coi hành vi công nhận và phê chuẩn việc chiếm và
cầm giữ con tin tại Iran bời Giáo chủ Ayatollah Khomeini cũng
như các cơ quan nhà nước của nước này là cơ sở để quy trách
nhiệm cho Cộng hòa Hồi giáo Iran. Trách nhiệm này tồn tại song
song với trách nhiệm của nhà nước Iran vì không thực hiện các
biện pháp bảo vệ và ngăn chặn sự tấn công vào tòa đại sứ Mỹ tại
đây, vi phạm những nghĩa vụ theo Công ước Vienna năm 1961 .j4
2.1.4. Trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia liên
quan đên việc đôi x ử với công dân nước ngoài
Quốc gia không chỉ chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối
với quôc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế, mà còn đôi với
cả công dân nước ngoài. Trình tự gánh chịu trách nhiệm được
thực hiện theo lộ trình như sau:
-Trước tiên, quốc gia (nhà nước) phải chịu trách nhiệm
pháp lý theo các quy trình cùa luật quốc gia nước mình. Trong
trường hợp quồc gia không thỏa mãn các đòi hỏi và yêu câu hợp
pháp của người bị hại (người nước ngoài), thì trách nhiệm pháp
lý của quốc gia sẽ được nâng cấp và trở thành trách nhiệm pháp
lý quốc tế.
33 Militaiy and Paramilitary Activities in and against Nicaragua (Nicaragua
V. United States of America), Merits, Judgment, ICJ Reports 1986, tr. 51,
đoạn 86.
34 United States Diplomatic and Consular Staff in Tehran, Judgment, ICJ
Reports 1980, tr. 35, đoạn 74.
445
- Quốc gia mà người bị hại là công dân sẽ chính thức thực
hiện các hoạt động bảo hộ ngoại giao theo luật quốc tê, có thể
khởi kiện theo luật quốc tế chống lại quốc gia gây hại cho công
dân nước mình. Trong trường hợp diễn tiến như trên, trách
nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh giữa quốc gia gây hại cho người
nước ngoài với quôc gia mà người bị hại là công dân.
2.2. Căn cứ xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế
Nguyên tắc về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia về
hành vi sai trái quốc tế đã được khẳng định tại Điêu 1 của các Dự
thảo năm 1996 và 2001, theo đó “mọi hành vi sai trái có tỉnh
quốc tế của quốc gia đều dẫn đến trách nhiệm pháp lý của quốc
gia đó”.ĩ5 Nguyên tắc này đã được Tòa Thường trực của Hội
quốc liên áp dụng trong án lệ Phosphates in Morroco năm 1938,
theo đó Tòa tuyên bố hành vi sai trái của một quốc gia chống lại
một quôc gia khác sẽ “tức thì dân đên trách nhiệm pháp lý quôc
tế giữa hai quốc gia «ày”3
5
36 và một sô án lệ nổi tiêng như Nhà
máỵ Chorzow (1927)37 và Wimbledon (1923).38 Tòa án Công lỵ
quốc tế cũng đã áp dụng nguyên tắc nói trên tại các phán quyết
của mình trong các vụ Corfu (1949);39 Hành động quân sự và
bản quân sự chống lại Nicaragua (1986)40 và Dự án Gabcikovo-
Nagymaros (1997)41 cũng như đề cập trong kết luận tư vấn trong
vụ Reparation o fInjuries (1949).42
35 Điều 1 Dự thảo 2001.
36Phosphates in Morocco [1938] PCD Series B No. 74.
j7 Factory at Chorzow, Jurisdiction, Judg ment No. 8, 1927, PCD, Series A,
No. 9.
s.s. “ Wimbledon ”, 1923, P.C.I.J., Series A, No. 1.
Corfu Channel, Merits, Judgment, ICJ Reports 1949.
Military and Paramilitary Activities in and against Nicaragua (Nicaragua
V. United States of America), Merits, Judgment, ICJ Reports 1986.
Gabcikovo-Nagymaros Project (HungarylSlovakia), Judgment, I CJ Reports
1997.
Reparation for Injuries Suffered in the Service of the United Nations,
Advisory Opinion, ICJ Reports 1949.
4 4 6
Dựa trên cơ sở Dự thảo Công ước năm 2001, cũng như các
điều ước quốc tế chung hay chuyên môn và các nghị quyết của
LHQ, có thể xác định căn cứ mà dựa trên đó trách nhiệm pháp lý
quốc tế chủ quan của chủ thể luật quốc tế có thể bị truy cứu. Cụ
thể, phải có hành vi trái pháp luật quốc tế, có thiệt hại thực tế
phát sinh và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật
quốc tế và thiệt hại thực tế.
2.2.1. Hành vi trái pháp luật quốc tế
Đây là căn cứ đầu tiên để tiến hành các thủ tục tố tụng càn
thiết truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế chủ quan của quốc gia.
Việc xác nhận sự tồn tại của hành vi trái pháp luật quốc tế cần
phải cụ thể và rõ ràng, bao gồm những nội dung sau đây:
* Hành vi vỉ phạm bao gồm hành động {action) hoặc
không hành động {omission) trái pháp luật quốc tế
Hành vi trái pháp luật quốc tế bao gồm hành vi của các cơ
quan nhà nước, nhân viên, viên chức nhà nước hay công dân của
quốc gia đó. Hành vi trái pháp luật quốc tế bao gồm hành động
và việc không hành động trái với pháp luật quốc tế.
Dự thảo Công ước về trách nhiệm pháp lý của quốc gia
năm 2001 đã chi rõ:
"Hành vi sai trái mang tỉnh chất quốc tế của một quốc gia
xuât hiện khi quôc gia đó thực hiện một hành động hoặc không
hành động và:
a. Hành vi được quy cho quốc gia căn cứ vào luật quốc tế;
b. Hành vi tạo ra một sự vi phạm nghĩa vụ quốc tế của
quốc gia đó ”43
Hành động trái pháp luật quốc tế có thể là: xâm chiếm
lãnh thổ của quốc gia khác; tấn công vũ trang nhằm vào một
43 Đi
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf

More Related Content

PDF
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.1.pdf
DOCX
9.1. Kịch bản Diễn án LS. DS 07 FULL TÊN.docx
PDF
Dự án khởi nghiệp cafe sách
PDF
HỘI THẢO MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC CỦA MÔN VẬT LÍ TRONG...
DOC
Câu hỏi ôn tập môn luật ngân hàng có dan an
PDF
Kỷ nguyên mới của quản trị b 3991423
DOC
Quản lý hoạt động dạy học ở trường trung học cơ sở thuộc thành phố Cà Mau, t...
PDF
Trắc nghiệm môn Pháp luật đại cương có đáp án_1102292.pdf
Giáo trình công pháp quốc tế, Q.1.pdf
9.1. Kịch bản Diễn án LS. DS 07 FULL TÊN.docx
Dự án khởi nghiệp cafe sách
HỘI THẢO MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG DẠY VÀ HỌC CỦA MÔN VẬT LÍ TRONG...
Câu hỏi ôn tập môn luật ngân hàng có dan an
Kỷ nguyên mới của quản trị b 3991423
Quản lý hoạt động dạy học ở trường trung học cơ sở thuộc thành phố Cà Mau, t...
Trắc nghiệm môn Pháp luật đại cương có đáp án_1102292.pdf

What's hot (20)

PDF
50 câu hỏi CISG.pdf
DOCX
Liệt Kê 200 Các Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Kinh Tế , Điểm Cao
DOCX
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
PDF
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
PPTX
Tổng quan về Tư pháp quốc tế
PDF
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
PDF
Luận văn: Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế
PDF
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
PDF
Luận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOT
PDF
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
PDF
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
DOCX
Nhật ký thực tập ngành luật và quản trị địa phương Đại học kinh tế.docx
PDF
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
DOC
BÀI MẪU Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường biển,9 ĐIỂM
PDF
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
PDF
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
PDF
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
DOCX
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Việt Nam Về Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa.docx
DOCX
Nhật ký thực tập tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương.docx
PDF
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
50 câu hỏi CISG.pdf
Liệt Kê 200 Các Đề Tài Báo Cáo Thực Tập Luật Kinh Tế , Điểm Cao
Báo Cáo Thực Tập Thủ Tục Giải Quyết Ly Hôn Tại Tòa Án, 9 Điểm.docx
Luận văn: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đối với nhãn hiệu, HAY
Tổng quan về Tư pháp quốc tế
Luận văn: Giải quyết tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ trên biển
Luận văn: Vấn đề bảo lưu điều ước quốc tế trong luật quốc tế
Luận văn: Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải, 9đ
Luận văn: Kết hôn giữa những người song tính và chuyển giới, HOT
Hướng dẫn học tập môn Luật thương mại quốc tế (có đáp án tham khảo)
Luận văn: Hợp đồng thương mại điện tử theo pháp luật Việt Nam
Nhật ký thực tập ngành luật và quản trị địa phương Đại học kinh tế.docx
Luận văn: Kết hôn đồng giới theo pháp luật một số quốc gia, HOT
BÀI MẪU Khóa luận: Pháp luật về bảo vệ môi trường biển,9 ĐIỂM
Luận văn: Pháp luật về hợp đồng kinh doanh bất động sản, HOT
Luận văn: Vấn đề phân định biển theo Công ước Luật biển, HOT
Luận văn: Khởi tố vụ án trong tố tụng hình sự Việt Nam, HOT
Báo Cáo Thực Tập Pháp Luật Việt Nam Về Hợp Đồng Mua Bán Hàng Hóa.docx
Nhật ký thực tập tại Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bình Dương.docx
Tòa án trọng tài thường trực La Haye giải quyết tranh chấp quốc tế
Ad

Similar to Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf (20)

PDF
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
PDF
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
PDF
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
PDF
Luận văn: Nguyên tắc nhân tạo trong quy chế Rome 1998, HOT
PDF
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
PDF
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
PDF
Đề tài: Pháp luật về phương thức nhờ thu trong thanh toán, HOT
PDF
Luận văn: Quy trình tố tụng theo quy chế của ICC, HOT
PDF
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
PDF
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
PDF
Phòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, HOT
PDF
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
DOC
Khởi Tố Vụ Án Trong Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
PDF
Tổ chức phi chính phủ nước ngoài về quyền con người Việt Nam
PDF
Tổ chức phi chính phủ nước ngoài và bảo đảm quyền con người ở Việt Nam
PDF
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
DOC
Tội tham ô tài sản trong Luật hình sự VN.doc
PDF
Luận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAY
PDF
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
PDF
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Luận văn: Tội vu khống trong luật hình sự Việt Nam, HOT
Luận văn: Bảo vệ quyền con người bằng chế định hình phạt, HOT
Bảo vệ quyền con người bằng các chế định về chấp hành hình phạt
Luận văn: Nguyên tắc nhân tạo trong quy chế Rome 1998, HOT
Đề tài: Quyền con người trong luật hình sự theo luật quốc tế, HAY
Luận văn: Vấn đề quyền con người và can thiệp nhân đạo, HAY
Đề tài: Pháp luật về phương thức nhờ thu trong thanh toán, HOT
Luận văn: Quy trình tố tụng theo quy chế của ICC, HOT
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam
Luận văn: Miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự, HOT
Phòng, chống tra tấn trong pháp luật quốc tế và Việt Nam, HOT
Đề tài: Quyền con người và chủ quyền quốc gia theo pháp luật
Khởi Tố Vụ Án Trong Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Tổ chức phi chính phủ nước ngoài về quyền con người Việt Nam
Tổ chức phi chính phủ nước ngoài và bảo đảm quyền con người ở Việt Nam
Bảo đảm quyền con người trong thực hành quyền công tố, HOT
Tội tham ô tài sản trong Luật hình sự VN.doc
Luận văn: Độc lập tư pháp và bảo đảm quyền con người, HAY
Đề tài: Bảo vệ quyền con người bằng các quy phạm về tội phạm, HAY
Luận văn: Bảo đảm quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật
Ad

More from Man_Ebook (20)

DOCX
SKKN Ứng dụng phần mềm Javalab trong dạy học phần liên kết hóa học môn Khoa h...
PDF
Giáo trình quy hoạch và phân tích thực nghiệm.pdf
PDF
Tuyển tập trinh tiết và đặc trưng truyện ngắn Akutagawa Ryunosuke.pdf
PDF
Giáo trình Thiết kế các hệ thống trên ô tô - Tập 2. Thiết kế các bộ phận trên...
PDF
Giáo trình thực hành trang bị điện - theo phương pháp Mô đun.pdf
PDF
Giáo trình Kỹ thuật cảm biến - Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội.pdf
PDF
Giáo trình Động lực học máy, Nguyễn Văn Khang.pdf
PDF
Giáo trình Đo lường điện và thiết bị đo.pdf
PDF
Giáo trình Kỹ thuật đo Điện - Điện tử.pdf
PDF
Giáo trình Quy hoạch thực nghiệm, Nguyễn Doãn Ý.pdf
PDF
Chitosan and alginate/Aspergillus flavus-mediated nanocomposite films for pre...
PDF
Development of a multifunctional and sustainable pterostilbene nanoemulsion i...
PDF
Tiếng Anh chuyên ngành Dược English in Pharmacy.pdf
PDF
Phát hiện và phòng chống xâm nhập trái phép mạng máy tính, Nguyễn Đình Tình.pdf
PDF
First-principles and experimental insight of high-entropy materials as electr...
PDF
Boron nitride nanoslits for water desalination via forward osmosis_ A molecul...
PDF
Advancements in Knowledge Distillation Towards New Horizons of Intelligent Sy...
PDF
Applying response surface methodology to optimize partial nitrification in se...
PDF
Accuracy of Subthalamic Nucleus Electrode Implantation in Deep Brain Stimulat...
PDF
SPIN Selling Hardcover – by Neil Rackham (Author)
SKKN Ứng dụng phần mềm Javalab trong dạy học phần liên kết hóa học môn Khoa h...
Giáo trình quy hoạch và phân tích thực nghiệm.pdf
Tuyển tập trinh tiết và đặc trưng truyện ngắn Akutagawa Ryunosuke.pdf
Giáo trình Thiết kế các hệ thống trên ô tô - Tập 2. Thiết kế các bộ phận trên...
Giáo trình thực hành trang bị điện - theo phương pháp Mô đun.pdf
Giáo trình Kỹ thuật cảm biến - Trường ĐH Công nghiệp Hà Nội.pdf
Giáo trình Động lực học máy, Nguyễn Văn Khang.pdf
Giáo trình Đo lường điện và thiết bị đo.pdf
Giáo trình Kỹ thuật đo Điện - Điện tử.pdf
Giáo trình Quy hoạch thực nghiệm, Nguyễn Doãn Ý.pdf
Chitosan and alginate/Aspergillus flavus-mediated nanocomposite films for pre...
Development of a multifunctional and sustainable pterostilbene nanoemulsion i...
Tiếng Anh chuyên ngành Dược English in Pharmacy.pdf
Phát hiện và phòng chống xâm nhập trái phép mạng máy tính, Nguyễn Đình Tình.pdf
First-principles and experimental insight of high-entropy materials as electr...
Boron nitride nanoslits for water desalination via forward osmosis_ A molecul...
Advancements in Knowledge Distillation Towards New Horizons of Intelligent Sy...
Applying response surface methodology to optimize partial nitrification in se...
Accuracy of Subthalamic Nucleus Electrode Implantation in Deep Brain Stimulat...
SPIN Selling Hardcover – by Neil Rackham (Author)

Recently uploaded (20)

DOCX
LUẬN VĂN GROUP ĐỀ BÀI ĐÁNH GIÁ GIAO TIẾP SƯ PHẠM
PDF
Cơ bản về matlab simulink cho người mới bắt đầu
PPTX
Chương 5 của Tâm lí học - Tâm Lí Học Giáo Dục Đạo Đức
PDF
BÀI HỌC ÔN TẬP CHO THI NỘI DUNG MÔN HOẠCH ĐỊNH
PPTX
KINH TẾ CHÍNH TRỊ - HÀNG HÓA THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ...
DOCX
Chủ nghĩa xã hội khoa học - Đề Cương Cuối Kỳ.docx
PDF
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
PPTX
Triet hoc con nguoi va triet hoc thac si
PDF
Sách không hôi fyjj ịuk gtyi yu> ướt jiii iiij
PPTX
Bai 28 Cau tao chat Thuyet dong hoc phan tu chat khi.pptx
PDF
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 11 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
DOCX
Ôn tập văn học phương đông thi giữa kì ..
PPTX
CHƯƠNG I excel,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
PDF
TeétOrganicChemistryFromVietNamVeryHardd
PPTX
VNR202 LỊCH SỬ ĐẢNG, MÔN HỌC CẦN THIẾT C
PDF
SÁNG KIẾN “NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TỰ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG MỀM CHO HỌC S...
PPTX
Ứng dụng AI trong hệ thống cơ điện của nhóm 3.pptx
PDF
TUYỂN TẬP ĐỀ KIỂM TRA HÓA HỌC HỮU CƠ THI THỬ OLYMPIC HÓA HỌC QUỐC TẾ (VÒNG 2)...
DOCX
ôn tập thơ 4 chữ, 5 chữ ngữ văn 7 ctst sgk
PDF
bai giang an toan thong tin ke toan nam 2020
LUẬN VĂN GROUP ĐỀ BÀI ĐÁNH GIÁ GIAO TIẾP SƯ PHẠM
Cơ bản về matlab simulink cho người mới bắt đầu
Chương 5 của Tâm lí học - Tâm Lí Học Giáo Dục Đạo Đức
BÀI HỌC ÔN TẬP CHO THI NỘI DUNG MÔN HOẠCH ĐỊNH
KINH TẾ CHÍNH TRỊ - HÀNG HÓA THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ...
Chủ nghĩa xã hội khoa học - Đề Cương Cuối Kỳ.docx
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 12 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
Triet hoc con nguoi va triet hoc thac si
Sách không hôi fyjj ịuk gtyi yu> ướt jiii iiij
Bai 28 Cau tao chat Thuyet dong hoc phan tu chat khi.pptx
CHUYÊN ĐỀ DẠY THÊM HÓA HỌC LỚP 11 CẢ NĂM THEO FORM THI MỚI BGD - CÓ ÔN TẬP + ...
Ôn tập văn học phương đông thi giữa kì ..
CHƯƠNG I excel,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,,
TeétOrganicChemistryFromVietNamVeryHardd
VNR202 LỊCH SỬ ĐẢNG, MÔN HỌC CẦN THIẾT C
SÁNG KIẾN “NGHIÊN CỨU VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TỰ RÈN LUYỆN KỸ NĂNG MỀM CHO HỌC S...
Ứng dụng AI trong hệ thống cơ điện của nhóm 3.pptx
TUYỂN TẬP ĐỀ KIỂM TRA HÓA HỌC HỮU CƠ THI THỬ OLYMPIC HÓA HỌC QUỐC TẾ (VÒNG 2)...
ôn tập thơ 4 chữ, 5 chữ ngữ văn 7 ctst sgk
bai giang an toan thong tin ke toan nam 2020

Giáo trình công pháp quốc tế, Q.2.pdf

  • 1. GIÁO TRÌNH OƯỐC TẾ Thư viện-ĐH Quy Nhơn '< = ^ ■ S tm lllllll llllllllllllllll III 1 1 11 llilllllill _____Ậ» (Quyển 2) ì NHÀ XUẤT BẢN HỔNG Đức - HỘI LUẬT GIA VIỆT NAM
  • 2. Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỔ CHÍ MINH GIÁO TRÌNH &TẬP BÀI GIẢNG Dùng cho chương trình đào tạo cử nhân đại học luật Đã phát hành Giáo trình 01. Bẩu cử trong nhà nước pháp quyển (Dùng cho cả sau ĐH) 02. Công pháp quốc tế - Quyển 1 03. Công pháp quốc tế - Quyển 2 04. Kỹ năng nghiên cứu và lập luận 05. kỹ thuật soạn thảo văn bản 06. Những quy định chung vé luật dân sự 07. Luật Hình sự Việt Nam - Phẩn chung 08. Luật Hình sự Việt Nam - Phẩn các tội phạm - Quyển 1 09. Luật Hình sựViệt Nam - Phẩn các tội phạm - Quyển 2 10. Luật Hôn nhân &gia đình Việt Nam 11. Luật Đất đai 12. Luật Lao động 13. Luật Thuế 14. Luật Ngân hàng 15. Luật Sở hữu trí tuệ 16. Luật Tố tụng dân sự Việt Nam 17. Luật Tố tụng hành chính Việt Nam 18. Luật Tố tụng hình sự Việt Nam 19. Luật Hành chính Việt Nam 20. Luật Hiến pháp Việt Nam 21. Luật Thương mại quốc tế - Phẩn I 22. Luật Thương mại quốc tế - Phần II 23. Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới 24. Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam 25. Pháp luật đại cương 26. Pháp luật vé hợp đổng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đổng 27. Pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế 28. Pháp luật về thương mại hàng hóa và dịch vụ 29. Pháp luật vể cạnh tranh và giải quyết tranh chấp thương mại 30. Pháp luật vé chủ thể kinh doanh 31. Tâm lý học đại cương 32. Tội phạm học 33. Tư pháp quốc tế 34. Xã hội học đại cương Tập bài giảng 01. Đại cương văn hóa Việt Nam 02. Giám định pháp y 03. Logic học 04. Lý luận về nhà nước 05. Lý luận về pháp luật 06. Lịch sử văn minh thế giới 07. Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam 08. Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới 09. Pháp luật về công chứng luật sư 10. Pháp luật thanh tra, khiếu nại và tố cáo 11. Tin học đại cương MOS - WORD sắp phát hành: - GT Luật Mói trường Mọi clv t/ét xin Hên /lẽ. Trung tâm học liệu, Trường Đại học Luật TP.HCM Táng tròt Khu c, sò 02, Nguyên Tiít Thành, P.12, Q.4,Tp. Hó Chí Minh Điện thoại: 028. 39400989 (149-150) http://nhasach.hcmulci'.v.edu.vn
  • 3. TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH GIÁO TRÌNH CÔNG PHÁP QƯÓC TẾ (Quyển 2) TRƯềNG DẠI HỌC OUY NHƠN ______ THƯ VIỆN VNổr éiSĩA . 3 i a NHẢ XI'ÁT BÂN HÒNG o ủ c HỘI LliẠT GIA VIẸT NAM
  • 4. Chủ biên TS Trần Thị Thùy Dương TS Trần Thăng Long Biên soạn Chương I TS Tràn Thị Thùy Dương - TS Trần Thăng Long Chương II TS Ngô Hữu Phước Chương III TS Trần Thăng Long Chương IV TS Ngô Hữu Phước Chương V TS Ngô Hữu Phước Chương VI TS Trần Thăng Long - CN Hà Thị Hạnh Chương VII ThS Nguyễn Thị Vân Huyền - ThS Lê Đức Phương Chương VIII TS Trần Thăng Long * :~ ~ Chương IX TS Trần Thăng Long - ThS Nguyễn Ngọc Lâm Chương X TS Nguyễn Thị Phương Hoa Chương XI TS Trần Thăng Long Chương XII TS Trần Việt Dũng - TS Trần Phú Vinh - ThS Lê Tấn Phát Chương XIII ThS Nguyễn Thị Yên Chưong XIV TS Trần Thăng Long - ThS Nguyễn Thị Yên
  • 5. LỜI NÓI ĐẦU Nhằm mục đích nâng cao chất lượng đào tạo và cải tiến phưorng pháp giảng dạy đổi với chương trình đào tạo cử nhân Luật tại Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Nhà trường tổ chức biên soạn Giáo trình Công pháp quốc tế. Nội dung của Giáo trình Công pháp quốc tế bao gồm: lý luận chung về luật quốc tế, nguồn của luật quốc tế, chủ thể cúa luật quốc tế, lãnh thổ và biên giới quốc gia, luật biển quốc tế, dân cư trong luật quốc tế, luật ngoại giao và lãnh sự (Quyển 1), luật về các tổ chức quốc tế liên chính phủ, luật quốc tế về quyền con người, luật hình sự quốc tế, luật môi trường quốc tế, luật kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp trong luật quốc tế, trách nhiệm pháp lý quốc tế (Quyển 2). Giáo trình Công pháp quốc tế chắc chắn sẽ còn khiếm khuyết; mong bạn đọc góp ý để lần xuất bản tới, giáo trình được hoàn thiện hơn. Thư từ, ý kiến đóng góp xin được gửi tới: Phòng Đào tạo, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, số 2, Nguyễn Tất Thành, Quận 4, TP Hồ Chí Minh; Điện thoại: 08.39400.723 - 08.37266.333. TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
  • 6. MỤC LỤC (Quyển 2) CHƯƠNG VIII: LUẬT VỀ CÁC TÔ CHỨC QUỐC TẾ LIÊN CHÍNH PHỦ..................................................................................... 16 I. Khái niệm tổ chức quốc tế liên chính phủ và luật các tổ chức quốc tế...............................................................................................16 1.1. Khái niệm tổ chức quốc tế liên chính phủ................................17 1.2. Phân loại tổ chức quốc tế liên chính phủ..............,...................23 1.3. Lịch sử phát triển của các tổ chức quốc tế liên chính phủ.....25 1.4. Luật các tổ chức quốc tế liên chính phủ................................... 27 1.5. Nguồn luật về các tổ chức quốc tế liên chính phủ....................30 II. Quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế liên chính phủ.......31 2.1. Cơ sờ lý luận.............................................................................. 31 2.2. Nội dung quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế liên chính phủ....................................................................................35 2.3. Thành viên của tổ chức quốc tế liên chính phủ.........................38 2.4. Đại diện quốc gia tại tổ chức quốc tế liên chính phủ................50 2.5. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của thành viên tổ chức quốc tế liên chính phủ....................................................................................50 III. Quyền ưu đãi và miễn ừừ đổi với tổ chức quốc tế liên chính phủ...................................................................................52 IV. Cơ cấu tổ chức cùa tổ chức quốc tế liên chính phủ.............57 V. Việc chấm dút tồn tại và sự kế thừa đối với tổ chức quốc tế liên chính phủ.................................................................................. 60 5.1. Tổ chức quốc tế liên chính phủ chấm dứt tồn tại...................60 5
  • 7. 5.2. Vấn đề kế thừa đối với các tổ chức quốc tế liên chính phủ..62 VI. Trách nhiệm pháp lý quốc tế liên quan đến tổ chức quốc tế liên chính phủ...................................................................................63 6.1. Trách nhiệm pháp lý đối vói tổ chức quốc tế liên chính phủ ....64 6.2. Trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế.....................66 CHƯƠNG IX: LUẬT QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI.....71 I. Khái niệm quyền con người và luật quốc tế về quyền con người......................................................................................... 71 1.1. Khái niệm quyền con người....................................................... 71 1.2. Quyên con người trong tương quan so sánh với quyên công dân....................................... 79 1.3. Khái niệm luật quốc tế về quyền con người............................. 81 II. Đối tượng, phương pháp điều chỉnh và nguồn của luật quốc tế về quyền con người......................................................................... 83 2.1. Đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế về quyền con người.....83 2.2. Phương pháp điều chinh của luật quốc tế về quyền con người................................................................................................. 85 2.3. Nguồn của luật quốc tế về quyền con người.............................86 III. Mối quan hệ giữa luật quốc tế về quyền con người và luật nhân đạo quốc tế ...... .......................................................................95 IV. Các quyền con người cơ bản theo luật quốc tế................... 100 4.1. Quyền con người ưong lĩnh vực dân sự, chính trị................... 100 4.2. Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa..................................... 111 4.3. Quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương trong luật quốc tế.............................................................................................. 124 6
  • 8. V. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người..................... 138 5.1. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người của LHQ.......... 139 5.2. Cơ chế khu vực về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người........149 5.3. Cơ chế quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người....... 152 CHƯƠNG X: LUẬT HÌNH s ự QUỐC TẾ................................158 I. Khái niệm luật hình sự quốc tế............................................... 158 1.1. Định nghĩa................................................................................158 1.2. Đối tượng điều chỉnh và cấu trúc của LHSQT................... !.. 162 1.3. Các nguyên tắc của LHSQT....................................................164 1.4. Nguồn của LHSQT..................................................................170 1.5. Mối quan hệ giữa luật hình sự quốc tế và luật hình sự quốc gia..........................................................................................175 1.6. Mối quan hệ giữa LHSQT và các nhánh khác của luật ’ quốc tế..............................................................................................179 II. Tội phạm theo quy định của LHSQT...................................180 2.1. Khái niệm tội phạm quốc té..................................................... 181 2.2. Khái niệm tội phạm có tính chất quốc tế ............................... 183 2.3. Phân biệt tội phạm quốc tế với tội phạm có tính chất quốc tế.......................................................................................... 186 III. Trách nhiệm hình sự quốc tế của cá nhân đối với tội phạm quốc tế.............................................................................................187 3.1. Sơ lược về lịch sử phát triển của chế định trách nhiệm hình sự quôc tể của cá nhân đối với tội phạm quôc tê.................................187 3.2. Các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự đôi với tội phạm quốc tế.............................................................................................. 190 7
  • 9. IV. Thẩm quyền xét xử tội phạm theo LHSQT......................192 4.1. Thẩm quyền xét xử tội phạm quốc tế..................................... 193 4.2. Thẩm quyền xét xử tội phạm có tính chất quốc tế .................194 CHƯƠNG XI: LUẬT MÔI TRƯỜNG QUỐC T Ế .....................200 I. Khái quát về luật môi trường quốc tế .....................................200 1.1. Khái niệm luật môi trường quốc tế.........................................200 1.2. Sự hình thành và phát triển của luật môi trường quốc tế.......203 1.3. Chủ thể của luật môi trường quốc tế ...................................... 212 1.4. Nguồn của luật môi trường quốc tể........................................214 1.5. Một sô nguyên tắc cơ bản của luật môi trường quốc tế.........219 II. Một sô lĩnh vực điều chỉnh cờ bản của luật môi trường quốc tế...................................................................... 238 2.1. Bảo vệ môi trường biển............................................................238 2.2. Bảo vệ khí quyển......................................................................249 2.3. Bảo vệ đa dạng sinh học..........................................................255 2.4. Kiêm soát quốc tế đối với các chất và chất thải độc hại........265 CHƯƠNG XII: LUẬT KINH TẾ QUỐC TÉ.............................. 278 I. Khái quát về luật kinh tế quốc tế ............................................ 278 1.1. Khái niệm và lịch sử phát triển của luật kinh tế quốc tế........279 1.2. Nguồn của luật kinh tế quốc tế ...............................................282 1.3. Phạm vi điều chinh của luật kinh tế quốc tế .......................... 283 1.4. Các nguyên tắc của luật kinh tế quốc tế.................................295 II. Một số chủ thể chủ yếu của luật kinh tế quốc tế ............... 297 2.1. Các tổ chức kinh tế toàn cầu.......................................... 298 2.2. Các tổ chức kinh tế khu vực......................................................321 8
  • 10. CHƯƠNG XIII: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG LUẬT QUỐC T Ế ........................................................................................ 341 I. Khái niệm ....................................................................................341 1.1. Định nghĩa và đặc điểm của tranh chấp quốc tế.....................341 1.2. Phân loại tranh chấp quốc tế.....................................................343 1.3. Thẳm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế............................ 344 1.4. Cơ sờ pháp lý của giải quyết tranh chấp quốc tế....................346 1.5. Ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp quốc tế......................348 1.6. Các đảm bảo ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp theo luật quốc tế ........................................................................................... 349 II. Khái quát về các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế............................................................................................ 352 2.1. Khái niệm và phân loại các biện pháp hòa bình.................... 352 2.2. Các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế...........353 2.3. Giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài quốc tế...................362 2.4. Giải quyết tranh chấp quốc tế tại các tổ chức quốc tế.............366 III. Một số cơ chế giảỉ quyết tranh chấp quốc tế ......................368 3.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp tại Liên họp quốc......................369 3.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN..............................385 3.3. Cơ chế giải quyết tranh chấp theo Công ước 1982 về luật biển........................................................................................ 409 CHƯƠNG XIV: TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ QUỐC TẾ..........420 ỉ. Khái niệm trách nhiệm pháp lý quốc tế..................................421 1.1. Định nghĩa và đặc điểm của nách nhiệm pháp lý quốc tế 421 1.2. Ý nghĩa của chế định '‘trách nhiệm pháp lý quốc tế”.............423 9
  • 11. 1.3. Bản chất pháp lý của trách nhiệm pháp lý quốc tế................ 425 1.4. Nguồn của chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế ................. 425 1.5. Chủ thể của quan hệ ữách nhiệm pháp lý quốc tế................ 429 1.6. Các hành vi làm phát sinh quan hệ trách nhiệm pháp lý quốc tế............................................................................................432 II. Trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia do hành vi trái pháp luật quốc tê (trách nhiệm pháp lý chủ quan)................... 437 2.1. Vấn đề quy trách nhiệm pháp lý đối với quốc gia..................438 2.2. Căn cứ xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế........................ 446 2.3. Xác định quốc gia bị thiệt hại.................................................456 2.4. Thực hiện trách nhiệm pháp ly quốc tế....................................457 2.5. Trường hợp miễn trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc g ia .........................................................................................470 III. Trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế ............ 480 3.1. Cơ sở xác định trách nhiệm của tổ chức quốc tế................... 481 3.2. Việc thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế..............................................................................................483 IV. Trách nhiệm vật chất đối với thiệt hại gây ra bởi hành vi luật quôc tê không câm (trách nhiệm pháp lý khách quan).... 486 4.1. Sự hình thanh và nguôn luật của định chế trách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan................................................... 486 4.2. Căn cứ xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan....487 4.3. Các hình thức thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan............................................................................ 489 10
  • 12. DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ADB: Ngân hàng phát triển châu Á {Asia Development Bank) ALADI: Hội liên kết Mỹ - Latinh {Latin American Intégration Association) APEC: Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (Asia Pacific Economie Coopération) ASEAN: Hiệp hội các quốc gia Đông Nam A {Association o f South East Asian Nations) AU : Liên minh châu Phi {African Union) CARICOM: Cộng đồng kinh tế Caribe {Caribean Communitỳ) CAT: Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục khác {Convention against Torture) CEDAW: Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ {Committee on the Elimination o f Discrimination against Women) CEEAC: Cộng đồng kinh tế các nước Trung Phi {Communauté Economique des Etats d ’ Afrique) CHLB: Cộng hòa liên bang CHND: Cộng hòa nhân dân CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa CITES: Công ước về Buôn bán quốc tế các loại động thực vật hoang dã nguy cấp (Convention on International Trade in Endangered Species ofW ild Faima 'and Flora) CMEA: Hội đồng tương trợ kinh té {Council o f Mutual Economie Assistance) 11
  • 13. COPAL: Liên minh những nước sàn xuất ca cao {Alliance o f Cocoa Producing Countries) CRC: Công ước về quyền trẻ em {Convention on the Rights o f the Child) CSCE: Hội nghị về An ninh và Hợp tác ở châu Âu {Conference on Security and Co-operation in Europe) CSW: ủy ban về địa vị phụ nữ {Commission on the Status o f Women) ĐHĐ: Đại Hội đồng ĐHĐ: Đại hội đồng EAEC: Cộng đồng châu Âu về năng lượng nguyên từ {European Atomic Energy Community) ECOCAS: Cộng đồng Kinh tế Trung Phi {Economic Community o f Central African States) ECOSOC: Hội đồng kinh tế xã hội {Economic and Social Council) ECOWAS: Cộng đồng kinh tế các nước Tây Phi {Economic Community o f West African States) ECOWAS: Cộng đồng Kinh tế Tây Phi {Economic Community o f West African States) ECSC: Cộng đồng châu Âu về than và thép {European Coal and Steel Community) EEC: Cộng đồng kinh tế châu Âu {European Economic Community) EFTA: Khu vực thưorng mại tự do châu Âu {European Free Trade Association) EU: Liên minh châu Âu {European Union) FAO: Tổ chức nông lưong {Food and Agriculture Organization) 12
  • 14. GATT: Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (General Agreement on Trade and Tariffs) HĐBA: Hội đồng Bảo an HĐKTXH: Hội đồng Kinh tế Xã hội IAEA: Tổ chức Năng lượng Nguyên tử Thế giới (International Atomic Energy Agency) ICC: Tòa án hình sự quốc tế (International Criminal Court) ICCPR: Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị (International Covenant on Civil and Political Rights) ICERD: Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc (International Convention on the Elimination o f All Forms o fRacial Discrimination) ICESCR: Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights) ICJ: Tòa án Công lý quốc tế (International Court o fJustice) ICPPED: Công ước quốc tế về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị đưa đi mất tích (International Convention for the Protection o f All Personsfrom Enforced Disappearance) ICRMW: Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của mọi người lao động di trú và các thành viên của gia đình họ (Convention on the Protection o f the Rights o fAll Migrant Workers and Members o f Their Families) ICRPD: Công ước về quyền của những người khuyêt tật (Convention on the Rights o fPersons with Disabilities) ICSID: Trung tâm Quốc tế về Giải quyết các tranh chấp về đầu tư (International Centre for the Settlement o f Investment Disputes) 13
  • 15. ILO: Tổ chức lao động quốc tế {International Labor Organization) IMCO: Tổ chức Tư vấn hàng hải quốc tế {International Maritime Consultative Organization) IMF: Quỹ Tiền tệ Quốc tế {International Monetary Fund) IMO: Tổ chức Hàng hải Quốc tế {International Maritime Organization) ITLOS: Tòa án Quốc tế về Luật biển {International Tribunalfor the Law o f the Sea) ITU: Liên minh điện tín thế giới {International Telegraph Union) IUCN: Liên minh Quốc tế về Bảo tồn thiên nhiên {International Unionfor the Conservation o fNature) LHQ: Liên hợp quốc MARPOL: Công ước về Ngăn chặn ô nhiễm biển từ tàu thuyền {International Convention for the Prevention o f Pollution from Ships) MERCOSUR: Khối Thị trường chung Nam Mỹ {Mercado Común del Sur) NATO: Khối Quân sự Bắc Đại Tây Dương {North Atlantic Treaty Organization) Nxb: Nhà xuất bản OAS: Tổ chức các nước châu Mỹ {Organizations o f American States) OAU: Tổ chức thống nhất Châu Phi {Organization o f African Unity) OECD: Tô chức hợp tác về kinh tế và phát triển {Organisation for Economic Co-operation and Development) 14
  • 16. OPEC: Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (Organization o f Petroleum Exporting Countries) PCA: Tòa Trọng tài Thường trực của Hội Quốc liên (Permanent Court o fArbitration) TACLQT: Tòa án công lý quốc tế TAQT: Tòa án quốc tế UDHR: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 (Universal Declaration o fHuman Rights) UIC: Liên hiệp vận tải đường sắt quốc tế {International Union o f Raiways) UNDP: Chuông trình phát triển của Liên hợp quốc {United Nations ’Development Programme) UNEP: Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (United Nations ’Environment Programme) UNESCO: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quôc {United Nations’ Educational, Scientific and Cultural Organization) UNICEF: Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc {The United Nations’ Children’ s Fund) UNIDO: Tổ chức Phát triển Công nghiệp của Liên hợp quốc {The United Nations ’Industrial Development Organization) UPU: Liên minh bưu chính thế giới {Universal Postal Union) WB: Ngân hàng Thế giới {WorldBank) WHO: Tổ chức y tế thế giới {World Health Organization) WTO: Tổ chức thương mại thế giới {World Trade Organization) XHCN: Xã hội chủ nghĩa 15
  • 17. CHƯƠNG VIII LUẬT VẺ CÁC TỎ CHỨC QƯÓC TẾ LIÊN CHÍNH PHỦ Các tổ chức quốc tế liên chính phủ đang chứng tỏ vai trò ngày càng quan trọng của mình trong đời sống quốc tế. Tô chức quốc tế phổ cập lớn nhất là LHQ có ảnh hưởng sâu sắc đên việc giải quyết các các vấn đề chung của nhân loại, đặc biệt là hòa bình và an ninh thê giới. Trong khi đó, Tô chức Thương mại thê giới (World Trade Organization, WTO) đóng vai ữò quan trọng trong việc phát triển hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thương mại. Các tô chức quôc tê khu vực có ảnh hưởng mạnh mẽ đên tiên trình hội nhập và xóa bỏ khoáng cách địa lý, kinh tế chính trị và văn hóa xã hội giữa các quốc gia trong khu vực, với minh chứng rõ rệt nhât là Liên minh châu Âu. Chính vì vậy, cần nghiên cửu các tô chức quôc tế, khung pháp lý điều chỉnh tổ chức quốc tế và hoạt động của những tổ chức này. Chương này nghiên cứu những nội đung cơ bản của luật các tô chức quôc tê liên chính phủ (law on intergovernmental organizations), bao gồm khái niệm tổ chức quốc tế liên chính phủ và luật các tô chức quốc tế liên chính phủ; vấn đề quyền năng chủ thê luật quôc tế; quyền ưu đãi và miễn trừ của tổ chức quôc tê liên chính phủ trong quan hệ quốc tế; cơ cấu tổ chức, việc châm dứt tôn tại và sự kế thừa đối với tổ chức quốc tê và vân đê trách nhiệm pháp lý quốc tế đặt ra đối với chủ thể này. I. KHÁI NIỆM TỎ CHỨC QUÓC TÉ LIÊN CHÍNH PHỦ VÀ LUẬT CÁC TỎ CHỨC QUÓC TÉ Tiên thân của tô chức quốc tế liên chính phủ là những hiệp hội và liên kêt các quốc gia trong thời kỳ cổ đại và cận đại. Tố chức quôc tê liên chính phủ bắt đầu phát triển mạnh mẽ trong thời kỳ hiện đại và có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của 16
  • 18. hệ thống luật quốc tế. Phần này sẽ đi vào nghiên cứu khái niệm của tổ chức quốc tế liên chính phủ, những đặc điểm cơ bản và sự phân loại các tổ chức quốc tế liên chính phủ; đồng thời giới thiệu nhũng nội dung cơ bản của luật các tổ chức quốc tế liên chính phủ, một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc tế. 1.1. Khái niệm tể chức quốc tế liên chính phủ Trong vụ Bồi thường những thiệt hại do thực hiện các công việc của LHQ {Reparations for Injuries in the Service o f the United Nations), Tòa án Công lý quốc tế đã nhẩn mạnh: “Trong suốt lịch sử của mình, sự phát triển của luật quốc tế chịu sự chi phối bởi những yêu cầu của đời sống quốc tế, và sự phát triển không ngừng trong các hoạt động tập thể của các quốc gia đã cho thấy bằng chứng về hoạt động trên bình diện quốc tế của những thực thể không phải là quốc gia”.1 Khi ra đời vào cuối thế kỷ XIX,2 các thực thể liên quốc gia được gọi và những “tổ chức quốc tế” (international organizations). Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, xuất hiện thuật ngữ “tổ chức quốc tế liên chính phủ” {intergovernmental organizations) hoặc “tổ chức quốc tế công” {public international organizations). Trong khoa học luật quốc tế, nhìn chung không có sự khác biệt về cách định nghĩa tô chức quôc tê liên chính phủ, do đó các thuật ngữ tổ chức “liên chính phủ”, “liên quôc gia”... có thể được sử dụng để chỉ về những thực thê ngoài quôc gia này mà không làm ảnh hưởng đến bản chất của chúng. Thuật ngữ “tổ chức quốc tế liên chính phủ” dược sử dụng rộng rãi bởi ủy ban Pháp luật quốc tế và điều này có ảnh hường đến một số điều ước quốc tế phổ cập như Công ước Vienna vê luật điều ước quốc tế năm 1969, Công ước Vienna vê đại diện 1 International Court of Justice, Reparations for Injuries in the Service of the United Nations (Advisory Opinion), ICJ Reo, 1949, 'I. ---- — -------— - 2 Xem muc 1.4 của Clnrong này. TRƯỚNG OẠI HỌC QUY NHƠN s J T u ir u ic u =47 THƯ VIỀN V M Ể r «aỉi.ỉ
  • 19. quốc gia trong quan hệ với các tô chức quôc tê phô cập năm 1975, Công ươc Vienna về luật điều ước quốc tế giữa quốc gia với các tổ chức quốc tế và giữa các tô chức quôc tê V Ớ I nhau năm 1986. Trong các văn bản trên, tổ chức quốc tế được gọi là tô chức quốc tế liên chính phủ.3 Cách sử dụng thuật ngữ này cũng nhằm mục đích loại trừ những quy tắc có thể áp dụng cho những tổ chức quốc tế phi chính phủ, vốn là tổ chức quốc tê do các cá nhân hoặc tổ chức sáng lập và những chủ thể sáng lập đó không có tư cách đại diện cho nhà nước.4 về cơ bản, tô chức quôc tê liên chính phủ {intergovernmental organization) thường được định nghĩa là “tổ chức được thành lập bởi thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều quốc gia”.5 Tổ chức quốc tế liên clỊÍnh phủ có thể được định nghĩa là thực thể liên kết các quốc gia độc lập và các chù thê khác của luật quốc tế, thành lập trên cơ sở điều ước quốc tê, có quyên năng chủ thể luật quốc tế, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, phù hợp nhằm duy trì sự hoạt động thường trực và nhằm đạt được những mục đích, tôn chỉ của tổ chức.6 Từ định nghĩa trên, có thể rút ra 5 đặc điểm của tổ chức quốc tế liên chính phủ: các tổ chức này được thành lập bởi các quôc gia (1.1.1), được thành lập và hoạt động trên cơ sở luật 3 Henry G Schemer and Neils M. Blokker, International Institutional Law, Martinus Nijhoff Publishers, 4lhrevised ed, 2003, tr. 21. 4 Henry G Schermer and Neils M. Blokker, sđd, tr. 22. 5 G H Schemers, International Institutional Law, 3rded, 1995; D w Bowett, The Law of International Institutions 4th ed, 1995; R. J Dupuy (ed.), A Handbook on International Organisations, 1988; c Archer, International Organisations, 2n d ed, 1992; w J Feld, International Organisations: A Comparative Approach, 3rd ed, 1994; Louis Jacques and J s Koman, Introduction to International Organisations, 1996. 6 Khái niệm “tô chức quốc tế liên chính phủ” có thê tham khảo thêm tại một sô giáo trình, tài liệu về công pháp quốc tế như Giáo trình Luật Quôc tê của Đại học Luật Hà Nội năm 2007 tf. 245; Giáo trình Luật Quốc tế của Đại học Huế năm 1997, tr. 148, ’ ' 18
  • 20. quốc tế (1.1.2), có trụ sở thường trực (1.1.3), có tư cách chủ thể và quyền năng chủ thể theo luật quốc tế (1.1.4) và được thành lập vì những mục đích nhất định (1.1.5).7 1.1.1. Tổ chức quốc tế liên chinh phủ được thành lập bởi các quốc gia Tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành lập chủ yếu bởi các quốc gia độc lập có chủ quyền, những chủ thể đầu tiên, cơ bản và chủ yếu của luật quốc tế nhằm mục đích giải quyết những vân đề phát sinh giữa các quốc gia. Đặc điểm này giúp phân biệt tô chức quốc tế liên chính phủ với các tổ chức phi chính phủ. Hiện nay, với sự tham gia ngày càng sâu rộng của các chủ thê ngoài quốc gia vào đời sống quốc tế, một tổ chức quốc tế liên chính phủ có thể được thành lập không chỉ bởi các quốc gia. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng, các tổ chức quốc tế liên chính phủ về cơ bản là do các quốc gia thành lập. Việc một số tổ chức quốc tế cho phép thành viên hoặc thành viên sáng lập là những thực thể ngoài quốc gia là những trường hợp hết sức cá biệt nhằm thu hút sự tham gia đông đảo hơn vào tổ chức hoặc để phù hợp với phạm vi và mục đích hoạt động cùa tổ chức. Bản thân tổ chức quốc tế liên chính phủ có thể tham gia thành lập và trở thành thành viên của một tổ chức quốc tế liên chính phủ khác. Chẳng hạn, Liên minh châu Âu (European Union, EU) là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới {World Trade Organization, WTO) và là thành viên của Quỹ Nông lương của LHQ {Food and Agriculture Organization, FAO). Các chủ thể khác của luật quốc tế như các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết hoặc các vùng lãnh thổ cũng có thể tham gia vào một tổ chức quốc tế liên chính phủ, ví dụ: Hongkong, Macau, Đài Loan... là thành viên của WTO. 7 Xem thêm Henry G Schermers and Niels M Blokker, International Institutional Law (Martinus Nijhoff Publishers, 4thed, 2003) tr. 32. 19
  • 21. Tuy nhiên, không phải tất cả các thực thê được tạo ra bởi các quốc gia đều được coi là các tổ chức quôc tê liên chính phủ. Các quốc gia có thể cùng thành lập một tổ chức nhưng tô chức này có quy chế hoạt động theo của một quốc gia xác định nào đó. Thực thể này không được coi là một tổ chức quốc tế liên chính phủ; thay vào đó, nó có thể được coi như một “liên doanh” giữa các quốc gia thành lập. Ví dụ cho trường hợp này là Cơ quan quản lý cảng hàng không Basle - Mulhouse Airport Authority, được thành lập bởi Pháp và Thụy Sĩ và hoạt động trên cơ sở luật của Pháp. 1.1.2. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành lập và hoạt động trên cơ sở luật quốc tế về cơ bản, tổ chức quếc tế liên chính phủ được thành lập trên cơ sờ điều ước quốc tể. Điều ước quốc tế này là cơ sở pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của tổ chức quốc tế đó. Cụ thể, điêu ước quốc tế xác định mục tiêu, phạm vi quyền hạn, khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế và hoạt động của tổ chức quôc tê. Điều này là cơ sở cho phép khẳng định tổ chức quốc tế thành lập và hoạt động trên cơ sở luật quốc tế.8 Tuy nhiên, một số tổ chức quốc tế có thể được thành lập không phải bởi một điều ước quốc tế mà bời hành vi pháp lý của một tô chức quôc tê đang tồn tại. Chẳng hạn, Đại hội đồng LHQ đã thành lập một số tổ chức quốc té khác bởi các nghị quyết {Resolution) của mình như Tổ chức Phát triển công nghiệp của LHQ {The United Nations Industrial Development Organization, UNIDO) và Quỹ Nhi đồng LHQ {The United Nations Children ’ s Fund, UNICEF). Một số tổ chức quốc té không nhất thiết phải được thành lập trên cơ sờ điều ước như Hội đồng các nước Bắc 8 Jan Klabber, An Introduction to International Institutional Law, Cambridge, 2nd ed., 2009, trang 9. 20
  • 22. Âu {Nordic Council) là một hình thức hợp tác giữa nghị viện các nước Bắc Âu9 mà không phải là một tổ chức thành lập bời một điêu ước giữa các quốc gia này. 1.1.3. Tổ chức quốc tế liên chính phủ có cơ quan thường trực Tổ chức quốc tế có cơ cấu tổ chức thường trực nhằm duy trì hoạt động và thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình. Cơ cấu tổ chức của các tổ chức quốc tế khác nhau căn cứ vào nhu câu, mục đích và ý chí của các quôc gia thành lập quyêt định. Nhìn chung, cơ cấu này bao gồm các cơ quan chính và những cơ quan bổ trợ khác. Ngoài ra, tổ chức quốc tế còn có trụ sở chính, nơi diễn ra các hoạt động chủ yếu của tổ chức và tập trung các cơ quan điều hành của tổ chức. Đặc điểm này giúp phân biệt giữa một tổ chức quốc tế liên chính phủ và những hình thức hợp tác quốc tế giữa các chủ thể luật quốc tế như hội nghị quốc tế và các diễn đàn họp tác quốc tế. 1.1.4. Các tổ chức quốc tế liên chính phủ có tư cách chủ thể và quyền năng chủ thể theo luật quốc tế Mặc dù chủ yếu được thành lập bởi các quôc gia, tô chức quốc tế liên chính phủ cũng là chủ thể có khả năng tham gia vào các quan hệ quốc tế như các quốc gia thành viên đã thành lập ra tổ chức. Tư cách chủ thể luật quốc tê của tô chức quôc tê độc lập với chính các quốc gia thành viên. Tô chức quốc tế có các chức năng, quyền và nghĩa vụ riêng biệt của chính nó, do vậy tổ chức quốc tế không phải là một sự tập hợp thuần túy của các quốc gia.10 Đặc điểm này giúp phân biệt tô chức quôc tê với các hình thức hợp tác khác của quôc gia như các diễn đàn, hội nghị quốc tế. 9 Bao gồm Đan Mạch, Phần Lan, Iceland, Na Uv và Thụy Điển. 10 Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of International Organisations, Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 390. 21
  • 23. Điều này được minh chửng ở khả năng của tổ chức quôc tể trong việc xây dựng pháp luật quôc té (điều ước quôc tê và tập quán quốc tế), ấn định các quyên và nghĩa vụ cho các thành viên, giải quyết tranh chấp quôc tê, thực thi trách nhiệm pháp lý quôc tế và bồi thường thiệt hại. Ngoài ra, tổ chức quốc tê có quyền quyết định những vấn đê nội bộ của tổ chức mình. Tuy nhiên, quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế liên chính phủ có tính chất phái sinh, do đó tổ chức quốc tế còn có thể được gọi là chủ thể hạn chế của luật quốc tế. Tính chât phái sinh thể hiện ờ chỗ quyền năng chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế không xuất phát từ “chủ quyền” như các quốc gia. Tổ chức quốc tế không phải là một thực thể cỏ chủ quyền vì không đáp ứng các tiêu chí cấu thành một quốc gia (dân cư, lãnh thổ, chính quyền, sự thực thi quỳền lực nhà nước). Các tổ chức quốc tế được hình thành bởi ý chí và nhằm đáp ứng nhu cầu của các quốc gia, do đó quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế bị giới hạn trong chừng mực mà các quốc gia thành lập tổ chức ừao cho nó cũng như phải phù hợp với lĩnh vực hoạt động của tô chức. Đặc diêm này giúp phân biệt giữa tổ chức quốc tế và một nhà nước liên bang. 1.1.5. Các tô chức quôc tế liên chỉnh phủ được thành lâp vì những mục đích nhất định Các tô chức quốc tế liên chính phủ được thành lập để hoạt độnẹ vì những mục đích nhất định do các quốc gia thành viên quyet đinh. Mục đích nàỵ thường nhàm phục vụ cho lợi ích của các quôc gia thành lập tổ chức. Các tổ chức quốc tế có những mục đích hoạt động khá đa dạng, chẳng hạn tổ chức LHQ được thành lập nhằm mục đích chủ yỉu là bảo vệ hòa bỉnh và an ninh thê giới; tô chức ASEAN (Association o f South East Asian Nations) được thành lập nhằm mục đích cơ bản là duy trì và thúc dạy hòa bình, an ninh và ổn định và tăng eường hơn nữa các giá tri hướng tới hòa bình trong khu vực. Đây là đặc điểm quan trọng giup phân biệt tô chức quôc tế liên chính phủ với quốc gia, vốn 22
  • 24. có mục đích đại diện toàn bộ quyền và lợi ích của quốc gia írên mọi lĩnh vực. Đây cũng chính là một trong những lý do khiên tô chức quốc tế liên chính phủ được coi là một chủ thể hạn chế của luật quốc tế, bởi sự hạn chế về mục đích dẫn đến hạn chế vê chức năng, thẩm quyền... Mục đích hoạt động của tổ chức quôc tê liên chính phủ cũng là một yếu tố giới hạn quyền năng chù thê của tổ chức quôc tê và giúp phân biệt giữa các tô chức quôc tê liên chính phủ vói nhau. 1.2. Phân loại tổ chức quắc tế liên chính phủ Tổ chức quốc tế có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên sự phân loại này chỉ là tương đôi. Căn cứ vào chức năng của tổ chức quốc tế liên chính phủ, có thê phân loại các tổ chức này thành: - Các tổ chức quốc tế về kinh tế, ví dụ Tổ chức Thương mại thê giới (World Trade Organization, WTO), Quỹ Tiên tệ quôc tế {International Monetary Fund, IMF), Ngân hàng Thế giới {World Bank,WB)... - Các tổ chức quốc tế về quân sự, ví dụ như Khôi Quân sự Bắc Đại Tây Dương {North Atlantic Treaty Organization, NATO), Khối Warsawa trước đây.1 1 - Các tổ chức quốc tế về hòa bình và an ninh, ví dụ: LHQ. Căn cứ vào thành viên của tổ chức quốc tê liên chính phủ, có thê phân loại các tô chức này thành: - Các tổ chức CỊỊtổc tế toàn cầu là những tô chức quôc tê có tính chất “mở” cho tât cả các quốc gia đều có thể tham gia. Ví dụ tiêu biểu cho loại tổ chức này là LHQ, Tổ chức Y tế thê giới {World Health Organization, WHO) hoặc WTO. 1 1 Khối Warsawa là một liên minh quân sự thành lập năm 1955 bởi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu nhằm mục đích đối trọng với khôi quân sự NATO do Mỹ cầm đầu trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Tên gọi của khôi lấy theo tên của thủ đô Ba Lan Warsawa. Khối này châm dứt hoạt động năm 1991. 23
  • 25. - Các tồ chức quốc tế khu vực là những tổ chức mà theo nghĩa truyền thống có thành viên ở một khu vực địa lý nhât định, ví dụ như EU, To chức các nước châu Mỹ (Organizations of American States, OAS) hay Hiệp hội các quốc gia Đông Nam A {Association ofSoutheast Asian Nations, ASEAN). - Các tổ chức quốc tế có thành viên hỗn hợp (tô chức quôc tế liên khu vực) là những tổ chức quốc tế mà thành viên củạ nó không bị giới hạn về khu vực. Tổ chức về hợp tác và phát triên kinh tê {Organization for Economic Co-operation and Development, OECD) có phần lớn thành viên là các nước Tây Au và một sô quôc gia châu Á, châu Mỵ và châu Đại Dương. Tương tự NATO có thành viên là các quốc gia từ Tây và Nam Au cùng với Mỹ và Canada. Dựa vào tính chất của tổ chức, có thể phân loại các tổ chức quốc tế liên chính phủ thành: - Các tô chức quốc tế mở là những tô chức quôc tê mang tính toàn câu, điêu kiện tham gia tương đối rộng rãi, ví dụ: LHQ (điều kiện tham gia: các quôc gia yêu chuộng hòa bình, châp nhận những nghĩa vụ theo Hiến chương LHQ, được LHQ xét thấy có đủ khả năng và tự nguyện thực hiện những nghĩa vụ đó...). - Các tổ chức quốc tế đóng thường có sổ thành viên bị hạn chê bời những điêu kiện khác nhau như vị trí địa lý (các tô chức quốc tế khu vực như ASEAN, EU, Cộng đồng kinh tế Caribe {Carỉbean Community, CARICOM), Hội liên kết Mỹ - Latinh {Latin American Integration Association, ALADI), Cộng đồng kinh tê các nước Tây Phi {Economic Community of West African States, ECOWAS), Cộng đồng kinh tế các nước Trung Phi {Communauté Economique des Etats d ’ Afrique, CEEAC...), lĩnh vực hoạt động chuyên ngành (ví dụ như Tô chức các nước xuât khâu dâu mỏ {Organization o fPetroleum Exporting Countries, OPEC, Liên minh nhũng nước sản xuất ca cao {Alliance of Cocoa Producing Countries, COPAL)... Căn cứ lĩnh vực hoạt động, có thể phân.loại các tổ chức quốc tê liên chính phủ thành: 24
  • 26. - Các to chức quốc tế chung là tổ chức quốc tế có lĩnh vực hoạt động rộng rãi như chính trị, kinh tể, xã hội...ví dụ: LHQ, ASEAN, E li - Các tổ chức quốc tế chuyên biệt là tổ chức quốc tế chỉ hoạt động trong một lĩnh vực riêng biệt của đời sông quôc tê, ví dụ như Tô chức Lao động quôc tê (International Labor Organization, ILO), Tổ chức Nông lương của LHQ {Food and Agriculture Organization o fthe UnitedNations, FAO)... 1.3. Lịch sử phát triển của các tổ chức quốc tế liên chính phủ Các tổ chức quốc tế do các quốc gia thành lập bắt dầu xuất hiện và trở thành những chủ thể của luật quốc té kể từ thế kỷ XIX, mặc dù những hình thức hợp tác sơ khai giữa các quốc gia đã có từ trước đó, chẳng hạn như những hội đồng ra đời thời Hy Lạp cổ đại, Hiệp hội HANSEATIC xuất hiện cuối thời kỳ Tning cổ ở châu Âu.1 2Việc hình thành các quốc gia ổn định (chủ yếu là ở châu Âu) từ thế kỷ XIX đã tạo điều kiện cho phép các quốc gia tìm kiếm hình thức hợp tác chặt chẽ hơn giữa họ với nhau.1 3 Có thể kể đến một số tổ chức quốc tế sơ khai ở thế kỷ XIX như ủy hội sông Rhine thành lập năm 1815 và một số ủy hội tương tự ở châu Âu nhằm quản lý các dòng sông quốc tế như Elbe (1821), Douro (1835), Po (1849). Các tổ chức quốc tế đầu tiên có quy mô toàn cầu được thành lập trong các lĩnh vực về bưu chính và viên thông, tiêu biểu là Liên minh điện tín thế giới {International Telegraph Union, ITU) (1865), Liên minh bưu chính thế giới {Universal Postal Union, UPU) (1874) và Liên hiệp vận tải đường sắt quốc tế {International Union o f Raiways, UIC) (1890). Tiếp sau đó là các tổ chức quốc tế thành lập ở những lĩnh vực khác như ủy ban quốc tế về sức khỏe cộng đồng {International Office o f Public Health) ra đời năm 1903, Liên hiệp đo lường 12 Tham kháo Jan Klabber, An Introduction to International Institutional Law, Cambridge, 2"ded, 2009, tr. 14. 1 3Clive Archer, International Organisations, London, 2n ded, 1992, tr. 4-5. 25
  • 27. quốc tế (the Metric Union) năm 1875, Liên hiệp quyên tác giả quốc tế (International Copyright Union) năm 1886), Liên hiệp đường quốc tế (International Sugar Union) và Viện Nghiên cứu quốc tế về nông nghiệp (International Institute for Agriculture) năm 1905. Thuật ngữ “tổ chức quốc tế” được đưa ra bởi thẩm phán người Scotland vào James Lorimer ở thời kỳ này. Khái niệm tổ chức quốc tế ở thời kỳ này được hiêu là những thực thê được thành lập giữa các quốc gia đã cho thây sự khác biệt với những tổ chức đương thời có phạm vi hoạt động ở tâm quôc tê do cá nhân sáng lập (tổ chức phi chính phủ), tiêu biêu như Hội chữ thập đỏ quốc tế (Red Cross) hay Viện Luật quồc tê (Institut de Droit International). Sự ra đời của những tô chức quôc tê cũng đánh dấu sự chuyển biến của luật quốc tế từ khái niệm “luật về cùng tồn tại” (law o f co-'existence) sang “luật về cùng hợp tác” (law o fco-operation)}4 Sự ra đời của Hội quốc liên (League o fNations) từ sau Hội nghị Hòa bình Versailles năm 1919 đánh dấu sự phát triên mạnh mẽ của các tổ chức quốc tế. Đây là tổ chức quốc tế đầu tiên có vai trò là tổ chức họp tác và đối thoại giữa các quốc gia trên nhiều lĩnh vực nhằm đảm bảo hòa bình và xây dựng hệ thống an ninh tập thể. Cùng với Hội quốc liên, ILO cũng ra đời. Mặc dù vậy, Hội quôc liên cũng cho thấy những hạn chê. Một trong những hạn chê đó là sự thiếu đa dạng về thành phần tham gia của các quốc gia và sự thất bại trong việc ngăn ngừa chiến tranh của Hội quôc liên. Chiến tranh thế giới lần thứ hai kết thúc đã mở đường cho việc tìm kiếm cơ chế họp tác hữu hiệu hơn giữa các quốc gia, dẫn đến sự hình thành tổ chức LHQ vào năm 1945. Cũng ở giai đoạn này, một sổ tổ chức và cơ chế hợp tác quốc tế vê kinh tế trong hệ thống Bretton Woods cũng đã ra đời15. Ở châu Au, cùng với tiên trình tái thiết và tăng cường họp tác, một* 2 Jan Klabber, An Introduction to International Institutional Law, Cambridge, 2n ded, 2009, tr. 16. Xem chương Luật kinh tế quốc tế. 26
  • 28. số tổ chức quốc tế đã ra đời như Hội đồng chầu Âu {Council o f Europe), Tổ chức về hợp tác kinh tế ở châu Ầu (tiền thân của Tổ chức hợp tác về kinh tế và phát triển OECD); Cộng đồng châu Âu về than và thép {European Coal and Steel Community, ECSC), Cộng đồng kinh tế châu Âu {European Economic Community, EEC) và Cộng đồng châu Âu về năng lượng nguyên tử {European Atomic Energy Community, EAEC). Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, khu vực thương mại tự do châu Âu {European Free Trade Association, EFTA) và Hội đồng tương trợ kinh tế {Council o f Mutual Economic Assistance, CMEA) ra đời phản ánh sự đối trọng giữa hai khối Tây và Đông Âu, bên cạnh đó, các cơ chế họp tác về quân sự ra đời, như NATO và khối Warsaw. Ở châu Mỹ, có sự hình thành của OAS, CARICOM và MERCOSUR (Khối thị trường chung Nam Mỹ - Mercado Común del Sur, MERCOSUR). Ở châu Phi, trong thời kỳ đấu tranh giải phóng thuộc địa bắt đầu từ cuối 1950, ECOCAS (Cộng đồng Kinh tế Trung Phi - Economic Community o f Central African States) và ECOWAS (Cộng đồng Kỉnh tế Tây Phi - Economic Community o f West African States), hiện nay là Liên minh châu Phi AU. Ở châu Á, tiêu biểu là ASEAN và APEC {Asia Pacific Economic Cooperation) đã ra đời. 1.4. Luật các tổ chức quốc tế liên chính phủ Klìáỉ niệm “luật tổ chức quốc tế” được Winfred Jenks đê cập lần đầu tiên vào năm 1962,16 theo đó “luật tổ chức quốc tê” được hiểu là luật “riêng” của tổ chức quốc tế.17*Khi nói đến luật tô chức quốc tế, cần đề cập những vấn đề sau: - Tổ chức quốc tế là một thiết chế quốc tế, do đó luật điêu chỉnh tổ chức quốc tế phải là luật quốc tế. Điều chỉnh tổ chức 16 Tiếng Anh là “the ''personal" ¡aw of the organisation". Xem Winfred Jenks, The Proper Law ofInternational Law, 1962, tr. 4. 1 7 Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of International Organisations, Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 13. 27
  • 29. quốc tế bằng luật của quốc gia nơi tô chức quôc te đó có trụ sở hay hệ thống luật nào khác có thể làm mât đi tư cách quôc tê của tổ chức. - Luật về sự tồn tại và hoạt động của tô chức (law governing its corporate life) sẽ điều chỉnh các vân đê cơ bản như: thành viên của tổ chức, năng lực chủ thê, cơ câu tô chức và quan hệ giữa các cơ quan của tổ chức, thủ tục, quyên và nghĩa vụ của tổ chức và thành viên của tổ chức trong quan hệ giữa họ vói nhau, các vấn đề về tài chính, thủ tục sửa đổi hiên chương của tổ chức, luật điều chỉnh việc giải thể hoặc chấm dứt hoạt động và xử lý tài sản của tổ chức ừong trường hợp này. - Ngoài ra, luật các tổ chức quốc tế điêu chỉnh quan hệ giữa tổ chức, các cơ quan của tổ chức cũng như thành viên tổ chức và các bên thứ ba.1 8 Khái niệm “luật tổ chức quốc tế” hiện đang được thừa nhận rộng rãi bởi các học giả luật quốc tế. Ngoài ra luật tổ chức quốc tế còn giải quyết các vấn đề liên quan đến khía cạnh chức năng của tổ chức quốc tế. Chẳng hạn, đối với trường hợp của LHQ đó là các vấn đề về cách thức mà LHQ thực hiện thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo chương VI của Hiến chương hay thực thi các biện pháp gìn giữ hòa bình theo chương VII.1 9 Luật các tổ chức quốc tế có thể được hiểu là tổng thể các nguyên tắc và qụy phạm của luật quốc tế điều chỉnh các vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của các tổ chức quốc tế. Luật các tổ chức quốc tế liên chính phủ về cơ bản đáp ứng đầy đủ các tiêu chí của một ngành luật trong hệ thống công pháp quốc tế về chủ thể, nguồn và phương pháp điều chỉnh. 19 Winfred Jenks, The Proper Law ofInternational Law, 1962, tr. 3. Sands and Klein, Bowett’ s Law ofInternational Institutions, 2001, tr. 42-55. Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of International Organisations, Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 14. 28
  • 30. Mặc dù, có thể coi luật các tổ chức quốc tế như một “ngành luật” độc lập trong hệ thống quốc tế, nhưng hiện vẫn chưa có sự thống nhất cao giữa các quy phạm điều chinh các vấn đề về tổ chức và hoạt động của tổ chức quốc tế. Điều này được lý giải ở chỗ: mặc dù về cơ bản các quy định này là tương tự tuy nhiên ở mỗi tổ chức quốc tế khác nhau các quy định này lại có thể có những sự khác biệt về chi tiết. Nói cách khác, luật các tổ chức quốc tế có thể xem như một tập hợp các “luật” điều chinh các tổ chức quốc tế khác nhau20. Tuy nhiên, có thể khẳng định tính chất “chung” của luật các tổ chức quốc tế, cho phép có thể áp dụng cho mọi tồ chức quốc tế khác nhau. Thứ nhất, giữa các tổ chức quốc tế có ngày càng nhiều các vấn đề chung liên quan đến tổ chức, chức năng và hoạt động. Thứ hai, những vấn đề pháp lý liên quan đến tổ chức và hoạt động của tổ chức quốc tế liên chính phủ như thẩm quyền và nguyên tắc về giải thích điều lệ và các văn kiện pháp lý khác của tổ chức, quyền ưu đãi và miễn trừ của tổ chức và thành viên, trách nhiệm pháp lý quốc tế liên quan đến tổ chức ... đều có thê áp dụng các quy phạm luật quốc tế dưới hình thức điều ước hoặc tập quán quốc tế để giải quyết.21. 20 Thậm chí có tác giả còn cho rằng không tồn tại một “luật các tô chức CỊUÔC tế”, thay vào đó là có sự tồn tại của “các luật” điều chinh các tô chức quôc tê liên chính phù. Điều này xuất phát từ quan điểm cho rằng luật điêu chinh môi tổ chức quốc tế có thể xác định từ điều ước quốc tế thành lập tổ chức, do đó không thể có một luật “chung” điều chinh tất cã các vấn đề cùa tô chức quôc tế. Xem Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the ìnstitutional Law of International Organisations, Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 16. 21 Vấn đề này được thể hiện trong các phán quyết và kết luận tư vân của Tòa án Công lý quốc tế và Tòa Thường trực cùa Hội quốc liên trong các vụ Certain Expenses of the United Nations (Advisory Opinion) [1962] ICJ Reports 151, tr. 168; Réparations for Injuries in the Service of the United Nations (Advisory Opinion), ICJ Rep, 1949; Legal Conséquencesfor States of the Continued Presence of South Africa in Namibia (South West Africa) notwithstanding Security Council Resolution 276 (1970) [1971] (Advisory 29
  • 31. 1.5. Nguồn luật về các tổ chức quốc tế liên chính phủ Nguồn luật tổ chức quốc tế chủ yếu là các điều ước quốc tế thành lập nên tổ chức quốc tế và không phụ thuộc vào tên gọi của chúng như hiến chương (charter), hiệp định (agreement), quy chế (statute). Những điều ước này xác định quyền năng chủ thể, phạm vi và lĩnh vực hoạt động cụ thê, quyền và nghĩa vụ của tổ chức và những vấn đề cụ thê liên quan đến hoạt động của tổ chức. Bên cạnh đó, tập quán quốc tế là một loại nguồn quan trọng của luật các tô chức quốc tế. Tập quán quôc tê được áp dụng chủ yếu trong việc giải thích văn bản và giải quyêt các vân đề như trách nhiệm pháp lý của tổ chức và đối với tổ chức quốc tế. Ngoài ra, luật các tổ chức quốc tế có các phương tiện bổ trợ nguồn tương tự như các phương tiện bổ trợ nguồn của luật quôc tế nói chung. Cụ thể, nguồn của luật các tổ chức quốc tế bao gồm: - Điều lệ của tổ chức quốc tế; - Văn kiện pháp lý ban hành bởi tổ chức quốc tế, chẳng hạn như quy chế và các quỵết định của cơ quan tài phán thuộc tổ chức; - Điều ước quốc tế chung được áp dụng cho hầu hết các điều ước quốc tế phổ cập và liên quan đến các vấn đề về ưu đãi và miễn trừ; - Tập quán quốc tế, bao gồm tập quán quốc tế chung (liên quan đến việc giải thích điều lệ và các văn kiện, trách nhiệm pháp lý) và các tập quán hình thành từ thực tiễn hoạt động của tổ chức được công nhận có giá trị pháp lý ràng buộc; - Các nguyên tắc pháp luật chung; - Các án lệ liên quan. Opinion) ICJ Reports 16; Competence of the 1LO to Regulate the Conditions of Labour of Persons Employed in Agriculture , [1922] PCIJ Publication, Series B; South West Africa Cases (Ethiopia v South Africa,; Liberia v South Africa), Preliminary Objections, [1962] ICJ Reports 319. 30
  • 32. II. QUYỀN NĂNG CHỦ THẺ CỦA TỎ CHỨC QUÓC TÉ LIÊN CHÍNH PHỦ Phần này sẽ nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế liên chính phủ. Trước hêt, phần này sẽ tập trung làm rõ cơ sờ lý luận xác định quyền năng chủ thể dựa trên cơ sở việc phân tích hai học thuyết cơ bản là học thuyết về thẩm quyền chỉ định (attributed powers) và học thuyết về thẩm quyền mặc định (impliedpowers). Phần tiếp theo phân tích nội dung quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế thể hiện ở các quyền và nghĩa vụ cơ bản, các quy định pháp lý liên quan đến thành viên của tổ chức. 2.1. Cơ sở lý luận Trong khi tư cách chủ thể của tổ chức quốc tế liên chính phủ được công nhận trong luật quốc tế hiện đại, cơ sở lý luận về quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế vẫn là chủ đề tranh luận trong khoa học pháp lý quốc tế. Khác với các quốc gia, những chủ thể cơ bản và chủ yếu, có thể tham gia vào mọi quan hệ pháp lý quốc tế với quyền năng chủ thể được xác định bởi khái niệm chủ quyền, quyền năng của các tổ chức quốc tế bị giới hạn ở văn kiện pháp lý thành lập và sâu xa hơn, bị chi phối bởi ý chí của các quốc gia thành viên. Điều này lý giải cho việc các tổ chức quôc tê chỉ có khả năng tham gia vào những quan hệ quôc tê nào phù hợp, khi không trái với mục đích, tôn chỉ và phạm vi hoạt động của chúng. Trong trường hợp ngược lại, khỉ một tô chức quốc tế tham gia vào những quan hệ quốc tá không đúng với mục đích và phạm vi hoạt động, hành vi của tổ chức có thê được xem là không hợp pháp. Khoa học pháp lý quốc té trong lĩnh vực này có những quan điểm khác nhau về tư cách chủ thể luật quốc tế của tô chức quốc tế. Vấn đề quyền năng chủ 'thể luật quốc tê của tô chức quốc tế liên chính phủ được nêu ra đầu tiên vào nhũng năm 1920 trong các kết luận tư vấn về quyền năng của ILO được Tòa án 31
  • 33. Thường trực công lý quốc tế của Hội quốc liên đưa ra, xoay quanh vấn đề giải thích điều lệ của tổ chức.22 Mặc dù vậy, những kết luận của Tòa vẫn chưa giải quyết triệt để bản chất của vấn đê quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tế. Kết luận đó chỉ thuân túy thể hiện quan điểm của Tòa dựa trên việc xem xét điều ước quốc tế thành lập tổ chức, đồng thời chưa căn cứ trên cơ sở học thuyết lý luận về vấn đề này. Hai học thuyết cơ bản về tư cách chủ thể luật quốc tế của tổ chức quốc tế là học thuyết về thẩm quyền chỉ định cho tổ chức (doctrine o f attributed powers) và học thuyết về thẩm quyên mặc định (doctrine o f implied powers). Ngoài ra còn có một số học thuyết khác là sư kết hơp hoăc phát triển của hai học thuyết này.23 2.1.1. Học thuyết về thẳm quyền chỉ định Học thuyết về thầm quyền chỉ định cho các tổ chức quốc tế ra đời sau kêt luận tư vấn của Tòa Thường trực công lý của Hội quôc liên về phán quyết của ủy ban châu Âu về sông Danube vào năm 1926.24 Tòa đã kết luận rằng một tổ chức quốc tế chỉ có thê hoạt động trên cơ sở những quyền năng được ấn định một cách rõ ràng cho tổ chức đó; tổ chức quốc tế có những quyền nhăm thực hiện một cách đầy đủ các chức năng của mình trong chừng mực mà điều lệ của tổ chức không có những hạn chế đối Xem cac kêt luận tư vân cùa Tòa án Thường trực công lý quốc tế cùa Hội quoc liên: Competence of the ILO to Regulate the Conditions of Labour of Persons Employed in Agriculture, Advisory Opinion [1922], PC1J Publication eries B, Nos. 2 and 4; Competence of the ÍLO to Examine Proposalsfor the rganisation and Development of Methods of Agricultural Production, Advisory Opinion, 1922, PC1J Publication Series B, Nos. 2 and 3, 53-55; ompetence of the ILO to Regulate, Incidentallvm the Personal Work of the Employer, Advisory Opinion, PCIJ Publication No. 13. em Jan Klabber, An Introduction to International Institutional Law, Cambridge, 2n ded, 2009, tr. 53-72. Jurisdiction of the European Commission of the Danube between Galatz anaBraila, Advisory Opinion [1926] PCIJ Publication, Series B, No 14, 64. 32
  • 34. vớỉ chúng. Trong vụ Lotus năm 1927,25 Tòa cũng đã khẳng định răng trong khi chủ quyên của quôc gia là không thể bị hạn chế, các tổ chức quốc tế chỉ có quyền năng chủ thể giới hạn trong chừng mực các quyền được ấn định cho chúng. Quan điểm này cũng được ủng hộ bởi các luật gia Xô viết, theo đó các tổ chức quôc tế không thể làm phương hại đến quốc gia và các quyền chủ quyền của quốc gia.262 7 Như vậy, học thuyết về “thẩm quyền chỉ định” tuyên bố tổ chức quốc tế và các cơ quan của tổ chức chỉ có quyền hạn trong chừng mực mà điều ước quốc tế thành lập nên tổ chức đã ấn định cụ thể. Nói một cách khác, tổ chức quốc tế chỉ có thể tiến hành những hoạt động trong những lĩnh vực mà nó được trao quyền. Cơ sở của học thuyết này là việc các quốc gia thành viên khi thành lập tổ chức đã nhất trí trao quyền cho tổ chức. Minh họa cụ thê của việc áp dụng học thuyết này là các Điều 5 và 7 của Hiệp ước thành lập Cộng đồng châu Âu, theo đó, “Cộng đồng sẽ hoạt động trong phạm vi của các quyền được chuyển giao trên cơ sở Hiệp ước và những mục tiêu được ấn định cho Cộng đông theo Hiệp ước”. Hiến chương LHQ cũng có một sô điêu khoản thê hiện nội dung của học thuyết này, chẳng hạn như Điều 2 khoản 7 (“7o chức LHQ sẽ không can dự vào những vân đê thực chât thuộc thâm quyền nội bộ cùa bất cứ quôc gia nào”); Điêu 24 khoản 2 (“Hội đồng Bảo an sẽ hành động phù hợp với mục đích vù những nguyên tắc cùa LHO”). Mặc dù vậy, học thuyết này vẫn có những hạn chê. Thíĩ nhất, về mặt thực tiễn, tổ chức quốc tế, bị giới hạn bởi các quyền được ấn định rõ ràng cho mình, thuần túy trở thành công cụ của các quôc gia thành viên thay vì là một thực thê tôn tại 25 Case ofthe Lotus [1927], PCU Publication Series A, No. 10 26 Xem Grigory I Tunkin, “The Legal Nature of the United Nations”, 1966/110 119 Rc/C, trĩ 1-67. 27 Xem Jan Klabber, An ỉntroduction to international ỉnstitutional Law, Cambridae, 2n ded, 2009, tr. 56. 33
  • 35. khách quan. Thứ hai, về mặt thực tiễn, tổ chức quốc tế có thể sẽ không có khả năng, hoặc không thể thực hiện những hoạt động mà chưa được quy định rõ ràng trong điều ước vào thời điểm nó được ký kết. Do đó tổ chức quốc tế không thể đảm đương hoặc thực thi sứ mệnh của mình đối với những vấn đề có thể xảy ra trong tương lai. Điều này rất đáng quan tâm bởi lẽ vai trò của các tổ chức quốc tế liên chính phủ ngày nay đang trở nên có ý nghĩa quan trọng. 2.1.2. Học thuyết về thẩm quyền mặc định Học thuyết về thẩm quyền mặc định được nêu ra lần đầu tiên trong bản kết luận tư vấn của Tòa án Thường trực công lý quốc tế vào năm 1928 liên quan đến việc giải thích Hiệp định Hy Lạp —Thổ Nhĩ Kỳ năm 1928.28 Tòa đã lập luận rằng, mặc dù Hiệp định không chỉ rõ ai có quyền đưa một vụ việc ra giải quyết bằng hình thức trọng tài, trong trường hợp ủy ban Liên hợp {Mixed Commission) thành lập trên cơ sở hiệp định, Uy ban Liên hợp nói trên sẽ có quyền đưa vấn đề ra cơ quan trọng tài, điều này xuất phát từ thẩm quyền mặc định cho ủy ban để thực hiện chức năng của minh. Tiếp theo, trong vụ Bồi thường thiệt hại (Reparation for Injuries)?9 thẩm phán Green Hackworth cho rằng những quyền hạn của tổ chức quốc tế có thể mặc nhiên được xác định và suy diễn từ những quyền hạn được ấn định cụ thể; mặc dù vậy, chúng sẽ được giới hạn ở chừng mực “cần thiết” cho việc thực thi các quyền hạn đã được trao bời các quốc gia thành viên một cách rõ ràng. Nội dung cốt lõi của học thuyết này là quyền năng chủ thể của một tô chức quốc tế có thể được mặc định suy diễn từ những quyên hạn cụ thê mà tổ chức quốc tế đã được trao cho bởi các 28 Interpretation ofthe Greco-Turkish Agreement ofDecember T‘ 1926 [1928] PCIJ Publication Series B, No. 16. Reparation for Injuries Suffered in the Service of the United Nations, Advisory Opinion [1949] ICJ Reports 174, Hackworth Dissenting, 198. 34
  • 36. qúốc gia thành viên. Những quyền hạn này được thiết lập nhằm giúp cho tổ chức quốc tế có thể thực thi một cách hiệu quả các mục đích của mình. Trên cơ sở đó, tổ chức quốc tế có thẩm quyên và khả năng tiến hành những hoạt động không được quy định rõ ràng trong điều ước thành lập tổ chức quốc tế, nếu như điêu đó được giải thích là giúp cho tổ chức quốc tế có thể thực thi hiệu quả chức năng và mục đích của mình. Học thuyết về thẩm quyền mặc định được làm rõ qua kết luận tư vấn vào năm 1954 của Tòa án Công lý quốc tế trong vụ Hiệu lực của phán quyết (Effect o fAwards)ĩ0 liên quan đến vấn đê liệu Hội đồng Bảo an LHQ có quyền thiết lập một Tòa hành chính (Administrative Tribunal) có khả năng đưa ra những quyết định có tính ràng buộc hay không. Theo đó, Tòa đã tuyên bố răng, mặc dù điều này không được quy định bởi Hiến chương, thẩm quyền của Đại hội đồng về việc thành lập một tòa án như vậy xuất phát từ suy diễn về mặt pháp lý về sự cần thiết dựa trên Hiến chương LHQ. Tòa lập luận rằng quyền thành lập một tòa có thâm quyền giải quyết tranh chấp giữa LHQ và các nhân viên như vậy là cần thiết để đảm bảo hiệu quả hoạt động của Ban thư ký LHQ. Tương tự, tại kết luận tư vấn trong vụ Namibia năm 1971, Tòa đã khẳng định két luận Đại hội đông có quyên châm dứt sự chiếm đóng của Nam Phi đối với lãnh thổ Tây Nam Phi (Namibia), điều này được giải thích trên cơ sở cho rằng Đại hội đông có quyên kê thừa vai trò giám sát của Hội quôc liên. 2.2. Nội dung quyền năng chủ thể của tổ chức quốc tê liên chính phủ Phần này phân tích quyền năng chủ thể của tô chức quôc tê liên chính phủ thê hiện ở các nội dung: quyên ký kêt điêu ước quốc tế; quyền cử và tiếp nhận đại diện tại các tổ chức quôc tê;* * j0 Effect of Awards of Compensations made by the United Nations Administrative Tribunal [1954] ICJ Reports 47. 35
  • 37. 2.2.1. Quyền ký kết điều ước quốc tế Năng lực ký kết điều ước quốc tế của tổ chức quốc tế liên chính phủ được thừa nhận rộng rãi như một quyên cơ bản của tô chức quốc tế.31 Quyền ký kết các điều ước quốc tế xuất phát từ chính tư cách chủ thể luật quốc tế mà không phụ thuộc vào việc các văn kiện thành lập nên tổ chức có xác định rõ điều này hay không. Lời nói đầu của Công ước Vienna 1986 về Luật Điều ước ký kết với tổ chức quốc tế hoặc giữa các tổ chức quốc tế với nhau khẳng định “tổ chức quốc tế có năng lực ký kết điều ước quốc tế, điều này là cần thiết cho việc thực hiện các chức năng và hoàn thành những mục đích của tổ chức”. Mặc dù vậy, Công ước cũng khẳng định, “năng lực ký kết điều ước quốc tế của tổ chức sẽ được điều chỉnh bời những quy tắc cụ thể của tổ chức đó”. 2.2.2. Quyền cử và tiếp nhận đại diện tại tổ chức quốc tế Tổ chức quốc tế có quyền cử các đại diện thường trực của mình tại lãnh thô các quốc gia, bao gồm quốc gia là thành viên của tô chức cũng như các quôc gia khác. Chẳng hạn, Liên minh châu Âu có các cơ quan đại diện thường trú đặt tại Geneva, Tokyo và Washington DC. Tổ chức quốc tế còn có quyền cử phái đoàn thường trực của tổ chức tại một tổ chức quốc tế khác.32 Đồng thời tổ chức cũng có quyền tiếp nhận đại diện thường trực của các quốc gia thành viên, thông thường tại trụ sở của tổ chức. Tổ chức quốc tế cũng có thể tiếp nhận phái đoàn đại diện của những thực thể không phải là quốc gia, như trường hợp tổ chức giải phóng Palestine (PLO) trước đây đại diện tại LHQ dưới hình quyền khởi kiện và tham gia vào các vụ kiện và các quyền cơ bản khác của tổ chức quốc tế liên chính phủ. 3 1 Jan Klabber, sđd, tr. 41. 2 Hiện nay Liên minh châu Âu tiếp nhận 19 phái đoàn bao gồm LHQ và các vùng lãnh thổ như Hongkong và Macau. 36
  • 38. thức phái đoàn quan sát viên (observer mission), vấn đề này đã được Tòa án Công lý quốc tế xác nhận vào năm 1988. 2.2.3. Quyền khơi kiện và tham gia vào các vụ kiện Tổ chức quốc tế có quyền tiến hành khởi kiện về mặt quốc tế đối với những vi phạm gây ra cho tổ chức mình, vấn đề này đã được xác nhận bởi Tòa án Công lý quốc tế vào năm 1949.33 Sau đó, Tòa cũng xác nhận quyền này tại kết luận tư vấn trong vụ Bồi thường thiệt hại (Reparationfo r Injuries), theo đó, quyền khởi kiện là một thuộc tính vốn có của tổ chức và quyền này được luật quốc tế công nhận một cách rõ ràng, bao gồm việc tiến hành thủ tục thưa kiện, trình bày vụ việc và tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc tại một tòa án hoặc một cơ quan tài phán quốc tế. Tuy nhiên, quyền khởi kiện của tổ chức quốc tế có thể có những giới hạn, Ví dụ, tổ chức quốc tế không thể thực hiện quyền này trước Tòa án Công lý quốc tế, bời lẽ chỉ có quốc gia mới có thể tham gia vào một vụ việc đưa ra trước Tòa (Điều 34(1)). Tổ chức quốc tế có thể bị khởi kiện và phải tham gia vào vụ kiện tại một tòa án hoặc cơ quan tài phán quốc tế do hành vi của tổ chức, các cơ quan và thành viên của tổ chức. Pháp luật của một số quốc gia quy định khả năng xem xét đơn kiện chống lại tô chức quốc tế tại cơ quan tài phán của quốc gia mình. Mặc dù vậy, việc áp dụng quy định trên đối với những trường hợp này tùy thuộc vào quyền miễn trừ của các tổ chức quốc tê. Ngoài ra, tô chức quốc tế nhìn chung còn có các quyên cơ bản sau: 34 33 Jan Klabber, sđd, tr. 43. 34Xem Jan Klabber,, Schermers and Blokker. Amerasinghe.
  • 39. - Thảo luận và thông qua các văn bản về tổ chức và hoạt động của mình trong phạm vi quy định của hiến chương, điêu lệ; - Nhận đại diện và quan sát viên thường trực của các quôc gia chưa là thành viên của mình; - Tham gia tổ chức các hội nghị quốc tế liên quan đến nội dung hoạt động của mình; - Giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia thành viên và giữa các quốc gia thành viên với tổ chức quốc tế; - Hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao giành cho tổ chức, các cơ quan của tổ chức và nhân viên; - Hưởng các quyền theo quy định của các điều ước quốc tê mà tổ chức ký kết hoặc tham gia. Cũng xuất phát từ lý luận cơ bản về chủ thể của luật quốc tế, có thể khẳng định rằng các tổ chức quốc tế có nghĩa vụ tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại; tôn trọng các quyền của các tổ chức quốc tế liên chính phủ khác, của các chủ thể khác của luật quốc tế hiện đại. 2.3. Thành viên của tổ chức quốc tế liên chính phủ về cơ bản, những vấn đề liên quan đến thành viên của một tổ chức quốc tế liên chính phủ sẽ tùy thuộc vào quy định cụ thể của điều ước quốc tế thành lập tổ chức cũng như thực tiễn hoạt động của tổ chức quốc tế đó.35 Nhìn chung, những vấn đề chủ yếu liên quan đến thành viên của tổ chức quốc té liên chính phủ bao gồm việc tham gia tổ chức quốc tế; việc chấm dứt tư cách chủ thể, việc đình chỉ các quyền ưu đãi và miễn trừ và những vân đề liên quan đến việc đại diện tại tổ chức quốc tế. ,s Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of International Organisations, Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 105. 38
  • 40. Việc cho phép (hay hạn chế) sự tham gia của các quốc gia cũng như các chủ thể khác vào tổ chức quốc tế xuất phát từ tính chât của tổ chức đó là tổ chức ‘toàn cầu” hay “khu vực”, tổ chức “mở” hoặc “đóng”. Đối với một số tổ chức toàn cầu như LHQ và phân lớn các tổ chức chuyên biệt của LHQ mọi quốc gia và những thực thể có tính cách như quốc gia đều có khả năng tham gia.36Đối với một số tổ chức quốc tế chuyên về chính trị, kinh tế, kỹ thuật hoặc mang tính khu vực như Liên hiệp châu Mỹ (OAS), Liên minh châu Phi (AU), Liên minh châu Âu (EU), Liên đoàn Ả Rập, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)... khả năng trỏ thành thành viên được giới hạn bởi một số điều kiện khác nhau. Thậm chí, việc trở thành thành viên của tổ chức còn có tlìể được ấn định bởi những yêu cầu chi phối bởi yếu tố chính trị, như trường họp hiện nay của Serbia khi xin gia nhập Liên minh châu Âu.37 Việc quy định khả năng trở thành thành viên của một tổ chức quốc tế, cũng như thủ tục kết nạp thành viên nhìn chung phụ thuộc vào ý chí của các quốc gia sáng lập tổ chức quốc tê. Những quốc gia sáng lập tổ chức quốc tế đương nhiên là thành viên của tổ chức. Những quốc gia có nguyện vọng tham gia tô chức sẽ phải thông qua một thù tục xin gia nhập và việc xin gia nhập phải được sự nhất trí của các thành viên tổ chức hoặc trên cơ sở quyết định của cơ quan thường trực của tổ chức đó theo những tỷ lệ được quy định trong điều ước thành lập tô chức quốc tế (ví dụ 50% số thành viên nhất trí hoặc 2/3 cũng như nhũng điều kiện khác). 2.3.1. Tham gia tổ chức quốc tế ỉỉện chính phủ 36 Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of International Organisations (Cambridge University Press, 2nd, 2007) trang 105. / 37 Ví dụ, theo một số chuyên gia, việc bắt giữ và giao nộp tướng Ratko Mladic cùa Serbia cho Tòa án Hình sự quốc tế ICC tháng 5/2011 được coi là một sự “đánh đổi” cần thiết để quốc gia này có thể sớm gia nhập Liên minh châu Au. 39
  • 41. Trên thực tế, quy định về việc tham gia tổ chức quốc tê khá đa dạng. Một số tổ chức quốc tế như Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) hay UNESCO quy định khả năng trở lại làm thành viên của tổ chức mà không phải trải qua thủ tục xin gia nhập đối với những thành viên trước đó đã xin rút ra khỏi tổ chức quốc tế, ví dụ như trường họp Mỹ vào lại ILO; Anh và Đức gia nhập lại UNESCO. Một số tổ chức quốc tế quy định quốc gia xin gia nhập phải là thành viên của một tổ chức quốc tế khác. Ví dụ: để trở thành thành viên của Ngân hàng Tái thiết và phát ừiển quốc tế (IBRD), quốc gia xin gia nhập phải là thành viên của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), trong khi tư cách thành viên của IBRD là điều kiện cần để có thể tham gia Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA) hay Tổng công ty tài chính quốc tế (IFC).38 Một số tổ chức quốc tế yêu cầu các quốc gia xin gia nhập thỏa mãn một số điều kiện bô sung mặc dù những điều kiện này không đưđc quy định rõ ràng trong điều ước thành lập tổ chức. Ví dụ, khi các nước tách ra từ Liên bang Nam Tư muốn gia nhập IMF, tổ chức này đã đưa ra đê xuât răng các quôc gia này phải có khả năng gánh vác các nghĩa vụ của IM F.39 Đôi với LHQ, quốc gia muốn trờ thành thành viên phải đáp ứng những điêu kiện cơ bản như: là quốc gia yêu chuộng hòa bình, thừa nhận những nghĩa vụ quy định trong Hiến chương và được LHQ xem xét là đủ khả năng và tự nguyện làm tròn những nghĩa vụ ây.40 Bên cạnh đó, tư cách thành viên của LHQ là điều Điều II(l)(b) của Hiệp định IRBD, Điều 11(1) của Hiệp định IFC và Điều ỊI(1) của Hiệp định IDA. Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of ntcf natunuil Organisations (Cambridge University Press, 2n d , 2007) trang (1992) ' ^ ssues ° f State Succession Concerning Yugoslavia in the Fund narf'toss i* ~ ^ n c^ươnê LHQ. Tuy nhiên, việc gia nhập LHQ của Áo vào thể t '• tr, • f ra cau quốc gia tuyên bố trung lập vĩnh viễn có ơ anh thành viên của tổ chức này hay không xuất phát từ điều kiện
  • 42. kiện đủ để một quốc gia trở thành thành viên của một tổ chức quốc tế chuyên biệt trong hệ thống LHQ.* 41 2.3.2. Tiếp tục tư cách thành viên (trường hợp quốc gia mới và quốc gia kể thừa) Trong trường hợp có sự thay đổi về chủ thể luật quốc tế do có sự chia tách, sáp nhập quốc gia, vấn đề tư cách thành viên của tô chức quốc tế sẽ được đặt ra. Thực tiễn giải quyết vấn đề này găn liền với việc giải quyết vẩn đề kế thừa quốc gia trong luật quốc tế và hiện nay chưa có một giải pháp thống nhất nào. Do đó, việc giải quyết sẽ tùy thuộc vào cách xử lý của các tổ chức quốc tế liên quan cũng như căn cứ vào những nguyên tắc tập quán của luật quốc tế. Giải pháp cho các trường hợp kế thừa hoặc tiêp tục tư cách thành viên sẽ có sự khác biệt nliât định. Đối với những quốc gia ra đời do kết quả của cuộc đấu tranh giành độc lập ở thuộc địa, thực tiễn chấp nhận chung là những quốc gia này sẽ phải trải qua thủ tục xin gia nhập.42 Điều này không phụ thuộc vào việc những quốc gia thuộc địa có đang là thành viên của tổ chức quốc tế liên quan hay không. Ví dụ: Sri Lanka (Ceylon) và Guyana đã xin gia nhập một sô tô chức quốc tế mà không phụ thuộc vào Vưong quốc Anh có đang là thành viên của những tổ chức đó hay không. Trường họp gia nhập tổ chức quốc tế của những quốc gia chia tách được giải quyết khá đa dạng. Nhìn chung, những quôc gia kế thừa này sẽ tiếp tục tư cách thành viên của quôc gia đê lại kê thừa tại tổ chức đó. Việc xác định sự kê thừa của quôc gia “khả năng thực hiện các nghĩa vụ chiểu theo Hiến chương” liên quan đên việc thực hiện các hành động tập thê trong trường hợp gìn giữ hòa bình và an ninh thể giới. Mặc dù vậy đơn gia nhập của Áo cũng đã được châp nhận. 41 Điều II( I) Hiến chương cùa UNESCO hay Điều 6 của Hiến chương cùa Tô chức Hàng hải quốc tế IMO. 42 Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the institutional Law of International Organisations (Cambridge University Press, 2nd, 2007) trang 111. Niên giám cùa ủy ban Pháp luật Quốc tế năm 1962, trang 124ff. 41
  • 43. trong tổ chức quốc tế căn cứ vào sự thỏa thuận hoặc thông qua thủ tục bỏ phiêu của các thành viên khác của tô chức. Vần đê đặt ra là: nêu như không có những thỏa thuận hoặc biêu quyêt như vậy, cơ quan nào sẽ có trách nhiệm đưa ra quyết định và với tỷ lệ nào thì việc chấp thuận đó được thỏa mãn? Trên thực tế, chưa xảy ra trường hợp nào như vậy.43 Thực tiễn đa dạng của vấn đề này thể hiện qua việc công nhận tư cách thành viên của LHQ và những tô chức quôc tê chuyên biệt trong hệ thống LHQ. Đối với trường hợp chia tách của An Độ và Pakistan vào năm 1947, các tô chức quôc tê nhìn chung công nhận Ấn Độ là quốc gia kế thừa duy nhất của Ân Độ trước năm 1947 (bao gồm Ấn Độ, Pakistan và Bangladesh ngàỵ nay) và do đó tiếp tục là thành viên của những tổ chức quốc tế liên quan. Pakistan được coi là một quốc gia mới và phải trải qua thủ tục xin gia nhập.44 Đối với trường hợp hợp nhất của Ai Cập và Syria hình thành Cộng hòa Ả Rập thống nhất năm 1958 và Tanganyika và Zanzibar hợp thành Cộng hòa thống nhất Tanzania năm 1964, hai quốc gia mới được coi là quốc gia kế thừa tư cách thành viên của những tổ chức quốc tế mà các quốc gia hợp nhât đã là thành viên. Trong trường hợp tan rã của Liên bang Xô Viết, Liên bang Nga được công nhận là quốc gia kế thừa của Liên Xô tại các tô chức quốc tế mà trước đó Liên Xô là thành viên, trong khi các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ được coi là những quốc gia mới và phải trải qua thủ tục xin gia nhập.45 Tuỵ nhiên, đôi với trường hợp của Liên bang Nam Tư, LHQ và nhiêu tô chức quôc tê chuyên biệt của LHQ đã không xác định 43 Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of International Organisations (Cambridge University Press, 2n d, 2007) trang 112. 44 Misra, “Succession of States: Pakistan’s Membership of the United Nations”, German Yearbook ofInternational Law 1965, 3, tr. 281. Đôi với trường hợp của Ukraina và Bielorussia hai quốc gia này đương nhien kê thừa tư cách thành viên Liên hợp quốc với lý do đã có quy chế thành viên Liên hợp quốc trước đây. 42
  • 44. qủốc gia kế thừa duy nhất tư cách thành viên của Liên bang Nam Tư. Trong khi đó, Cộng hòa Czech và Slovakia lại đều được chấp nhận là hai quốc gia kế thừa tư cách thành viên của Tiệp Khắc trước đây. Việc tiếp tục hay kế thừa tư cách thành viên tại các tổ chức tài chính quốc tế phức tạp hơn, chủ yếu do tồn tại những khoản nợ và tín dụng.46 vấn đề này được giải quyết thông qua việc chia sẻ trách nhiệm đối với các khoản nợ mà quốc gia để lại kế thừa phải thực hiện đối với tổ chức đó. Ví dụ, IMF đã chia sẻ trách nhiệm đối với các khoản nợ đối với các nước tách ra từ Liên bang Nam Tư.47 2.3.3. Đình chỉ tư cách thành viên Đình chỉ tư cách thành viên tổ chức quốc tế là việc đình chỉ việc thực hiện các quyền và hưởng các nghĩa vụ căn cứ vào điều ước quốc tế thành lập tổ chức quốc tế. về cơ bản, việc đình chỉ đặt ra khi quốc gia liên quan không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ thành viên của minh. Thông thường, điều này được xác định dựa trên cơ sở sự vi phạm các quyền và nghĩa vụ thành viên xác định trong điều ước quốc tế thành lập cũng như việc không thực hiện các nghĩa vụ đóng góp tài chính. Đình chỉ có thê được coi là một hình thức chế tài đặc thù của luật về các tô chức quôc tế. Mặc dù vậy, các tổ chức quốc tế thường không có điều khoản quy định cụ thể vấn đề đình chỉ tư cách thành viên.48 Trên thực tế, thủ tục tiến hành đình chỉ tư cách thành viên của tổ chức quốc tế là khá đa dạng. Đối với LHQ, việc đình chỉ tư cách thành viên có thể được coi là một chế tài được thực hiện sau một biểu quyết của Đại hội đồng, do việc nợ tiền đóng góp 46 Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law oj International Organisations, Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 113. 47 Chitharanjan F Amerasinghe, tldd, tr. 113. 48 Chitharanjan F Amerasinghe, tlâd, tr. 114. 43
  • 45. cho LHQ tưong đương với tổng số tiền đóng góp của hai năm trước.49 Đình chỉ việc sừ dụng các quyền và ưu đãi được áp dụng theo Điều 5 của Hiến chương nếu một thành viên LHQ bị Hội đồng Bảo an áp dụng một biện pháp phòng ngừa hay cưỡng chê theo kiến nghị của Hội đồng Bảo an. Các tổ chức khác như WHO, IMO và ICAO cũng quy định khả năng đình chỉ do việc không đóng góp với những khoảng thời gian xác định khác nhau.50 Nhiều tổ chức tài chính quốc tế cũng quy định khả năng này.51* Hiến chương của Liên minh Bưu chính quốc tê (International Telecommunication Union, ITU) và Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của LHQ (United Nations Educational, Scientific and Cultural Organization, UNESCO) không quy định về đình chỉ tư cách thành viên, điều này được lý giải ở chỗ việc đình chỉ là kết quả duy nhất của việc đình chỉ tư cách thành viên LHQ. Đối với Liên minh châu Âu, vấn đề đình chỉ tư cách thành viên cũng không đặt ra. Tuy nhiên, Tòa án Công lý của Cộng đồng châu Âu (European Court o f Justice, ECJ) có thẩm quyền xem xét việc không tuân thủ các nghĩa vụ điều ước của EU. Trong khi đó, đối với Hội đồng châu Âu, việc đình chỉ thành viên được áp dụng trong trường hợp có sự vi phạm nghiêm trọng liên quan đến việc thừa nhận nhà nước pháp quyền và việc giám sát các quyền con người.32 Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ tư cách thành viên cũng khá đa dạng, tùy thuộc vào mồi tổ chức quốc tế. Việc đình chỉ có thể dừng lại ở việc tước quyền biểu quyết hoặc có thể dẫn đến việc tước quyền đại diện tại các cơ quan của tổ chức cũng như 49 Chế tài này được áp dụng đối với Haiti năm 1963 và Cộng hòa Dominicana vào năm 1968. IMO Constitution, Điều 52; WHO Constitution, Điều 7, 31; ICAO Constitution, Điều. 62. ^ Ví dự như Ọuỹ tiền tệ quốc tế (IMF). ~ ~Council of Europe Statute, Điều. 8. 44
  • 46. việc đình chỉ thực hiện các quyền và hường các ưu đãi của thành viên đó.53 Đối với LHQ, việc đình chỉ căn cứ theo Điều 19 dẫn đến việc tước quyền biểu quyết tại Đại hội đồng trong khi đó việc áp dụng biện pháp đình chỉ theo Điều 5 sẽ dẫn đến đình chỉ việc sử dụng các quyền và ưu đãi của thành viên đó, đồng nghĩa với việc tước quyền đại diện tại Đại hội đồng cũng như quyền biểu quyêt.545 5Đối với IMF, các quốc gia bị đình chỉ bị hạn chế sử dụng các nguồn ngân quỹ của IMF53 hoặc bị tước bỏ quyền sử dụng đồng rút vốn đặc biệt SDR.56 Thủ tục áp dụng biện pháp đình chỉ tùy thuộc vào từng tổ chức. Thẩm quyền áp dụnc biện pháp này thông thường được trao cho cơ quan thường trực của tô chức, thực hiện thông qua biểu quyết với tỷ lệ thông thường là 2/3 hoặc có thể là trên 50% như trường họp của ICAO và WHO. Tuy nhiên, việc đình chỉ không ảnh hưởng đến việc tuân thủ các nghĩa vụ khác của thành viên, căn cứ vào điều ước thành lập tổ chức. 2.3.4. Chẩm dứt tư cách thành viên Tư cách thành viên của tổ chức quốc tế chấm dứt khi quốc gia thành viên chấm dứt tồn tại, ví dụ như trường hợp sáp nhập, chia tách hoặc họp nhất quốc gia. Tư cách thành viên cũng có thê châm dứt khi quốc gia thành viên rút khỏi tổ chức một cách tự nguyện (2.3.4.1), khi quốc gia đó bị khai trừ khỏi tô chực (2.3.4.2) và khi quốc gia không chấp nhận sửa đôi liên quan đên điều ước thành lập tổ chức (2.3.4.3). Ngoài ra, tư cách thành viên 53 ILO Constitution, Điều. 1(6); WMO Constitution, Điều 31; UNESCO Constitution, Điều. Ii(4). 54 Hiến chương LHQ Điều 5. Xem thêm Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law ofInternational Organisations, Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 115. 55 IMF Constitution, Điệu V(5). 56 IMF Constitution, Điều XIII(2). 45
  • 47. có thể chấm dứt khi một quốc gia chấm dứt tồn tại hoặc những tiêu chí cần thiết để trở thành một quốc gia theo luật quốc tê không được thỏa mãn (2.3.4.4).57 2.3.4.1. Rút khỏi tổ chức quốc tế liên chính phủ Các tổ chức quốc tế nhìn chung đều cho phép thành viên được rút ra khỏi tổ chức, vấn đề này có thể được quy định ngay trong điều ước quốc tế thành lập tổ chức hoặc không được quy định cụ thể. Ví dụ, Hiến chương LHQ không có quy định này. Thủ tục rút khỏi tổ chức quốc tế được thực hiện tùy vào mỗi tổ chức. Chẳng hạn, các quốc gia có thể thông báo việc rút khỏi các tổ chức thuộc nhỏm Ngân hàng Thế giới chỉ bàng một văn bản và việc rút khỏi này có hiệu lực ngay lập tức.58 Một số tổ chức quốc tế có quy định giới hạn việc rút khỏi tổ chức, hoặc việc rút ra chỉ có hiệu lực sau một khoảng thời gian nhất định,59 hoặc chỉ cho phép thành viên rút ra khỏi tổ chức sau một khoảng thời gian sau khi tổ chức bắt đầu hoạt động.60 Trong một số trường họp, tổ chức quốc tế quy định một khoảng thời gian kê từ khi quôc gia thành viên đưa ra thông báo cho đến khi việc rút khỏi tổ chức có hiệu lực để quốc gia đó có thể xem xét lại hoặc tìm kiêm những phương cách khác. Trên thực tế có trường họp quốc gia tuyên bố rút khỏi tổ chức hoãn quyết định đó của mình, như trường hợp Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên khi tuyên bố rút khỏi Tổ chức Năng lượng nguyên tử thế 57Chitharanjan F Amerasinghe, llđd, 117. 58 Ví dụ Hiệp định IBRD, Điều yi(I); Hiệp định IFC, Điều V (l) và Hiệp định IDA, Điều V1I(1). Trên thục tế Ba Lan xin rút khỏi IBRD vào năm 1950; Cuba và Cộng hòa Dominica vào năm 1960 và Indonesia vào năm 1965. Ví dụ theo quy định của FAO thì khoảng thời gian này là 4 năm (Điều 19 Hiệp định FAO); UNESCO lậ 1 năm (Điều 11(6) Hiến chương cùa UNESCO, tương tự là IMO (Điều 69 Hiến chương IMO). Ví dụ theo quy định của NATO thì khoảng thời °ian này là 20 năm (Điêu 13 Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (North Atlantic Treaty)', Hiệp ước thành lập cọng đông than và thép châu Âu ECSC là 50 năm (Điều 97). 46
  • 48. giới (IAEA) vào năm 1993. Hiến chương LHQ không quy định vân đề rút khỏi tổ chức nhằm thể hiện mong muốn của các bên ký kết trong việc đảm bảo sự lâu dài và ổn địrih của tổ chức LHQ •61 Trên thực tế, Indonesia tuyên bố rút khỏi LHQ và các tổ chức quốc tế chuyên biệt khác vào năm 1965, sau đó xin trở lại vào năm 1966. Trường họp này được Đại hội đồng thống nhất với quan điểm của Hội đồng Bảo an coi là một sự “ngừng hợp tác” chứ không phải là sự rút khỏi tổ chức. Trước khi rút khỏi tổ chức, các quốc gia thành viên phải hoàn thành những nghĩa vụ căn bản của mình, thông thường đó là những nghĩa vụ về tài chính như trả các khoản đóng góp theo cam kết hoặc các khoản nợ vay. Trường họp điều ước quốc tế thành lập tổ chức không có quy định cụ thể về việc rút khỏi tổ chức, việc rút khỏi tổ chức sẽ được hiểu như trường họp rút khỏi một điều ước quốc tế căn cứ theo các điều khoản 54-56 của Công ước Vienna 1986 về luật điều ước quốc tế ký kết giữa quốc gia và các tổ chức quốc tế và giữa các tổ chức quốc tế với nhau. Bên cạnh đó quyền rút khỏi điêu ước được coi là xuất phát từ chủ quyền quốc gia trong quan hệ quốc tế, nguyên tắc về quyền bình đẳng và tự quyết cũng như những nguyên tắc pháp luật chung. 2.3.4.2. Khai trừ khỏi tổ chức quốc tế liên chỉnh phủ Việc khai trừ thường được hiểu như một hình thức tạm đình chỉ tư cách thành viên của tổ chức.62 Một thành viên có thê bị khai trừ khỏi tổ chức quốc té trên cơ sở những vi phạm liên quan đến nghĩa vụ thành viên, vấn đề khai trừ thường quy định rõ trong điều ước quốc tế thành lập tổ chức, đặc biệt ở các tô chức về tài chính. Chẳng hạn, Hiến chương LHQ quy định trường hợp một quốc gia thành viên có thể bị khai trừ do sự vi 61 Chitharanjan F Amerasinghe, tlđd, tr. 120. 62 Chitharanịan F Amerasinghe, tlđd, tr. 123. 4 7
  • 49. phạm một cách có hệ thống những nguyên tắc nêu ra trong Hiến chương (Điều 6). Quy chế của Hội đồng châu Âu năm 1949 quy định việc khai trừ thành viên do có những vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của tổ chức. IMO và UNESCO quy định việc khai trừ thành viên gắn liền với việc khai trừ khỏi LHQ (Điều 2(4) Hiến chương UNESCO và Điều 11 Hiến chương IMO). Trong trường hợp điều ước thành lập tổ chức quốc tế không quy định rõ ràng về vấn đề này, việc khai trừ một thành viên của tổ chức được thực hiện tùy thuộc vào từng tổ chức cụ thể và tính chất “mở” hay “đóng” của tổ chức. Tuy nhiên, quyền khai trừ thành viên của tổ chức quốc tế hoàn toàn có thể được suy luận từ tư cách chủ thể của tổ chức và những quyền hạn nhằm đảm bảo sự toàn vẹn và chấp hành nghiêm túc các quy định của tổ chức. Đối với một tổ chức quốc tế “mở”, do mục tiêu của tổ chức là mở rộng và khuyến khích sự tham gia của các quốc gia, vấn đề khai trừ thành viên thường ít được đề cập. Mặc dù vậy, khả năng khai trừ thành viên có thể đặt ra nhàm bảo đảm sự tuân thủ các nguyên tắc và nghĩa vụ của tổ chức. Một đề nghị khai trừ thành viên có thể được đưa ra lấy biểu quyết. Trên thực tế, có một số quốc gia bị đề nghị khai trừ mặc dù điều này không được quy định trong điều ước thành lập. Ví dụ: việc đề nghị khai trừ Nam Phi khỏi Liên minh Bưu chính thế giới (UPU) vào năm 1969.63 Đối với một tổ chức quốc tế “đóng”, khả năng khai trừ một thành viên được lý giải gắn liền với mục tiêu của tổ chức, các tiêu chí về xác định thành viên và bối cảnh thực tế khi tổ chức ra đời. Trên cơ sở đó, thành viên bị khai trừ khỏi tổ chức trên cơ sở sự đối lập, không phù hợp với các mục đích của tổ chức. 63 Đáng Ịưu ý là đã có một số nỗ lục nhằm khai trừ Nam Phi ra khỏi một số tổ chức quốc tế nhưng không thành công ví dụ như Liên hợp quốc vào năm 1974 (bị phù quyết) hoặc WIPO vào năm 1979. 48
  • 50. 23.4.3. Không phê chuẩn sửa đổi đối với điều ước quốc tế thành lập tổ chức quốc tế liên chính phủ Việc một quốc gia không chấp nhận hoặc từ chối phê chuẩn sửa đổi đối với điều ước quốc tế thành lập tổ chức quốc tế có thể dẫn đến việc quốc gia đó mất tư cách thành viên một khi sửa đổi này có hiệu lực. 23.4.4. Chẩm dứt tồn tại hoặc không đáp ứng các tiêu chuẩn cần thiết Khi không còn đáp ứng được các tiêu chuẩn cần thiết cấu thành một quốc gia, thực thể đương nhiên mất đi tư cách thành viên của tổ chức quốc tế. Nguyên tắc chung đặt ra là khi quốc gia khồng còn tồn tại thì tư cách thành viên của quốc gia đó cũng chấm dứt (tính đến thời điểm chấm dứt tồn tại). Chẳng hạn vào năm 1958 khi Syria và Ai Cập hợp nhất với nhau thành lập Cộng hòa Ả Rập thống nhất, cả Sirya và Ai Cập đều không còn là thành viên của các điều ước quốc tế mà trước đây hai quốc gia này tham gia. Tương tự là trường hợp của Tanganyika và Zanzibar năm 1964 (thành lập Cộng hòa thống nhất Tanzania). Trường hợp chia tách quốc gia cũng áp dụng tương tự, ví dụ: năm 1991, Nam Tư không còn tư cách thành viên tại các tổ chức quốc tế mà Liên bang Nam Tư là thành viên. Tương tự là trường hợp của Tiệp Khẳc năm 1993. Trong trường hợp một quốc gia bị chiếm đóng do hành vi xâm lược, tư cách chủ thể của quốc gia không bị coi là mất đi, do đó tư cách thành viên của tổ chức quốc tế không bị coi là chấm dút. Năm 1991, hành vi xâm lược của Iraq được cho rằng không làm mất đi các yếu tố cấu thành quốc gia và tư cách chủ thể luật quốc tế cúa Kuwait. Ket quả là Kuwait đã khôi phục lại tư cách thành viên tại các tổ chức quốc tế sau khi khôi phục lại lãnh thổ của mình. 49
  • 51. 2.4. Đại diện quốc gia tại tổ chức quốc tế liên chính phủ Khi một quốc gia trở thành thành viên của một tổ chức quốc tế thì đương nhiên đại diện tại tổ chức quốc tế sẽ do chính phủ chỉ định và đại diện này được coi là đại diện họp pháp của quốc gia. Khái niệm đại diện quốc gia tại tổ chức quốc tế không liên quan đến việc chính phủ của quốc gia đó có sự thay đổi như thế nào. Mặc dầu vậy, có trường hợp đặt ra là cần xác định sự đại diện đó có được tín nhiệm hay không. Nhìn chung, các điều ước quốc tế không điều chỉnh vấn đề về sự đại diện. Việc xem xét cử người đại diện thường bị chi phối bởi những tác động chính trị và có sự áp dụng khác nhau cho từng trường hợp cụ thể. Ví dụ, trên thực tế đặt ra vấn đề xem xét chính phủ nào đại diện cho Trung Quốc tại LHQ vào năm 1971: chính quyền Trung Hoa Dân quốc (Đài Loan) lúc đó hiện đang giữ tư cách đại diện cho Trung Quốc và chính quyền nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Hội đồng Bảo an LHQ sau đó bằng một biểu quyết đa số 9/15 các quốc gia thành viên nhất trí thay thế vị trí đại diện cho Trung Quốc của chính quyền Đài Loan. Sau đó Đại hội đồng cũng đã thông qua một nghị quyết tương tự bằng tỷ lệ 2/3 số quốc gia tán thành. Sau đó, ừong những năm 1970 và 1980, sự đại diện của Nam Phi cũng đã không được chấp nhận bởi Đại hội đông LHQ dẫn đến việc Nam Phi không thể tham gia vào các hoạt động của Đại hội đồng. Tuy nhiên, trường hợp của Israel lại không gặp sự phản đối tương tự. 2.5. Các quyền và nghĩa vụ cơ bản của thành viên tô chức quốc tế liên chính phủ Các tổ chức quốc tế khác nhau có tính chất, mục đích hoạt động và chức năng khác nhau cũng như có cơ chê tiêp nhận thành viên khác nhau. Chính vì vậy mà thành viên của tô chức quốc tế có các quyền và nghĩa vụ tùy thuộc vào từng tổ chức 50
  • 52. quốc tế. về cơ bản, thành viên của các tổ chức quốc tế có các quyên và nghĩa vụ sau: - Quyền bình đẳng trong tổ chức quốc tế. Quyền này xuất phát từ sự tôn trọng chủ quyền của các quốc gia, chủ thể cơ bản và chủ yếu trong quan hệ quốc tế và nhằm đảm bảo cho tổ chức quốc tế có thể hoạt động một cách khách quan không có sự phân biệt giữa các thành viên về địa lý, dân cư, tôn giáo, trình độ phát triển... Quyền bình đẳng được thể hiện ở việc tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề của tổ chức, trình bày quan điểm, ý kiến và lập luận tại các phiên họp của tổ chức và trong quá trình bầu cử và biểu quyết đối với các vấn đề mà tổ chức nêu ra; - Quyền có đại diện và cử đại diện của mình tại tổ chức quốc tế; - Quyền tham gia ứng cử vào các vị trí và các cơ quan của tổ chức quốc tế; - Quyền rút ra khỏi tổ chức; - Quyền được tôn trọng tại các tổ chức quốc tế; - Quyền được hường các quyền lợi, yêu cầu giúp đỡ và tiếp nhận sự trợ giúp về tài chính. Bên cạnh các quyền cơ bản, các quốc gia thành viên còn phải thực hiện các nghĩa vụ, cam kết đối với tổ chức. Các nghĩa vụ cơ bản bao gồm:64 - Tôn trọng mục đích, tôn chỉ và nguyên tắc hoạt động của tổ chức; - Đóng góp tài chính; - Dành quyền ưu đãi và miễn trừ cần thiết cho tô chức. Xem Jan Klabber, Schermers and Blokker, Amerasinghe, sđd. 51
  • 53. III. QUYẺN ƯU ĐÃI VÀ MIẺN TRỪ ĐÓI VỚI TÓ CHỨC QUỐC TÉ LIÊN CHÍNH PHỦ Là một chủ thể của luật quốc tế, tổ chức quốc tế được hường các quyền ưu đãi và miễn trừ về cơ bản tương tự như những quyền ưu đãi và miễn trừ áp dụng cho các quốc gia cũng như các đại diện của quốc gia. Tuy nhiên, về cơ sờ áp dụng, cần có sự phân biệt giữa quyền ưu đãi, miễn trừ của tổ chức quốc tế với quyền ưu đãi và miễn trừ áp dụng cho quốc gia, vốn xuất phát từ vấn đề chủ quyền của các quốc gia trong quan hệ quốc tế. Các quyền ưu đãi và miễn trừ mà tổ chức quốc tế liên chính phủ được hường không phải xuất phát từ chủ quyền. Thay vào đó, chúng được lý giải dựa trên cơ sở học thuyết về sự cần thiết nhằm đảm bảo thực hiện chức năng. Theo đó, những quyền ưu đãi và miễn trừ là cần thiết nhằm giúp cho tổ chức quốc tế có thể thực thi một cách đầy đủ và hiệu quả các chức năng của mình và đảm bảo cho việc thực hiện các mục tiêu của tổ chức.65 Ví dụ, đối với LHQ, Điều 105(1) của Hiến chương quy định LHQ được hường trên lãnh thổ của mỗi thành viên của mình quyền ưu đãi, miễn trừ như là điều kiện cần thiết cho việc thực hiện mục đích của tổ chức. Thêm vào đó, đại diện các thành viên của LHQ và các quan chức của tổ chức được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ, đây là yếu tố cần thiết cho việc họ thực hiện chức năng của mình trong tổ chức (Điều 105(2) Hiến chương LHQ). Công ước năm 1946 về quyền ưu đãi và miễn trừ của LHQ và mục 27 của Hiệp định ký kết giữa Mỹ và LHQ về trụ sở về cũng dẫn chiếu đến Điều 105 này. Tinh thần của Điều 105 và đặc biệt là nguyên tắc về sự cần thiết thực hiện chức năng đã trờ thành cơ sở cho việc trao các quyền ưu đãi và miên trù' cho các tô chức quốc tế khác, cũng như làm cơ sờ cho các phán quyêt của 65 Xem Jan Klabber, tr. 131-150; Amerasinghe, tr. 315-350. 52
  • 54. tòa án quốc tế và quốc gia.66 Quyền ưu đãi và miễn trừ được áp dụng đối với bản thân tổ chức quốc tế liên chính phủ, các cơ quan của tổ chức và những cá nhân là viên chức làm việc cho tổ chức mà không phụ thuộc vào quốc tịch của họ. Những cá nhân này bao gồm những viên chức làm việc tại trụ sở và những thành viên đại diện tổ chức trong các phái đoàn đặc biệt. Liên quan đến vấn đề quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho tô chức quốc tế, bao gồm cả các cơ quan và thành viên của tô chức, vấn đề đặt ra là luật nào sẽ áp dụng, chẳng hạn luật của quốc gia nơi tổ chức quốc tế đặt trụ sở có áp dụng đối với tổ chức hay không? Quan điểm chung hiện nay là luật của quốc gia nơi tổ chức quốc tế đặt trụ sở sẽ có hiệu lực đối với tổ chức quốc tế, trong đó cần dành các quyền ưu đãi và miễn trừ ở phạm vi giúp tổ chức quốc tế, các cơ quan và thành viên của tổ chức có thể thực hiện một cách tốt nhất chức năng của mình.67 về nội dung, các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho tô chức quốc tế, cơ quan của tổ chức và các thành viên của tổ chức nhìn chung tương tự như các quyền ưu đãi và miễn trừ áp dụng cho quốc gia trong quan hệ ngoại giao và lãnh sự. Tuy nhiên, vê bản chất, giữa các quyền này có những sự khác biệt: - Các quyền ưu đãi và miễn trừ của tổ chức quôc íê có ý nghĩa đảm bảo cho tổ chức hoạt động hiệu quả nhân danh tô chức mình chứ không phải dành cho các quốc gia thành viên tô 66 Ví dụ như Phán quyết cùa Tòa Sơ thẩm Italia trong vụ Porru và FAO năm 1969 theo đó tồ chức Nông lương thế giới FAO được miễn trừ đôi với những hoạt động nhàm thực hiện những mục đích cùa mình. Hay tương tự !à phán quvết cùa Tòa Giám đốc thẩm Italia trong vụ Minnini và Học viện Bari thuộc Trung tâm Nghiên cứu chuyên sâu về nông học Địa trung Hài năm 1986. Xem thêm Jan Klabber, An introduction to International Institutional Law (Cambridge, 2n ded, 2009) trang 133. 67 Xem Jan Klabber, tr. 131-150; Amerasinghe, tr. 315-350; 53
  • 55. chức trên cơ sở quan hệ ngoại giao giữa quốc gia chủ nhà và các quốc gia thành viên. - Các viên chức của tổ chức quốc tế được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ nhàm giúp cho họ thực hiện các chức năng của mình trong tổ chức chứ không phải cho quốc gia mà họ là công dân. Chức năng này không chỉ thực hiện tại lãnh thổ của một quốc gia hay quốc gia nơi tổ chức đặt trụ sờ mà cả tại nhiều quốc gia khác, trong đó bao gồm cả quốc gia mà họ đang là công dân. - Các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho tổ chức quốc tê không phải xuất phát từ quan hệ qua lại giữa các quốc gia với nhau trong quan hệ quốc tế (quan hệ giữa nước cử và nước nhận đại diện). Thay vào đó, nó xuất phát từ quan hệ của nước nơi đặt trụ sở của tổ chức quốc tế'và bản thân tổ chức quốc tế. - Trong quan hệ ngoại giao cũng như lãnh sự, quốc gia tiếp nhận áp dụng các quyền ưu đãi miễn trừ dựa trên cơ sở một số các công ước quốc tế được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn cầu (hai công ước Vienna 1961 về quan hệ ngoại giao và 1963 về quan hệ lãnh sự). Trong khi đó, hiện vẫn chưa có một văn kiện pháp lý quốc tế nào điều chỉnh quan hệ ngoại giao liên quan đến tổ chức quốc tế, các thành viên của tổ chức và quan hệ giữa các quốc gia với tổ chức quốc tế, trong đó có vấn đề về quyền ưu đãi và miễn trừ.68 Nội dung và phạm vi của các quyền ưu đãi và miễn trừ của tổ chức quốc tế tùy thuộc chủ yếu vào thỏa thuận giữa tổ chức và nước tiếp nhận, trên cơ sở các hiệp định về trụ sở và luật pháp của nước tiếp nhận. Công ước của LHQ về quyền ưu đãi và miễn trừ của LHQ (LHQ) năm 1946 và Công ước năm 1947 về các cơ quan chuyên 68 Hiện nay Công ước Vienna ký năm 1975 về đại diện của các quốc gia trong quan hệ với các tổ chức quốc tế có tính chất toàn cầu vẫn chưa có hiệu lực. ơ phạm vi châu Âu, công ước năm 1972 về quyền miễn trừ quôc gia áp dụng cho các quôc gia và tồ chức quốc tế ở châu Âu. 54
  • 56. môn của LHQ là văn kiện quan trọng về vấn đề này. Hai công ước đã xác định các quyền ưu đãi và miễn trừ của tổ chức LHQ, các cơ quan chính và nhân viên của LHQ và áp dụng tương tự cho các cơ quan chuyên môn của của tổ chức này. Mặc dù có giá trị pháp lý toàn cầu và là kiểu mẫu cho các quốc gia trong việc điều chỉnh các vấn đề tương tự, hai công ước này chỉ giới hạn trong phạm vi tổ chức LHQ. Ngoài ra, những vấn đề liên quan đên trụ sở của LHQ được điêu chỉnh bởi Hiệp định vê trụ sở ký giữa Mỹ và LHQ vào năm 1947. Hiệp định này có một số nội dung chính như sau: - Trên cơ sở coi các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho LHQ là những ngoại lệ của luật pháp Mỹ, Hiệp định công nhận luật của Mỹ (Liên bang, tiểu bang và địa phương) tiếp tục áp dụng cho khu vực trụ sở của LHQ. Tòa án Mỹ có thẩm quyền xét xử, trừ những trường hợp được quy định ở Hiệp định (mục 7); - Các quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho LHQ nhằm đảm bảo cho LHQ có thể thực thi một cách đầy đủ và hiệu quả các trách nhiệm và mục tiêu của mình (mục 27); - Khu vực trụ sở của LHQ là bất khả xâm phạm (mục 9), nhà chức trách Mỹ chỉ có thể vào khi được sự đồng ý và trên cơ sở tuân thủ những điều kiện của Tổng thư ký LHQ. Tuy nhiên, trụ sở của LHQ không thể là nơi cho phép những người đang bị truy nã vào tỵ nạn; - Theo mục 11, chính quyền Mỹ không được hạn chê việc đi và đên trụ s ờ 69đôi với: (i) Các phái đoàn đại diện của các nước thành viên LHQ. các nhân viên cùa phái đoàn; các đại diện của tổ chức quôc tê 69 Mặc dù đây không phải là một quy định về miễn thị thực nhưng theo đó Mỹ sẽ cấp Visa nhập cánh cho nhũng đối tượng trên không thu phí và với thời gian nhanh nhất có thể được. 55
  • 57. chuyên môn của LHQ cũng như các phái đoàn đại diện tại các tổ chức này cũng như gia đình của họ; (ii) Các chuyên viên thực hiện các nhiệm vụ của LHQ; (iii) Đại diện cơ quan thông tấn do LHQ chỉ định trên cơ sở tham vấn với Mỹ; (iv) Các đại diện của các tổ chức quốc tế phi chính phủ được LHQ công nhận; và (v) Những cá nhân được LHQ mời về những công việc với LHQ. - Ngoài việc có trách nhiệm bảo vệ một cách thích hợp, phía Mỹ không được có sự phân biệt đối xử hoặc không tôn trọng đối với những đại diện từ các nước khác nhau, kể cả từ những quốc gia mà Mỹ chưa công nhận (mục 12); - Các đại diện củavcác nước thành viên của LHQ được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ tương tự như quyền dành cho các viên chức ngoại giao khác trên toàn bộ lãnh thổ nước Mỹ (mục 15). Tuy nhiên, đại diện những quốc gia mà Mỹ không công nhận chỉ được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ tại khu vực trụ sở LHQ, nhà riêng và các văn phòng ngoài khu vực này cũng như khi quá cảnh. Hiện nay, các tổ chức quốc tế và quốc gia đặt trụ sở thường giải quyết vấn đề ưu đãi và miễn trừ thông qua các hiệp định, hoặc thỏa thuận về trụ sở.70 Những thỏa thuận này thường bị chi phối bởi các yếu tố chính trị.71 Nội dung cơ bản của những thỏa thuận này thường ghi nhận những quyên ưu đãi và miễn trừ đối với trụ sở và thành viên của cơ quan. Cách thê hiện những nội dung này trong các hiệp định là khá giống nhau. Sự khác nhau giữa các thỏa thuận chủ yếu liên quan đến mức độ của các 70 Ví dụ Hiệp định chung năm 1949 về quyền ưu đãi .và miễn trừ của Hội đồng châu Âu. 71 Jan Klabber, An Introduction to International Institutional Law, Cambridge, 2n ded, 2009, tr. 147. 56
  • 58. quyên iru dâi và mien trir hay nôi each khâc là vè chi tiét. Biêu dâng nôi là mâc dù câc vân bàn này là nhüng dieu uôc quôc tê, chüng hâu nhur khô cô thê bi thay dôi hoâc châm dut mot each don phuong bôi quôc gia chü nhà.72* Câc tâp quân quôc tê cüng là mot nguôn luât dieu chinh vân dê quyên uu dâi và mien trir cüa tô chûc quôc tê. Câc quy tàc tâp quân xâc dinh nghïa vu cûa câc quôc gia trong viêc dành quyên uu dâi và mien trir cho tô chûc quôc tê, câc ca quan và thành viên cüa tô chüc.7J Ngoài ra, câc quy pham tâp quân cüng xâc dinh rang câc quyên uu dâi và mien trù chi âp dung cho tô chûc quôc tê và câc nhân viên cüa tô chûc dê ho thuc hiên câc hoat dông trong pham vi thâm quyên cüa minh (intra vires). Cuôi cüng, phâp luât cüa mot sô quôc gia nhu Mÿ, Anh, Ao... cô nhüng quy dinh eu thê dành quyên uu dâi và mien trù cho câc tô chüc quôc tê dât trên lânh thô cüa nuôc minh.74 IV. CO CÂU TÔ CHÎTC CÛA TÔ CHlTC QUÔC TÉ LIEN CHINH PHÛ Biêm giüp phân biêt tô chüc quôc tê vôi câc hinh thüc hop tâc quôc tê khâc giüa câc quôc gia và câc chü thê khâc cüa luât quôc tê là: tô chûc quôc tê cô mot hê thông câc ca quan duge thành lâp mot câch ôn dinh nhàm thuc hiên câc chûc nâng khâc nhau. Tùy pham vi hoat dông, mue dich khâc nhau mà moi tô chüc së lâp ra nhüng ca quan tuong ûng. Viêc câc ca quan duge tô chûc nhu thê nào và thành phân tham gia ca quan này ra sao së duge quy dinh rô trong dieu uôc quôc tê thành lâp tô chüc. 72 Jan Klabber, tldd, tr. 147. 7j Xem Ignaz Seidl-Hohenvelden, ‘Functional Immunity of International Organisations and Human Rights’ trong Benedek et al, Development and Developing International and European Law: Essays in Hounour of Konrad Ginther on the Occasion of His 65,hBirthday, 1999, tr. 137-149; Jan Klabber, tldd, tr. 148. 74 Jan Klabber, tldd, tr. 150. 57
  • 59. Nhìn chung, một tổ chức quốc tế có cơ cấu tổ chức bao gồm: các cơ quan chính hoạt động thường trực, các cơ quan giúp việc và các cơ quan không thường trực thành lập nhằm thực hiện một nhiệm vụ cụ thể. Các cơ quan chính của tổ chức thường bao gồm 3 loại: + Đại hội đồng là cơ quan bao gồm đại diện của tất cả các quốc gia thành viên hoạt động trên cơ sở các phiên họp thường niên hoặc hai, ba năm, thậm chí năm năm/lần. Nhiệm vụ chính của cơ quan này về cơ bản là ấn định những tiêu chuẩn chung cho tổ chức hoặc đóng vai trò như cơ quan lập pháp để điều chỉnh các vấn đề thuộc phạm vi chức năng của tổ chức. Ví dụ, Đại hội đồng LHQ có chức năng đưa ra các quyết định về những vấn đề nội bộ của LHQ như quyết định và phân bổ ngân sách. Hội >đồng Bộ trưởng các nước thành viên cộng đồng châu Âu có chức năng lập pháp trên cơ sở phối hợp với Nghị viện châu Âu. + Các cơ quan điều hành ví dụ như Hội đồng Bảo an LHQ. Đây là cơ quan thường trực của tổ chức quốc tế. Cơ quan này họp và quyết định những vấn đề cụ thể liên quan đến việc thực hiện chức năng của tổ chức quốc tế, bao gồm việc đưa ra các quyết định hoặc thông báo. Một số cơ quan có thể ban hành các quyết định có giá trị bắt buộc (như các quyết định của Hội đồng Bảo an LHQ). Hội đồng châu Âu (European Commission) chủ yếu điều chỉnh và điều hành các hoạt động của tổ chức, cũng là một ví dụ của cơ quan điều hành của tổ chức quốc tế. Khác với đại hội đồng, cơ quan điều hành thường bao gồm một số lượng thành viên nhất định được bầu ra theo những thủ tục cụ thể tùy theo mỗi tổ chức và căn cứ trên những tiêu chí cụ thể, thông thường về tính đại diện.Ví dụ, Hội đồng Bảo an LHQ bao gồm 5 thành viên thường trực, 10 thành viên còn lại được bâu ra theo phân chia tỷ lệ 5 thành viên từ châu Phi và châu A, 1 thành viên từ Đông Âu, 2 từ châu Mỹ Latin và Caribê, 2 từ Tây Au và 2 từ những quôc gia còn lại (bao gôm Canada và Uc). Tại 58
  • 60. Hội đồng châu Âu mỗi thành viên có 1 đại diện. Tại các tổ chức tài chính quốc tế, tiêu chí đại diện đặt ra khá thực tế căn cứ vào khả năng tài chính của thành viên. Ví dụ, Hội đồng điều hành của IMF bao gồm 24 thành viên trong đó năm thành viên được chỉ định bởi các thành viên là những quốc gia có tỷ lệ đóng góp lớn nhất vào IMF, số còn lại được bầu ra tại đại hội đồng, những thành viên này có thể đại diện cho các nhóm nước khác nhau.7 5 + Ban thư ký (đứng đầu là Tổng thư kỷ) hoặc các cơ quan hành chính hoặc một hình thức tương tự đảm nhiệm các công việc theo dõi và điều hành các công việc hàng ngày của tổ chức. Nhân viên của ban thư ký được lựa chọn trên cơ sở trung lập có lưu ý đến sự đại diện một cách thích hợp theo khu vực địạ lý. Thực tiễn việc chỉ định người đứng đầu ban thư ký rất đa dạng và phức tạp. Chẳng hạn như có sự thỏa thuận Giám đốc điều hành (director) của IMF sẽ là một người từ châu Âu trong khỉ đó Tổng thư ký của Ngân hàng Thế giới WB sẽ là công dân Mỹ.7 6Nhìn chung, ban thư ký và tổng thư ký tích cực trong việc theo dõi các vấn đề hành chính. Chẳng hạn, theo Điều 99 Hiến chương Liên họp quốc, Tổng thư ký có thể lưu ý Hội đồng Bảo an về những vấn đề thuộc phạm vi của LHQ và có thể tham gia vào những hoạt động khác có tính chất chính trị, ví dụ như hòa giải tranh chấp giữa các thành viên. Ngoài 3 cơ quan chính nêu trên, trong cơ cấu của một tổ chức quốc tế còn có thể có thêm những cơ quan khác, chẳng hạn như cơ quan tư pháp được lập ra nhằm giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia thành viên hoặc giữa tổ chức quốc tế và các nhân viên của họ. Bên cạnh đó, các ủy ban có thể được thành lập nhằm giúp cho tổ chức trong việc hoạch định chính sách hoặc đưa ra các quyết định. 75 Ví dụ như Italia đại diện cho không chi lợi ích cùa Italia mà còn đại diện cho Hy Lạp, Bô Đào Nha, Malta, San Marino và Đông Timor. 76 Xem Jan klabber, tr. 156. 59
  • 61. + Nhân viên của tổ chức quốc tế Nhân viên của tổ chức quốc tế là những cá nhân được tuyên dụng công tác cho tô chức quốc tế. Thông thường nhân viên của tổ chức quốc tế là công dân của những quốc gia là thành viên của tổ chức quốc tế đó. Khi làm việc cho tổ chức quốc tê, các nhân viên sẽ phục vụ cho tổ chức quốc tế chứ không phải cho quốc gia mà họ là công dân, những quyền ưu đãi và miễn trừ mà họ được hưởng vì lẽ đó là nhằm đảm bảo cho họ có thể hoàn thành một cách có hiệu quả nhất công việc của mình trong tổ chức quốc tế. Nhân viên của tổ chức quốc tế có thể chia làm hai nhóm: các viên chức cùa tổ chức quốc tể là những người công tác trong các cơ quan của tổ chức quốc tế, được bầu hoặc tuyển dụng làm việc theo nhiệm kỳ và hưởng lương do tổ chức quốc tế chi trả. Một so tổ chức quốc tế có cơ chế chọn lựa viên chức căn cứ vào sự đề cừ của quốc gia mà người này là công dân. Bên cạnh đó, các chuyên gia là những người công tác trong các phái đoàn do tô chức quốc tế lập để phụ trách hoặc giải quyết những vấn đê của tô chức ở những quôc gia khác nhau bao gồm cả ở chính quôc gia mà họ đang là công dân. V. VIỆC CHẤM DỨT TỒN TẠI VÀ s ự KÉ THỪA ĐÓI VỚI TÓ CHÚC QUÓC TÉ LIEN CHÍNH PHỦ Phần này nghiên cứu hai vấn đề liên quan đến sự tồn tại của tô chức quốc tế liên chính phủ là việc chấm dứt tồn tại của một tổ chức quốc tế và việc kế thừa tư cách chủ thể luật quốc tế của các tổ chức quốc tế trong trường họp có tổ chức chấm dứt sự tồn tại. 5.1. Tổ chức quốc tế liện chính phủ chấm dứt tồn tại Tổ chức quốc tế có thể chấm dứt sự tồn tại với tư cách chủ thê luật quốc tế. Có trường họp tổ chức quốc tế chấm dứt tồn tại mà không có tổ chức mới nào ra đời tiếp nhận tư cách chủ thể. 60
  • 62. Khi này, vấn đề chuyển giao các quyền và nghĩa vụ không được đặt ra. Trong trường hợp thứ hai, tổ chức quốc tế chấm dứt tồn tại và một tổ chức quốc tế mới ra đời tiếp nhận và kế tục hoạt động của tổ chức quốc tế chấm dứt tồn tại. Một tổ chức quốc tế có thể chấm dứt tồn tại theo quy định của điều ước quốc tế thành lập tổ chức. Trong trường hợp này, điều ước quốc tế thành lập tổ chức sẽ quy định thủ tục dẫn đến việc chấm dứt. về cơ bản, vấn đề này sẽ được quyết định bởi chính các quốc gia thành viên - những bên ký kết điều ước quốc tế. Tùy theo mỗi tổ chức, thủ tục chấm dứt tồn tại là khác nhau. Chẳng hạn, theo Điều VI(5) Hiệp định thành lập Ngân hàng Thế giới (WB), một sự đình chỉ hoạt động vĩnh viễn và kết quả là chấm dứt mọi hoạt động sẽ dựa trên quyết định theo đa sổ của Hội đồng Quản trị WB. Điều XXVII(2) của Hiệp định thành lập Quỹ Tiền tệ thế giới (IMF) cũng quy định tương tự. Việc chấm dứt tồn tại của tổ chức quốc tế thông thường còn liên quan đến hoạt động của những cơ quan khác của tổ chức. Do đó, thủ tục chấm dứt tồn tại của một tổ chức có thể phụ thuộc vào quyết định của nhũng cơ quan khác của tổ chức. Ví dụ, Liên minh châu Âu chỉ có thể chấm dứt tồn tại dựa trên cơ sở đề xuất của Hội đồng châu Âu (European Commission) và ý kiến của Nghị viện châu Âu. Tương tự, đối với LHQ, việc chẩm dứt tồn tại dựa trên quyết định của Đại hội đồng trên cơ sở kiến nghị của Hội đồng Bảo an. Tổ chức quốc tế cũng có thể chấm dứt tồn tại trên cơ sờ một điều ước quốc tế ký kết sau khi tổ chức ra đời bởi các quốc gia thành viên. Trong trường hợp này các quốc gia thành viên phải đạt được một thỏa thuận dẫn đến sự chấm dứt hoạt động của tổ chức, theo thủ tục do các bên thỏa thuận, trong đó có thê yêu cầu sự đồng thuận của tất cả các bên ký kết. Ví dụ. các quốc gia Đông Âu đã thỏa thuận chấm dứt sự tồn tại của Tô chức Hiệp ước phòng thủ Warsaw tại Hội nghị ủ y ban tư vân chính trị tại 61
  • 63. Prague ngày 1 tháng 7 năm 1991. Tương tự, việc chấm dứt hoạt động của tổ chức hợp tác các nước XHCN (COMECON) được thông qua bằng nhất trí của các thành viên tại Hội nghị Bộ trưởng các nước thành viên ngày 26 tháng 6 năm 1991. Tổ chức quốc tế có thể chấm dứt tồn tại khi một tổ chức khác ra đời trong khuôn khổ của tổ chức này dẫn đến việc tổ chức quốc tế mới thay thế tổ chức quốc tế cũ trong khi tổ chức quốc tế cũ chấm dứt tồn tại, hoặc có thể tiếp tục hoạt động77 trong khi các quyền và nghĩa vụ được chuyển giao cho tổ chức quốc tế mới. Ví dụ: việc tổ chức WTO ra đời trong khuôn khổ của GATT; Liên minh châu Âu ra đời thay thế cho Cộng đồng châu Âu. 5.2. Vân đề kế thừa đối vói các tổ chức quốc tế liên chính phủ Vấn đề kế thừa đối với các tổ chức quốc tế cũng khá đa dạng. Nhìn chung, một thỏa thuận giữa hai tổ chức cũ và mới là phương án tối ưu để giải quyết các vấn đề liên quan đến kế thừa. Trong trường hợp tô chức quốc tế mới có nhiều điểm tương đồng với tổ chức quốc tế cũ, ví dụ như LHQ và Hội quốc liên, sự ra đời của tô chức mới và sự chấm dứt tồn tại của tổ chức cũ diễn ra gần như đông thời.78 Lúc này, việc chuyển giao các chức năng, tài sản và trách nhiệm cũng như vấn đề về nhân viên của tổ chức sẽ được giải quyết bằng hiệp định giữa hai tổ chức có liên quan. Tô chức quôc tê mới có thê kê thừa chức năng, tài sản và trách nhiệm vật chât của một số tổ chức quốc tế cũ có liên quan, ví dụ như trong trường hợp của Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế ICAO thay thế cho 2 tổ chức là ủy ban Kỹ thuật quốc tế về pháp lý hàng không (CITEJA) và Hội đông quôc tê vê giao thông hàng không (CINA). 77 Ví dụ như trường hợp của LHQ và Hội quốc liên. 78 Hiến chương LHQ có hiệu lực từ ngày 24/10/1945 trong khi Hội quốc liên chấm dứt tồn tại vào ngày 19/4/1946. 62
  • 64. Kế thừa đối với tài sản và các món nợ về cơ bản cũng sẽ được giải quyết bằng hiệp định giữa tổ chức quốc tế cũ và tổ chức quốc tế mới, nhìn chung tài sản của tổ chức quốc tế cũ sẽ thuộc về tổ chức quốc tế mới. Các khoản nợ được giải quyết tùy thuộc vào việc xác định tư cách của tổ chức quốc tế mới trong quan hệ đối với tổ chức quốc tế cũ. Trong trường hợp sự thay thế chỉ thuần túy là việc thay đổi hiến chương hoặc điều lệ thì tổ chức quốc tế mới sẽ tiếp tục gánh vác các khoản nợ đó. Tương tự là vấn đề đặt ra đối với các nhân viên của tổ chức quốc tế cũ: việc giải quyết các vấn đề liên quan đến nhân viên như tuyển dụng, chế độ hưởng các lợi ích sẽ đơn giản hơn nếu hai bên có một thỏa thuận về vấn đề này. về việc kế thừa các chức năng của tổ chức quốc tế chấm dứt tồn tại, nhìn chung tổ chức quốc tế mới không buộc phải gánh vác các chức năng của tổ chức quôc tê cũ. Việc chuyên giao chức năng thường sẽ thực hiện bằng thỏa thuận giữa hai tô chức và tổ chức quốc tế mới có thể từ chối hoặc xem xét tiêp nhận những chức năng mà tổ chức cũ để lại. Chẳng hạn, Đại hội đông LHQ đã yêu cầu Hội đồng kinh tế - xã hội xem xét khả năng tiêp nhận các chức năng phi chính trị của Hội quôc liên hoặc chuyển giao chúng cho các cơ quan chuyên môn của LHQ như WHO và IMF.79 Những chức năng này bao gồm việc giải quyết các vấn đề về nhân quyền, quy chế của phụ nữ, tài chính, các vân đê xã hội, các vân đề kinh tê và việc làm. VI. TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ QUÓC TÉ LIÊN QUAN ĐÉN TỎ CHỨC QUÓC TÉ LIÊN CHÍNH PHỦ Tổ chức quốc tế với tư cách là một thực thể pháp lý quộc tế phải gánh chịu trách nhiệm đối với hành vi trái pháp luật quôc tế, bao gồm hành vi của các cơ quan và nhân viên của tô chức quốc tế thực hiện. Đồng thời, tổ chức quốc tế có quyền đòi hòi 79 Jan Klabber, tlđd, tr. 305. 63
  • 65. những chủ thể khác của luật quốc tế phải thực hiện trách nhiệm pháp lý do những thiệt hại mà chủ thể này gây ra. Cơ sở xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế là luật quốc tế, bao gồm các điều ước quốc tế mà tổ chức quốc tế ký kết hoặc tham gia cũng như các tập quán quốc tế có thể áp dụng để điều chỉnh quan hệ giữa tổ chức quốc tế với các chủ thể luật quốc tế khác. Mặc dù vậy, trong một số trường họp, một số vấn đề liên quan đến trách nhiệm của tổ chức quốc tế đối với quốc gia còn có thể được điều chinh bằng luật quốc gia. Trong trường hợp này, nguyên tắc luật nơi có vật (lex situs) được áp dụng để giải quyết vấn đề bồi thường.80 Trách nhiệm pháp lý liên quan đến tổ chức quốc tế có thể đặt ra trong hai trường họp: - Trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với tổ chức quốc tế đặt ra trong trường hợp hành vi trái pháp luật quốc tế của một chủ thể của luật quốc tế gây thiệt hại cho tổ chức quốc tế. Ví dụ như lực lượng vũ trang hoặc cảnh sát của quốc gia gây thiệt hại cho tài sản hoặc nhân viên của tổ chức. - Trách nhiệm pháp lỷ quốc tế của tổ chức quốc tế đặt ra trong trường họp hành vi trái pháp luật quốc tế của tổ chức hoặc nhân viên của tổ chức quốc tế trong khi thi hành nhiệm vụ nhân danh tổ chức gây thiệt hại cho một chủ thể khác của luật quốc tế. 6.1. Trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức quốc tế liên chính phủ Tư cách chủ thể độc lập là cơ sở để xem xét quyền của tổ chức quốc tế trong việc đòi hỏi thực hiện trách nhiệm pháp lý đối với mình. Quan điểm này đã được Tòa án Công lý quốc tế khẳng định trong vụ Bồi thường (Reparation Case) vào năm 1949. Theo đó, Tòa đã lập luận khả năng của tổ chức quốc tê trong việc 80 Chitharanjan F Amerasinghe, tlđd, tr. 387. 64
  • 66. yêu cầu khởi kiện đòi thực hiện trách nhiệm pháp lý đối với mình căn cứ vào việc sờ hữu tư cách chủ thể luật quốc tế cũng như các quyền và nghĩa vụ trên cơ sở luật quốc té, xuất phát từ việc thực hiện các chức năng, thẩm quyền và các quyền và nghĩa vụ, thể hiện trong điều lệ của tổ chức và các văn kiện pháp lý của tổ chức.81 Quyền tiến hành khởi kiện và yêu cầu thực hiện trách nhiệm pháp lý đối với tổ chức quốc tế có thể liên quan đến việc các quốc gia thực hiện các quyền và nghĩa vụ đối với tổ chức, căn cứ vào điều ước thành lập tổ chức và các hiệp định riêng rẽ. ví dụ như hiệp định về trụ sở. Trong trường hợp hành vi vi phạm là thuộc các quốc gia không phải là thành viên của tổ chức, quyền khởi kiện xuất phát từ tư cách chủ thể luật quốc tế của tô chức và điều ưởc quốc tế mà quốc gia tham gia, trong đó ấn định các quyền của tổ chức quốc tế. Ví dụ: một quốc gia thành viên ký kết điều ước quốc tế với tổ chức quốc tế về việc đặt trụ sở tô chức tại lãnh thổ quốc gia mình (như trường họp của Thụy Sỹ) hoặc về việc quốc gia này tiếp nhận các đại diện của tổ chức làm việc trên lãnh thổ của mình. Tổ chức quốc tế đồng thòi cũng có quyền khởi kiện yêu câu thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế trong trường hợp có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho nhân viên của tô chức trong khi thi hành nhiệm vụ nhân danh tổ chức. Trong trường hợp này, các cá nhân làm việc cho tổ chức quốc tế và vì vậy họ nhân danh tổ chức và được hưởng quyền bảo vệ pháp lý từ tô chức quốc tế chứ không phải từ quốc gia mà họ là công dân. Tương tự, các quốc gia cũng không thể yêu cầu thực hiện trách nhiệm pháp lý với lý do nhũng cá nhân này là người mang quôc tịch của quốc gia mình.82 vấn đề này được quy định rõ ràng 81 Reparation Case [1949] ICJ Reports 185. 82 Chitharanjan F Anierasinghe, Principles of the Institutional Law of International Organisations (Cambridge University Press, 2nd, 2007, tr. 393. 65
  • 67. trong điều lệ của nhiều tổ chức quốc tế, ví dụ: Điều 100 Hiến chương LHQ. Trong trường hợp điều lệ của tổ chức không có quy định này, quyền tiến hành yêu cầu thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế được đặt ra trên cơ sờ xem xét những cá nhân này là nhân viên dân sự quốc tế (ỉnternatỉonal civil servants). Quan điểm này cũng đã được Tòa án Công lý quốc tế khẳng định trong vụ Bồi thường (Reparation Case). Theo đó, các cá nhân khi thi hành nhiệm vụ cho tổ chức quốc tế sẽ nhận được sự bảo vệ của tổ chức và không cần thiết phải dựa vào sự bảo vệ nào khác ngoài từ sự bảo vệ của tổ chức.83 Tóm lại, quyền khởi kiện đòi thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế đặt ra trong các trường hợp: - Thiệt hại của chính tổ chức quốc tế đối với mất mát hoặc hư hại về trụ sở, tài sản, tài chính hoặc các lợi tức gây ra bởi hành vi trái pháp luật quốc tế; - Sự thiệt mạng hoặc thương tật gây ra cho các cá nhân là nhân viên hoặc đại diện của tổ chức quốc tế khi những người này thực hiện các nghĩa vụ nhân danh tổ chức. 6.2. Trách nhiệm pháp lý quốc tế của tổ chức quốc tế Tương tự, tư cách chủ thể độc lập trong luật quốc tế cũng dẫn đến việc một tổ chức quốc tế phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể khác của luật quốc tế do việc vi phạm các nghĩa vụ quốc tế của mình. Những nghĩa vụ quốc tế dẫn đến trách của tổ chức quốc tế xuất phát từ các điều ước quốc tế mà tổ chức quốc tế tham gia hoặc được xác định từ chính điều ước quốc tế thành lập nên tổ chức và các văn kiện pháp lý của tổ chức. Trong việc xác định trách nhiệm pháp lý của tổ chức quốc tế có hai vấn đề cần phải được làm rõ: 83 Reparation Case [1949] ICJ Reports 182. 66
  • 68. - Cô hay không mot hành vi bât hop phâp càn cü theo luât quôc tê? - Hành vi dô cô thê dupe quy cho tô chûc quôc tê hay không? Dôi vôi vân dê thû nhât, viêc xâc dinh hành vi bât hop phâp dupe tien hành càn eu vào câc dieu uôc quôc tê kÿ kêt bôi tô chûc quôc tê cüng nhu dieu le cüa tô chûc, câc nguyên tâc cüa luât quôc tê và câc quy pham tâp quân. Dôi vôi vân dê thû hai, tô chûc quôc tê dupe quy trâch nhiêm trong trucmg hop câc co quan và nhân viên cüa tô chûc dà thuc hiên câc hành vi sai trâi trong khi thuc hiên câc chûc nàng và mue dich cüa tô chûc. Tuy nhiên, nêu câ nhân hoàc nhôm câ nhân dô hoàn toàn thuc hiên hành vi sai trâi duoi su dieu khiên cüa quôc gia lien quan thi trâch nhiêm này không thê quy kêt cho tô chûc quôc tê. Thuc tien hoat dông cüa LHQ minh hoa cho vân dê này. Thû nhât, LHQ së tù chôi trâch nhiêm phâp lÿ dôi vôi nhûng thiêt hai gây ra do câc hoat dông quân su hoàc xuât phât tù yêu câu vê hành dông quân su, trên co sà cho rang nhûng hành vi này không phâi là bât hop phâp,848 5vi du: hành dông cô tinh tu vê. Ngupc lai, LHQ châp nhân trâch nhiêm phâp lÿ vê nhûng thiêt h^i gây ra do nhûng hành vi mà không dupe bào chûa bàng su cân thiêt cüa câc hoat dông quân su, vi du nhu viêc phâ hüy mot each không cân thiêt. su giêt choc, câm tù hoàc truc xuât. 3 Thû hai, trong truông hop câc lue lupng quân su tham gia vào mot hoat dông nhân danh LHQ hoàc trên co sô quyêt dinh cüa LHQ nhûng thuc hiên duôi su dieu khiên cüa mot quôc gia, vi du nhu 84 Bowett, United Nations Forces: A Legal Study’ of United Nations Practice (London, 1964) 247; Chitharanjan F Amerasinghe, Principles of the Institutional Law of International Organisations (Cambridge University Press, 2nd, 2007) trang 402. 85 Chitharanjan F Amerasinghe, trang 402. 67
  • 69. trường hợp những thiệt hại gây ra do lực lượng liên quân tiến hành trong chiến dịch tấn công vào Kuwait năm 1990 thì LHQ cũng không chịu trách nhiệm. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách, giáo trình, bài báo 1. Archer (Clive), International Organisations, London, 2nd ed, 1992 2. Bowett, United Nations Forces: A Legal Study o f United Nations Practice, London, 1964 3. Đại học Luật L(à Nội, Giáo trình Luật quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, 2007 4. Đại học Luật Hà Nội, Giảo trình Luật quốc tế: Dùng trong các trường Đại học chuyên ngành luật, ngoại giao, Nxb. Giáo dục, 2010 5. Hall (Stephen), Principles o f International Law (3rded, LexisNexis Butterworths, 2011 6. Jenks (Winfred), The Proper Law o f International Organisations, London, 1962 7. Klabber (Jan), An Introduction to International Institutional Law, Cambridge, 2nd ed, 2009) 8. Misra, “Succession of States: Pakistan’s Membership of the United Nations”, German Yearbook o f International Law 281,1965,3 9. Ngô Hữu Phước, Luật quốc tế: Sách chuyên khảo, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2010 10. Sands & Klein, Bowett’ s Law o f International Institutions, 2001 68
  • 70. 11. Shaw (Malcolm N), International Law, 6th ed, Cambridge University Press, 2008 12. Seidl-Hohenvelden (Ignaz), “Functional Immunity of International Organisations and Human Rights” in Benedek et al, Development and Developing International and European Law: Essays in Hounour o f Konrad Ginther on the Occasion o f His 65thBirthday, 1999 13. Nguyễn Hồng Thao, Tòa án Công lý quốc tế, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2011 14. Trần Văn Thắng, Lê Mai Anh, Hoàng Ly Anh, Luật quốc tế: Lý luận và thực tiễn, Nxb. Giáo dục, 2001 15. Nguyễn Trung Tín, Tìm hiểu Luật quốc tế, Nxb. Đồng Nai, 2000 16. Tunkin (Grigory I), ‘The Legal Nature of the United Nations’ (1966/II0 119 RdC 1-67. 17. Nguyễn Thị Yên, Ngô Hữu Phước, Tập bài giảng Khải luận chung về luật quốc tế, TP. Hồ Chí Minh, 2008 Các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam 1. Công ước Vienna về đại diện của các quốc gia trong quan hệ với các tổ chức quốc tế có tính chất toàn cầu năm 1945 2. Hiến chưong Liên hợp quốc 1945 3. Hiệp định chung về quyền ưu đãi và miễn trừ của Hội đồng châu Âu năm 1949 4. Hiệp ước thành lập cộng đồng than và thép châu Âu ECSC năm 1951 5. Công ước về quyền miễn trừ quốc gia áp dụng cho các quốc gia và tổ chức quốc tế ở châu Ẩu năm 1972 69
  • 71. Các bản án và vụ việc 1. Competence o f the ILO to Examine Proposals for the Organisation and Development o f Methods o f Agricultural Production, Advisory Opinion, [1922], PCIJ Publication Series B, Nos. 2 and 3 2. Competence o f the ILO to Regulate the Conditions o f Labour o f Persons Employed in Agriculture, Advisory Opinion [1922], PCIJ Publication Series B, Nos. 2 and 4 3. Competence o f the ILO to Regulate, Incidentallym the Personal Work o f the Employer, Advisory Opinion, PCIJ Publication No. 13. 4. Jurisdiction o fV . the European Commission o f the Danube between Galatz and Brada, Advisory Opinion, PCIJ Publication, Series B, No 14, 64, 1926 5. Interpretation o f the Greco-Turkish Agreement o f December 1st 1926. PCIJ Publication Series B, No. 16, 1928 6. Case o f the Lotus [1927], PCIJ Publication Series A, No. 10 7. Reparation for Injuries Suffered in the Service o f the United Nations, Advisory Opinion, 1CJ Reports 174, 1949 8. Effect o fAwards o f Compensations Made by the United Nations Administrative Tribunal ICJ Reports 47, 1954 Websites 1. International Court of Justice <http://www.ici-cii.org/homepage/index.php> 2. International Law Commission < http://www.un.org/law/ilc/index.htm> 70
  • 72. CHƯƠNG IX LUẬT QUỐC TÉ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI I. KHÁI NIỆM QUYÈN CON NGƯỜI VÀ LUẬT QUÓC TÉ VÈ QỨYẺN c o n n g ư ờ i Chương này nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản của luật quốc tế về quyền con người. Phần thứ nhất của chương phân tích khái niệm quyền con người và sự phân biệt giữa hai khái niệm quyên con người và quyên công dân. Phân tiêp theo trình bày những vấn đề cơ bản của luật quốc tế về quyền con người, bao gồm đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh và nguồn của ngành luật này; đông thời phân tích sự khác nhau giữa luật quôc tê về quyền con người và luật nhân đạo quốc tế. Phần cuối cùng của chương đi vào phân tích quy định của pháp luật quốc tế về các quyền con người cơ bản ở một số lĩnh vực chủ yếu và khái quát vê cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người hiện nay. 1.1. Khái niệm quyền con người Quyền con người hoàn toàn không phải là khái niệm xa lạ. Theo nghĩa Hán Việt, thuật ngữ “nhân quyền” được hiêu là “quyên con người”, bởi lẽ từ “nhân” nghĩa là con người còn “quyền” có nghĩa là thế, sức mạnh, lợi lộc được hưởng do pháp luật công nhận hoặc do địa vị đem lại.1 Như vậy, có thê hiêu “quyền con người” hay “nhân quyền”2 là quyền của môi con người được tự do tồn tại và hành động, là đặc tính tự nhiên vôn có của con người. Quyền con người là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có và chỉ có ờ con người, với tư cách là thành viên của cộng đông nhân loại. Quyền con người được thê chê 1 Viện Ngôn ngữ học, Đại từ đién tiếng Việt, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 1999. 2Trong chưong này, thuật ngữ “quyền con người'’ sẽ được sử dụng thống nhât thav cho thuật ngữ “nhân quyền”. 71
  • 73. hóa trong pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Trong lịch sử tư tưởng của nhân loại, có nhiều quan niệm về quyền con người và quyền này được xem xét, phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau như: chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo...3 Từ thời Hy Lạp cổ đại, nhà triết học Zeno (333 - 346 TCN) theo trường phái cùa học thuyết về quyền tự nhiên (inatural rights) cho rằng quyền con người là quyền bẩm sinh, mang tính tự nhiên, vốn có của con người: “không ai sinh ra đã là một nô lệ cả, địa vị nô lệ là do họ bị tước đoạt tự do von cỏ của con người”.4 về sau, trường phái tự nhiên được nhiều học giả khác, tiêu biểu là Thomas Hobbes (1588 - 1679); John Locke (1632 - 1704) và Thomas Paine (1731 - 1809) phát triển. Các học giả theo trường phái này cho rằng quyền tự nhiên của con người là “được sử dụng quyền lực cùa chính mình để bảo đảm cuộc sống của chỉnh mình, và do đó, được làm bất cứ điều gì mà mình cho là đúng đắn và hợp lý”.5 Chính phủ là một phương tiện để bảo vệ các “quyền tự nhiên” chứ không phải để ban phát và quy định các quyền của con người. Trái với học thuyết về quyền tự nhiên, học thuyết về các quyền pháp lý (legal rights) cho rằng quyền con người không phải là những gì bẩm sinh vốn có mang tính tự nhiên của con người. Quyền con người phải do nhà nước quy định và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp luật và buộc mọi người phải tuân theo. Tiêu biểu cho trường phái quyền pháp lý này là các tác giả Edmund Burke (1729 - 1797) và Jeremy Bentham (1 7 8 4 - 1832).6 3 Xem thêm Đại học Quốc gia Hà Nội, khoa Luật, Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. CTQG, 2009, tr. 49-55. 4 Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 44 5 Xem: Thomas Hobbes, Leviathan (1,XIV), 1658. 6 Xem thêm Xem Malcolm N Shaw, International Law, 5lh ed, Cambridge University Press, 2003, tr. 249-250. 72
  • 74. Việc phân định tính đúng, sai, hợp lý và chưa hợp lý cùa hai học thuyết này vẫn còn là chủ đề tranh luận trong khoa học. Hiện nay, có khá nhiều các định nghĩa khác nhau về “quyền con người”. Ở góc độ quốc tế, định nghĩa “quyền con người” thường được xây dựng dựa vào định nghĩa của Văn phòng Cao ủy LHQ về quyền con người,7 theo đó “quyền con người được hiểu chung là những quyền thuộc về con ngicời (human being). Khái niệm quyền con người thể hiện ở việc mọi cả nhân con người đều cỏ quyền hưởng những quyền của mình mà không có sự phân biệt về chủng tộc, màu da, giới tỉnh, ngàn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị, dân tộc hoặc nguồn gốc xã hội, tài sản, sự sinh ra hoặc những quy chế khác”.8 Ngoài ra, “quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhỏm chông lại những hành động hoặc không hành động can thiệp đến nhân phẩm, những quyền và nhân cách của con người”.9 Còn tại Việt Nam, quyền con người thường được hiểu là "'những nhu cầu, lợi ích tự nhiên von có và khách quan cùa con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc té”.10 7 Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr.41. 8 Office of the High Commission for Human Rights, ‘A Basic Handbook for UN S taff, 2000, tr. 2 http://www.ohchr.org/Documents/Publications/HRhandbooken.pdf (Nguyên văn: «Human rights are commonly understood as being those rights which are inherent to the human being. The concept of human rights acknowledges that every single human being is entitled to enjoy his or her human rights without distinction as to race, colour, sex, language, religion, political or other opinion, national or social origin, property, birth or other status »). 9 Nguyên bản tiếng Anh “Human rights are universal legal guarantees protecting individuals and groups against actions and omissions that interfere with fundamental freedoms, entitlements and human dignity”. http://www.ohchr.org/Documents/PubIications/FAQen.pdf 10Đại học Quôc gia Hà Nội, sdd, tr. 42. 73
  • 75. Thực tiễn ghi nhận và bảo vệ quyền con người trên thê giới đã chứng minh tính phổ cập của khái niệm quyền con người. Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776) khẳng định: “Mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đỏ có quyền sổng, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc...', Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lại trong Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày 2/9/1945. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 của LHQ đưa ra 30 điều khoản có tính nguyên tắc về quyền con người, trong đó thừa nhận “phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng và không thểjách rời của mọi thành viên trong gia đình nhăn loạĩ"}x Các Công ước 1966 của LHQ1 1 12khẳng định lại và cụ thể hoá thêm những nguyên tắc đó thành các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. 1.1.1. Bản chất giai cấp —xã hội của quyển con người về phương diện lý luận, quyền tự nhiên của quyền con người là quyền của mỗi con người đòi được tự do, tồn tại và hành động. Hiểu ở nghĩa này thì bất kỳ ai, không phân biệt sắc tộc, tôn giáo, điạ vị xã hội... nếu đã là một con người thì đều có quyền con người, không phụ thuộc vào việc người đó ở đâu, sống vào thời đại nào. Hệ quả là quyền con người là đồng nhất, không phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác như tính giai cấp, dân tộc, quyền tồn tại và phát triển của một quốc gia. Tuy nhiên, việc tuyệt đối hóa cách hiểu này sẽ không chính xác, bởi lẽ ‘‘hạn chế của quan điểm này là ở chỗ nó đã tuyệt đổi hoá mặt 1 1 Đoạn 1, Lời nói đầu cùa Tuyên ngôn toàn thề giới về quyền con người năm 1948 cùa LHQ. 12Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị và Công ước quốc tê về các quyên kinh tế, xã hội và văn hóa. 74
  • 76. tư nhiên bấm sinh của nhăn quyển và trở thành những quyền trừu tượng, khó thực hiện được trong thực /é”,1 3 Theo quan điểm của chủ nghĩa Marx —Lenin thì quyền con người phải gắn liền với trình độ phát triển của xã hội, nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất.141 5 1 6Quyền lợi không bao giờ có thể vượt ra ngoài cơ cấu kinh tế - xã hội và trình độ phát triển văn hóa xã hội trên nền tảng cơ cấu kinh tế đó.13 Như vậy, tiền đề để thực hiện quyền con người là tùy thuộc vào mức độ nhận thức của con người đối với quy luật phát triển xã hội và hoạt động thực tiễn của con người trong việc cải tạo thế giới. Lịch sử phát triển của loài người đã chứng minh rằng tự do của con người là trong phạm vi cho phép của lực lượng sản xuất, chứ không phải trong phạm vi cho phép của lý tưởng, của quan niệm chủ quan đơn thuần. Quyền con người mang tính giai cấp; quyên con người gắn với độc lập dân tộc và quyền làm chủ nhân dân; quyền con người không thể đặt lên trên quyền tồn tại và phát triển của một quốc gia. Thứ nhất, quyền con người trước hết mang tính giai cấp và vì thế không có quyền con người trừu tượng, siêu giai cấp. Quyền con người là quyền của con người với tư cách là thành viên của xã hội, nội dung và tiêu chuân của nó được quyêt đinh 1 3 Hoàng Văn Hảo, Quyền con người ớ Trung Quốc vct Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội 2003, tr .211 -212 . 14 “Quyền con người không phái là bầm sinh mà là sản sinh ra trong lịch sù”. Xem K. Marx và Ph. Engels: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, Tập 2. tr. 173. 1 5Theo PGS. TS. Hoàng Văn Hảo thì “quyền khône; bao giờ có thêợ một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triền văn hoá của xã hội do chê độ kinh tê đó quyết định”. Hoàng Văn Hảo, sđ d , Tập. 19. tr 36. 16 Theo tác giả Lang Nghị Hoài thì “khi dùng thước đo tự do và bình đăng đê đánh g/ứ quyên con người trong đời sông phái đưa chúng vào khuôn khô phân tích qiai ccĩp và tư duy biện chứng”. Xem Lang Nghị Hoài, “Thực tê quyên con người trong CNXH và cuộc đấu tranh vì quyền con người trên thế giới”. Nxb. Chính trị quốc gia. Hà Nội 2003, tr. 233. 75
  • 77. bởi chế độ kinh tế và chính trị của một xã hội nhất định nào đó, đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm về văn hóa và giá trị truyền thống của một quốc gia và dân tộc. Thứ hai, xã hội và quốc gia là phưcmg thức tồn tại của con người hiện thực, mỗi con người được sống trong một chế độ nhà nước nhất định. Do đó, khái niệm quyền con người cần phải hiểu trong mối liên hệ với khái niệm chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia và quyền con người là không thể tách rời nhau mà luôn luôn gắn kết với nhau. Việc thành viên trong xã hội thực hiện quyền bảo vệ chủ quyền quốc gia nơi họ đang sống chính là bảo vệ quyền con người của họ. Tôn trọng chủ quyền quốc gia là điều kiện để hiện thực hóa quyền con người bằng hình thức quốc gia ban hành pháp luật quy định và bảo đảm quyền con người trong các quan hệ xã hội. Tôn trọng chủ quyền quốc gia trong quan hệ đối ngoại là nhằm duy trì hòa bình an ninh quốc tế là bảo đảm quyền con người trên bình diện quốc tế.1 7 Theo học giả Xô viết G. Tunkin thì nguyên tắc tôn trọng quyền con người trong luật quốc tế bao gồm: (i) nghĩa vụ của tất cả các quốc gia tôn trọng các quyền cơ bản và tự do của mọi cá nhân trong lãnh thổ của mình; (ii) nghĩa vụ không phân biệt đối xử dựa trên giới tính, màu da, tôn giáo hoặc ngôn ngữ và (iii) nghĩa vụ của tất cả các quốc gia thúc đẩy sự tôn trọng toàn câu 17 Tại hội nghị quốc tế về quyền con người lần thứ hai họp ờ Vienna ngày 16/6/1993, Việt Nam đã xác định rõ "Vị trí không ngừng gia tăng cùa luật pháp quốc tế trong đời sổng thế giới và ý thức ngày càng sáu rộng của nhân dán các nirớc khiến cho các nguyên tũc và mục tiêu cơ bán cùa Hiên chương LHQ, Tuyên ngôn về quyển con người và hai Công ước quôc tê vê các quyên kinh tê, xã hội, văn hoá và các quyền dân sự, chính trị trớ thành tiêu chuân và đòi hỏi phố biển của mọi người và mọi dán tộc trong thời đại chiing ta. Các nguyên tắc cơ bàn trong các văn kiện quốc tế đó là những giá trị chung cùa nhãn loại mà chúng ta cần bảo vệ”. 76
  • 78. đối với quyền con người và hợp tác với các quốc gia khác nhằm đạt đến mục đích đó.1 8 Thứ ba, quyền con người, quyền duy trì đời sống và phát triên bình thường của mỗi con người bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với quyền sống và phát triển của cả cộng đồng mà con người là thành viên, mỗi người phải tuân thủ và hành động phù hợp với pháp luật. Điều 29 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 quy định: “7. Mỗi người đều có những nghĩa vụ đoi với cộng đồng mà ở chỉnh trong đó nhân cách của bản thân có thể phát triển tự do và đầy đủ; 2. Mỗi người, trong khi hưởng t h ụ các quyển và tự do cá nhân chỉ phải chịu những hạn chế do luật định nhằm mục đích duy nhất là bảo đảm việc thừa nhận và sự tôn trọng đoi với các quyền và tự do của những người khác và phù hợp với những đòi hỏi chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dần c h ỉr. Lịch sử phát triển của quyền con người cho thấy quyên con người là một giá trị nhân văn và tiến bộ gắn liền với ìịch sử phát triển của xã hội loài người. Ngay từ thời cổ đại đã xuất hiện những tư tưởng và yêu sách về các quyền trong các luật lệ vê chiến tranh và các luật về nhân đạo.19 Những tư tưởng khởi thủy vê quyên con người mặc dù vậy vẫn còn manh nha, rời rạc, mang nặng tính chất tôn giáo cho đến khi Nghị viện Anh xây dựng “Kiến nghị về các quyền"’ năm 1628 và sau đó được bô sung thành “Luật về các quyền” năm 1689 và Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776; Pháp thông qua "Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền” năm 1789... là những văn kiện quan trọng mang tính quốc tế về quyền con người. Đây là kêt 18 G Tunkin, Theory ofInternational Law, London, 1974, tr. 81. 19 Khoáng 3000 - 1500 năm trước Công nguyên, quyền con người đã được đề cập đến trong bộ luật nhân dạo nối tiếng cùa xứ Babylon, trong đó có lời mở đầu “Ta thiết lập những điềĩi luật nàv nhằm nyăn ngừa ké mạnh áp bức ké yếu... 77
  • 79. quả của các cuộc cách mạng đòi giải phóng và tự do của hàng triệu người bị áp bức trên toàn thế giới. 1.1.2. Tính chất của quyền con người Quyền con người với ý nghĩa là một phạm trù chính trị, xã hội, pháp lý có những tính chất đặc thù của nó. Những tính chất này được thừa nhận bởi cộng đồng quốc tế, thể hiện trong những văn kiện pháp lý quan trọng của LHQ. Theo tài liệu của Văn phòng Cao ủy về quyền con người của LHQ20thì những tính chất cơ bản của quyền con người có thể tóm tắt bao gồm: - Tỉnh phổ biến (universal): các quyền con người được áp dụng một cách bình đẳng đối với mọi người mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào. - Tỉnh không thể chuyển nhượng (inalienable): các quyền con người không thể bị tước đoạt hay hạn chế một cách tùy tiện, ví dụ như quyền tự do của một người chỉ bị hạn chế nếu người này bị kết án là có tội bởi tòa án. - Tính không thể phân chia (indivisible): các quyền con người đều có tầm quan trọng như nhau và không thể coi quyền nào có giá trị hơn những quyền khác. - Tính liên hệ và phụ thuộc lan nhau (interrelated and interdependent): các quyền con người cần được xem xét trong tổng thể các quyền khác và các quyền con người có mối liên hệ phụ thuộc và tác động lẫn nhau. Việc một quyền con người nào đó bị xâm hại ảnh hưởng đến trực tiếp hoặc gián tiếp việc đảm bảo một quyền khác. Ngược lại, việc đảm bảo một cách tích cực một quyền có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đên việc đảm bảo những quyền còn lại.21 20 Office of the High Commission for Human Rights, tlđd, tr.3. 21 Xem thêm Đại học Ọuốc gia Hà Nội, sđd, tr. 47-48. 78
  • 80. 1.2. Quyền con ngưòi trong tưong quan so sánh vói quyền công dân Ngoài khái niệm “quyền con người”, một khái niệm khác cần được đề cập, đó là “quyền công dân”. Quyền con người và quyền công dân thống nhất, nhưng không đồng nhất. Là con người, mọi người đưcmg nhiên đều có quyền con người. Bên cạnh đó công dân cũng là con người, do vậy, ngoài quyền con người thì công dân còn có quyền công dân. Trên cơ sở chủ quyền quốc gia, các nhà nước cụ thể hóa các quyền con người và có những quy định riêng dành cho những bộ phận dân cư có sự găn bó mật thiết nhất với quốc gia mình. Hệ thống các quyền con người được thể chế hóa bằng những quy tắc hiến định tạo thành hệ thống các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và không hoàn toàn tách bạch với các quyền con người cơ bản mà mỗi cá nhân đều được hưởng. Nói một cách khác, không phải tất cả mọi con người sống trên lãnh thổ quốc gia đều là công dân của quốc gia đỏ; vì vậy không phải mọi người đều có quyền công dân theo pháp luật của quốc gia đó. Những quyền này chi có đối với người mang quôc tịch, là công dân của nước đó.22 Ngược lại, quyền công dần bao hàm trong đó cả quyền con người. Ví dụ, những người phạm tội bị kết án tù không được hưởng một số quyền công dân; nhưng xét ở góc độ quyền con người, công dân đó vẫn có những quyên con người cơ bản như quyền sống, quyền được tự do phát triên, quyền không bị đánh đập, tra tấn, bị bắt làm nộ lệ ... 22 Theo tác íỉià Trần Ngọc Đường thì “Quyền cóng dân là quyền con người, là những giá trị gắn nền với một Nhà nước nhất định và được Nhà nước dó hảo hộ hang phctp luật của mình đối với người mang quôc tịch cùa nước mình, thê hiện mối uẻn hệ pháp tý cơ bàn giữa mỗi vá nhân cùa công dân với một nhà nước cụ thê". Xem Trần Ngọc Đường, Quyên con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyên xã hội chú nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị Quôc gia —Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 24. 79
  • 81. Như vậy, có thể nói rằng quyền công dân là hình thức biểu hiện cụ thê của quyền con người trong một chế độ xã hội, một nhà nước cụ thể. Việc một người được hưởng quyền công dân hay không và được hưởng đến mức nào phụ thuộc vào quy chế pháp lý của họ tại nước cư trú cũng như tư cách công dân của người đó. về mặt nội dung, quyền công dân có những điểm trùng với quyền con người, nhưng nó cụ thể hem, gắn liền với đặc điểm chính trị - văn hóa - xã hội, trình độ phát triển một quốc gia nhất định và phải được quốc gia đó quy định bàng pháp luật mà cụ thể là bằng những quy định mang tính nguyên tắc trong hiến pháp. Khái niệm quyền công dân bao hàm mối quan hệ qua lại giữa công dân và quốc gia về quyền và nghĩa vụ. Công dân phải có nghĩa vụ và trách nhiệm đối với quốc gia mà mình mang quốc tịch và ngược lại nhà nước, đại diện cho quốc gia, phải có nghĩa vụ bảo vệ công dân của mình được hưởng quyền bình đẳng theo quy định của pháp luật. Quyền và nghĩa vụ công dân phụ thuộc chặt chẽ vào chế độ chính trị - xã hội, vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của quốc gia ờ mỗi giai đoạn lịch sử nhất định. Do vậy, ở mỗi quốc gia khác nhau có những quy định về quyền công dân khác nhau. Hiến pháp 1992 của CHXHCN Việt Nam khẳng định “Ở nước CHXHCN Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tể văn hoá, xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50). Tiếp theo đó, từ Điều 51 đến 81 của Hiến pháp quy định các quyền và nghĩa vụ của công dân. Trong đó có những quyền rất quan trọng như quyền tham gia quản lý nhà nước (Điều 53);23 quyền bầu cử, ứng cử (Điều 54);24 quyền tự do kinh doanh (Điều 23 Điều 29 Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992 đưa ra lấy ý kiến nhân dân tháng 1 năm 2013. 24 Điều 28 Dự thảo Sửa đổi Hiến pháp 1992. 80
  • 82. 57);25 quyền nghiên cứu khoa học, phát minh, sáng chế (Điều 60);26 quyền được bảo vệ sức khoẻ (Điều 61);27 quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, lập hội, hội họp, biểu tình (Điều 69);28 quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 70)29... Đó là sự cụ thể hoá quyền con người và quyền công dân trong điều kiện cụ thể của Việt Nam, phù họp với các nguyên tắc chung về quyền con người được quốc tế công nhận. 1.3. Khái niệm luật quốc tế về quyền con người Hiện nay có nhiều quan điểm, cách hiểu và tiếp cận khác nhau đối với luật quốc tế về quyền con người. Ví dụ, luật quốc tê vê quyền con người (International Law on Human Rights) có thể đựợc hiểu là: “mộ/ hệ thống các quy tắc, tiêu chuẩn và tập quán pháp lý quốc tế xác lập, bảo vệ và thúc đầy các quyển và tự do cơ bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại”.30 Trước hết cần khẳng định luật quốc tế về quyền con người là một ngành luật trong hệ thống pháp luật quốc 'tế. Do vậy, luật quốc tế về quyền con người là tổng thể những nguyên tắc và quy phạm pháp lý do các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên, nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thê của luật quôc tê trong lĩnh vực quyền con người. Từ khái niệm luật quôc tê vê quyền con người có thể thấy ràng: Thứ nhất, luật quốc tế về quyền con người là một tập hợp các nguyên tấc và quy phạm pháp lý quốc tế được các quôc gia và chủ thể của luật quốc tế xây dựng nên như một chuân mực 25 Điệu 34 Dự thào Sứa đổi Hiến pháp 1992. 26 Điệu 43 Dự thảo Sừa đội Hiện pháp 1992. 27 Điệu 41 Dự thảo Sửa đội Hiến pháp 1992.’ 28 Điều 26 Dự thào Sữa đội Hiến pháp 1992. 29 Điều 25 Dự thào Sửa đổi Hiến pháp 1992. 30 Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 131. 81
  • 83. chung được áp dụng để điều chỉnh, bảo vệ và thúc đẩy các quyền tự do cơ bản của mọi thành viên của cộng đồng nhân loại. Thứ hai, các quy phạm và nguyên tắc của luật quốc tế về quỵên con người được các quốc gia và chủ thể khác của luật quôc tê xây dựng nên, trước hêt thông qua phương pháp thỏa thuận, băng cách ký kết các điều ước quốc tế hoặc cùng chấp nhận những tập quán quốc tế liên quan đến quyền con người. Thứ ba, luật quốc tế về quyền con người điều chỉnh các quan hệ giữa: (i) các quốc gia với quốc gia trong việc tuân thủ, thúc đầy và bảo vệ quyên con người —thành viên của cộng đông nhân loại và; (ii) điều chỉnh các nghĩa vụ của quốc gia liên quan đên quyên con người như nghĩa vụ tôn trọng; nghĩa vụ bảo vệ và nghĩa vụ thực hiện, v ề'nguyên tắc, các nghĩa vụ của quốc gia trong việc thực hiện quyền con người mang tính liên tục, tuy nhiên trong những hoàn cảnh khẩn cấp đe dọa đến an ninh, chủ quyên quôc gia thì quốc gia có quyền áp dụng những hạn chế về việc quỵ định và thực hiện các quyền được quy định trong Công ước quôc tê vê các quyên dân sự, chính trị năm 1966 miễn là các biện pháp áp dụng không trái với các nghĩa vụ khác được pháp luật quốc tế quy định. (Điều 4 của Công ước). Thứ tư, về hình thức, luật quốc tế về quyền con người được thê hiện trong các văn bản pháp luật quốc tế về quyền con người mang tính toàn cầu và khu vực như: Hiến chương LHQ 1945; Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948 và hai Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị, 1966 (International Covenant on Civiỉ and Political Rights - ICCPR), Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội, văn hoá, 1966 (International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights - ICESCR) cùng hai Nghị định thư bổ sung của hai Công ước 1966 được xem là “Bộ luật quốc tế về quyền con người”.31 Quyền con người 31 Hiện nay Việt Nam đã tham gia 9 công ước: Công ước không áp dụng thời hiệu tô tụng đôi với tội phạm chiến tranh và tôi phạm chống nhân loại; Công 82
  • 84. trở thành một giá trị pháp lý được quốc tế hoá và từ đó đến nay đã có hơn 114 văn bản pháp lý quốc tế về lĩnh vục quyền con người được LHQ và các chủ thể khác thông qua.32 Trong đó, có 34 công ước, hiệp ước và nghị định thư được công bố nhằm cụ thê hoá và phát triển tư tưởng về quyền con người trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người. về mặt học thuật, khái niệm “luật về quyền con người” (Human rights law) là một khái niệm rộng, bao hàm cả luật quốc tế về quyền con người (gồm những nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tế về quyền con người) và pháp luật quốc gia vê quyên con người bao gôm những quy định pháp luật quôc gia nhằm cụ thể hóa và thực thi các quyền con người trong phạm vi quốc gia. II. ĐÓI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP ĐIÈU CHỈNH VÀ NGUÒN CỦA LUẬT QUÓC TÉ VẺ QUYÈN CON NGƯỜI 2.1. Đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế về quyền con ngưòi Là một ngành của luật quốc tế, đối tượng điều chinh của luật quốc tế về quyền con người có những điểm tương đông với luật quôc tế. Điều này được thể hiện ở việc luật quốc tê vê quỵên con người điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể truyên thông của luật quôc tế như các quốc gia, các dân tộc đang đâu tranh thực hiện quyền dân tộc tự quyết và các tổ chức quôc tê liên chính phủ trong việc thúc đẩy, thực hiện và bảo vệ quyên con người trong phạm vi lãnh thổ quốc gia và trên toàn thế giới. ước về ngăn ngừa và trùng trị tội Apacthai; Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng; Công ước về loại trừ các hình thức phân biệt chùng tộc; Công ước Gionevơ năm 1949 về bào vệ nạn nhân chiến tranh (bôn công ước và hai biên bản bổ sung); Công ước về qủyền kinh tế —xã hội và văn hoá; Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xừ với phụ nữ; Công ước về quyền trẻ em. 32 Xem Trần Ngọc Đường, S lid . tr. 34. 83
  • 85. về thực chất, luật quốc tế về quyền con nguời điều chỉnh mối quan hệ giữa quốc gia, đại diện là nhà nước và con người. Tuy nhiên, xét về bản chất, luật quốc tế về quyền con người không điều chỉnh trực tiếp những vẩn đề phát sinh trực tiếp giữa cá nhân và quốc gia mà vấn đề này được điều chỉnh bằng pháp luật của quốc gia liên quan. Mặc dù vậy, các quy tắc của luật quốc tế về quyền con người đặt ra những chuẩn mực khung mà các quốc gia khi điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quyền con người phải tuân thủ. Mối quan hệ giữa luật quốc tế về quyền con người với luật quốc gia cũng chính là sự thể hiện của mối quan hệ biện chứng giữa luật quốc tế và luật quốc gia. Theo đó, luật quốc tế về quyền con người tác động tích cực đến sự phát triển của pháp luật quốc gia về quyền con người thông qua hoạt động nội luật hóa nội dung,của các quy định trong luật quốc tế về quyền con người vào pháp luật quốc gia. Ngược lại, luật quốc gia đóng vai trò là phương tiện thực thi các quy định của luật quốc tế về quyền con người ở phạm vi từng quốc gia. về nguyên tắc, trong luật quốc tế, nhà nước là chủ thể có quyền chủ quyền xừ lý các vấn đề liên quan đến công dân của mình. Điêu này thuộc công việc nội bộ của quốc gia, các quốc gia khác không được quyền can thiệp. Tuy nhiên, quyền của nhà nước đối với con người không phải là tuyệt đối. Trước hết, mọi ngưòi đều được hưởng quyền cơ bản mang tính tự nhiên của con người - quyền được sống; được mưu cầu hạnh phúc... Đối với những quyền này, các quốc gia trên thế giới phải tuân thủ những tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người mà các quốc gia tự nguyện cam kết trong các điều ước quốc tế về quyền con người. “ Việc một nhà nựớc vi phạm các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người trong quan hệ với các công dân sẽ bị coi là sự vi phạm nghĩa vụ quốc tế của nhà nước đỏ khi đã cam kết thi hành”.3* Ví dụ, ủy ban về quyền con người của LHQ và Tòa3 3 33 Xem Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 134. 84
  • 86. án quốc tế về quyền con người có thể xem xét các yêu cầu của một con người cụ thể là công dần của một quốc gia khi cá nhân này cho rằng mình là nạn nhân của những hành động vi phạm quyền con người của chính phủ họ với điều kiện là những quốc gia này phải chấp nhận thẩm quyền của các thiết chế nói trên.34 Nhìn chung, quyền con người trong luật quốc tế bao gồm cốc quyền dân sự và chính trị; các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa và các quyền đổi với những nhóm người dễ bị tổn tương.35 2.2. Phưong pháp điều chỉnh của luật quốc tế về quyền con ngưòi Luật quốc tế về quyền con người là một ngành luật nằm trong hệ thống pháp luật quốc tế. Do vậy, phương pháp điều chinh của ngành luật này cũng mang đặc trưng cơ bản của phương pháp điều chỉnh của luật quốc tế, đó là phương pháp thỏa thuận giữa các chủ thể của luật quốc tế. Quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ giữa các quốc gia về quyền con người được xây dựng và tồn tại trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia. Do vậy, cơ chế xây dựng, thực thi và tuân thủ pháp luật quốc tế mang tính chất tự điều chỉnh với những phương pháp do chính các chủ thể của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên. Sự thỏa thuận đó được thể hiện bàng việc các quốc gia ký kết các 34 Điều 1 Nghị định thư không bắt buộc thứ nhất của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị quy định “Mộ/ quốc gia thành viên của Công ước mà trở thành thành viên cùa Nghị định thư này thừa nhận thâm quyển cùa ũv ban Quyền con người được nhận xem xét, xừ lv những thông tin từ các cá nhân, những người mà tuyên bố rang họ là nạn nhàn cùa những hành động vi phạm cùa các quốc gia thành viên với bất kỳ một quvền con người nào đã được ghi nhận trong Công ước, ủy ban sẽ không nhận xem xét những khiếu nại như vậv nếu chúng liên quan đèn hành vi cùa những quốc gia thành viên cùa Công tróc nhưng chưa phải lù quốc gia thành viên cùa Nghị định thư này”. 35 Bạo gồm quyền phụ nữ, quyền trẻ em, 'quyền cùa người khuyết tật, quyền cùa các dân tộc thiêu số và quyên cùa người lao động di trú và quyền của những người sông chung với HIV/AIDS. 85
  • 87. điều ước quốc tế điều chỉnh các quan hệ nói chung và quan hệ liên quan đến việc thúc đẩy, bảo vệ và thực thi các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người nói riêng. 2.3. Nguồn của luật quốc tế về quyền con người Nguồn của luật quốc tế về quyền con người là những hình thức biểu hiện của các quy phạm pháp lý quốc tế do các chủ thể của luật quốc tế xây dựng nên nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp lý quốc tế giữa các chủ thể của luật quốc tế về quyền con người. Từ lý luận và thực tiễn của việc xây dựng và áp dụng quy phạm pháp lý quốc tế cho thấy nguồn của luật quốc tế về quyền con người cũng là các loại nguồn của luật quốc tế đề cập ở Điều 38(1) Quy chế Tòa án quốc tế.36Như vậy, nguồn của luật quốc tế về quyền con người baơ gồm: Thứ nhất, các điều ước quốc tế mang tính toàn cầu hoặc khu vực về quyền con người do các chủ thể của luật quốc tế (các quốc gia; các tổ chức quốc tế liên chính phủ và các dân tộc đang đấu tranh giành độc lập và quyền dân tộc tự quyết) thỏa thuận ký kết; chúng có hiệu lực ràng buộc đối với các bên tham gia. Nguồn của luật quốc tế về quyền con người còn bao gồm các tập quán quốc tế về quyền con người. Thíĩ hai, các nghị quyết của LHQ và các cơ quan chuyên môn của tổ chức này có liên quan đến vấn đề quyền con người. Tuy nhiên cần lưu ý là trong số này chỉ những nghị quyết của Hội đồng Bảo an LHQ mới có giá trị pháp lý ràng 36 Bao gồm: (i) các điều ước quốc tế chung hoặc riêng, trong đó có các quy định được các bên tranh châp thừa nhận; (ii) tập quán quốc tế như là một chứng cứ thực tiễn chung được thừa nhận là một tiêu chuấn pháp lý; (iii) các nguyên tắc pháp lý được các dân tộc văn minh thừa nhận; (iv) với điều kiện nêu ở Điều 59, các phán quyết cùa Tòa án Công lý quốc tế và các quan điếm của các chuyên gia pháp luật quốc tế có chuyên môn và uy tín cao, được xem là phưong tiện bổ trợ để xác định các tiêu chuân pháp lý. Xem Điều 38, khoản 1 Ọuy chế Tòa án Công lý quốc tế. 86
  • 88. buộc căn cứ vào các quy định tại Điều 25 và Chương VII của Hiến chương LHQ.37 Thứ ba, các tuyên ngôn, tuyên bố, nghị quyết, các khuyến nghị, hướng dẫn... của các tổ chức quốc tế khác không có giá trị pháp lý bắt buộc đối với các quốc gia. Tuy nhiên, trong thực tiễn khi vận dụng giải thích, tuyên truyền và phổ biến giáo dục quyền con người, những văn kiện quốc tế nói trên có thể được tham khảo, vận dụng và chấp thuận như là một quy phạm tập quán. Ví dụ: Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 (Universal Declaration o f Human Rights - UDHR) không phải là một điều ước quốc tế song UDHR có sức nặng “luân lý” to lớn. Hiện tại, nó được xem là nền tảng của luật tập quán quốc tế về quyền con người, tức là có hiệu lực bắt buộc với mọi quốc gia trên toàn thế giới.38 Nội dung của Tuyên ngôn trên thực tế đã được trích dẫn, áp dụng và được pháp điển hóa từng phần trong nhiều điều ước quốc tế khác nhau. Thứ tư, các kết luận, khuyến nghị do ủy ban Giám sát quốc tế về quyền con người đưa ra trong quá trình xem xét báo cáo của các quốc gia trong việc thực hiện các công ước về quyền con người. Các văn bản này tuy về mặt pháp lý chỉ có tính chất khuyến nghị nhưng trên thực tiễn được xem như những ý kiến chính thức giải thích điều ước quốc tế về quyền con người, được các quốc gia tôn trọng và tuân thủ. Thứ năm, các phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế về quyền con người cũng như của một số tòa án khu vực về quyền con người (như Tòa án châu Âu vê quyên con người). Những phán quyết này đóng vai trò là nguôn bô trợ nhăm giải thích, làm 37 Hội đồng Quyền con ngưòi của LHỌ (HRC) là cơ quan được thành lập theo Nghị quyết số 60/251 ngày 03/4/2006 cũa Đại hội đồng LHQ (Cơ quan này thay thế ủy ban Quyền con người của LHQ tnrớc đây). 38 Xem Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr.161 87
  • 89. sáng tỏ nội dung của những điều ước quốc tế hoặc tập quán quốc tế điều chỉnh vấn đề quyền con người.39 Thứ sáu, các quan điểm, giải thích, nghiên cứu của các học giả có uy tín, chuyên môn cao về quyền con người là những nguồn bổ trợ có giá trị. Cho đến nay cộng đồng quốc tế đã xây dựng và thỏa thuận thông qua nhiều điều ước quốc tế quan trọng về quyền con người. Có thể liệt kê một số điều ước chủ chốt như: (i) Hiến chương LHQ; (ii) Bộ luật quốc tế về quyền con người: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948; Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 (ICESCR); Nghị định thư tùy chọn (thứ nhất) của ICCPR; Nghị định thư tùy chọn (thứ hai) của ICCPR về việc xóa bỏ hình phạt tử hình; (iii) Các văn kiện cốt lõi về quyền con người: Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về chủng tộc năm 1965 {International Convention on the Elimination o f AU Forms o f Racial Discrimination - ICERD); Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xừ chống lại phụ nữ năm 1979 (Committee on the Elimination o f Discrimination against Women - CEDAW); Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt và đối xử tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục khác năm 1984 {Convention against Torture - CAT); Công ước về quyền trẻ em năm 1989 {Convention on the Rights o f the Child - CRC); Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của mọi người lao động di trú và 39 Xem Xem Nottebolm case, ICJ Reports, 1955; Asylum case (Peru v Colombia) ICJ Reports, 1950; US Diplomatic and Consular Staff in Tehran case, ICJ Reports 21, 1980; La Grand case (Germany v. USA) ICJ Reports 2001; Western Sahara (Advisory Opinion) ICJ Reports 12, 1975; Legality of the Threat or Use ofNuclear Weapons, ICJ Reports, 1996 ; Legal Consequences of the Construction of a Wall in the Occupied Palestinian Territory, ICJ 09/7/2004 ; Accordance with International Law of the Unilateral Declaration of Independence in Respect of Kosovo, ICJ Reports, 2010. 88
  • 90. các thành viên của gia đình họ năm 1990 (Convention on the Protection o f the Rights o fAll Migrant Workers and Members o f Their Families - ICRMW); Công ước quốc tế về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị đưa đi mất tích năm 2006 (International Convention for the Protection o f All Persons from Enforced Disappearance - ICPPED); Công ước về quyền của những người khuyết tật năm 2006 (Convention on the Rights o f Persons with Disabilities - ICRPD); Tuyên bố thiên niên kỷ của LHQ năm 2000; (iv) Quyền con người trong quản lý tư pháp: Những quy tăc chuân tôi thiêu vê đôi xử với tù nhân năm 1955; Những nguyên tắc cơ bản về đối xử với tù nhân năm 1990... 404 1 Trong số những điều ước quốc tế liên quan đến quyền con người, những điều ước nổi bật là Hiến chương của LHQ, Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (1948), Công ước quốc tế vê quyền dân sự, chính trị (1966) và Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (1966). 2.3.1. Hiến chương của Liên hợp quốc Mặc dù vấn đề quyền con người không phải là chủ đề duy nhât và chiêm nhiêu điêu khoản trong Hiên chương của LHQ, nhưng về mặt pháp lý thì đây được xem là một văn kiện mang tính nền tảng của luật quốc té về quyền con người. Ngay lời nói đâu của Hiến chương đã khẳng định ý chí của các nước thành viên là ‘7m tưởng vào những quyền con người cơ bản, vào nhân phẩm và giá trị của con người, vào các quyển bình đăng giữa nam và nữ và giữa các quốc gia lớn và nhỏ... thúc đây sự tiên bộ xã hội và nâng cao điều kiện sổng trong một nền tự do rộng rãi hơn'ậì Điều 1 của Hiến chương LHQ thế hiện mục đích của tổ chức này là: “... thúc đẩy và khuyến khích sự tôn trọng các quyền con người và tự do cơ bàn cho tất cả mọi người mà không có sự phân biệt đỗi xử nào vẽ chùng tộc, giới tính, ngôn ngữ 40 Xem thêm http://wwvv2.ohchr.org/English/law/ 41 Hiến chương LHQ 1945. 89
  • 91. hoặc tôn giảo”. 42 Ngoài ra Điều 55 và Điều 56 và nhiều điều khoản khác của Hiến chương đã tái khẳng định và cụ thể hoá mục tiêu của tổ chức này về quyền con người.4 2 43 Điều 55(c) Hiến chương LHQ ghi nhận: “Tón trọng và tuân thủ triệt để các nguyên tắc và tự do cơ bản của tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo”.44 Những quy định này của Hiến chương là tiền đề và cơ sờ pháp lý cho việc xây dựng hệ thống các văn kiện pháp lý quốc tế của các tổ chức quốc tế khác và cả của các quốc gia thành viên về vấn đề quyền con người. Do đó, có thể khẳng định rằng Hiến chương LHQ là nguồn của luật quốc tế về quyền con người. Bên cạnh đó, Điều 2 khoản 2 Hiến chương LHQ khẳng định LHQ được xây dựng trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng chủ quyền của các quốc gia thành viên. Điều 2 khoản 7 nhấn mạnh LHQ không có quyền thi hành bất cứ hành động nào mà về bản chầt là can thiệp vào công việc nội bộ của bất cứ quốc gia nào. Như vậy, LHQ không thể giải thích méo mó các nội dung trong Tuyên ngôn về quyền con người năm 1948 nhàm mục đích 42 Xem “Người đưạ tin UNESCO”, Hà Nội, 1993, số 9, tr 37. 43 Điều 55 của Hiến chương LHQ quy định: “Với mục đích nhằm tạo những điểu kiện ôn định và hạnh phúc cần thiết đê duy trì quan hệ hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc, dựa trên cơ sở tôn trọng các nguyên tăc về qityền bình đãng và tự quyết của các dân tộc, LHQ sẽ thúc đay... c) ...sự tôn trọng và tuân thủ toàn cầu các quyền tự do cơ bản cua con người cho tất cả mọi ngirời mà không có sự đối xử phân biệt nào về chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn giáo 44 Trong diễn vãn khai mạc tại hội nghị quốc tế về quyền con người diễn ra tại Geneva tháng 6/1993, ông Boutros Ghali - Tổng thư ký LHQ (nhiệm kỳ 1992 — 1996) đã khẳng định: “nhân quyền là ngôn ngữ chung của nhân loại vì quyền con người là quyền chung cho tất cả mọi con ngirời, không một ngicời, một nhóm người hay một quốc gia nào có thê tự nhận và cho mình là người duy nhất nắm giữ quyển đó. Tuy rằng môi người là duy nhát, nhưng chỉ cỏ một loài người. Quyền con người trong một xã hội, một bôi cảnh, một trình độ kinh tế xã hội và vân hoá, một môi trường trong lành, một sự phát triển nhân văn và lâu bền, thậm chí phải tính đến tự do và công băng trong sự phát triên của các thế hệ tương lar 90
  • 92. can thiệp vào công việc nội bộ của bất cử quốc gia thành viên nào. Ngoài ra, Điều 1 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị; Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966 cũng khẳng định lại “tẩt cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Bởi quyền đỏ họ tự do quyết định điạ vị chính trị và tự do mưu cầu sự phát triển kỉnh tế, xã hội và văn hoả của mình”. Thực tiễn ngày nay cho thấy khả năng hạn chế chủ quyền quốc gia trong những trường hợp ngoại lệ nhằm bảo vệ quyền con người: các quốc gia có thể đặt vấn đề về “quyền con người” đối với một quốc gia nào đó khi chính quốc gia này đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản, các chuẩn mực quốc tế về quyền con người được ghi nhận trong Hiến chương LHQ và ưong các văn bản pháp lý về quyền con người của LHQ mà quốc gia đó là thành viên. Mặc dù vậy, sự can thiệp về vấn đề quyền con người phải căn cứ vào những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế được Đại hội đồng LHQ thông qua tại kỳ họp lần thứ 25 (1970) và các công ước quốc tế về quyền con người của LHQ. Pháp luật quốc tê không cho phép một quốc gia thành viên áp đặt giá trị của mình cho các quốc gia thành viên khác. Hành động như vậy là vi phạm quyền con người và pháp luật quốc tế. 2.3.2. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 Ngay sau khi Hiến chương LHQ được thông qua năm 1945, Hội đồng kinh tế xã hội của LHQ ( Economic and Social Council - ECOSOC) đã tiển hành thành lập một ủy ban vê thúc đẩy quyền con người454 6trên cơ sở của Hiến chương (Điều 68). 45 ủ y ban Quyền con người cùa LHQ được thành lập năm 1946 hiện nay được thay thế bằng Hội đồng Quyền con người, theo Nghị quyết sô 60/251 ngày 15/3/2006 cùa Đại hội đồng LHQ. 46 Ngay trong phiên họp đầu tiên của ủy ban, úy ban đã tiên hành xem xét ban dự thào “Tuyên ngôn về các quyền và tự do cơ bản’"và theo Nghị quỵêt sô 43 (I) năm 1946 cùa Đại hội đồng thì ửy ban quyền con người cần chuẩn bị cho việc xây dựng một bộ luật quốc tế về quyền con người. 91
  • 93. Ngày 10/12/1948 Đại hội đồng LHQ đã thông qua bản “Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người”.47 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 của LHQ là văn kiện quốc tế đầu tiên có giá trị pháp lý cao tập trung đề cập một tập hợp những quyền và tự do cụ thể, cơ bản của con người trên tất cả các phương diện chính trị, dân sự, kinh tê, xã hội, văn hóa. Tuyên ngôn đã đặt nền móng vững chắc trong lĩnh vực quyền con người và thực sự có ảnh hưởng sâu rộng đối với nhân loại trong việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triển các quyên. Theo tuyên ngôn, “v/ệc thừa nhận nhân phẩm von có, sự bình đắng và các quyền không thể chuyển nhượng của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình trên thế giởi' Tuy rằng, không phải tất cả các quy định trong bản tuyên ngôn đều phù hợp với thực tế của xã hội,48 nhưng bước đầu các quy tắc trong bản tuyên ngôn này trờ thành chuân mực chung cho mọi dân tộc, mọi quốc gia thành viên, mọi tô chức quôc tế trong việc đánh giá và thực hiện các quyền con người. Thực tiễn pháp lý quốc tế ngày nay cho thấy những nguyên tăc nêu ra tại Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người 1948 là cơ sở để cộng đồng tiến bộ quốc tế xem xét vấn đề vi phạm quyên con người của một quốc gia.49 47 Ngày 10/12 hàng năm được gọi là Ngày nhân quyền quốc tế. 48 Trên bình diện chung, Tuyên ngôn có những hạn che nhất định về mặt lịch sử đó là: “Tuyền ngôn chi nhẩn mạnh đến tính phổ biến (tính tự nhiên) và những chuẩn mực chung về quyền cá nhân của moi con người nhirng đã bỏ qua các nghĩa vụ cùa họ đối với xã hội, bào đam quyển cả nhăn cùa mỗi con người mà không linh đên các điêu kiện vê chính trị, xã hội, trưyên thống, lịch sử và văn hoá cùa mỗi dân tộc —trong đó có quyên dân tộc tự quyết... Việc khước từ quyền dán tộc tự quyêt là sự vi phạm nhăn quyển" (Các văn kiện cơ bản về quyền con người, Hà Nội, 2002. tr. 43). 49 Theo một tài liệu cùa LHQ thì “Nhân quyên là cơ sở cùa sự tồn tại và cùng tồn tại cùa con người, nhăn quyền là cái làm nên nhân loại chúng ta. Đổ là những nguyên tắc mang tính cơ sở đê chúng ta thiết lập cái ngôi nhà thiêng liêng cho phẩm giá cùa loài người... khi chúng ta nói về quyền sổng, hoặc vể 92
  • 94. 2.3.3. Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị 1966 (ICCPR) Quyền con người trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 được cụ thể hóa trong Công ước quốc tế về quyền dân sự, chính trị năm 1966 (ICCPR). Theo cách tiếp cận về hình thức,50 có thể chia quyền con người trong Công ước thành nhóm quyền dân sự và nhóm quyền chính trị. Nhóm quyền dân sự bao gồm: (i) quyền không bị phân biệt đổi xử, được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật; (ii) quyền sống, tự do và an ninh cá nhân; (iii) quyền về xét xử công bằng; (iv) quyền về tụ do đi lại, cư trú; (v) quyền được bảo vệ đời tư; (vi) quyền được tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo; (vii) quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân. Nhóm quyền chính trị bao gôm: (i) quyền tự do ngôn luận; (ii) quyền tự do lập hội; (iii) quyền tự do hội họp một cách hoà bình; (iv) quyền tham gia vào đời sống chính trị. 2.3.4. Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa 1966 (ICESCR) Quyền kinh tế, xã hội và văn hóa có thể được chia thành ba nhóm đó là nhóm quyền kinh tế, nhóm quyền xã hội và nhóm quyên văn hóa. Nhóm quyền kinh tế bao gồm (i) quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sổng thích đáng; (ii) quyền lao động. Nhóm quyền xã hội bao gồm (i) quyền được hưởng an sinh xã quvền phát trién, hoặc vé quyền đirợc hất đồng quan điếm và có sự khác hiệt... Nhàn quvèn là giá trị chung cùa mọi nền văn hỏa, lìi ngirời bạn cùa mọi quốc gia. Tính phô biển cùa nhân quvển sẽ cho nhân quyền súc mạnh. Nó là động lực đẻ nhân quyền liên kết các biên giới, vượt qua mọi trở ngại, thách thirc và bạo lực". Xem Liên hợp quôc, Ouvên trẻ em: tạo lập một nên văn hóa nhân quvền, Tập thông tin số 3 cùa LHỌ, bản dịch cùa Trung tâm nghiên cứu Ọuyền con người, 1999, tr. 1. 50 Xét về mặt nội dung có một số quyền có thể được xếp vào nhiều nhóm quyền khác nhau, ví dụ: quyền tự do lập hội có thể xếp vào nhóm quyền xã hội và quyền có việc làm có thể xếp vào nhóm quyền dân sự ... 93
  • 95. hội; (ii) quyền được hỗ trợ về gia đình và (iii) quyền được hưởng sức khỏe về thể chất và tinh thần. Nhóm quyền văn hóa bao gồm (i) quyền giáo dục; (ii) quyền được tham gia vào đời sống văn hóa và được hưởng các thành tựu của khoa học. Ngày nay, tầm quan trọng ngày càng gia tăng của luật pháp quốc tế và ý thức ngày càng sâu rộng của nhân dân các nước khiến cho các nguyên tắc và mục tiêu cơ bản của Hiến chương LHQ , Tuyên ngôn về quyền con người và hai Công ước quốc tế về các quyền kinh tể, xã hội, văn hóa và các quyền dân sự, chính trị trở thành những giá trị chung của nhân loại, tiêu chuẩn và đòi hỏi phổ biến của mọi người và mọi dân tộc.51 Trong một thế giới ngày càng đa dạng, khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con người cần kẹt hợp hài hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hoá, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán của mỗi quốc gia và khu vực... Việc chỉ ưu tiên hoặc tuyệt đối hoá các quyền dân sự, chính trị và một số quyền tự do cá nhân, không quan tâm thích đáng đến quyền phát triển, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cùa cả cộng đồng là cách tiếp cận phiến diện, không phản ánh bức tranh toàn cảnh về quyền con người.52 Việc bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trước hết là trách nhiệm và quyền hạn của mỗi quốc gia, đồng thời cần thiết phải tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người trên cơ sở đối thoại bình đẳng, xây dựng, tôn trọng và hiêu biết lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, vì mục tiêu chung là thúc đẩy và bảo vệ ngày càng tốt hơn các quyền con người. Ngoài ra, “không một nước 51 Dần theo bài “Nhân quyền —Ngôn ngữ chung cùa nhân loại” của PTS. Chu Hồng Thanh —Phó giám đốc Trung tâm nghiên cứu quyền con người —Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Báo Pháp luật số 61 (547) ra ngày 15/12/1995. tr 2. ~ 52 Xem Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa xã hội chù nghĩa Việt Nam, Sách trang về thành tựu bảo vệ và phát triển quvền con người ở Việt Nam. tr.5. 94
  • 96. nào có quyền sử dụng vấn đề quyền con người làm công cụ can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia, gây sức ép chỉnh trị, làm điều kiện trong quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại với nước khác”.5* III. MÓI QUAN HỆ GIỮA LUẬT QUÓC TÉ VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ LUẬT NHÂN ĐẠO QUÓC TÉ về thuật ngữ, “quyền con người” và “nhân đạo” đều liên quan đến con người nhưng các phạm trù này được thể hiện ở hai lĩnh vực khác nhau. Xét ở khía cạnh chủ quan, quyền con người là đặc tính tự nhiên vốn có của con người, là quyền của mỗi con người được tự do tồn tại và hành động, về khách quan, quyền con người gan liền với trình độ phát triển của xã hội, nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất, “nhân quyền không phải là bẩm sinh mà là sản sinh ra trong lịch sử”.5 3 54 Như đã phân tích, quyền con người được thể hiện cả trong hệ thống pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. Luật quốc tế về quyền con người “ là một hệ thong các quy tăc, tiêu chuẩn và tập quán pháp lý quốc tê xác lập, bảo vệ và thúc đẩv các quyền và tự do cơ bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại”.555 6 Luật nhân đạo quốc tế được xây dụng dựa trên tính nhân văn, tính nhân đạo như chính tên gọi của nó. Luật nhân đạo quôc tế từ lâu đã được xem như là "luật trong thời chiến”, là '‘bộ phận nhân quyền cùa luật chiến tranh” 5b Trong thực tế, có nhiêu quan điểm và tên gọi khác nhau về luật nhân đạo quốc tế như: “luật vê chiến tranh”; “luật về xung đột vũ trang” tùy theo từng trường 53 Xem Bộ Ngoại giao, sđd, tr.5. 54 K. Marx và Ph. Engels, Toàn tập, Nxb. Chính trị quôc gia, Hà Nội, 1995, Tập 2, tr. 173. 55 Xem Đại học Ọuốc gia Hà NỘI, sđd. tr, 131. 56 Dan theo Vũ Công Giao —Lã Khánh Tùng, Luật nhân đạo quôc tê - những nội dưng ca bản, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2005, tr. 507. 95
  • 97. hợp và bối cảnh, nhưng phần lớn trong các sách báo pháp lý thuật ngữ “luật nhân đạo quốc tế” thường được sử dụng. Luật nhân đạo quốc tế là có thể được hiểu là “tập hợp những nguyên tắc và quy định pháp lý được cộng đồng quốc tế thừa nhận nhằm giảm thiểu những đau khổ và thiệt hại cho con người trong các cuộc xung đột vũ trang; cụ thể là để bảo vệ những người không tham chiến hoặc không còn khả năng tham chiến cũng như để hạn chế việc sử dụng các phương pháp và phương tiện chiến tranh”.51 Bên cạnh đó, luật nhân đạo quốc tế còn có thể định nghĩa “là hệ thong các quy tắc, chuẩn mực được thiết lập bởi các điều ước và tập quán quốc tế nhằm điều chỉnh các moi quan hệ giữa các bên tham chiến trong các cuộc xung đột vũ trang (mang tính quốc tể và không mang tỉnh quốc tế) để bảo vệ những nạn nhân chiến tranh (bacrgồm dân thường và những chiến binh bị thương, bị ốm, bị đắm tàu, bị bẳt làm tù binh)”.5ĩ Dù về hình thức có những điểm khác nhau, song về nội dung các định nghĩa trên đều ghi nhận luật nhân đạo quốc tế là các chuẩn mực quốc tế được các quốc gia, cộng đồng quốc tế thừa nhận và áp dụng nhằm: (i) Điều chỉnh các mối quan hệ giữa các bên tham chiến, mang tính quốc tế và không mang tính quốc tế trong việc sừ dụng một số loại vũ khí trong chiến tranh; (ii) Bảo vệ những người không tham chiến hoặc không còn khả năng tham chiến; (iii) Bảo vệ những tài sản là di sản văn hoá của nhân loại; và (iv) Trừng trị những cá nhân phạm tội ác chống lại loại người.5 7 5 8 57 Xem Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng, sđd, tr. 26. 58 Xem Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tĩ, 140. 96
  • 98. Luật nhân đạo được tuân thủ dựa trên tinh thần tự nguyện và được tuyên truyền, thuyết phục, vận động nhằm khơi dậy tính nhân đạo, tình cảm con người vượt lên thù hận. Khởi nguồn từ những tư tưởng nhân đạo xuất hiện khắp nơi trong lịch sử nhân loại, luật nhân đạo quốc tế hiện đại được hình thành bắt đầu từ trận chiến giữa Áo, Pháp và Ý diễn ra tại Solferino vào tháng 6/1859.59 Công ước Geneva 1864 là công ước quốc tế đầu tiên điều chỉnh quan hệ giữa các bên tham chiến trong chiến tranh khởi nguồn tù' đề xuất của Henry Dunant (văn kiện này được gọi là Công ước Geneva lần thứ nhất).60 Công ước đã đặt ra nguyên tắc về sự phổ biến và hòa hợp trong các vấn đề chủng tộc, dân tộc, tôn giáo; đồng thời ấn định dấu hiệu của Hội chữ thập đỏ quốc tế là một lá cờ có chữ thập đỏ trên nền trắng61 và những người mang dấu hiệu này được các bên tham chiến chấp nhận như là 59 Chứng kiến trận chiến thảm khốc với sự đau đớn của hàng vạn người bị thương, chết nằm la liệt trên chiến trường, một công dân Thụy Sĩ là Henry Dunant vô cùng xúc động và đã cùng một số người tình nguyện khác vận động cứu chữa, làm tất cả những gì có thể để giảm thiểu đau đớn cho họ. Sau tât cả sự việc đó, Henry về Thụy Sĩ và cho ra đời cuốn sách Kỳ niệm vê Solferino (xuất bàn năm 1862) trong đó ông đã miêu tả lại nỗi thống khồ mà các binh sĩ phải chịu đựng trong chiến tranh và đề xuất ý tường thành lập một tô chức quốc tế nhằm cứu chữa, chăm sóc cho tất cả nạn nhân chiên tranh không phân biệt chủng tộc, quôc tịch, tôn giáo hoặc bên tham chiên. Sau khi được xuất bàn, cuốn sách đã gây được tiếng vang lớn trên toàn châu Au và vài tháng sau một ủy ban —là tiền thân của Hội chữ thập đỏ sau này, được thành lập ở Geneva. Mục tiêu chính của ủy ban này là kiểm tra tính khả thi trong đê xuất của Henry và tìm cách dể hiện thực hóa nó. 60 Tháng 8/1864 Chính phủ Thụy Sĩ tô chức Hội nghị ngoại giao với sự tham gia của 16 quốc gia, từ hội nghị này các nước thành viên tham gia hội nghị đã ký Công ước Geneva về cải thiện tình trạng của thương binh trên chiên trường (Geneva Convention for the Amelioration of the Condition of the Wounded in Amies in the Field). 61 Đổi với những nước Hồi giáo, cờ hiệu mang hình lưõi liềm đò trên nên trắng. 9 7
  • 99. nhân viên các cơ sở y tế và được coi là trung lập.62 Sự gia tăng của các cuộc xung đột vũ trang và sự gay gắt, tàn khốc hơn của chúng do có sự xuất hiện của nhiều loại vụ khí hủy diệt chưa từng tồn tại vào thời điểm ra đời Công ước Geneva lần thứ nhất dẫn đến đòi hỏi phải có sự sửa đổi, bổ sung thêm những quy tắc mới trong chiến tranh để đảm bảo tính nhân đạo. Từ đó, một loạt văn kiện khác cũng được ban hành với nhiều nội dung, phạm vi tác động khác. Trong đó, một số văn kiện tiêu biểu có ý nghĩa quan trọng, đánh dấu bước ngoặt của sự phát triển của luật nhân đạo quốc tế như:63 (i) Công ước Geneva lần thứ nhất được sửa đổi nhằm bảo vệ hiệu quả hơn nạn nhân các cuộc chiến tranh trên đất liền và mở rộng ra các cuộc chiến tranh trên biển; (ii) Nghị định tỉiư về cấm sử dụng hơi cay, hơi độc năm 1925; 62 Xem Vũ Công Giao, “Luật Nhân đạo quốc tế và việc bảo hộ nạn nhân chiến tranh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2001, tr. 65. 63 Nhìn chung luật nhân đạo quốc tế bao gồm những tập hợp sau: “luật Geneva” bao gồm các Công ước được hình thành dưới sự tác động cùa Hội chữ thập đỏ và thông qua tại Hội nghị ngoại giao tổ chức tại Geneva. Các văn kiện này nhằm bảo vệ nạn nhân của các cuộc xung đột vũ trang. Các văn kiện cúa yếu là Công ước Geneva năm 1864, 1906, 1929 và bốn Công ước Geneva năm 1949. “Luật La Haye” là những văn kiện được thồng qua trong các hội nghị hòa bình tô chức tại La Haye vào 1899 (Công ước La Haye số II, III) và 1907 (Công ước La Haye số III —XV) điêu chỉnh các vấn đề về phương thức tiến hành chiến tranh, các vũ khí, phương tiện, biện pháp tiến hành chiến tranh. “Luật Liên hợp quốc” là các vãn kiện, Công ước do LHQ ban hành và thông qua bao gồm các công ước ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng; Công ước về việc không áp dụng thời hiệu đối với các tội phạm chiến tranh và tội phạm chống nhân loại, câm sử dụng vũ khí vi trùng, vũ khí hóa học... Mục tiêu chung của các văn kiện này là đảm bảo quyên con người, hạn chế hoặc chổng lại các loại vũ khí nguy hiêm có nguy cơ diệt chủng. Ngoài ra, còn phải kể đến các văn kiện của các quốc gia hay một khu vực điều chỉnh trong phạm vi hẹp như hội nghị quốc tế và các văn kiện về xét xử tội phạm chiến tranh được các nước Đồng minh thông qua năm 1945, những công ước bảo vệ tài sản văn hóa trong thời gian chiên tranh... 98
  • 100. (iii) Sửa đổi Công ước Geneva lần thứ nhất và thông qua Công ước về đối xử với tù binh năm 1929; (iv) Tại Hội nghị ngoại giao từ tháng 4 đến tháng 8/1949, Công ước Geneva I, II, III, IV ra đời sửa đổi và phát triển nội dung của các công ước trước đó, mở rộng đối tượng bảo vệ đến thường dân và thiết lập các quy tắc tối thiểu mà các bên tham chiến phải tuân thủ. Sau đó, nhiều dạng xung đột vù trang mới xuất hiện có nhu cầu cần phải điều chỉnh làm ra đời hai Nghị định thư quan trọng bổ sung cho bốn Công ước trên. Nghị định thư I quy định việc bảo hộ các nạn nhân của xung đột vũ trang mang tính chất quốc tế và Nghị định thư II điều chỉnh việc bảo hộ các nạn nhân của xung đột vũ trang không mang tính chất quốc tể. Mục đích của luật nhân đạo quốc tế là hạn chế những đau khô do chiên tranh gây ra thông qua việc bảo hộ và giúp đỡ các nạn nhân theo khả năng cao nhất của mình. Luật nhân đạo quôc tê nêu lện thực trạng của xung đột mà không quan tâm tới lý do hoặc tính chất pháp lý của việc sử dụng vũ lực hoặc nguyên nhân đúng hay sai của bất cứ bên nào tham chiến. Luật chỉ quy định các yếu tố liên quan đến vấn đề nhân đạo trong cuộc xung đột. Luật nhân đạo quốc tế đặt ra các nguyên tắc nhằm tập trung vào việc bảo vệ những nạn nhân của chiến tranh, giảm thiểu những thương vong, thiệt hại xảy ra, ngăn chặn sự tàn bạo của vũ lực bẩt kể là vì nguyên nhân gì, bất kể điều đó có hợp lý hay không. Giữa luật quốc tế về quyền con người và luật nhân đạo quốc tế có những điểm chung cơ bản.64 Tìm nhất, cả hai ngành luật này đều có mục tiêu hướng đến việc bảo vệ tính mạng, danh dự nhân phârn, sức khỏe của con người.65 Thứ hai, một sô 64 Xem Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 144 65 Thê hiện ờ những quy định có câ ở har ngành luật vê câm sự tra tân, đôi xử vô nhân đạo hoặc nhục hình, các quyên tô tụng hình sự cơ bàn, sự bảo vệ đôi với phụ nữ, trẻ em... 9 9
  • 101. nguyên tắc cơ bản như không phần biệt đối xử, tôn trọng tính mạng, phẩm giá của con người áp dụng cả ở hai ngành luật. Thứ ba, cả hai ngành luật này có những điều ước và văn kiện quốc tế áp dụng chung (bao gồm toàn bộ văn kiện hoặc chỉ một số điều khoản của văn kiện). Chẳng hạn như Công ước về quyền trẻ em, Nghị định thư không bắt buộc của Công ước về quyền hẻ em liên quan đến sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang hay Quy chế Roma về tòa án hình sự quốc tế. Thứ tư, trong cả hai ngành luật, chủ thể đầu tiên và quan trong nhất trong việc thực thi chính là các quốc gia thành viên. IV. CÁC QUYỀN CON NGƯỜI c ơ BẢN THEO LUẬT QUỐC TÉ Theo cách phân loại phổ biến hiện nay thì quyền con người được phân chia thành hai nhóm chính là: các quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Cách phân chia này đã được LHQ sử dụng khi soạn thảo hai công ước riêng rẽ vào năm 1966, đó là Công ước về các quyền dân sự và chính trị và Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Ngoài ra, khi đề cập quyền con người, người ta cũng nhắc đến quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương trong luật quốc tế. 4.1. Quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị Quyền dân sự và chính trị là một trong những nhóm quyền của quyền con người, bên cạnh nhóm quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Quyền dân sự và chính trị gắn bó mật thiết với nhân thân của mỗi con người. Mục đích của những quyền dân sự là nhằm đáp ứng nhu cầu tự do, dân chủ, bình đẳng giữa các cá nhân trong xã hội. Quyền chính trị là những quyền thể hiện quyền làm chủ nhà nước của công dân, nó phản ánh tính dân chủ của ché độ chính trị xã hội ở mỗi quốc gia. Mục đích của nhóm quyền này nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản về hoạt động chính trị của con người, đảm bảo quá trình tham gia và quản lý hệ thống chính trị của một quốc gia. 100
  • 102. Căn cứ vào Công ước quốc tế về các quyên dân sự, chính trị năm 1966 thì nhóm quyền này bao gồm những nội dung cụ thể như sau: - Nhóm các quyền dân sự bao gồm quyền không bị phân biệt đối xử; quyền được thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật; quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân; quyền tự do đi lại, cư trú; quyền được bảo vệ đời tư; quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo; quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân. - Nhổm các quvền chỉnh trị bao gồm quyền tự do biểu đạt; quyền tự do lập hội; quyền tự do hội họp một cách hòa bình; quyền tham gia vào đời sống chính trị. Hiến chương LHQ 1945, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người 1948 là những văn bản pháp lý quan trọng ghi nhận các quyền dân sự và chính trị của con người và các dân tộc. Tuy nhiên, đến khi Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 ra đời, các quyền này mới được ghi nhận một cách có hệ thống, cụ thể, là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc đảm bảo và thực thi các quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị một cách hiệu quả trên thực tế. Công ước quốc tế về các các quyền dân sự và chính trị được Đại hội đồng LHQ thông qua tại Nghị quyết của sô 2200A (XXI) ngày 12/12/1966. Công ước là một phần của hệ thông luật quốc tế về quyền con người, có hiệu lực từ ngày 23/3/1976. Cho đến cuối năm 2010 đã có 72 quốc gia ký và phê chuân Công ước.66 Lời mở đầu của Công ước khẳng định chán lý bât di bât 66Nguồn:http://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%B4ng_%C6%B0%El%BB%9B c_Ọu%E 1%BB%91c_t%E 1%BA%BF_V%E 1%BB%81_c%C3°/ọA 1c_Ọuy% E1%BB%81 n_D%C3%A2n S%E 1%BB%B l_v%C3%AO_Ch%C3%ADnh_t r%El%BB%8B. Trung Quôc. Cuba, Comoros, Nauru, và São Tomé và Príncipe đã ký nhưng chưa thông qua công ước. Việt Nam ký và phê chuân Công ước vào ngày 24/09/1982. 101
  • 103. dịch ràng việc công nhận những phẩm giá vốn có và quyền bình đẳng của mọi thành viên trong cộng đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình trên thế giới. Nội dung của Công ước được xây dựng dựa trên những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương LHQ và Tuyên ngôn toàn thể giới về quyền con người. Công ước gồm lời nói đầu, 6 chương và 53 điều. Ngoài ra, ủy ban Quyền con người (Human Rights Committee) là cơ -quan giám sát thực thi Công ước đã lần lượt có những bình luận, trong đó phân tích chi tiết về ý nghĩa và nội hàm của các quyền nêu ra trong Công ước.67 Việt Nam đã gia nhập Công ước này vào ngày 24/9/1982. Từ năm 1986 đến nay, Việt Nam đã ban hành và sửa đổi khoảng 13.000 văn bản luật và dưới luật, trong đó các quyền về dân sự, chính trị được quy định một cách cụ thể và toàn diện hơn. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 ghi nhận các quyền con người và nội dung các quyền này đã được thể hiện xuyên suốt qua các chương, mục của Hiến pháp và được cụ thể hóa tại nhiều văn bản pháp luật quan trọng, trực tiếp liên quan đến lĩnh vực dân sự, chính trị như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Bầu cử đại biểu hội đồng nhân dân, Luật Tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, Luật Tổ chức tòa án nhân dân, Luật Tổ chức viện kiểm sát nhân dân, Bộ luật Dân sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Khiếu nại, Tố cáo, Luật Đặc xá, Pháp lệnh Tín ngưỡng tôn giáo... Nguyên tăc bình đẳng, không phân biệt đối xử (quy định tại Điều 52 Hiến pháp 1992) là nền tảng xuyên suốt các văn bản pháp luật của Việt Nam, tạo tiền đề quan trọng cho việc đảm bảo và phát huy các quyền của người dân trên từng lĩnh vực cụ thể. Nhà nước Việt Nam nỗ lực xây dựng và kiện toàn các thiết chế 67 Xem Human Rights Committee, General Comments http://www2.ohchr.org/english/bodies/hrc/comments.htm. 102
  • 104. đảm bảo quyền con người trên thực tế. Một trong những nồ lực đó là việc sửa đổi Hiến pháp 1992 để bảo đảm tốt hơn các quyền con người. Ngoài ra, để đảm bảo thực hiện và thúc đẩy các quyền con người, Việt Nam đã thành lập một hệ thống các cơ quan Nhà nước, trong đó Quốc hội là cơ quan quan trọng thực hiện chức năng giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước; việc bảo đảm tính độc lập của hệ thống tư pháp; hiệu quả của hệ thống cơ quan điều tra Nhà nước. Ngoài ra, các tổ chức chuyên môn như các đoàn luật sư, hội luật gia, cơ quan công chứng, văn phòng trợ giúp pháp luật... các tổ chức, đoàn thể nhân dân như Hội Chữ thập đỏ, Tổng Liên đoàn lao động, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên» Hội Người cao tuổi... có vai trò hết sức quan trọng và ngày càng được nâng cao.68 4.1.1. Quyền dân sự Các quyền dân sự cơ bản được quy định trong Công ước quôc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 bao gồm: 4.1.1.1. Quyền được sống Quyền được sống là quyền tự nhiên vốn có của mỗi con người trong xã hội, là quyền thiêng liêng nhất của môi con người, là cơ sở để con người thực hiện được các quỵên khác. Quyên được sống đã được Công ước đề cập dưới nhiêu góc độ khác nhau với những nội dung phong phú nhàm bảo đảm tôt nhât quyên sông của con người. Điều 6 của Công ước ghi nhận mọi người đều có quyền được sống, quyền này được pháp luật bảo vệ. Không ai bị tước đoạt mạng sống một cách vô cớ. Chỉ trong những trường hợp đặc biệt, quyền được sống của một cá nhân mới có thể bị nhà nước tước đoạt bàng hình phạt tử hình được tuyên bời tòa án có thẩm quyền và bất kỳ người nào bị kết án tử 68 Xem Bộ Ngoại giao Việt Nam, “Báo cáo quốc gia kiềm điểm định kỳ việc thực hiện quyền con naưòi ờ Việt Nam”, 2009. http://www.mofahcm.aov.vn/vi/mofa/nr040807104143/nr04080710500 l/ns09 0723074537. 103
  • 105. hình cũng có quyền xin ân giảm hoặc thay đổi mức hình phạt, “ở những quốc gia còn áp dụng hình phạt tử hình thì chi được phép áp dụng đối với những tội ác nghiêm trọng nhất căn cứ vào pháp luật hiện hành ở thời điểm thực hiện tội ác và không được trái với quy định của Công ước này và Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng. Hình phạt tử hình chỉ được thi hành trên cơ sở bản án đã có hiệu lực pháp luật do một tòa án có thẩm quyền tuyên’’ ’ (Điều 6 khoản 4). Không được phép thi hành hình phạt tử hình đối với người dưới 18 tuổi và phụ nữ đang có thai (Điều 6, khoản 5). Ngoài quyền được sống được quy định tại Điều 6, Công ước cũng quy định các quyền khác có liên quan đến quyền được sống như: “không một người nào có thể bị tra tấn, đối xử hoặc bị áp dụng hình phạt một cách tàn nhẫn, vô nhân đạo hoặc nhục hình...’ ’’ ’(Điều 7); không được phép bắt giữ bất cứ người nào làm nô lệ; không một người nào có thể bị bắt làm nô dịch; không được đòi hỏi bất kỳ một người nào phải lao động bắt buộc hoặc cưỡng bức (Điêu 8). Ở những nước còn áp dụng hình phạt tù kèm lao động cưỡng bức đối với người phạm tội thì việc thực thi hình phạt này phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật quốc gia đó và phải do tòa án có thẩm quyền quyết định. 4.1.1.2. Quyền tự do và an ninh cá nhân Con người không thể hoạt động, phát triển và bảo đảm được quyền con người khi con người đó không có quyền tự do và an ninh cá nhân. Mọi người có quyền hưởng tự do và an ninh cá nhân. Không ai bị bắt hoặc giam giữ vô cớ, không một ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp có lý do và phải theo đúng những thủ tục mà pháp luật đã quy định (Điêu 9 khoản 1). Bầt cứ người nào bị bắt hoăc bị giam giữ vì một tội hình sự phải được sớm đưa ra tòa án hoặc một cơ quan tài phán có thẩm quyên thực hiện chức năng tư pháp và phải được xét xử trong thời hạn hợp lý hoặc được trả tự do. Bất cứ người nào do bị bắt hoặc giam giữ mà bị 104
  • 106. tước tự do đều có quyền yêu cầu được xét xử trước toà án, nhầm mục đích để tòa án đó có thể quyết định không chậm trễ về tính hợp pháp của việc giam giữ và ra lệnh trả lại tự do cho họ, nếu việc giam giữ là bất hợp pháp và bất cứ người nào trở thành nạn nhân của việc bị bắt hoặc bị giam giữ bất họp pháp đều có quyền được yêu cầu bồi thường (Điều 9). Chế độ giam giữ, thi hành án không phải nhằm mục đích trừng trị, trả thù đối với người phạm tội mà mục đích chính cần hướng tới ờ đây là nhằm cải tạo, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm để trở thành người hữu ích cho xã hội. Đôi với những người bị tước tự do, vẫn phải được đối xử nhân đạo và với sự tôn trọng nhân phẩm vốn có của một con người, không ai bị bỏ tù chỉ vì không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ của họp đồng (Điều 11). Quy định này cùa Công ước nhằm mục đích ngăn chặn, xóa bỏ sự tùy tiện và vô nhân đạo trong việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế của pháp luật của các cơ quan nhà nước cũng như “hình sự hóa” đối với các hành vi của cá nhân khi họ thiết lập và thực hiện các giao dịch dân sự trong xã hội. Các quyền tự do và an ninh cá nhân được bảo vệ khỏi các hành vi xâm phạm từ phía các cơ quan nhà nước, các cá nhàn hoặc bất kỳ ai, không ai bị can thiệp một cách độc đoán hoặc bất hợp pháp đên đời sông riêng tư, gia đình, thư tín, hoặc bị xúc phạm danh dự, nhân phẩm (Điều 17). 4.1.1.3. Quyền tự do cư trú và đi lại họp pháp Cư trú và đi lại là những nhu cầu thiết yếu của mỗi con người trong đời sống xã hội và đây là một trong những quyền cơ bản của quyền con người được Công ước quy định. Quyền tự do cư trú và đi lại hợp pháp cho phép mỗi người có thể tự mình lựa chọn và quyết định việc đi lại và cư trú ở bất kỳ nơi nào trong phạm vi lãnh thổ của quôc gia hay trên lãnh thổ của một quốc gia khác, phù họp với hoàn cảnh, khả năng va nhu cầu đáp ứng của bàn thân người đọ. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ tôn trọng và phai bào đảm các quyên nàỵ (Điều 12). Các quyền đi lại và cư trú của con người không thế bị hạn chế, 105
  • 107. ngoại trừ trường hợp do pháp luật quy định để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức xã hội hoặc quyền và tự do của người khác. Một người được quyền tự do ra nước ngoài thì cũng phải có quyền tự do trờ về nước mình, không một ai bị tước đoạt một cách độc đoán quyền trờ về nước mình. Một người nước ngoài cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của một quốc gia là thành viên chỉ có thể bị trục xuất khỏi quốc gia đó theo quyết định phù hợp pháp luật, ngoại trừ trường hợp do yêu cầu bức thiết về an ninh quốc gia. Trong trường hợp này người nước ngoài bị trục xuất vẫn được quyền đệ trình những lý lẽ để phản đối việc trục xuất và được yêu cầu nhà chức trách có thẩm quyền của quốc gia đã ra quyết định trục xuất xem xét lại trường hợp của mình (Điều 13). 4.1.1.4. Quyền bình đẳng trước tòa án và cơ quan tài phán Theo quy định tại Điều 14 của Công ước, “Tất cả mọi người đều bình đẳng trước tòa án và cơ quan tài phản. Bất kỳ người nào đêu cỏ quyên đòi hỏi việc xét xỉt công bằng và công khai do một tòa án có thâm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội trong vụ án hình sự hoặc xác định quyền và nghĩa vụ cùa người đó trong tố tụng dân sự...”. Quyền bình đẳng trước tòa án và cơ quan tài phán đảm bảo cho lợi ích hơp pháp của mỗi người được bảo vệ, phán quyêt của các cơ quan tài phán được đúng đắn, khách quan và đủng pháp luật, giúp cho công lý được duy trì. Để đảm bảo quyên bình đăng của mọi người trước tòa án và cơ quan tài phán, khi tiến hành xét xử tòa án và cơ quan tài phán có thể xét xử kín hoặc xét xử công khai tùy vào quy định của pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, các phán quyết của tòa án phải được công bố công khai để mọi người có thể biết và kiểm tra tính đúng đắn, khách quan của phán quyết. Một người bị buộc là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội cùa người đó được chứng minh theo 106
  • 108. pháp luật (Điều 14, khoản 2). Điều này có nghĩa là, khi chưa có bản án của tòa án đã tuyên có hiệu lực pháp luật thì bất kỳ người nào bị buộc tội vẫn phải được coi là vô tội. Nếu bất kỳ ai bị kết án sai cũng đều có quyền được yêu cầu bồi thường, trừ trường hợp chứng minh được rằng việc không kịp thời làm sáng tỏ sự thật chưa biết là do bản thân người bị kết án gây ra. Bên cạnh đó, Công ước cũng ghi nhận: không ai bị đưa ra xét xử hoặc bị trừng phạt lần thứ hai về cùng một tội phạm mà một bản án có hiệu lực pháp luật đã tuyên hoặc về tội mà người đó đã được tuyên trắng án phù hợp với pháp luật của mỗi nước (Điều 14). Cuối cùng, “không ai có thể bị kết án phạm tội hình sự vì một hành động hoặc một sự khinh suất mà đã không cầu thành tội phạm theo luật quốc gia hoặc luật quốc tế vào thời gian xảy ra hành vi đó; không áp dụng hình phạt nặng hơn hình phạt đã ấn định vào thời gian xảy ra hành vi phạm tội. Nếu sau khi xảy ra hành vi phạm tội, luật pháp lại qui định hình phạt nhẹ hơn, thì người phạm tội được hưởng mức hình phạt nhẹ đó” (Điều 15). 4.1.1.5. Quyền bình đẳng trước pháp luật Điêu 26 Công ước quy định: “Mọi người đêu bình đăng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo hộ quyên bình đẳng, không cỏ bất kỳ sự phân biệt đổi xử nào”. Bình đăng trước pháp luật chính là tiền đề quan trọng để con người có thê tham gia vào tất cả các hoạt động của quốc gia. Đối với một người, nếu quyền bình đẳng trước pháp luật được đảm bảo thì các quyền bình đẳng khác mới được tôn trọng và đảm bảo thực hiện. Để đảm bảo quyền bình đẳng trước pháp luật, trước hêt pháp luật phải cấm mọi sự phân biệt đối xử và bảo đảm cho mọi người sự bảo hộ bình đẳng, chống lại sự phân biệt đối xử vì màu da, chủng tộc, giới tính, tôn giáo, tài sản, địa vị xã hội hoặc các yếu tố khác. 107
  • 109. 4.1.1.6. Quyền kết hôn và ly hôn Điều 23 của Công ước quy định, quyền kết hôn và thành lập gia đình được pháp luật thừa nhận trên cơ sờ thỏa thuận và đồng ý của người nam và người nữ. Bên cạnh quyền kết hôn, quyền ly hôn cũng được Công ước quy định với điều kiện trong trường hợp ly hôn cần đảm bảo việc bảo hộ đối với con cái. 4.1.2. Quyền chính trị Các quyền chính trị theo Công ước quốc tể về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 bao gồm: 4.1.2.1. Quyền dân tộc tự quyết “Quyền dân tộc tự quyết” là một trong các nguyên tác cơ bản của luật quốc tế hiện đại. Theo Công ước, các quyền chính trị được chia thành quyền của dân tộc và quyền của cá nhân. Quyền chính trị của một dân tộc là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm, đóng vai trò quan trọng, tiên quyết. Chỉ khi quốc gia có quyền này thì mới xây dựng và đảm bảo thực hiện tốt các quyền dân sự và chính trị khác, kể cả các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của công dân. Tại Điều 1, Công ước đã khẳng định: “Mọ/ dân tộc đều cỏ quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chỉnh trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoả. Vì lợi ích của mình, mọi dân tộc đều có thể tự do định đoạt tài nguyên thiên nhiên và của cài của mình, miễn là không làm phương hại đến các nghĩa vụ phát sinh từ hợp tác kinh tể quốc tể mà dựa trên nguyên tắc các bên cùng có lợi và các nguyên tắc của luật pháp quốc tế. Trong bất kỳ hoàn cành nào cũng không được phép tước đi những phương tiện sinh tồn của một dán tộc". Đê đảm bảo thực hiện quyền này, Công ước yêu cầu “Tất cà cúc quốc gia thành viên của Công ước này phải cỏ nghĩa vụ thúc đẩy thực hiện quyển dãn tộc tự quyết vờ phái tôn trọng các quyền đó phù hợp với Hiến chương LHQ” (khoản 3 Điều 1). 108
  • 110. Tôn trọng quyền tự quyết của dân tộc có nghĩa là tôn trọng các chuẩn mực quốc tế về quyền con người nhằm đảm bảo chủ quyền và lợi ích của các quốc gia, dân tộc. Quyền dân tộc tự quyết là quyền mang tính chất nhóm, tính chất tập thể, không được thực hiện bởi cá nhân riêng lẻ. Các quốc gia thành viên Công ước có nghĩa vụ thúc đẩy việc thực hiện quyền tự quyết dân tộc và phải tôn trọng quyền đó, phù họp với các quy định của Hiến chương LHQ. 4.1.2.2. Quyền tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội Quyền tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội là quyền chính trị đích thực, quan trọng của cạ nhân trong một xã hội dân chủ, nhằm đảm bảo cho con người được tham gia vào các hoạt động chính trị của đất nước, nhằm phát huy sức mạnh, trí tuệ tập thể và giám sát hoạt động của các cơ quan đại diện nhân dân. Mọi công dân, không phân biệt giới tính, tôn giáo, màu da, trình độ văn hóa, thành phần xã hội đều có quyền và cơ hội tham gia một cách trực tiếp vào việc điều hành các công việc xã hội hoặc có thể tiến hành điều hành một cách gián tiếp thông qua nliừng người đại diện do mình bỏ phiếu lựa chọn. Để công dân tham gia quàn lý nhà nước xã hội một cách hiệu quả, thực sự, Công ước quy định công dân có quyền bầu cử và ứng cử trong các cuộc bầu cử định kỳ, bằng phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín để thể hiện ý chí, nguyện vọng của mình, không ai được phép cản trở, ép buộc. Bên cạnh đó, công dân phải được tiếp cận với các dịch vụ công cộng ở đất nước mình trên cơ sở bình đẳng (Điều 25). 4.1.2.3. Quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo Vấn đề tâm linh, tín ngưỡng và tôn giáo là quyền của mỗi người được Công ước ghi nhận. Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo mà không chịu bất kỳ sự phân biệt nào. Nội dung của quyền bao gồm tự do có hoặc theo một tôn giáo, tín ngưỡng do mình tự lựa chọn mà không ai được 109
  • 111. quyền can thiệp, cản trở; tự do bày tỏ tín ngưỡng tôn giáo một mình hoặc với nhiều người khác một cách công khai hoặc thầm kín dưới nhiều hình thức khác nhau như cầu nguyện, thờ cúng, thực hành và truyền giảng. Công dân dù khác dân tộc, màu da, trai hay gái, già hay trẻ đều có quyền này một cách bình đẳng, kể cả khi các bậc cha mẹ, những người giám hộ hợp pháp nếu có, trong việc giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý nguyện của riêng họ thì quyền tự do lựa chọn theo hoặc không theo tôn giáo, tín ngưỡng của người đó cũng phải được tôn trọng. Bất kỳ một hành vi cưỡng ép, ngăn cấm theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào, hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để phục vụ cho mục đích bất hợp pháp đều sẽ bị xử lý theo pháp luật (Điều 18). Tuy nhiên, quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo có thể bị giới hạn bởi những quy định của pháp luật, nếu những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ trật tự công cộng, sức khỏe, đạo đức của công chúng hoặc những quyền tự do cơ bản của người khác. 4.1.2.4. Quyền tự do ngôn luận, thông tin Quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin của công dân thể hiện tính chất dân chủ, thúc đẩy sự minh bạch, công khai của nhà nước trong quản lý xã hội, phát triển kinh tế. Đây là quyền đảm bảo cho mọi người dân trong xã hội có điều kiện cần thiết để tham gia một cách chủ động và tích cực vào các hoạt động của nhà nước và xã hội. Theo Điều 19 của Công ước, nội dung của quyền tự do ngôn luận là rất rộng, bao gồm cả quyền tự do tìm kiếm thông tin, nhận và truyền đạt thông tin, ý kiến, không phân biệt ranh giới và hĩnh thức tiếp nhận, truyền tải thông tin, có thể dưới hình thức truyền miệng hoặc thông qua các bản viết, bản in, hoặc hỉnh thức nghệ thuật, hoặc thông qua mọi phương tiện thông tin đại chúng tùy theo sự lựa chọn của mỗi người. Quyền tự do ngôn luận cũng có những giới hạn nhất định, những giới hạn này phải được pháp luật quy định một cách cụ thể và phải 110
  • 112. cần thiết trong việc bảo vệ uy tín, danh dự của người khác hoặc bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc. 4.1.2.5. Quyền tự do hội họp hòa bình và tự do lập hội Việc kết hợp với nhau để thành một nhóm, hội, hay tập thể cùng chung ý chí hay hành động theo một tôn chỉ, mục đích nhất định là quá trình phát triển tự nhiên của con người, thể hiện nhu cầu cần thiết của mỗi con người trong đời sống xã hội. Điều 21 và Điều 22 của Công ước quy định quyền hội họp hòa bình phải được công nhận. Mọi người có quyền tự do lập hội với những người khác, kể cả quyền lập và gia nhập các công đoàn để bảo vệ lợi ích của mình. Tuy nhiên, các quyền này khi thực hiện có thể có những hạn chế nhất định, khi pháp luật quốc gia quy định những hạn chế đó là cần thiết trong một xã hội dân chủ, vì lợi ích an ninh quốc gia, an toàn và trật tự công cộng, để bảo vệ sức khỏe của công chúng hoặc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Công ước cũng quy định các quốc gia thành viên của Công ước phải có nghĩa vụ công nhận và đảm bảo thực hiện các quyền này; trong hoạt động ban hành và thực thi pháp luật không được phép tiến hành những biện pháp làm tổn hại đến các đảm bảo đã được Công ước ghi nhận. 4.2. Các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa Nhóm các quyền kinh tế xã hội và văn hóa được quy định trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa (.International Covenant on Economic, Social and Cultural Rights - ICESCR) năm 1966 được Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 16/12/1966, có hiệu lực từ ngày 03/01/1976. Tính tới ngày 15/12/2008, đã có 160 quốc gia tham gia và 69 nước đã ký.69 Cũng như đối với nhóm các quyền dân sự và chính ưị, ủy ban Giám sát công ước (ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn 69 Thêm 6 nước khác đã ký nhưng chưa thông qua Công ước là Belize, Comoros, Cuba, Sao Tomé và Príncipe, Nam Phi, và Hoa Kỳ. 111
  • 113. hóa) có những bình luận chung nhằm giải thích và phân tích cụ thể nội dung của từng quyền trong nhóm này. Việt Nam đã tham gia Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa ngày 24/9/1982. Hệ thống luật pháp của Việt Nam từng bước được bổ sung và hoàn thiện. Hiến pháp năm 1992 và hệ thống các văn bản pháp luật như Luật Bảo vệ sức khỏe người dân 1989, Bộ luật Lao động 1994 (sửa đổi và bổ sung năm 2002 và 2006) và hiện nay là Bộ luật Lao động 2012, Luật Giáo dục 1998 (sửa đổi năm 2005), Luật Đất đai 2003, Luật Bảo hiểm xã hội 2006, Luật Phòng chống HIV/AIDS 2006... đã tạo hành lang pháp lý rõ ràng và tương đối đầy đủ trong việc cụ thể hóa và thực hiện các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân. Bên cạnh đó, những cơ quan chuyên trách cũng được thành lập, bao gồm các ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, ủy ban Quốc gia về người cào tuổi, ủy ban Phòng chống tham nhũng... được thành lập để thực hiện chức năng tư vấn cho Chính phủ về phương hướng và giải pháp đối với những vấn đề liên quan; tuyên truyền, phổ biến và vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước; đồng thời đôn đốc và giám sát việc thực hiện của các cơ quan chính phủ. Các tổ chức, đoàn thể nhân dân như Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam... đóng vai trò ngày càng quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân.70 Căn cứ vào nội dung và bản chất của các quyền liên quan, có thể chia các qụyền kinh tế, xã hội và văn hóa thành ba nhóm quyền cơ bản, cụ thể là: - Nhóm các quyền kinh tể bao gồm hai quyền cơ bản là (1) quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng và (2) quyền lao động và được hưởng thù lao công bằng, hợp lý; 70 Xem Bộ Ngoại giao Việt Nam, llđd. 112
  • 114. - Nhóm các quyền xã hội bao gồm ba quyền cơ bản là (1) quyền được hường an sinh xã hội, (2) quyền được hỗ trợ về gia đình và (3) quyền được hường chăm sóc về sức khỏe và tinh thần; - Nhóm các quyền văn hóa bao gồm hai quyền cơ bản là (1) quyền được giáo dục và (2) quyền được tham gia vào đời sống văn hóa và được hưởng các thành tựu của khoa học. 4.2.1. Quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sổng thích đảng Quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng được nêu ra làn đầu tiên tại Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (Điều 25(1)).71 Sau đó, những nội dung này được khẳng định và ghi nhận trong Công ước quốc tế về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa năm 1966 (Công ước ICESCR). Cụ thể, các quốc gia thành viên của Công ước cam kết thừa nhận quyền của mọi người được có một mức sống thích đáng cho bản thân và gia đình mình, trong đó bao gồm các khía cạnh về ăn, mặc, nhà ở, và được không ngừng cải thiện điều kiện sống. Một nội dung rất quan trọng liên quan đến việc đảm bảo thực hiện quyền này đó là việc Công ước ICESCR đòi hỏi các quốc gia thành viên phải có trách nhiệm thi hành những biện pháp thực thi thích hợp và hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trên cơ sở tự do chấp thuận. Có thể thấy rằng, quyền được hưởng và duy trì tiêu chuẩn sống thích đáng là một tập hợp các quyền liên quan đến những điều kiện cơ bản của cuộc sống mà mọi người đêu có quyên 71 Điều 25(1) quy định Mọi người đều có quyền được hướng mức sống đù đề đàm bảo sức khoé và phúc lợi cùa bàn thân vct gia đình, về các mặt ăn, mặc, ở, y tế và các dịch vụ xã hội cằn thiết khác, cũng như có quyền được bào hiểm trong trường hợp thất nghiệp, ốm đau, tàn tật, góa bụa, già nua hoặc thiếu phương tiện sinh sống do những hoàn cành khách quan vượt quá khít năng kiêm soát của mình." 113
  • 115. được hưởng và được đảm bảo. Những quyên này bao gôm quyên đối với ăn, mặc, ở, chăm sóc về y tế, trong đó ba quyền được coi là những quyền có ý nghĩa quan họng nhất là quyền được đảm bảo đầy đủ về lương thực, thực phẩm, quyền đổi với nước và quyền có nhà ở thích đáng.. 4.2.1.1. Quyền được đảm bảo về lương thực, thực phẩm Khoản 2 Điều 11 Công ước ICESCR quy định một cách cụ thể trách nhiệm của các quốc gia trong việc đảm bảo quyền có lương thực thực phẩm như là một nội dung quan trọng của quyền được hưởng và duy trì các tiêu chuẩn sống thích đáng. Trên cơ sở thừa nhận quyên không bị đói là quyền cơ bản của mọi người, các quốc gia thành viên Công ước sẽ tự mình cũng như thông qua hợp tác quốc tế thực hiện các biện pháp, kể cả các chương trình cụ thể cần thiết để đạt dến mục tiêu đảm bảo quyền này. 4.2.1.2. Quyền đối với nước Quyền đối với nước nêu ra tại Điều 11 Công ước ICESCR được giải thích tại Bình luận chung số 15 đề cập quyền về nước như sau: Thứ nhất, quyền đối với nước được xác định là một quyền con người bởi lẽ nó chính là điều kiện tiên quyết để có thể đạt được các quyền con người khác (quyền con người về sức khỏe, quyền có mức sống thích đáng, quyền có nhà ở và lương thực thích đáng). Quyền đôi với nước được hiểu là mọi người có quyền tiếp cận với nguôn nước một cách thích đáng, an toàn, có thể chấp nhận đưỢc, có thê tiêp cận và chi trả được với cá nhân mình và gia đình. Thứ hai, để đảm bảo quyền đối với nước, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ bảo đảm cho mọi người khả năng tiếp cận các nguồn nước thích đáng cho nông nghiệp; đảm bảo tiếp cận các nguồn nước sinh hoạt vệ sinh, không bị nhiễm độc. Các quốc gia phải đảm bảo cho mọi người quyền tự do tiếp cận với các 114
  • 116. nguồn cung cấp nước sẵn có, quyền không bị tùy tiện cắt hoặc làm ô nhiễm nguồn nước, quyền bình đẳng trong việc tiêp cận với các hệ thống cung cấp nước. 4.2.1.3. Quyền có nhà ở thích đáng Nội dung cụ thể của quyền có nhà ở thích đáng không được đề cập tại Công ước ICESCR, mặc dù vậy Bình luận số 4 của ủ y ban về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đã nêu ra một cách khá chi tiết nội dung cùa quyền này. Ngoài ra, một số các văn kiện quốc tế khác cũng đã đề cập đến “quyền có nhà ở thích đáng” ở nhiêu khía cạnh khác nhau như Tuyên ngôn vê quyên con người 1948 (Điều 25(1)), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (Điều 5(e)(iii)), Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (Điều 14(2)), Công ước vê quyền trẻ em (Điều 27(3))... 4.2.2. Quyền được làm việc và hưởng thù lao công bằng, hợp lý Quyền được làm việc (quyền được lao động) và được hường thù lao công bằng, hợp lý là một trong những quyên cơ bản của người lao động. Hiện nay, các quyền của người lao động được quy định tương đối đầy đủ và thống nhất trong nhiều văn kiện pháp lý quốc tế về quyền con người. Trong đó, các quyên như quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được bảo đảm điều kiện lao động họp lý, được trả thù lao hợp lý, được thành lập công đoàn, được đình công, được nghỉ ngơi... được coi là những quyên cơ bản phổ cập. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người năm 1948 đã nêu ra những nội dung cơ bản nhát của quyên lao động, quyền này bao gồm quyền của mọi người được làm việc và những quyền khác gắn liền với quyền lao động.72 Trên cơ sở 72 Cụ thể là mọi người đều có quyền: - Được làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, được hường những điêu kiện làm việc công bằng, thuận lợi và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp; 115
  • 117. những nội dung cơ bản trên, Công ước ICESCR đã cụ thể hóa các quyền về lao động tại các Điều 6, 7 và 8. Quyền được lao động và hưởng thù lao công bằng, hợp lý được ghi nhận như sau: Thứ nhất, các quốc gia thành viên thừa nhận quyền làm việc, trong đó bao gồm quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm sống bằng công việc do họ tự do lựa chọn hoặc chấp nhận, và các quốc gia phải thi hành các biện pháp thích hợp để bảo đảm quyền này. Các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải tiến hành các biện pháp để thực hiện đầy đủ quyền này, bao gồm triển khai các chương trình đào tạo kỹ thuật và hướng nghiệp, các chính sách và biện pháp kỹ thuật nhằm đạt tới sự phát triển vững chắc về kinh tế, xã hội và văn hóa, tạo công ăn việc làm đầy đủ và hữu ích với điều kiện bảo đảm các quyền tự do cơ bản về chỉnh ưị và kinh tế của từng cá nhân. Thứ hai, mọi người có quyền được hưởng một cách công bằng và thuận lợi những điều kiện làm việc, đặc biệt trong đó mọi người phải được đảm bảo những quyền lợi sau đây: - Thù lao cho tất cả mọi người làm công tối thiểu phải bảo đảm thỏa đáng và công bằng, bảo đảm cuộc sống tương đổi đầy đủ cho họ và gia đình họ; - Điều kiện làm việc phải an toàn và lành mạnh; - Được trả công ngang nhau cho những công việc như nhau mà không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào; - Được hường chế độ thù lao công bằng và hợp lý nhằm bảo đảm sự tồn tại cùa bản thân và gia đình xứng đáng với nhân phâm, và được trợ cấp khi cần thiết bàng các biện pháp bảo trợ xã hội; - Thành lâp hoăc gia nhập công đoàn đê bảo vệ các quyền lợi cùa mình. Ngoài ra, Điều 24 của Tuyên ngôn cũng quy định về quyền nghi ngơi và thư giãn, kể cả quyền được giới hạn hợp lý sô giờ làm việc và được hưởng những ngày nghi định kỳ có hưởng lương. 116
  • 118. - Cơ hội phải ngang nhau cho mọi người trong việc được đề bạt lên chức vụ thích hợp cao hơn, trong đó khi quyết định đề bạt chỉ cần xét tới thâm niên và năng lực làm việc; - Sự nghỉ ngơi, thời gian rảnh rỗi, giới hạn hợp lý số giờ làm việc, những ngày nghỉ thường kỳ được hưởng lương cũng như thù lao cho những ngày nghỉ lễ. Thứ ba, mọi người có quyền được thành lập và gia nhập công đoàn do mình lựa chọn, theo quy chế của tổ chức công đoàn đó, để thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã hội của mình. Đi cùng với quyền này, mọi người được đảm bảo có quyền tiến hành đình công với điều kiện là đình công phải được thực hiện phù hợp với pháp luật của mỗi nước. 4.2.3. Quyền được hưởng an sình xã hội Quyền được hưởng an sinh xã hội lần đầu tiên được đề cập tại Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, trong đó khẳng định rằng; "... mọi người đều có quyền được hưởng an sinh xã hội...". Trên cơ sở cụ thể hóa những nội dung cơ bản của Tuyên ngôn, Công ước ICESCR đã tái khẳng định quyền quan trọng này và nêu một cách ngắn gọn ràng, các quốc gia thành viên Công ước này thừa nhận quyền của mọi người được hưởng an sinh xã hội, kể cả bảo hiểm xã hội. Hiện nay vẫn chưa có bình luận chung nào cụ thể về quyền được hưởng an sinh xã hội do ủy ban về các quyên kinh tê, xã hội, văn hóa đưa ra. Tuy nhiên, khái niệm ‘'an sinh xã hội” được hiểu thông qua hướng dẫn thiết lập báo cáo quốc gia về việc thực hiện Công ước. Trên cơ sở hướng dẫn này, an sinh xã hội được hiểu bao gồm các chương trình cụ thể sau: chăm sóc y tế; trợ cấp tàn tật; trợ cấp tuổi già; trợ cấp tai nạn lao động; trợ cấp đau ôm; trợ cấp thất nghiệp; trợ cấp gia đình; trợ cấp sinh đẻ; trợ câp cho người còn sống {survivors' benefits). Ngoài ra, cũng trong hướng dẫn này, ủ y ban nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập các 117
  • 119. chương trình an sinh xã hội cụ thể cũng như việc dành một phần thích đáng của ngân sách quốc gia cho việc bảo đảm quyền an sinh xã hội. 4.2.4. Quyền được hỗ trợ về gia đình Giữa quyền được hỗ trợ về gia đình với tư cách là một quyền kinh tế, xã hội và vãn hóa và quyền được kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân với tư cách là một quyền dân sự - chính trị (Điêu 23 Công ước ICCPR) có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Một mặt, mọi cá nhân được đảm bảo quyền tự do trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình, mặt khác các quốc gia phải đảm bảo cho mọi người được hường sự hỗ trợ thích đáng về gia đình. Ngoài ra, quyền này cũng có những liên hệ chặt chẽ vói các quyền khác về phụ nữ và trẻ em được quy định tại Công ước ICCPR. Quyền được hỗ trợ về gia đình được đề cập lần đầu tiên trong Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người.73 Những quy định nêu ra tại Tuyên ngôn này sau đó được cụ thể hóa trong tại Điều 10 Công ước ICESCR. Công ước ICESCR đặt ra các yêu cầu cụ thể, theo đó các quốc gia thành viên có trách nhiệm: - Dành sự giúp đỡ và bảo hộ tới mức tối đa có thể được cho gia đình - tế bào cơ bản và tự nhiên của xã hội -, nhất là đối với việc tạo lập gia đình và trong khi gia đình chịu trách nhiệm chăm sóc và giáo dục trẻ em đang sống lệ thuộc; - Dành sự bảo hộ đặc biệt cho các bà mẹ trong một khoảng thời gian thích đáng trước và sau khi sinh con. Các quốc gia cũng cam kết đảm bảo rằng trong khoảng thời gian đó, các bà 73 Cụ thể theo khoản 3 Điều 16, gia đình được xác định là “ tế bào tự nhiên và cơ bán của xã hội, được nhà nước và xã hội báo vệ'. Tiêp đó, tại khoản 2 Điều 25 có quy định "các bà mẹ và tré em có quyển đứợc hưởng sự chăm sóc và giúp đỡ đặc biệt. Mọi trẻ em, du sinh ra trong hay ngoài giá thú, đêu phai được hường sự bào trợ xã hội như nhau . 118
  • 120. mẹ cần được nghỉ có lương hoặc nghỉ với đầy đủ các phúc lợi an sinh xã hội; - Áp dụng những biện pháp bảo vệ và trợ giúp đặc biệt đối với mọi trẻ em và thanh thiếu niên mà không có bất kỳ sự phân biệt đôi xử nào vì các lý do xuât thân hoặc các điêu kiện khác; - Bảo vệ trẻ em và thanh thiếu niên để không bị bóc lột về kinh tế và xã hội. Việc thuê trẻ em và thanh thiếu niên làm các công việc có hại cho tinh thần, sức khoẻ hoặc nguy hiểm tới tính mạng, hay có hại tới sự phát triển bình thường của các em phải bị trừng trị theo pháp luật. Các quốc gia cần định ra những giới hạn vê độ tuổi mà việc thuê lao động trẻ em dưới hạn tuổi đó phải bị pháp luật nghiêm cấm và trừng phạt. 4.2.5. Quyển được chăm sóc sức khỏe. Quyền được chăm sóc sức khỏe chính là một nội dung được đề cập tại Điều 25(2) của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người liên quan đến quyền được có mức sống thích đáng.74 Quy định nói trên sau đó đã được cụ thể hóa trong một loạt các văn kiện quốc tế quan trọng về quyền con người. Đó là các Công ước ICESCR (Điều 7, 11, 12); Công ước về xóa bỏ sự phân biệt đối với phụ nữ (Committee on the Elimination o f Discrimination against Women, CEDAW) (Điều 10, 12, 14); Công ước về quyền trẻ em (Convention on the Rights o f the Child, CRC) (Điều 24); Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc năm 1965 (Điều 5), Tuyên bố Vienna và Chương trình Hành động thông qua tại Hội nghị thế giới về quyền con người lần thứ hai năm 1993. Ngoài ra. quyền này còn được ghi nhận trong một số văn kiện khu vực về quyền con 74 Cụ thể, Tuyên ngôn nhấn mạnh mọi người có quyền được hưởng một mức sông thích đáng, đủ để bảo đàm sức khỏe và phúc lợi cùa băn thân và gia đình, về các khía cạnh ăn, mặc, ờ, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết... Các bà mẹ và tré em có quyền được hường sự chăm sóc và giúp đỡ dặc biệt. 119
  • 121. người, trong đó có thể kể đến Hiến chương xã hội châu Âu năm 1961 sửa đổi (Điều 11), Hiến chương châu Phi về quyền con người và quyền của các dân tộc năm 1981 (Điều 16), Nghị định thư bổ sung Công ước châu Mỹ về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1988 (Điều 10)... Trong số các văn kiện nói trên, Công ước ICESCR chính là văn kiện pháp lý quốc tế mang tính toàn diện nhất về quyền được chăm sóc sức khỏe. Theo Điều 12, Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của mọi người được hưởng một tiêu chuẩn chăm sóc sức khỏe về thể chất và tinh thần ở mức cao nhất có thể được. Công ước cũng đòi hỏi các quốc gia thành viên Công ước thi hành các biện pháp cần thiết để thực hiện đầy đủ quyền này, trong đó bao gồm các biện pháp nhằm: - Giảm bớt tỷ lệ từ Vong của trẻ sơ sinh và trẻ em và đạt được sự phát triển lành mạnh của trẻ em; - Cải thiện mọi mặt về vệ sinh môi trường và vệ sinh công nghiệp; - Ngăn ngừa, xử lý và hạn chế các dịch bệnh, bệnh ngoài da, bệnh nghề nghiệp và các loại bệnh khác; - Tạo các điều kiện để bảo đảm mọi dịch vụ và sự chăm sóc y tế khi đau yếu. 4.2.6. Quyền được giáo dục Quyền được giáo dục được nêu ra tại Điều 26 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người.75 Các nội dung này sau đó 75 Cụ thề Điều 26 quy định như sau: - Mọi người đều có quyền được hướng giáo dục. Giáo dục phải được miễn phí ít nhất ở cấp sơ đăng và căn bàn. Giáo dục sơ đăng.có tính bắt buộc. Giáo dục kỹ thuật và chuyên nghiệp phải được phổ cập. Giáo dục cao đẳng phải được phồ cập cho mọi sinh viên trên căn bản bình đẳng, lấy thành tích làm tiêu chuẩn. 120
  • 122. được cụ thể hóa trong Công ước ICESCR tại các Điều 13 và 14. Điều 13 ICESCR đề cập quyền được giáo dục nói chung, cụ thể các quốc gia thành viên Công ước nhất trí rằng: - Quyền của mọi người được học tập được thừa nhận; - Giáo dục phải hướng vào việc phát triển đầy đủ nhân cách và ý thức về nhân phẩm, và phải nhằm tăng cường sự tôn trọng các quyền và tự do cơ bản của con người; - Giáo dục cần phải giúp mọi người tham gia hiệu quả vào xã hội tự do, thúc đẩy sự hiểu biết, khoan dung và tình hữu nghị giữa các dân tộc và các nhóm về chủng tộc, sắc tộc hoặc tôn giáo, cũng như nhằm đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động duy trì hòa bình của LHQ. Nhằm thực hiện đầy đủ quyền được giáo dục, các quốc gia thành viên Công ước sẽ: - Thừa nhận ràng giáo dục tiểu học là phổ cập và miễn phí với mọi người; - Bên cạnh đó, các quốc gia, bằng mọi biện pháp thích hợp, cụ thể là thông qua từng bước áp dụng giáo dục miễn phí, phải làm cho giáo dục trung học dưới nhiều hình thức khác nhau, kể cả giáo dục trung học kỹ thuật và dạy nghề, trở nên sẵn có và đến được với mọi người; - Bằng mọi biện pháp thích hợp, cụ thể là từng bước áp dụng giáo dục miễn phí, phải làm cho đào tạo đại học trở thành nơi mọi người có thể tiếp cận một cách bình đẳng trên cơ sở năng lực của mỗi người; - Giáo dục phải nhằm phát huy đầy đù nhân cách, tăng cường sự tôn trọng quyền con người và nhũng quyền tự do cơ bãn; phải đề cao sự thông cảm, bao dung và hữu nghị giữa các quốc gia, các cộng đồng sắc tộc hay tôn giáo, đông thời yểm trợ những hoạt động cùa LHQ trong việc duy trì hoà binh. - Cha mẹ có quyền ưu tiên lựa chọn giáo dục cho các con. 121
  • 123. - Giáo dục cơ bản phải được khuyến khích hoặc tăng cường tới mức cao nhất có thể được cho những người chua tiếp cận hoặc chưa hoàn thành toàn bộ chương trình giáo dục tiểu học; - Việc phát triển một hệ thống trường học ở tất cả các cấp phải được thực hiện tích cực, một chế độ học bổng thích đáng phải được thiết lập và những điều kiện vật chất cho đội ngũ giáo viên phải được cải thiện không ngừng. Theo khoản 3 Điều 13, các bậc cha mẹ và những người giám hộ hợp pháp (nếu có) có quyền tự do trong việc lựa chọn trường cho con cái họ ngoài những trường do chính quyền lập ra, miễn là đáp ứng được các tiêu chuẩn giáo dục tối thiểu do nhà nước quy định hoặc thông qua, cũng như bảo đảm giáo dục về tôn giáo và đạo đức cho con cái họ theo ý nguyện riêng của họ. Theo khoản 4 Điều 13, các cá nhân và tổ chức có quyền thành lập và điều hành các cơ sở giáo dục, với điều kiện các cơ sở giáo dục đó luôn tuân thủ các nguyên tắc được nêu trong khoản 1 của Điều này và đáp ứng yêu cầu về tiêu chuẩn tối thiểu mà nhà nước quy định. Quyền phổ cập giáo dục tiểu học được quy định khá chi tiết tại Điều 14 của Công ước ICESCR. Theo đó, mỗi quốc gia thành viên Công ước mà vào lúc trở thành thành viên chưa thể bảo đảm thực hiện được việc giáo dục tiểu học phổ cập và miễn phí trong phạm vi lãnh thô nước mình hoặc các vùng lãnh thổ khác thuộc quyền tài phán của nước mình cam kết trong vòng hai năm sẽ lập ra và thông qua một kế hoạch hành động chi tiết, nhằm thực hiện từng bước nguyên tắc giáo dục tiểu học phổ cập và miễn phí cho mọi người trong một khoảng thời gian hợp lý đã được ấn định trong kế hoạch đó. 122
  • 124. 4.2.7. Quyền được tham gia vào đời sống văn hỏa và được hưởng các thành tựu khoa học Quyền này được đề cập đầu tiên trong Điều 27 của Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người. Theo điều này, mọi người có quyền tự do tham gia vào đời sống văn hóa của cộng đồng, được thưởng thức nghệ thuật và chia sẻ những tiến bộ khoa học cũng như những lợi ích xuất phát từ những tiến bộ khoa học. Mọi người đều có quyền được bảo vệ các quyền lợi vật chất và tinh thần phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học hay nghệ thuật nào mà người đó là tác giả. Điều 15 ICESCR đã cụ thể hóa nội dung Điều 27 Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (Universal Declaration o f Human Rights - UDHR), theo đó, các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận mọi người đều có quyền: - Được tham gia vào đời sống văn hóa; - Được hưởng các lợi ích của tiến bộ khoa học và các ứng dụng của nó; - Được bảo hộ các quyền lợi tinh thần và vật chất phát sinh từ bất kỳ sáng tạo khoa học, văn học nghệ thuật nào của mình; - Các thành viên Công ước cam kết tôn trọng quyền tự do không thể thiếu được đối với nghiên cứu khoa học và các hoạt động sáng tạo. Đe thực hiện đầy đủ quyền này, các quốc gia thành viên Công ước phải thực thi nhiều biện pháp, trong đó có các biện pháp cần thiết để bảo tồn, phát triển và phổ biến khoa học và văn hóa, đồng thời thừa nhận lợi ích của việc khuyến khích, phát triển các mối quan hệ và hợp tác quốc té giữa các quốc gia trong các lĩnh vực khoa học và vãn hoá. 123
  • 125. 4.3. Quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương trong luật quốc tế Bên cạnh việc ghi nhận và bảo vệ quyền con người về dân sự và chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa, luật quốc tế về quyền con người còn đề cập quyền của một sổ nhóm người dễ bị tổn thưcmg (vulnerable groups). Khái niệm “các nhóm người dễ bị tổn thưcmg” hiện nay chưa được định nghĩa chính thức và các nhà nghiên cứu thường đưa ra khái niệm nhóm người này theo những cách khác nhau. Những người thuộc các nhóm này “dễ gặp phải sự phân biệt đổi xử hay những vi phạm quyền con người hơn những người khác”.767 7Các nhóm xã hội dễ bị tổn thưcmg còn có thể được hiểu là “cóc cộng đồng, nhóm người có vị thế về chính trị, kinh tế.hoặc xã hội thấp hơn đa sổ, khiến họ có nguy cơ bị bỏ quên hay bị vi phạm quyền cao hơn.”71 Các quyền con người của những nhóm này về cơ bản không nằm ngoài phạm vi quyền con người nói chung. Do đó, những người thuộc nhóm này cũng sẽ được bảo đảm các quyền con người như những nhóm người khác được ghi nhận trong các Công ước về quyên dân sự và chính trị, quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của nhóm người này, các quyền của họ được quy định trong luật quốc tế về quyền con người một cách cụ thể, chi tiết và có những khác biệt hơn; một số quyền mà chỉ những người thuộc nhóm này mới có. Việc những nhóm người cụ thể nào được coi là nhóm dễ bị tổn thương trong luật quốc tế về quyền con người tùy thuộc vào cách hiểu và hoàn cảnh, điều kiện kinh tế xã hội cụ thể mà nhóm người này sinh sống. Nhìn chung, những nhóm người dễ bị tổn thương bao gồm: phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật; người sống chung với HIV/AIDS; người tỵ nạn, người không quốc tịch; người lao động 76 Elisabeth Reichert, Understanding Human Rights: An Exercise Book, Nxb. SAGE Publication, 2008, tr. 78. 77 Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 295. 124
  • 126. di trú; người bản địa, người dân tộc thiểu số; nạn nhân chiến tranh, người cao tuổi. Phần này chỉ giới thiệu khái quát quyền của những nhóm người dễ bị tổn thương tiêu biểu nhất là phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật và người lao động di trú. 4.3.1. Quyền của phụ nữ Hiện nay văn kiện pháp lý quan trọng nhất về quyền con người của phụ nữ là Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đổi xử chống lại phụ nữ (CEDAW), kết quả hơn 30 năm đấu tranh của Uỷ ban về địa vị phụ nữ LHQ (Commission on the Status o f Women - CSW), và được thông qua vào ngày 18/12/1979.78 Tuy nhiên, các cuộc đấu tranh nhàm ghi nhận quyền của phụ nữ đã bắt đầu từ cấp độ quốc gia từ trước đó và được ghi nhận trong rất nhiều văn kiện quốc tế mà tiêu biểu là Hiến chương của LHQ. Lời nói đầu của Hiến chương khẳng định “sự bình đang về các qu)>ền giữa phụ nữ và nam giới”. Trong Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người, mọi người đều có quyền hưởng các quyền và tự do trên cơ sở bình đẳng giới tính. Bình đẳng nam nữ cũng được khẳng định trong cả hai Công ước về quyền dân sự và chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa (Lời nói đầu và Điều 2(2), Điều 3).798 0Ngoài ra, bảo vệ và thúc đẩy các quyền của phụ nữ còn là chủ đề của các hội nghị quốc tế toàn câu. 78 Công ước này có hiệu lực từ ngày 03/9/1981. Hiện nay có 187 quốc gia là thành viên của Công ước http://treaties.un.org/Pages/ViewDetails.aspx?src=TREATY&mtdsg_no=IV- 8&chapter=4&lang=en. 79 Ngoài ra, các quyền con người còn được tuyên bố và bảo vệ trong một sô công ước quốc tế khác như Cônẹ ước về trấn áp việc buôn người và bóc lột mại dâm năm 1949; Công ước về các quyền chính trị cùa phụ nữ năm 1952; Công ước vê quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn năm 1957; Công ước vê đãng ký kết hôn, độ tuổi tối thiểu khi kết hôii và việc kết hôn tự nguyện năm 1962... 80 Ví dụ như Hội nghị thế giới về quvền con người lần thứ II tại Vienna năm 1993; các hội nghị quốc tế về phụ nữ tại Mexico năm 1975, Copenhagen năm 1980, Nairobi năm 1985 và Bắc Kinh năm 1995... 125
  • 127. Hiện nay Công ước CEDAW là một trong số 9 công ước quốc tế quan trọng của LHQ về quyền con người.8 1 Công ước được xây dựng trên cơ sở các mục tiêu của LHQ nhằm bảo đảm nhân cách, phẩm giá và các quyền cơ bản của con người cũng như quyền bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới.82 Công ước không xác lập các quyền con người mới cho phụ nữ mà giải thích rõ ý nghĩa của bình đẳng, đề ra những cách thức, biện pháp nhằm loại trừ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong việc hưởng thụ những quyền con người được ghi nhận trong các công ước quốc tế về quyền con người. Sự phân biệt đối xử với phụ nữ được hiểu là tất cả những hành động có hoặc không có chủ đích, biểu hiện bằng sự phân biệt hoặc loại trừ hay hạn chế phụ nữ, làm tổn hại hoặc vô hiệu hóa không chỉ sự thực hiện mà còn cả sự công nhận và thụ hưởng các quyền và tự do của phụ nữ, diễn ra trên mọi lĩnh vực bao gồm cả trong đời sống gia đình và ngoài xã hội, trong khu vực công cộng hoặc tư nhân và có thể do mọi đối tượng gây ra, kể cả bởi bản thân phụ nữ.83 Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham gia Công ước ngày 29/7/1980 và phê chuẩn ngày 27/11/1981. Nhà nước Việt Nam luôn cam kết vì sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới, coi đó là một công cụ quan trọng để tiến tới công bàng và phát triển bền vững. Quan điểm này được 81 Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 303. 82 ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam, «Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đôi xử với phụ nữ», Hà Nội, 2005. http://www.giaoducgioitinh.org.vn/WPF/HTTN_SV/Truyenthong/CongUocC hongPhanBietDoiXuPhuNu.pdf 83 Khái niệm “phân biệt đôi xử chông lại phụ nữ” tại Điều 1 của Công ước CEDAW được hiểu là ... bất kỳ sựphân biệt, loại trừ hay hạn chế nào dựa trên cơ sờ giới tính làm ảnh hướng hoặc nhõm mục đích làm tôn hại hoặc vô hiệu hoá việc phụ nữ được công nhận, thụ hưởng, hay thực hiện các quyền con người và những tự do cơ bản trong lĩnh vực chỉnh trị, kỉnh tê, xã hội, văn hóa dân sự và các lĩnh vực khác trên cơ sở bình đắng nam nữ bất kể tình trạng hôn nhân cùa họ như thế nào”. Xem thêm Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 305. 126
  • 128. thể hiện trong Hiến pháp 1992, Luật Hình sự, Luật Dân sự, Luật Lao động, Luật Giáo dục, Luật Đất đai, Luật Phòng chống HIV/AIDS, Luật Bình đẳng giới, Luật Phòng chống bạo lực gia đình và nhiều văn bản pháp luật khác về bình đẳng giới. Năm 2010, Việt Nam đã thông qua Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến năm 2010 thực hiện trên phạm vi toàn quốc, tiếp tục là Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới cho giai đoạn 2011-2020. Quan điểm giới cũng được lồng ghép vào nhiều văn bản quốc gia quan trọng như Chiến lược tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo, Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2005-2010, các chiến lược phát triển ngành... Hệ thống các cơ quan, tổ chức tham mưu và thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ bao gồm Bộ Lao động - thương binh và xã hội, Uỷ ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ và Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Hệ thống tổ chức của các cơ quan này được thiết lập và phát triển ở tất cả các cấp trong toàn quôc. Để loại trừ mọi sự phân biệt đổi xử chống lại phụ nữ, Điều 2, 3, 5 và 6 Công ước ấn định nghĩa vụ cơ bản cho các quốc gia trong các lĩnh vực sau đây: - Quy định nguyên tắc bình đẳng nam nữ trong hiến pháp và pháp luật của mình và bảo đảm thực hiện nguyên tắc này trên thực tế; - Quy định các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn các hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ. bao gồm cà chê tài hình sự; - Thiết lập các cơ chế pháp lý nhằm giúp phụ nữ bảo vệ các quyền bình đẳng của họ; - Đảm bảo không có sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong hoạt động của các cơ quan nhà nước ở các cấp;8 4 84 Xem Bộ Ngoại giao Việt Nam, tlđd. 127
  • 129. - Thực thi tất cả các biện pháp thích hợp nhằm xóa bỏ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong các thành phần kinh tế phi nhà nước; - Điều chỉnh, xóa bỏ những quy định pháp luật, phong tục tập quán của mình có tính chất phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, sửa đổi những tập tục và khuôn mẫu giới có tác động tiêu cực đến phụ nữ (Điều 5); - Ngăn chặn mọi hình thức buôn bán và bóc lột tình dục phụ nữ (Điều 6). Công ước quy định phụ nữ cần được đảm bào các quyền sau đây: quyền tham gia vào các hoạt động chính trị và xã hội (Điều 7); quyền bình đẳng trong việc tham gia các quan hệ quốc tế (Điều 8); quyền bình đẳng về quốc tịch (Điều 9); quyền bình đẳng trong giáo dục (Điều 10); quyền bình đẳng về việc làm (Điều 11); quyền bình đẳng trong vấn đề chăm sóc sức khỏe (Điều 12); quyền bình đẳng trong đời sống kinh tế, xã hội (Điều 13); quyền bình đẳng của phụ nữ nông thôn so với phụ nữ ở thành thị (Điều 14); quyền bình đẳng trước pháp luật (Điều 15); quyền bình đẳng trong quan hệ hôn nhân gia đình (Điều 16). 4.3.2. Quyền cùa trẻ em Trong lịch sử phát triển của quyền con người thì trẻ em luôn được coi là một trong những nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhất và chính vì vậy trẻ em luôn được các nhà nước và cộng đồng quan tâm bảo vệ.85 Hiến chương về quyền trẻ em ra đời năm 1923, dựa trên cơ sở của Hiến chương này Hiệp hội quốc tế các quỹ cứu trợ trè em đã khởi thảo và cho ra đời Tuyên ngôn về quyền trẻ em năm 1924 tại Geneva và từ đây quyền trẻ em chính thức được ghi nhận trong pháp luật quôc tế. Ngày 20/11/1959, LHQ thông qua Tuyên ngôn quyền trẻ em. Tinh thần của tuyên ngôn được phản ánh trong lời nói đầu với điểm cơ bản là “Loài 85 Xem Đại học Ọuốc gia Hà Nội, S(1d, tr. 328. 128
  • 130. người phải dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất mà mình có”, về mặt pháp lý, Tuyên ngôn quyền trẻ em năm 1959 chỉ mang tính khuyến nghị, không có giá trị pháp lý bắt buộc đối với các quốc gia thành viên. Nói cách khác, văn bản này chỉ có giá trị về mặt chính trị và đạo đức. Trước tình hình đó, năm 1979, LHQ quyết định soạn thảo một điều ước quốc tế riêng về quyền của trẻ em. Sau 10 năm soạn thảo và chỉnh sửa bổ sung, ngày 20/11/1989, Đại hội đồng LHQ đã chính thức thông qua Công ước quốc tế về quyền trẻ em, có hiệu lực từ ngày 2/9/1990.86 Ý nghĩa pháp lý của Công ước 1990 là: Thứ nhất, đây là Công ước quốc tế đầu tiên đề cập toàn diện và xác định về mặt pháp lý các quyền tré em theo hướng tiến bộ, trên cơ sở thừa nhận trẻ em có quyền được chăm sóc, bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt. Công ước là văn bản có tính chất ràng buộc pháp lý theo luật pháp quốc tế đối với các quốc gia thành viên và là sự đồng thuận đầu tiên của cộng đồng quốc tế về các quyền được xác định của trẻ em. Thứ hai, Công ước về quyền trẻ em là kết quả của sự pháp điển hóa mang tính lịch sử những trách nhiệm và nghĩa vụ của xã hội đối với trẻ em, là cơ sở thúc đẩy các nước trong cuộc đẩu tranh nhằm bảo vệ và thực hiện quyền trẻ em trên toàn thế giới. Thíĩ ba, Công ước quy định trẻ em được công nhận có đầy đủ các quyền như người lớn và các quyền của trẻ em thuộc dạng đặc biệt như tàn tật, mồ côi, cơ nhỡ, lang thang, sinh sông ờ vùng núi và dân tộc ít người, bản địa... đều được đê cập và chú ý. Văn kiện pháp lý quốc tế này đã đưa ra định nghĩa thông nhất về các quyền của trẻ em cho tất cả các quốc gia thành viên. 86 Cho đến nay, Công ước đã có hon 160 quốc gia thành viên. Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và là nước thứ nhất tại khu vực châu Á ký và phê chuẩn Công ước. 129
  • 131. Các quốc gia này phải nội luật hóa các quyền đó vào trong hệ thống pháp luật của nuớc mình mặc dù họ có sự khác nhau về hệ thống chính trị, văn hóa, tín ngưỡng, tập quán. Ở góc độ khác, đối với các quốc gia chưa tham gia Công ước cũng như các tổ chức quốc tế khi đề cập đến quyền trẻ em cũng chuẩn hóa các quy định của Công ước trong các văn bản pháp lý của mình trên cơ sở coi các quy định của Công ước như những quy phạm tập quán nhằm mục tiêu quyền trẻ em được bảo đảm và tôn trọng ở quy mô toàn cầu. Thứ tư, Công ước thực sự là công cụ pháp lý hữu hiệu trong việc định hướng để xây dựng tiêu chuẩn cho các tổ chức quốc tế và các quốc gia khác xem xét cấp viện trợ trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe và giáo dục trẻ em, giúp cho việc thực thi đi đúng hướng, đúng đối tượng và mang tính tích cực. Từ những chuẩn mực pháp lý được quy định trong Công ước thì việc thực hiện những công việc trên không còn là vấn đề “nhân đạo” hay “từ thiện” mà thực chât là trách nhiệm và đạo lý của các quốc gia Chính vì vậy nhiêu tô chức quốc tế, đặc biệt là tổ chức tự nguyện, phi chính phủ đã sử dụng Công ước làm cơ sở hay cương lĩnh hành động. 4.3.3. Quyền của người khuyết tật Quyền của người khuyết tật (Rights o f Persons with Disabilities) từ lâu đã trở thành mối quan tâm của cộng đồng quốc tế. Tôn trọng và bảo đảm quyền của người khuyết tật không những là vấn đề mang ý nghĩa nhân đạo, từ thiện, mà còn mang ý nghĩa kinh tế, xã hội và pháp lý.87 Chính vì vậy, trong những thập kỷ gần đây cộng đồng quốc tế đã thông qua một số công cụ pháp lý quôc tê đê bảo vệ và thúc đây quyên của người khuyêt tật trong xã hội như: Tuyên bố vê quyên cùa người khuyết tật 87 Nguyễn Thị Báo (2009), Pháp luật về quyền cùa người khuyết tật ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng vàgiãipháp hoàn thiện. Xem nội dung bài viêt tại địa chỉ: http://www.vjol.info/index.php/ssir/articie/view/2864/2820 130
  • 132. 1995, Chương trình hành động thế giới về người khuyết tật 1981, Các nguyên tắc bảo vệ người bệnh tâm thần và chăm sóc y tế cải thiện tâm thần 1991, Tiêu chuẩn, quy chuẩn về sự bình đẳng các cơ hội đối với người khuyết tật 1993... Tuy không có hiệu lực bắt buộc nhưng các văn kiện này đã thể hiện sự cam kết về đạo đức và chính trị của các quốc gia thành viên. Chúng được sử dụng như những hướng dẫn nhằm ban hành các đạo luật và xây dựng các chính sách có liên quan tới người khuyết tật. Mục đích của Công ước về quyền của người khuyết tật là thúc đẩy, bảo vệ và bảo đảm cho người khuyết tật được hưởng đây đủ và bình đẳng tất cả quyền con người và quyền tự do cơ bản, thúc đẩy sự tôn trọng phẩm giá vốn có của họ đồng thời xóa bỏ các rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ và hiệu quả của người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người khác (Điều 1). Các nguyên tắc cơ bản của Công ước ICRPD là: tôn trọng phẩm giá vốn có, sự tự chủ của cá nhân bao gồm sự tự do lựa chọn và sự độc lập của cá nhân; không phân biệt đối xử; bảo đảm sự tham gia và hòa nhập xã hội đầy đủ và hiệu quả; tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận người khuyết tật như một phần của sự đa dạng nhân loại và nhân văn; bảo đảm bình đẳng về cơ hội; (vi) có thể tiếp cận được (ơccessible); bảo đàm bình đẳng giữa nam và nữ; tôn trọng những khả năng đang phát triển của trẻ khuyết tật và tôn trọng quyền bảo vệ nhân dạng của trẻ khuyết tật (Điều 3). Công ước ICRPD xác định các nghĩa vụ chung của quốc gia, theo đó các quốc gia thành viên cam kết sẽ bảo đảm và thúc đẩy sự công nhận đầy đủ tất cả các quyền con người và tự do cơ bản của tất cả người khuyết tật mà khồng có bất cứ hình thức phân biệt đối xử nào đối với người bị khuyết tật (Điều 4). Công ước ICRPD khẳng định, không có điều khoản nào của Công ước ảnh hưởng tới bất cứ điều khoản nào có lợi cho việc công nhận 131
  • 133. các quyền của người khuyết tật và những điều có thể được nêu trong luật pháp của một quốc gia thành viên hay trong luật quốc tê có hiệu lực đôi với quôc gia đó. Sẽ không hạn chế hay vi phạm bât kỳ quyên con người và tự do cơ bản nào đã được công nhận hay hiện có tại bất kỳ một quốc gia nào tham gia Công ước ICRPD chiêu theo pháp luật, công ước, quy định hay phong tục với lý do Công ước không công nhận những quyền và sự tự do đó hoặc Công ước ICRPD chỉ công nhận các quyền và sự tự do này ở phạm vi nhỏ hơn. Các điều khoản của Công ước ICRPD sẽ được triển khai tới mọi vùng của các quốc gia liên bang mà không có bất cứ hạn chế hay loại trừ nào cả. Công ước ICRPD yêu cầu các quốc gia cam kết áp dụng những biện pháp tức thì, vhiệu quả và phù hợp nhằm nâng cao nhận thức toàn xã hội về các vấn đề liên quan tới người khuyết tật và thúc đẩy sự tôn trọng các quyền và phẩm giá của người khuyết tật; đấu tranh xóa bỏ những khuôn mẫu, định kiến và tập quán có hại tới người khuyết tật, bao gồm những vấn đề về giới tính và tuôi tác, trong tât cả các lĩnh vực của đời sông; đê xướng và duy trì các cuộc vận động nâng cao nhận thức xã hội có hiệu quả được thiết kế để nâng cao hiểu biết về các quyền của người khuyết tật; thúc đẩy sự tiếp thu tích cực và nhận thức mang tính xã hội rộng rãi hơn về người khuyết tật. Việt Nam đã ký Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật ngày 22/10/2007 và sẽ phê chuẩn công ước này trong tương lai. Người khuyết tật được Nhà nước và xã hội trợ giúp chăm sóc sức khoẻ, phục hôi chức năng, tạo việc làm phù hợp và được hưởng các quyền khác theo quy định của pháp luật. Quan điểm này phản ánh quy định trong Hiến pháp 1992 và được cụ thể hóa trong một số văn bản luật quan trọng như Bộ luật Lao động, Luật Giáo dục, Luật Dạy nghê, Luật.Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật Công nghệ thông tin, Pháp lệnh về người tàn tật. Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trong khu vực Châu A - Thái Bình Dương xây 132
  • 134. dựng và triển khai kế hoạch dài hạn về người khuyết tật do UNESCAP đề xướng. Hiện nay, hệ thống các cơ quan, tổ chức đã được thiết lập có f'"MTI vi hoạt động ở tất cả các cấp trong toàn quốc nhằm bảo vệ các quyên và lợi ích của người khuyết tật bao gồm Bộ Lao động - Thương bỉnh và Xã hội, Hội Bào trợ người tàn tật và trẻ mồ côi, Hội Cứu trợ trẻ em tàn tật Việt Nam, Hội Người mù, Hội Nạn nhân chất độc da cam/dioxin Việt Nam, Ban điều phối hỗ trợ hoạt động của người tàn tật, Hiệp hội sản xuất kinh doanh của người tàn tật.88 4.3.4. Quyền của người lao động di cư Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu rộng, lao động di cư giữa các quốc gia ngày càng trở nên phổ biến và có xu hướng gia tăng về mặt số lượng.89Người lao động di cư được xếp vào nhóm người dễ bị tổn thương bời lẽ tại những quốc gia họ đến cư trú và làm việc, họ đã và đang phải đối mặt với nhiều vấn đề nghiêm trọng như lao động trong môi trường độc hại. nguy hiểm, sự phân biệt đôi xử so với lao động là công dân nước sở tại trên nhiều khía cạnh, bị đánh đập hay lạm dụng... Đồng thời, nhóm người này còn gặp rất nhiều khó khăn khác bởi sự hạn ché về ngôn ngữ, khác biệt về văn hóa, thiếu hiểu biết pháp luật nước sở tại. Chính vì vậy, đảm bảo các quyền con người của nhóm người này là một vân đê được cộng đồng quốc tế quan tâm. Khái niệm “người lao động di cư” (imigrant worker) được hiểu là “ ’một người đã, đang và sẽ làm một công việc có nhận thù 88 Bộ Ngoại giao Việt Nam, tlđd. • 89 Theo Tô chức Lao động quốc tế, sô người cư trú và làm việc ở ngoài đât nước mình đã và đang tăng gấp đôi từ năm 1975 đến năm 2003 và hiện nay có khoảng 214 triệu người lao động di cư trên thê giới. Xem thêm http://www.ilo.org 133
  • 135. lao tại một quốc gia mà người đỏ không phải là công dân".90 Như vậy, hai dấu hiệu của người lao động di trú là: (i) họ là người đã, đang và sẽ làm một công việc có nhận thù lao, không phụ thuộc vào thời gian được tuyển dụng cũng như không phải tự lực lao động dựa trên tài sản của mình; (ii) người đó đã, đang và sẽ thực hiện công việc ở quốc gia mà người đó không mang quốc tịch.9 1 Cho đến nay cộng đồng quốc tế đã có khá nhiều các điều ước quốc tế quy định về quyền của nhóm người này,92 trong số đó Công ước quốc tế về quyền của người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ (Convention on the Protection o f the Rights o fAU Migrant Workers and Members ofTheir Familles - 90 Điều 2(1) Công ước quốc tế của LHQ về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di cư và các thành viên gia đình họ năm 1990 (Công ước 1990). 9 1 Khái niệm “người lao động di cư” còn được định nghĩa ở nhiều điều ước quốc tế, Chẳng hạn, theo Công ước vê di cư vì việc làm năm 1949 của ILO (Công ước số 97) thì thuật ngữ “người di cư vì việc làm” được hiểu là “người di cư từ một quốc gia này tới quốc gia khác vì mục đích được tuyển dụng, chứ khôngphải tự lực lao động, bao gôm bât kỳ người nào được tuyên dụng một cách lâu dài như là một người di cưvì việc làm” (Điều 11(1)). 92 Có thể kề đến những điều ước quốc tế quan trọng như Công ước số 29 về xóa bỏ lao động cưỡng bức năm 1930; Công ước số 87 về quyền tự do lập hội và bảo vệ quyền đụợc tô chức năm 1948; Công ước số 98 về quyền được tổ chức và thỏa ước lao động tập thê năm 1949; Công ước số 97 về di cư vì việc làm năm 1949 của ILO (được ban hành đê sửa đồi Công ước về di cư vì việc làm nãm 1939); Công ước về người di cư trong hoàn cảnh bị lạm dụng và về việc thúc đẩy cơ hội và sự đối xử bình đăng với người lao động di cư năm 1975 (Công ước số 143); Công ước sô 118 vê bình đẳng trong đối xử (an sinh xã hội) năm 1962; Công ước sô 157 về duy trì các quyên an sinh xã hội năm 1982 ... và nhiều khuyến nghị trực tiếp của 1LO như Khuyến nghị về sự di cư vì việc làm năm 1949 (số 86) kèm theo Công ước sô 97 và Khuyến nghị về người lao động di cư 1975 (số 151) kèm theo Công ước số 143. Xem thêm Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 396-398 và ILO website http://www.ilo.org/global/topics/labour-migration/lang~en/index.htm 134
  • 136. ICRMW) là điều ước trực tiếp và toàn diện nhất quy định về quyền của người lao động di cư.93 Hiện nay Việt Nam chưa là thành viên của Công ước ICRMW. Tuy nhiên, những quy định nhằm bảo vệ quyền của người lao động di cư đã được ghi nhận trong một số văn kiện pháp lý quan trọng như Bộ luật Lao động, Pháp lệnh số 24/1999/PL-UBTVQH ngày 28/4/2000 về nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam, Nghị định 34/2008/NĐ-CP ngày 25/03/2008 quy định về tuyển dụng và quản lý người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, Luật Người Việt Nam đi lao động ờ nước ngoài được ban hành và có hiệu lực từ tháng 7 năm 2007. Những văn kiện này cho thấy sự quan tâm của nhà nước Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động di cư trong bối cảnh hội nhập. Công ước đã đưa ra khái niệm và phân loại “người lao động di cư” (Điều 2); những đối tượng không được coi là lao động di cư căn cứ vào tiêu chí nghề nghiệp (Điều 3) và khái niệm “những thành viên trong gia đình người lao động di cư (Điều 4). Cũng theo Công ước, ba nguyên tắc cơ bản được áp dụng đối với việc ghi nhận và bảo đảm các quyền của người lao động di cư là: - Không phân biệt đổi xừ (Điều 1): mọi người lao động di cư được hưởng các quyền một cách bình đẳng và không chịu sự phân biệt nào dựa trên các yếu tố về dân tộc. chủng tộc. quôc tịch, ngôn ngữ, độ tuổi, địa vị xã hội. nghề nghiệp, giới tính, tôn giáo, tín ngưỡng, quan điểm xã hội... - Đổi xử quốc gict (Điều 25): các quốc gia phải đảm bảo người lao động di trú làm việc ở.nước mình dược hưởng các quyền không kém thuận lợi hơn so với các quyền mà lao động 93 Đại học Quốc gia Hà Nội, sđct, tr. 398.
  • 137. của nước mình đang được hường, cụ thể là các quyền liên quan đên thù lao, điêu kiện làm việc, tiêu chuân tuyển dụng... - Các quyền được áp dụng trong suốt quá trình di cư lao động (Điêu 1): người lao động di cư được quốc gia nơi làm việc bảo đảm các quyên trong suốt quá trình di cư lao động bao gồm giai đoạn chuẩn bị, trên đường đến, khi làm việc tại nước tiếp nhận và khi trờ về nước ban đầu. Công ước cũng quy định các quyền áp dụng cho người lao động di cư và gia đình của họ trên cơ sờ phân loại thành hai nhóm: (i) các quyên áp dụng chung cho mọi người lao động di cư và (ii) các quyền áp dụng riêng cho người lao động di cư có giây tờ hợp pháp. Nhóm những quyền áp dụng chung cho mọi người lao động di cư được quy định tại Phần III của Công ước, từ Điều 8 đến 32. Đây là sự công nhận và cụ thể hóa hệ thống quyền con người trên các lĩnh vực cơ bản về dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Nhóm quyền này bao gồm những quyền cơ bản như: quyền sống (Điều 9) và quyền được thừa nhận là thể nhân trước trước pháp luật (Điều 24); quyền tự do và an toàn cá nhân (không bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm, không bị bắt làm nô lệ hoặc nô dịch, không bị cưỡng bức lao động, không bị tịch thu, hủy giấy tờ tùy thân hoặc giấy phép lao động) (Điều 10, 11, 16, 21); quyền được bảo vệ sự riêng tư (Điều 14); quyền sờ hữu tài sàn (Điều 15); quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng , tôn giáo, tự do ngôn luận (Điều 12, 13); quyền tự do rời khỏi hoặc trở về bất kỳ quốc gia nào, kể cả quốc gia gốc (Điều 8); quyên được chăm sóc y tế (Điều 28); các quyền của trẻ em thuộc các gia đình lao động di cư (Điêu 26, 30); quyền được tôn trọng và duy trì bản sắc văn hóa (Điều 26); quyền được gửi hoặc mang theo số tiền kiếm được (Điều 26); quyền không bị trục xuất tập thể (Điều 22); quyền được nhận sự hỗ trợ, bảo vệ của cơ quan ngoại giao hoặc lãnh sự nước mình 136
  • 138. (Điều 23); các quyền về xét xử công bằng trong tố tụng hình sự (Điều 17, 18, 19); quyền được hưởng chế độ lao động bình đẳng như những người lao động tại nước sờ tại: giờ làm việc, thời gian nghỉ, an toàn lao động, chăm sóc sức khỏe... phù hợp với các quy định của luật lệ nước bản địa (Điều 25); quyền được tự do lập hội theo quy định của pháp luật (Điều 26); quyền được hưởng các thành quả lao động; quyền được bảo đảm về an sinh xã hội (Điều 27)... Nhóm các quyền áp dụng riêng cho người lao động di cư và các thành viên gia đình họ là những người có giấy tờ hoặc ờ trong tình trạng hợp pháp được quy định tại Phần IV của Công ước, từ Điều 36 đến 56. Nhóm quyền này bao gồm các quyền như: được thông báo đầy đủ về việc cư ưú và công việc họ sẽ phải làm (Điều 37); được vắng mặt tạm thời mà không bị tước giấy phép cư trú hoặc lao động (Điều 38); được tự do đi lại và lựa chọn nơi cư trú ở quốc gia đang làm việc (Điều 39); được lập và tham gia công đoàn tại quốc gia nơi đang làm việc (Điều 40); được bầu cử, ứng cử, hoặc tham gia các hoạt động xã hội ờ nước mình (Điều 41); được hỗ trợ để hợp nhất và giữ mối liên hệ với gia đình (Điều 42, 44); được chuyển thu nhập về cho gia đình (Điều 47); được đối xử bình đẳng như công dân nước sở tại trong các vấn đề về thuế, lao động, việc làm, giáo dục, y tế, văn hóa (Điều 43, 45, 48, 54, 55); được tự do lựa chọn công việc chỉ phải theo những điều kiện nhất định (Điều 52); không bị trục xuất tùy tiện (Điều 56); được miễn các loại thuế và phí xuất nhập khẩu với các đồ dùng gia đình và cá nhân và dụng cụ cần thiết trong công việc (Điều 46); được cấp phép cư trú trong thời gian ít nhất bằng với thời hạn được phép làfn công việc có hường lương (Điều 49); được hỗ trợ để hòa nhập con cái, người thân trong gia đình vào xã hội sở tại (Điều 45)... 137
  • 139. Công ước cũng đã thiết lập một cơ chế đảm bảo áp dụng Công ước trên thực tế thông qua ủy ban bảo vệ các quyền của người lao động di cư và các thành viên gia đình họ (Phần IV).94 V. C ơ CHÉ BẢO VỆ VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN CON NGƯỜI Phần này trình bày khái quát cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trong luật quốc tế cũng như trong pháp luật quốc gia từ khi LHQ ra đời cho đến nay. Trước hết phần này đề cập cơ chế quy định trong Hiến chương LHQ và vai trò của các cơ quan chính của LHQ cũng như các cơ quan hỗ trợ quyền con người của LHQ. Phần tiẹp theo trình bày cơ chế quy định tại các Công ước quốc tế về quyền con người và khái quát một số cơ chế khu vực về thúc đẩy và bảo vệ quvền con người. Phần cuối cùng giới thiệu cơ chế quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. 94 ửy ban bao gồm 14 chuyên gia được bầu từ danh sách những người do các quốc gia thành viên đề cử và làm việc với tư cách cá nhân và nhiệm kỳ 4 năm. Nhiệm vụ của ủy ban là : - Xem xét các báo cáo về các biện pháp lập pháp, hành pháp, tư pháp và các biện pháp khác mà quôc gia đó đã tiên hành nhăm thực hiện các quy định cùa Công ước mà các quốc gia thành viện đệ trình và chuyển những bình luận, khuyến nghị mà ủy ban cho là thích họp tới các quốc gia thành viên có liên quan; - Tiếp nhận và xem xét các thông cáo về việc một quốc gia thành viên khiếu nại một quốc gia thành viên khác không thực hiện đây đủ các nghĩa vụ được quy định trong Công ước này, do quôc gia thành viên đã tuyên bô công nhận thẩm quyền của ủy ban gửi lên ; - Trợ giúp các quốc gia thành viên đạt được một giải pháp hữu nghị trên cơ sở tôn trọng nghĩa vụ được đặt ra trong Công ước; - Ngoài ra, ửy ban còn tiếp nhận và xem xét cả những thông cáo từ các cá nhân khiếu nại quốc gia thành viên mà minh phải chịu quyền tài phán vi phạm các quyền cá nhân của họ được xác lập theo Công ước, nêu quôc gia đó công nhận thẩm quyền của ủy ban. 138
  • 140. 5.1. Co’chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con ngưòi của LHQ Cơ chế của LHQ có mục tiêu chính là bảo vệ và thúc đẩy quyền con người trên phạm vi toàn cầu. Cơ chế này có thể được chia thành: (1) cơ chế được xây dựng dựa trên cơ sở của Hiến chương, thể hiện thông qua vai trò của các cơ quan chính của LHQ và những cơ quan được thành lập trên cơ sở Hiến chương {Charter - based organs) và (2) cơ chế được xây dựng dựa trên cơ sở các điều ước quốc tế về quyền con người, thể hiện qua vai trò của những cơ quan được thành lập trên cơ sở của từng điều ước {treaty-based organs). 5.1.1. Cơ chế được xây dựng dựa trên Hiến chương LHQ Mục tiêu cơ bản của tổ chức LHQ là bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người, vì thế tất cả các cơ quan chính của LHQ đều có chức năng và vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này. Ngoài các cơ quan này, một số các cơ quan chuyên môn khác cũng tham gia vào cơ chê bảo vệ và thúc đây quyên con người. Phần này chủ yếu đề cập đến vai trò của một số cơ quan chính của LHQ là Đại hội đồng(ĐHĐ), Hội đồng Bảo an (HĐBA), Hội đồng kinh tế và xã hội (HĐKTXH) và Tòa án Công lý quốc tế (TACLQT). 5.1.1.1. Đại hội đồng Vai trò của ĐHĐ được quy định tại Điều 13 của Hiến chương, theo đó ĐHĐ có trách nhiệm tổ chức nghiên círụ và thông qua những kiến nghị nhằm tăng cường sự hợp tác quôc tê trong lĩnh vực chính trị và thúc đẩy việc pháp điển hoá và sự phát triển của luật quốc tế theo hướng tiến bộ, đồng thời tăng cường sự hợp tác quốc tế trong các. lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế và hỗ trợ việc thực hiện các quyền cúa con người và các tự do cơ bàn đối với mọi ngươi không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ và tôn giáo. Theo Điều 10, ĐHĐ 139
  • 141. có quyền thảo luận tất cả các vấn đề hoặc công việc thuộc phạm vi Hiến chương hoặc thuộc quyền hạn và chức năng của bất kỳ cơ quan nào được ghi trong Hiến chương và có thể, trừ những quy định ở Điều 32 liên quan đến việc thực hiện chức năng bảo vệ hòa bình và an ninh thế giới, ra những kiến nghị về những vấn đề hoặc những vụ việc ấy cho các thành viên LHQ hay Hội đồng Bảo an hoặc cho cả các thành viên LHQ và Hội đồng Bảo an. Nhìn chung, vai trò của ĐHĐ LHQ trong việc thực hiện chức năng bảo vệ và thúc đẩy quyền con người thể hiện ở những vấn đề cơ bản sau đây:95 - ĐHĐ thẩm định và thông qua các dự thảo văn kiện với danh nghĩa LHQ (điều ước, tuyên bố về quyền con người) nhằm thiết lập các chuẩn mực"quốc tế về quyền con người; - Trên cơ sở đề nghị của HĐKTXH, ĐHĐ quyết định thực hiện các chương trình dịch vụ tư vấn vả trợ giúp kỹ thuật, các quỹ tự nguyện và các chương trình tuyên truyền, giáo dục về quyền con người; - Thành lập các cơ quan giúp việc để hỗ trợ thực hiện các chức năng của mình;96 95 Xem thêm Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 431-432 96 Một số cơ quan do Đại hội đồngthành lập nhằm hỗ trợ Đại hội đồngtrong việc bảo vệ và Ịhúc đây quyên con nguời như: Uy ban đặc biệt vê phi thực dân hóa (Special Political and Decolonization Committee)-, ủy ban đặc biệt về chống chũ nghĩa aparthied (Special Committee against Apartheid)-, Hội đồng LHQ về Namibia; ủy ban đặc biệt điều tra các hành động của Israel vi phạm các quyền con người cùa nhân dân Palestin và các dân tộc A Rập tại các vùng do Israel chiếm đóng (Special Committee to Investigate Israeli Practices Affecting the Human Rights ofthe Palestinian People and Other Arabs ofthe Occupied Territories)-, ủy ban về thực hiện ẹác quyền không thể chuyển nhượng của nhân dân Palestine (Committee on the Exercise ofthe Inalienable Rights of the Palestinian People)-, ủy ban pháp luật quốc tế; Hội đồng của LHQ về quyền con người. Xem website cùa Đại hội đồng LHQ http://www.un.org/en/ga/maincommittees/index.shtml 140
  • 142. - Trên cơ sở khuyến nghị của HĐKTXH và các cơ quan giúp việc, ĐHĐ có quyền đưa ra quyết định về hình thức xử lý các vi phạm của các quốc gia về quyền con người. Các quyết định này có thể ở dưới dạng các chỉ trích hoặc lên án và yêu cầu chấm dứt vi phạm, thay đổi chính sách sai trái. ĐHĐ có thể ra nghị quyết đề nghị HĐBA thực hiện các biện pháp cưỡng chế theo quy định của Hiến chương. 5.1.1.2. Hội đồng Bảo an Theo Hiến chương LHQ thì HĐBA có chức năng chính là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế (Điều 24), xem xét, giải quyết các tranh chấp hoặc tình huống có thể gây tổn hại đến việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế (Điều 34, 35). Đối với lĩnh vực quyền con người, vai trò của HĐBA thể hiện ờ những nội dung sau: - HĐBA xem xét những vi phạm nghiêm trọng về quyền con người mà có khả năng đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế theo Điều 39 và trong trường hợp cần thiết, có thể quyết định áp dụng những biện pháp cưỡng chế theo quy định tại chương VII Hiến chương LHQ.97 Ngoài ra HĐBA còn có thể ra các Nghị quyết chỉ trích, lên án hành động vi phạm quyền con người ở một số khu vực.98 Như vậy, việc thực hiện chức năng chính của HĐBA có liên hệ với vấn đề bảo vệ quyền con người và việc 97 Ví dụ về một số biện pháp cấm vận do HĐBA áp dụng đối với những nước có sự vi phạm một cách nghiêm trọng những nguyên tắc cơ bản của luật nhân đạo quốc tế: trường hợp của Iraq năm 1991 (Nghị quyết S/RES/715); Somalia năm 1992 (Nghị quyết số S/RES/775); Libya năm 1992 (Nghị quyết số S/RES/748); Nam Tư năm 1999 (Nghị quyết số S/RES/1244)...Xem website cùa LHQ, http://www.un.org/en/sc/documents/resolutions/index.shtml. 98 Ví dụ, các Nghị quyết cùa HĐBA số.417(1977) về Nam Phi; số 471(1980) và số 592(1986) về những vùng lãnh thổ bị chiếm dóng bởi Israel; số 503(1982) và số 525(1984) và 556(1984) về Nam Phi; 564(1985) về Lebanon; số 579(1985) về Iran; số 664(1990) về Iraq và Kuwait... Xem Hội đồng Bảo an LHỌ website http://www.un.org/en/sc/documents/resolutions/index.shtml. 141
  • 143. HĐBA áp dụng biện pháp cưỡng chế đối với những vi phạm giúp đảm bảo sự tuân thủ nghiêm chỉnh các quyền con người; - Quyết định thành lập các tòa án ad hoc để xét xử những vi phạm nghiêm trọng luật nhân đạo quốc tế;99 - Có vai trò quyết định trong việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người ở một số vùng lãnh thổ, chủ yếu là những vùng lãnh thô chưa tự quản (như Angola, Mozambique, Guine Bissau, Zimbabwe, Namibia trước đầy), vấn đề này được quy định tại Điều 76 của Hiến chương về trách nhiệm của HĐBA đối với các vùng lãnh thổ quản thác, tại đó HĐBA thực hiện mục đích “khuyến khích tôn trọng những quyển con người và vì các quyển tự do cơ bản cho mọi người không phân biệt sắc tộc, giới tính, ngôn ngữ, hay tôn giáo, và đê khuyến khích công nhận sự phụ thuộc ỉẫn nhau giữa các dân tộc trên thể giới”. HĐBA cũng có quyền ra các nghị quyết lên án chính sách vi phạm quyền con người tại những vùng lãnh thổ này và yêu cầu các quốc gia quản thác phải đảm bảo các quyền con người, trong trường hợp cần thiết HĐBA có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế.100 5.1.1.3. Hội đồng kinh tế và xã hội HĐKTXH có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Đe thực hiện nhiệm vụ này, Hội đồng đã thành lập các ủy ban chuyên môn phụ trách những lĩnh vực khác nhau của quyền con người như ủy ban quyền con người;1 0 1 ủy ban về địa vị của phụ nữ và ủy ban ngăn ngừa tội ác và tư pháp 99 Ví dụ Nghị quyết số S/RES/877 (1993) về thành lập Tòa án Hình sự xét xử tội phạm chiến tranh ở Nam Tư cũ 1CTY; Nghị quyết số S/RES/1431 (2002) thành lập Tòa án Hình sự xét xử tội phạm chiến tranh ờ Rwanda 1CTR. 100 Ví dụ Nghị quyết của HĐBA số 683(1989) về các lãnh thổ quản thác thuộc các quần đảo ờ Thái Bình Dưcrng. 1 0 1 Hiện nay ủy ban này đã được thay thế bời Hội đồng quyền con người {Human Rights Council) và không còn trực thuộc HĐKTXH nữa. 142
  • 144. hình sự. Nhìn chung, HĐKTXH có những chức năng liên quan đến việc bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người như sau: - Điều hành cơ chế hợp tác quốc tế102 trong lĩnh vực kinh tế và xã hội nhằm hướng tới mục tiêu thúc đẩy sự tôn trọng và tuân thủ trên phạm vi toàn thế giới các quyền và tự do cơ bản của con người (Điều 55(c) Hiến chương); - Là cơ quan chính chịu trách nhiệm tổ chức hoạt động nghiên cứu, soạn thảo các văn kiện quốc tế về quyền con người để trình lên cho ĐHĐ LHQ thông qua; - Giám sát các nghị quyết về quyền con người;103 - Thành lập ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa nhàm giám sát thực hiện Công ước ICESCR. 5.1.1.4. Tòa án Công lý quốc tế Với chức năng chính là cơ quan giải quyết, phân xừ các tranh chấp pháp lý quốc tế giữa các quốc gia trên cơ sở đồng thuận của các bên tranh chấp, về nguyên tắc TACLQT có thể giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia liên quan đến việc giải thích và áp dụng các công ước quốc tế về quyền con người.104 Từ năm 1945 đên nay, tòa đã giải quyêt một sô vụ tranh chấp quốc tế có liên quan đến quyền con người như vê 102 Cơ chế này bao gồm các cơ quan và tổ chức liên chính phủ thuộc hệ thống LHQ như Văn phòng Cao ủy cùa LHQ về người ty nạn (UNHCR); Chương trình phật triển LHQ (UNDP); Quỹ Nhi đồng LHQ (UNICEF); Tổ chức lao động quốc tể (1LO); Tổ chức Nông lương thế giới (FAO); Tộ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục cùa LHQ (UNESCO); Tố chức Y tế thế giới (WHO)... 102 Chẳng hạn như các Nghị quyết cùa HĐKTXH số 728F (XXVIII); 227 (X); 474A (XV); 607 (XXI); 1235 (XLI1) và 1503 (XLCIII). Hiện nay chức năng giám sát này đã được chuyển giao cho Hội đồng quyền con người của LHQ. 104 Hiện n a y c ó 16 t r ê n t ổ n g s ố g ầ n 30 đ iề u ư ớ c q u ố c tế v ề q u y ề n c o n n g ư ờ i c ó q u y đ ị n h t r a n h c h ấ p liê n CỊuan đ ế n v iệ c g iã i th íc h , á p d ụ n g h o ặ c tu â n t h ù các đ iề u ư ớ c đ ó g i ũ a các q u ố c g i a th à n h v iê n c ó th ề đ ư ợ c m ộ t q u ô c g ia đ ệ tr in h lê n Tòa. 143
  • 145. quyên có nơi cư trú, quyên của người nước ngoài, quyền của trẻ em, việc duy trì chê độ quản thác tại Tây Nam Phi (Namibia); việc băt giữ các nhà ngoại giao và nhân viên lãnh sự Mỹ tại Tehran và việc tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật nhân đạo quốc tế ...105 Ngoài ra, tòa có chức năng đưa ra các kết luận tự vấn về các vấn đề pháp lý do ĐHĐ và HĐBA hoặc các cơ quan khác của LHQ với sự cho phép của ĐHĐ đưa ra.106 Những ý kiến tư vân vê các vấn đề liên quan đến quyền con người này có ý nghĩa quan trọng trong việc làm sáng tỏ nội dung của các quy định pháp luật quốc tế về quyền con người, góp phần xây dựng những quy phạm của luật quốc tế về quyền con người hoặc những chuẩn mực quốc tế chung về lĩnh vực này. Những ví dụ tiêu biểu là các ý kiến tư vấn về tính pháp lý của các bảo lưu đối với Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng,107 quy chế của báo cáo viên đặc biệt của LHQ do Tiểu ban bảo vệ và thúc đẩy quyền con người chỉ định.108 5.1.1.5. Các cơ quan chuyên trách về quyền con người Các cơ quan chuyên trách của LHQ cũng có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người, thông qua 105 Xem Nottebolm case, ICJ Reports, 1955; Asylum case (Peru v Colombia) ICJ Reports, 1950; US Diplomatic and Consular Staff in Tehran case, ICJ Reports 21, 1980; La Grandcase (Germany v. USA) ICJ Reports 2001. 1 0 6 Western Sahara (Advisory Opinion) ICJ Reports 12, 1975; Legality ofthe Threat or Use ofNuclear Weapons, ICJ Reports, 1996; Legal Consequences of the Construction of a Wall in the Occupied Palestinian Territory, ICJ 09/7/2004 ; Accordance with International Law ofthe Unilateral Declaration ofIndependence in Respect ofKosovo, ICJ Reports, 2010. 1 0 7Reservations to the Genocide Convention (Advisory Opinion) ICJ Reports, 1951. 1 0 8 Difference Relating to Immunity from Legal Process of a Special Rapporteur of the Commission on Human Rights (Advisory Opinion), ICJ Reports, 1999. 144
  • 146. việc hỗ trợ các cơ quan chính của LHQ thực hiện chức năng của mình. Những cơ quan này bao gồm: a. Các cơ quan hỗ trợ về hành chính Đây là những cơ quan do Ban thư ký của LHQ thành lập, dựa theo những lĩnh vực tương ứng của quyền con người và cung cấp các hỗ trợ về dịch vụ hành chính cho các ủy ban và ĐHĐ LHQ, chuẩn bị tài liệu và thông tin rộng rãi đến công chúng về công việc và các hoạt động của LHQ trong lĩnh vực quyền con người.1091 1 0 b. Các cơ quan hỗ trợ về chuyên môn Đây là những cơ quan được thành lập bời ĐHĐ và HĐKTXH nhằm giúp hai cơ quan này về mặt chuyên môn liên quan đến quyền con người. ĐHĐ LHQ đã thành lập một số cơ quan hỗ trợ chuyên môn cho mình như ủy ban đặc biệt về phi thực dân hóa có nhiệm vụ giúp ĐHĐ giám sát việc thực hiện Tuyên ngôn về trao trả độc lập cho các nước và dân tộc thuộc địa và Tuyên ngôn về các lãnh thổ chưa tự quản; ủ y ban pháp luật quốc tế có nhiệm vụ trợ giúp ĐHĐ trong việc thẩm định dự thảo các văn kiện quốc tế về quyền con người; Hội đồng quyền con người của LHQ có nhiệm vụ giúp ĐHĐ thúc đẩy những hoạt động giáo dục, nghiên cứu, dịch vụ tư vấn, trợ giúp kỹ thuật và xây dựng năng lực về quyền con người ở các quốc gia; thúc đẩy việc thực thi đầy đủ nhũng nghĩa vụ về quyền con người ở các quốc gia, đưa ra kiến nghị đối với ĐHĐ về sự phát triển của luật quôc tê ve quyên con người... 109 Ví dụ Bộ phận về sự tiến bộ của phụ nữ thuộc Cục phát triền xã hội và các vấn đề nhân đạo được thành lập nhằm cung cấp dịch vụ hành chính cho ủy ban thứ ba của ĐHĐ (phụ trách về xã hội, nhân đạo và văn hóa); ủy ban thứ hai (về kinh tế và tài chính) và các co quan giúp việc khác cùa HĐKTXHHĐKTXH trong những hoạt động liên quan đến quyền phụ nữ. 110 Xem thêm Nghị quyết số 60/251 của ĐHĐ LHỌ về thành lập Hội đồng quyên con người 145
  • 147. HĐKTXH cũng đã thành lập các cơ quan giúp việc trên cơ sở Điều 68 của Hiến chương LHQ, trong đỏ đáng kể nhất là ủy ban quyền con người (UN Commission on Human Rights)111 và Uy ban vê vị thê của phụ nữ (Committee on the Status o f Women). Những cơ quan này có nhiệm vụ đưa ra những đề xuất, khuyến nghị, chuẩn bị các dự thảo văn kiện và lập các báo cáo đệ trình lên HĐKTXH về những vấn đề liên quan đến quyền con người và giúp HĐKTXH phối hợp các hoạt động chuyên môn liên quan đến quyền con người trong hệ thống LHQ. Bước phát triển quan trọng trong lĩnh vực này là việc thành lập Hội đồng quyền con người của LHQ (UN Human Rights Council - HRC) dựa trên Nghị quyết số 60/251 ngày 03/4/2006 thay thế cho ủy ban quyền con người trĩrớc đây. HRC gồm 47 nước thành viên được ĐHĐ bầu trực tiếp bằng phiếu kín và có nhiệm kỳ 3 năm.112 Điểm nổi bật của HRC trong cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người là việc áp dụng Cơ chế đánh giá định kỳ phổ quát (Universal Periodic Review — UPR). Trên cơ sở của UPR, việc tuân thủ các nghĩa vụ và cam kết về quyền con người của tất cả các quốc gia thành viên của LHQ sẽ được đánh giá định kỳ. Việc đánh giá được thực hiện bởi một nhóm công tác có nhiệm vụ tổng họp các báo cáo từ nhiều nguồn khác nhau, về cơ bản, cơ chế UPR sẽ bao gồm các bước: (1) chuẩn bị thông tin làm cơ sở cho việc xem xét; (2) xem xét đánh giá; (3) kết luận đánh giá và (4) thực hiện các khuyến nghị. Một ủy ban tư vấn để hỗ trợ Hội đồng trong các hoạt động chuyên môn cũng được thành lập. http://www.un.org/ga/search/view_doc.asp7symbol-A/RES/60/251 1 1 1 Thành lập từ năm 1946 và hiện đã giải thể và thay thế bàng Hội đông quyền con người của LHQ. 112 Xem thêm Nghị quyết số 60/251 của ĐHĐ LHQ về thành lập Hội đông quyền con người http://www.un.ore/ga/search/view_doc.asp?symbol=A/RES/60/251 146
  • 148. 5.1.2. Cơ chế được xây dựng dựa trên điểu ước quốc tế về quyền con người Một số công ước quốc tế về quyền con người có quy định việc thành lập các cơ quan giám sát việc thực hiện các công ước đó {treaty-based bodies). Chức năng chủ yếu của các cơ quan này là giám sát, thúc đẩy việc thực hiện các công ước tương ứng. Hiện tại có 7 ủy ban giám sát được thành lập theo đúng quy định của các công ước quốc tế phổ cập về quyền con người và 1 ủ y ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được thành lập bời HĐKTXH như sau:113 - ủy ban về xóa bỏ sự phân biệt chủng tộc (thành lập theo Điều 8 Công ước về xoá bỏ tất cả các hình thức phân biệt chủng tộc, 1965); -ủ y ban quyền con người (thành lập theo Điều 28 Công ước quốc tế về các quyền dần sự, chính trị, 1966); - ủy ban về xóa bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ (thành lập theo Điều 17 Công ước quốc tế về xóa bỏ tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, 1979); - ủy ban chống tra tấn (thành lập theo Điều 17 Công ước về chống tra tấn và các hình thức đối xử tàn bạo,vô nhân đạo hoặc hạ nhục khác, 1987); - ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (thành lập theo một nghị quyết của HĐK.TXH); - ủ y ban về quyền trẻ em (thành lập theo Điều 72 Công ước về quyền trẻ em, 1989); - ủ y ban bảo vệ quyền của tất cả những ngưỡ.i lao động nhập cư và các thành viên trong gia đình họ (thành lập theo Điều 11 3 Xem thêm http://www.nhanquyen.vn/modules.php?name=News&op=detailsnews&mid= 56&mcid=3 147
  • 149. 72 Công ước về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động nhập cư và các thành viên trong gia đình họ, 1990); - ủy ban về quyền của người khuyết tật (thành lập theo Điêu 34 Công ước về quyền của người khuyết tật, 2007). Vê cơ bản, các ủy ban này có những chức năng nhiệm vụ sau: - Xem xét bảo cáo của các quốc gia thành viên: việc đệ trình các báo cáo định kỳ về việc thực hiện các quyền con người là một nghĩa vụ của các quốc gia thành viên.1141 1 5Xem xét báo cáo là việc đánh giá những biện pháp hành chính và tư pháp nhằm thực hiện công ước của các quốc gia thành viên; những thuận lợi và khó khăn mà những qụốc gia này đối mặt trong quá trình thực hiện công ước. Ngoài ra, các ủy ban cũng có thể đánh giá dựa vào thông tin từ những nguồn khác nhau như các tổ chức phi chính phủ, các cơ quan của LHQ, các tổ chức liên chính phủ khác, các viện nghiên cứu và cả báo chí. Trên cơ sở xem xét báo cáo, ủy ban sẽ đưa ra những nhận xét và khuyến nghị đối với quốc gia thành viên. - Xem xét các khiếu nại của cá nhân: một số ủy ban có chức năng xem xét các khiếu nại của cá nhân đối với quốc gia thành viên nếu các cá nhân này cho rằng quyền của họ theo công ước bị quốc gia vi phạm. Đây là một chức năng khá đặc thù của các cơ quan này. Hiện nay có 5 ủy ban công ước có thẩm quyền tiếp nhận khiếu nại của cá nhân.113 Tuy nhiên, việc một cá nhân 114 Các quốc gia có nghĩa vụ đệ trình báo cáo toàn diện sau một hoặc hai năm kể từ khi công ước có hiệu lực đối với quốc gia đó và tiếp tục thực hiện nghĩa vụ báo cáo định kỳ căn cứ vào những quy định cụ thể cùa công ước về những biện pháp đã được quốc gia này áp dụng nhăm thực hiện công ước. 115 ủy bân Quyến con người có thể tiếp nhận và xem xét khiếu nại cá nhân chống lại quốc gia thành viên đã tham gia Nghị định thư không bắt buộc thứ nhất bỗ sung Công ước quốc tế về các quyên dân sự, chính trị năm 1966; Uy ban về xoá bò sự phân biệt đổi xử với phụ nữ có thê tiêp nhận và xem xét khiếu nại cá nhân chống lại quốc gia thành viên đã tham gia Nghị định thư bô 148
  • 150. đưa ra khiếu nại phải đáp ứng được hai điều kiện cơ bản đó là (i) quốc gia bị khiếu nại phải là thành viên của công ước và (ii) quốc gia bị khiếu nại phải công nhận thẩm quyền của ủy ban công ước về vấn đề này. - Đưa ra các bình luận/ khuyến nghị chung để giải thích và nêu ra các giải pháp thực hiện công ước. Những bình luận, khuyến nghị này thường giải thích một cách chi tiết và đưa ra những chuẩn mực và biện pháp mà các quốc gia thành viên phải tuân thủ và thực hiện để hoàn thành các nghĩa vụ của họ căn cứ theo công ước. 5.2. Cơ chế khu vực về bảo vệ và thúc đẩy quyền con ngiròi Bên cạnh các cơ chế toàn cầu, cơ chế khác cũng được hình thành trên cơ sở các hiệp định hoặc được tạo ra bởi các tổ chức quốc tế khu vực nhằm bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Xuất phát từ những điểm chung về kinh tế, văn hóa, xã hội, truyên thống và lịch sử cũng như việc mức độ hợp tác khu vực thường chặt chẽ hơn so với họp tác toàn cầu, các quốc gia trong khu vực thường dễ đạt được sự đồng thuận về các vấn đề quan tâm, vì thê các cơ chế này có thể hoạt động hiệu quả hơn cơ chế của LHQ. Phần này sẽ giới thiệu khái quát hai cơ chế khu vực tiêu biểu trên thế giới hiện nay ở Châu Âu và Châu Mỹ được thiết lập để bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. sung Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ; Uy chông tra tấn có thể tiếp nhận và xem xét khiếu nại cá nhân chống lại quốc gia thành viên đã tuyên bố chấp nhận Điều 22 Công ước chống tra tấn; ủy ban vê chông phân biệt chùng tộc có thê tiêp nhận và xem xét khiêu nại cá nhân chông lại quốc gia thành viên đã đã tuyên bố chấp nhận Điều 14 Công ước loại trừ mọi hình thức phân biệt chùng tộc và ửy ban bao vệ quyền cùa tất cà những người lao động nhập cư và các thành viên trong gia đình họ thể tiếp nhận và xem xét khiếu nại cá nhân chống lại quốc gia thành viên đã tuyên bố chấp nhận Điêu 77 Công ước về bào vệ quyền cùa tất cã những người lao động nhập cư và các thành viên trong gia đình họ. 149
  • 151. 5.2.1. Cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Châu Ẩu Hiện tại, cơ chế bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ờ Châu Âu có thể được coi là cơ chế phát triển và hữu hiệu nhất trên thế giới, từ cả ở khía cạnh đảm bảo thực thi.116 Cơ chế này được xây dựng dựa trên một số các văn kiện khu vực về quyền con người, trong đó quan trọng nhất là Công ước Châu Âu về bảo vệ quyền con người và tự do cơ bản (the European Convention for the Protection o f Human Rights and Fundamental Freedoms).117 Cùng với việc ghi nhận các quyền con người và tự do cơ bản, Công ước nói trên còn xây dựng một cơ chế giám sát thực hiện bao gồm ba cơ quan là ủy ban quyền con người trực thuộc Hội đồng Châu Âu (thành lập năm 1954 và chấnm dứt hoạt động từ năn 1990); Tòa án Châu Âu về quyền con người (thành lập năm 1959)118 và ủy ban các Bộ trường cùa Hội đồng Châu Âu. Ngoài ra, Công ước còn được bổ sung bời hơn 10 Nghị định thư, trong đó Nghị định thư sổ 11 về việc thành lập Tòa án Châu Âu về quyền con người có hiệu lực từ năm 1998. Để trở thành thành viên của Hội đồng Châu Âu, mọi quốc gia đều phải tham gia Công ước Châu Âu về quyền con người. Theo quy định của Công ước, có hai loại khiếu nại có thể được tiếp nhận và xem xét là khiếu nại của các cá nhân và của các quốc gia với nhau (Điều 33 và 34). Ngoài ra, các quốc gia cam kết “đảm bảo cho mỗi cả nhân thuộc quyền tài phán của mình những quyền và tự do cơ bản được nêu ra trong phần 1 116Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr. 484. 117 Công ước này được thông qua bời Hội đồng Châu Âu ngày 4/11/1950 và có hiệu lực từ tháng 9/1953. 118 Tòa có trụ sở tại Strasbourg (Pháp) nên cũng thường được gọi là Tòa Strasbourg. 150
  • 152. của Công ước” (Điều 1). Các vụ khiếu nại sẽ do Tòa án Châu Ầu về quyền con người phân loại và chuyển cho các Tòa thành viên (sections).119 Sau đó, một ủy ban gồm ba thẩm phán sẽ xem xét và quyết định có thụ lý vụ việc hay không. Trong trường hợp tòa quyết định thụ lý thì một Hội đồng (Chamber) của tòa thành viên sẽ phân xử vụ việc này. Những vụ việc phức tạp sẽ được chuyển đến cho Đại hội đồng(Grand Chamber) gồm 17 thẩm phán, trong đó bao gồm chánh án, các phó chánh án và các chánh tòa để xừ lý. 5.2.2. Cơ chế bảo vệ và thúc đẫy quyền con người ở Châu Mỹ Vấn đề bảo vệ và thúc đẩy quyền con người được các nước Châu Mỹ khá quan tâm. Điều này được thể hiện qua sự tiên phong của các nước Mỹ latin trong việc vận động cho vấn đề ghi nhận, bảo vệ quyền con người và thông qua bản Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người. Thậm chí, các nước Mỹ latin còn thông qua Tuyên bố Châu Mỹ về các quyền và nghĩa vụ của con người (American Declaration o f the Rights and Duties o f Man) vào tháng 4/1948. Hiện nay Công ước Châu Mỹ về quyền con người (American Convention on Human Rights) là điều ước quốc tế quan trọng xác định các quyền con người và nghĩa vụ tuân thủ và bảo đảm chúng của các quốc gia thành viên.120 Cũng trên cơ sở Công ước này, Tòa án liên Mỹ (Inter-American Court o f Human 119Tòa án Châu Âu về quyền con người có 5 tòa thành viên. 120 Ngoài ra, các nước Châu Mỹ còn ký kết một số các điều ước quốc tê quan trọng khác vê quyền con người như Công ước Châu Mỹ về phòng ngừa và chông tra tấn năm 1985; Nghị định thư bổ sung Công ước Châu Mỹ về các quyên kinh tê, xã hội và văn hóa năm 1988; Nghị định thư bô sung Công ước Châu Mỹ vê xóa bỏ hình phạt tử hình năm 1990; Cône ước Châu Mỹ về chống sự cưỡng bức mất tích năm 1994; Công ước Châu Mỹ về phòng ngừa và xóa bỏ bạo lực đối với phụ nữ năm 1994; Công ước Châu Mỹ về xóa bò mọi hình thức phân biệt đối xử đối với người khuyêt tật năm 1999. 151
  • 153. Rights) về quyền con người được thành lập.1 2 1 Tòa có 7 thẩm phán là công dân của các nước thành viên Tổ chức các quốc gia Châu Mỹ (Organization o fAmerican States - OAS). Chức năng đầu tiên của tòa là xét xử các khiếu kiện được chuyển đến tòa bởi ủy ban quyền con người Châu Mỹ hoặc bởi một quốc gia thành viên của OAS. Khác với Tòa án Châu Âu về quyền con người, những khiếu nại do cá nhân sẽ không được gửi thẳng đến Tòa án liên Mỹ mà chỉ có thể gửi đến cho ủy ban Châu Mỹ về quyền con người, sau đó nếu ủy ban thấy có thể thụ lý thì sẽ chuyển những khuyến nghị cho quốc gia bị khiếu kiện. Trong trường hợp ủy ban cho rằng vụ việc quan trọng hoặc khi quốc gia không thực hiện khuyến nghị thì vụ việc mới chuyển đến cho Tòa để giải quyết. Chức năng thứ hai của tòa là tư vấn cho ủy ban quyền con người và các quốc gia thành viên của OAS về các vấn đề liên quan đến việc áp dụng Công ước Châu Mỹ về quyền con người cũng như các văn kiện pháp lý có liên quan khác. Tòa cũng có chức năng tư vấn cho các quôc gia về tính phù hợp của các văn bản và dự thảo văn bản pháp luật quốc gia với quy định của Công ước Châu Mỹ về quyền con người. 5.3. Cơ chế quốc gia về bảo vệ và thúc đẩy quyền con ngưòi Cơ chế qùốc gia là một “khâu” quan trọng trong hoạt động bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Một mặt các quốc gia có nghĩa vụ lập pháp đê chuyên hóa vào pháp luật quốc gia các nghĩa vụ quốc tế về bảo đảm và thực thi quyền con người của mình, mặt khác họ phải thiết lập những cơ chế để giám sát thực hiện và phát triển các quyền con người ờ phạm vi quốc gia. Cơ chế quốc gia về bảo vệ quyền con người trên thế giới khá đa 1 2 1 Tuy nhiên Công ước này chi có giá trị bắt buộc đối với 24 trên tổng số 34 quốc gia thành viên cùa Tổ chức các quốc gia Châu Mỹ. 152
  • 154. dạng, do đó phần này chỉ giới thiệu khái quát những hình thức cơ bản và phổ biến nhất của cơ chế quốc gia, đó là các ủy ban quyền con người quốc gia (national commissions o f human rights) và cơ quan thanh tra nhà nước về quyền con người {ombudsman). Các ủy ban quốc gia về quyền con người thường được thành lập với đại diện đến từ các thành phần xã hội khác nhau (đại diện cho các nhóm xã hội, nghề nghiệp) và ra đời dựa trên cơ sở pháp lý cụ thể, thông thường là hiến pháp, một đạo luật cụ thể hoặc bởi một nghị quyết của cơ quan lập pháp. Chức năng chủ yếu của các ủy ban này là: - Đảm bảo không có sự phân biệt đối xử giữa các cá nhân trong phạm vi quốc gia, bảo đảm sự tôn trọng và thực thi các quyền con người đối với những nhóm người dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người dân tộc thiểu số, người lao động nhập cư ... - Tiếp nhận, điều tra và giải quyết những khiếu nại của các cá nhân và các nhóm cá nhân về những vi phạm quyền con người tại quốc gia mình. Tùy thuộc vào quy định cụ thể trong pháp luật quốc gia mà các cơ quan này có quyền xử lý tất cả các vi phạm hoặc chỉ một số những vi phạm nhất định, ví dụ như vi phạm liên quan đến phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giới hoặc quan điểm chính trị; - Nghiên cứu chính sách và hoạt động liên quan đến quyền con người của chính phủ, xác định những hạn chế và đề xuất các giải pháp khắc phục; - Giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước nhàm đảm bảo các quyền con người được tôn trọng và thực thi; - Giáo dục, tuyên truyền phổ biến pháp luật, nàng cao nhận thức của người dân về quyền con người. 153
  • 155. Các cơ quan thanh tra về quyền con người cũng được thành lập nhăm giám sát sự công băng và hợp pháp của bộ máy hành chính công, đồng thời có trách nhiệm bảo vệ những người chịu thiệt thòi do sự vi phạm quyền con người.122 Các cơ quan này đóng vai ừò là cầu nối, trung gian hòa giải giữa cá nhân bị xâm phạm quyền và chính quyền. Để thực hiện nhiệm vụ này, các cơ quan thanh tra thường được trao những quyền hạn như tiếp nhận các khiếu nại từ công chúng và tiến hành điều tra những khiếu nại đó hoặc chủ động tiến hành điều tra những vi phạm quyền con người trên diện rộng hoặc thu hút sự quan tâm lớn của công chúng. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có một cơ quan chuyên trách bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người như mô hình của một sô nước trên thế giới.123 Cơ chế quốc gia về bảo vệ, thúc đẩy quyên con người ở Việt Nam được thực hiện thông qua hệ thống cơ quan nhà nước xây dựng trên cơ sở của nhà nước pháp quyền XHCN theo nguyên tắc tập quyền XHCN và các hoạt động của các tổ chức chính trị, xã hội; xã hội nghề nghiệp. Cụ thể: - Quốc hội có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ, thúc đẩy và phát triên quyền con người. Quốc hội có chức năng làm Hiến pháp, sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan nhà nước trong việc tuân theo hiến pháp, luật và các nghị quyết của Quốc hội có liên quan đến quyền con người, quyền công dân. Hoạt động giám sát của Quốc hội thực hiện thông qua các hình thức: xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; giám sát chuyên đề một số lĩnh vực; giám sát cụ thể một số vụ 122Đại học Quốc gia Hà Nội, sđd, tr.497. 123Tường Duy Kiên, ‘Mô hình bộ mậy quốc gia về nhân quyên ở một số nước và suy nghĩ về cơ chế đảm bảo quyên con người ỡ nước ta’ Nghiên ciru Lập pháp, số 15(152), 8/2009, tr, 49-58. 154
  • 156. việc quan trọng; tiến hành chất vấn.124 Hiện nay, Việt Nam đang nghiên cứu xây dựng mô hình cơ quan Thanh tra Quốc hội (|Ombudsman) nhằm giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cử tri hoặc thành lập ủy ban Nhân quyền trực thuộc Quốc hội để giải quyết các vấn đề về nhân quyền... - Chỉnh phủ: thông qua việc thực hiện chức năng hành pháp, hoạt động của Chính phủ có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến việc đảm bảo, thúc đẩy và phát triển quyền tự do dân chủ của công dân. Việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người ở Việt Nam được thực hiện thông qua bộ máy hành chính nhà nước và chế độ trách nhiệm công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. - Các cơ quan tư pháp: Tòa án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ các quyền và lợi ích họp pháp của mọi cá nhân, công dân. Các quyền con người được bảo vệ trực tiếp thông qua hoạt động xét xừ của Tòa án nhân dân. Viện Kiểm sát nhân dân giữ vai trò là cơ quan công tố và kiểm sát tư pháp, đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật phương hại đến quyền con người, quyền công dân đều được xử lý theo quy định của pháp luật. - Các tổ chức chỉnh trị, xã hội; xã hội nghề nghiệp: có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người. Những tổ chức có ảnh hưởng lớn trong vấn đề này là Tông liên đoàn lao động, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Luật gia, Liên đoàn luật sư, Hội Nhà báo, Hội Bảo trợ người tàn tật và khuyết tật, Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật... Đây là những tổ chức đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân lao động thuộc mọi ngành nghề, lĩnh vực và đóng vai trò giám sát và và thu nhận ý 124 Một số hoạt động tiêu biểu như giám sát việc chấp hành pháp luật về khiếu nại tổ cáo, bồi thường thiệt hại cho người bị oan sai trong hoạt động tổ tụng hình sự. giám sát công tác đền bù giãi phóng mặt bàng, tạo việc làm cho người dân có đất bị thu hồi 155
  • 157. kiến đóng phản biện xã hội đối với các dự án luật và tham gia xây dựng chính sách pháp luật có liên quan đến quyền con người, tuyên truyền giáo dục pháp luật về quyền con người trong lĩnh vực và ngành nghề hoạt động của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách, giáo trình 1. Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sách trắng), Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam 2. Nguyễn Đăng Dùng, Vũ Công Giao; Lã Khánh Tùng, Giảo trình Lý luận và Pháp luật về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, 2009 3. Trần Ngọc Đường, Quyền con người, quyền công dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011 4. Vũ Công Giao, “Luật Nhân đạo quốc tế và việc bảo hộ nạn nhân chiến tranh ”, Tạp chí nhà nước và pháp luật số 6/2001. 5. Hoàng Văn Hảo, Phê phán những quan điểm sai trái trên lĩnh vực quyển con người,quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam, Nxb. Chính trị quôc gia, Hà Nội, 2003 6. Lang Nghị Hoài, Thực tế quyền con người trong CNXH và cuộc đấu tranh vì quyền con người trên thế giới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003 7. Liên hơp quốc, Quyền trẻ em: tạo lập một nền văn hóa Nhân quyền, Tập thông tin số 3 của Liên hợp quốc (Bản dịch của Trung tâm nghiên cứu Quyên con người, 1999). 8. Marx (K.) & Engels (F.), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995 156
  • 158. 9. Người đưa tin UNESCO, Hà Nội 1993. số 9 10. Cao Đức Thái (Chủ biên), Hoàng Tùng, Vũ Công Giao, Tường Duy Kiên, Luật nhân đạo quốc tế: những nội dung cơ bản, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005 11. Chu Hồng Thanh, “Nhân quyển - Ngôn ngữ chung cùa nhân loại", Báo Pháp luật, số 61 (547) ra ngày 15/12/1995 12. Viện Ngôn ngữ học, Đại từ điển tiếng V iệt, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999. Các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam 1. Hiến chương Liên hợp quốc 1945 2. Tuyên ngôn toàn thề giới về quyền con người năm 1948 của Liên họp quốc. 3. Các văn kiện cơ bản về quyền con người. Hà Nội 2002 W ebsite 1. www.vjol.info/index.php/ssir/article/view/2864/2820 2. http://vi.wikipedia.org/vviki/C%C3%B4ng %C6%B0%E 1%BB%9 Bc Ou%E 1%BB%91c t%E 1%BA%BF V%E1%BB%81 c%C3% A lc Ouv%El%BB%81n D%C3%A2n S%E1%BB%B1 V%C3% AO Ch%C3%ADnh tr%E1%BB%8B 3. http//www2.ohchr.org/Englisli/law/ 157
  • 159. CHƯƠNG X LUẬT HÌNH Sự QUỐC TỂ L KHÁI NIỆM LUẬT HÌNH s ự QUỐC TÉ 1.1. Định nghĩa Luật hình sự quốc tế (LHSQT) là một hiện tượng còn tương đối mới mẻ đối với khoa học pháp lý thế giới nói chung1 và rất mới mẻ ở Việt Nam nói riêng.2 Khái niệm LHSQT không xuất hiện ngay lập tức, mà được hình thành và hoàn thiện dần dần. Tropg những giai đoạn lịch sử khác nhau tồn tại những quan điểm khác nhau về LHSQT. Thuật ngữ LHSQT xuất hiện trong lý luận vào khoảng cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỳ XX. Thoạt đầụ, LHSQT được hiểu là tập hợp những quy phạm điều chỉnh vấn đề hiệu lực của luật hình sự theo không gian và dẫn độ. Theo quan điểm này, LHSQT được hiểu là một tập hợp những chuẩn mực và những quy phạm pháp luật xây dựng trên cơ sở những hành vi phạm tội chịu ảnh hưởng hoặc liên quan đến hiệu lực của luật hình sự của những quốc gia khác nhau.3 1Xem Antonio Cassese, Fundamentals ofInternational Criminal Law, http://www.oup.com/uk/orc/bin/9780199203109/cassese_ch01.pdf (truy cập ngày 5/04/09), và Blisenco I. p. và Fixenco I. p., Tòa ản hình sự quốc tế, Nxb. Luật lệ và pháp luật, Moscow, 1998, tr. 7. 2 Ở Việt Nam, số lượng tài liệu nghiên cứu về LHSQT không nhiều. Có thể kể đến một vài sách và bài viết như: Nguyễn Thị Thuận, Luật hình sự quốc tế, Nxb Công an nhân dân, 2007; Lê Cảm, “Một số vấn đề cơ bản về luật hình sự quốc tế”, Tạp chí Nghiên CÍCĨỈ lập pháp, số 5/2002; Trần Quang Tiệp, “Hoàn thiện pháp luật hình sự trong lãnh vực tội phạm quốc tế”, Tạp chí Nhà n ư ớ c và pháp luật, số 6/2005; Lê Cảm, “Quy chê Rom về Tòa án Hình sự quốc tê và vai trò của nó đối với sự phát triển của khoa học luật hình sự”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 1 và 4/2007. 3 Curlycob R., về vắn đề trách nhiệmpháp lý quốc tế đối với những vi phạm quvền con người, Nxb Quan hệ quôc tê, Moscow, 1979, tr. 5. 158
  • 160. Tuy nhiên, việc một số quốc gia mong muốn sử dụng LHSQT để mở rộng ảnh hưởng của luật hình sự nước mình trên lãnh thổ của nước khác đối với các trường hợp tuy tội phạm được thực hiện bên ngoài lãnh thổ quốc gia nhưng gây thiệt hại cho quyền lợi của họ đã gây ra sự phản ứng. Mặt khác, những tội ác quốc tế ừong Chiến tranh thế giới lần thử II và sự gia tăng của tội phạm xuyên quốc gia rõ ràng cho thấy là những quy phạm luật hình sự quốc gia đã không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh với tội phạm ừong thực tiễn, quan hệ hợp tác giữa các quốc gia ừong cuộc đấu tranh với tội phạm đã đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi phải được giải quyết. Khi lý luận về LHSQT đã phát triển hon so với thời điểm thuật ngữ này mới xuất hiện, ngay những học thuyết ban đầu về LHSQT đã nhận thức rằng hàng loạt hành vi vi phạm có tính chất quốc tế phải bị coi là tội phạm và trách nhiệm của tất cả các quốc gia là áp dụng hình phạt đối với những người thực hiện các hành vi vi phạm đó.4 Tuy nhiên, các học thuyết đầu tiên này chưa làm sáng tỏ được sự khác nhau giữa trách nhiệm chính trị quốc tế của quốc gia với ưách nhiệm hình sự của cá nhân. Mặc dù vậy, sự hiện diện của nhũmg học thuyết đầu tiên này đã xác nhận sự lo lắng của các luật gia về vấn đề làm thế nào để pháp luật quốc tế phục vụ tốt hơn nữa cho việc bảo vệ hòa bình và quyền lợi của các dân tộc. Vào đầu thế kỷ XX, khái niệm LHSQT đã chứa đựng những yếu tố cơ bản của ngành luật này. Các khái niệm về LHSQT ừong giai đoạn này đã khẳng định rằng LHSQT chứa đựng tập hợp những nguyên tắc, quy phạm pháp luật 4 Luật gia Gefter (Đức) viết: “Toàn bộ sựphú nhận thực té vù không điều kiện pháp luật của nhân loại, mọi âm mint có tinh chất chung hay riêng chống lại pháp luật, những sự vi phạm qjioc tế, những sự thóa mạ, si nhục dó đòi hói ớ tát cà các quốc gia một sức mạnh chung đế trấn áp chúng". Nhà luật hoc quốc tế Blunchi (Thụy Sĩ) đã viết: “Sự vi phạm pháp luật quốc tế aây ra nguy hiềm chung, do vậy không chì quốc gia bị thiệt hại, mà cả những quốc gia khác phài quy tụ sức mạnh để bào vệ pháp luật quốc tế, phải chống lại chúng, quan tâm đến việc khôi phục và bảo đàm trât tự pháp luật quốc tế”. Xem Carpetx 1. I., Tộiphạm có tính chất quốc tế, Nxb Tài liệu pháp lý, Moscow, 1999, tr. 13. 159
  • 161. đâu tranh vói lứiững tội phạm xâm hại đến lợi ích của tất cả các quốc gia hoặc một số quốc gia nhất định.5 Sự hình thành những tổ chức phạm tội xuyên quốc gia là một yêu tô quan trọng ảnh huởng đến sự phát triển của LHSQT. Nhằm bảo vệ đời sống cộng đồng quốc tế, LHSQT đã ngày càng hiện thực và cân thiêt. LHSQT ừở thành một công cụ quan trọng để đấu tranh với các tội phạm không giới hạn trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia, đó là tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế. Do vậy, cụm từ “LHSQT” đã được thừa nhận và sử dụng rộng rãi trong lý luận pháp luật quốc tế và cả trong một số tài liệu chính thức của LHQ (như tài liệu làm việc của ủy ban Luật quốc tế của LHQ).6 Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm chung thống nhất trên thế giới về LHSQT. Các nhà luật học đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về LHSQT.7 5 Giáo sư Grabar V. E. khi phân tích công trình của các nhà nghiên cứu luật quốc tế của Nga từ thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XX đã đi đến kết luận: “LHSQT chứa đựng những nguyên tăc và quy phạm luật hình sự đấu tranh với tội phạm xâm hại lợi ích của tất cả các quốc gia hoăc một số quốc gia nhất định”. Một số nhà luật học khác cho răng: “LHSỌT là tập hợp những nguyên tắc, quy phạm xác định quyên và nghĩa vụ cùa các thành viên cộng đồng quôc tế mà việc vi phạm sẽ là tội phạm quốc tế và phải chịu hình phạt”. Xem Blisenco I. P. và Fixenco I. p., Sđd, Nxb. Luật lệ và pháp luật, tr. 12. 6 Xem Nguyễn Thị Thuận, Luật hình sự quốc tế, Nxb Công an nhân dân, 2007, tr. 8 7 Ví dụ, GS Martenx F. F. của Trường Đại học Saint Peterburg cho rằng “LHSQT là tập hợp những quy phạm xác định điều kiện tương trợ xét xử quốc tế giữa các quốc gia để thực hiện quyền trừng phạt của mình trong cộng đồng quoc tế” (xem Lucasuk I. I. và Naumob A. B., Luật hình sự quốc tế, Nxb Spark, Moscow, 1999, tr. 11). Cartpetx I. I. coi LHSQT là một hệ thống các quy phạm được hình thành từ kêt quả hợp tác giữa các quốc gia có chủ quyên hoạc giữa các cơ quan, tổ chức nhà nước nhằm bảo vệ hòa bình, an ninh của các dân tộc trật tự pháp luật quôc tế tránh khỏi những tội phạm quốc tế cũng như những tội phạm co tính chất quốc tế, mà những tội phạm đó được quy định trong các điều ước, các công ước quôc tê và các văn bản pháp luật khác có tính chất quốc tế và bị trừng phạt theo các điều ước đã ký kêt giữa các nhà nước phù họp với các quy phạm luật hình sự quốc gia (xem Carpetx I. I-, sđd, 160
  • 162. Tuy có nhiều định nghĩa khác nhau về LHSQT, các định nghĩa đều xoay quanh việc làm rõ đối tượng điều chỉnh và nhiệm vụ của ngành luật này. LHSQT điều chỉnh quan hệ họp tác giữa các quốc gia trong cuộc đấu tranh với các tội phạm xâm hại lợi ích của cộng đồng quốc tế hoặc lợi ích của một số quốc gia nhất định. Để điều chỉnh quan hệ này, LHSQT xác định những hành vi bị coi là tội phạm, ừách nhiệm của cá nhân đối với tội phạm đó và trách nhiệm của các quốc gia trong việc đấu tranh với tội phạm. Đồng thời, LHSQT quy định thủ tục tố tụng của những cơ quan quốc tế xét xử các tội phạm quốc tế. Như vậy, LHSQT là tr. 30). Giáo sư Panov V. P. quan niệm rằng: “LHSQT - là hệ thống các nguyên tắc và các quy phạm điều chỉnh sự hợp tác cua các quốc gia trong cuộc đâu tranh chông những tội phạm do các điều ước quốc tế quy định” (xem Kibalnhik A. G., Luật hình sự quốc tế, Moscow, 2002, tr. 2 (Sach gồc: Panov V. p., Luật hình sự quốc tế, 1997, tr. 5). Blisenco I. P. và Fixenco I. p.định nghĩa: “LHSQT có thể được định nghĩa là tổng hợp các nguyên tăc và các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ hợp tác của các quốc gia trong việc ngăn ngừa và tnxng phạt việc thực hiện những tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế” (xem Blisenco I. P. và Fixenco I. p. Sđd tr. 8). Giáo sư Kibalnhik A. G. định nghĩa “LHSQT là một ngành luật độc lập của hệ thống luật quốc tế, bao gồm các quy phạm pháp luật quốc tể và các quyết định của các tô chức quôc tê xác định những hành vi tội phạm, trách nhiệm đối với việc thực hiện các hành vi như vậy, và điều chỉnh những vấn đề pháp lý hình sự xoay quanh mục đích bào vệ trật tự pháp luật quốc tế” (xem Kibalnhik A. G., Sđd, tr. 6). Giáo sư về luật quốc tế và nhân quyền John Cerone và Susana SáCouto coi LHSQT là một tập hợp các quy phạm pháp luật quốc tế quy định trách nhiệm hình sự của cá nhân (xem John Cerone and Susana SáCouto, Bdd). Giáo sư vê luật quốc tế Bartram s Brown cho rằng LHSỌT bao gồm những quy phạm của luật quốc tế xác định tội phạm và hình phạt, cũng như hàng loạt cơ chê và thù tục sử dụng bởi các quốc gia nhằm thuc đấy hợp tác quốc tế trong việc điều tra tội phạm và cưỡng chế thi hành ỈUcật hình sự quốc gia (xem Barstram s Brown, International Criminal Lern’ - Deßning international Crimes, Procédural Aspects, Enjorcernent Models, Conclusion. Bibliograph Treaties And Other Documents <http://law.jrank.org/pages/1398/Intemational-Criminal-Lawhtml> at 5 April 2009). 161
  • 163. tập hợp các nguyên tắc và quy phạm pháp luật quốc tể xác định những hành vi bị coi là tội phạm và trách nhiệm của cá nhân đổi với việc thực hiện những hành vi như vậy, sự hợp tác của các quốc gia trong việc đấu tranh với tội phạm, và thủ tục tố tụng trong lĩnh vực tư pháp hình sự quốc tế. LHSQT là một ngành luật tương đối mới trong hệ thống luật quốc tế và đang phát triển mạnh mẽ.89Ban đầu, LHSQT chỉ quy định một số ít hành vi nguy hiểm đối với hòa bình và an ninh quốc tế là tội phạm, ví dụ: tội phạm chiến tranh, tội diệt chủng, tội chống loài người. Dần dần, xuất hiện những loại hành vi mới nguy hiểm đối với sự phát triển chung của cộng đồng. Một cách tương ứng, LHSQT cũng mở rộng phạm vi điều chỉnh, quy định những loại tội phạm mớì như buôn bán ma túy, tội buôn bán người, rửa tiên, tham nhũng, khủng bố. Sự tăng lên nhanh chóng về số lượng điều ước quốc tế đấu tranh với tội phạm có tính chất quốc tế trong những thập kỷ qua đã minh chứng cho sự phát triển mạnh mẽ của ngành luật này. 1.2. Đối tượng điều chỉnh và cấu trúc của LHSQT 1.2.1. Đối tượng điều chỉnh của LHSQT LHSQT ra đời và phát triển nhằm đấu tranh với các tội phạm mà từng quốc gia đơn độc, khép kín không thể đấu tranh một cách hiệu quả. Nói cách khác, LHSQT ra đời như một công cu để các quốc gia, các tô chức quốc tế hợp tác với nhau chống lại các tội phạm không giới hạn trong phạm vi lãnh thổ một quốc gia. Như vậy, đối tượng điêu chỉnh của LHSQT là quan hệ hợp tác giữa các quốc gia, các tô chức quốc tế trong quá trình đấu tranh với tôi phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế. Cụ thể hơn, LHSQT quy định các vân đê sau đây: 8 Xem Antonio Cassese, Bđd. 9 Ví dụ về các điều ước quốc tế xem thêm ở phần phân tích về nguồn của LHSQT. 162
  • 164. - Xác định các hành vi bị coi là tội phạm và dấu hiệu cơ bản của các tội phạm này, trách nhiệm của các quốc gia trong việc tội phạm hóa những hành vi quy định trong LHSQT. - Trách nhiệm của các quốc gia trong cuộc đấu tranh với tội phạm (ví dụ: nghĩa vụ của các quốc gia trong việc thực hiện quyền tài phán đối với người phạm tội, trách nhiệm tương trợ tư pháp, dẫn độ, chuyển giao phạm nhân, bảo vệ nhân chứng...) - Trách nhiệm của một số tổ chức quốc tế trong cuộc đấu tranh với tội phạm (ví dụ: trách nhiệm của Ban kiểm soát ma túy quốc tế (International Narcotics Control Board) trong việc ngăn ngừa các hoạt động trồng, sản xuất, chế biến, buôn bán và tàng trữ bất hợp pháp các chất ma túy).1 0 - Tổ chức, hoạt động và thủ tục tố tụng của các cơ quan tài phán quốc tế (ví dụ: Quy chế tổ chức và hoạt động của Tòa án Hình sự quốc tế thường trực La Haye theo Quy chế Rome 1998). 1.2.2. Cấu trúc của LHSQT LHSQT gồm hai bộ phận quan trọng là luật nội dung và luật hình thức. Luật nội dung bao gồm các nguyên tắc và các quy phạm của LHSQT xác định tội phạm và trách nhiệm hình sự. Trong khi đó, luật hình thức (hay luật tố tụng) bao gồm các nguyên tắc và các quy phạm của LHSQT quy định về hợp tác quốc tế trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội pham, chuyển giao phạm nhân đê thi hành án; tô chức, hoạt động và thủ tục tô tụng của các tòa án hình sự quốc tê.11 1 2 1 0 Xem khoăn 4 Điều 9 cùa Công ước thống nhất về các chất ma túy (mờ để các nước ký kết từ ngày 30 tháng 03 năm 1961, có hieu lưc tư tinày 13 tháng 12 năm 1964). " Theo Nguyễn Thị Thuận, LHSQT có tính chất tổn" hợp, bao "Ồm các quy phạm luật hình sự, tố tụng hình sự và thi hành án quyết hình sự (Nguyễn Thị Thuận, Sđd, tr. 9). Tuy nhiên, theo nhiều học già khác, nhir Cudrasev (Luật hình sự quốc tế, Nxb. Khoa học, Moscow, 1999, tran" 15)- Blisenko và Fixenko (Sđd, trang 15); Lucasuk và Naumov (SđJ, tr. 12*3) thì LHSQT chi 163
  • 165. 1.3. Các nguyên tắc của LHSQT LHSQT là một bộ phận của luật quốc tế nên cũng bị chi phối bởi các nguyên tắc chung của luật quốc tế. Ngoài ra, LHSQT còn có những nguyên tắc đặc thù. Các nguyên tắc của LHSQT được đề cập đến trong nhiều văn bản pháp luật hình sự quốc tế, như Quy chế hoạt động của Tòa án Quân sự Nuremberg 1945, Báo cáo của ủy ban Pháp luật quốc tế về các nguyên tắc cơ bản của Luật Hình sự quốc tế 1950 (đã được Tổng thư ký LHQ thông qua), Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính ưị của cá nhân năm 1966, Quy chế hoạt động của Tòa án Hình sự quốc tế 1998.12Các nguyên tắc đặc thù của LHSQT gồm: - Tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật - Không có tội phạm nếu không có luật - Không có hình phạt nếu không có luật - Trách nhiệm hình sự của cả nhân theo luật quốc tế - Không được truy cứu hai lần đổi với cùng một hành vi phạm tội - Vị trí chức vụ của cá nhân không giải phóng cá nhân khỏi trách nhiệm hình sự và vị trí chức vụ của cá nhân cũng không được xem là tình tiết giảm nhẹ trong quyết định hình phạt - Trách nhiệm hình sự của người chỉ huy hay người có chức vụ cao.* 1 2 bao gồm các quy phạm hình sự và tố tụng hình sự. Nói cách khác, các quy phạm về thi hành án quyết hình sự chỉ được coi là một phần của tô tụng hình sự. 1 2 Xem: Cudrasev V. N., Sđd, tr. 13; và Lucasuk I. I. và Naumob A. B., Sđd, tr. 13-4- Điều 22 đến Điều 33 Phần III Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế (1998) về các nguyên tắc chung của luật hình sự. 164
  • 166. 1.3.1. Tất cả mọi người đều bình đẳng trướcpháp luật Nguyên tắc “tất cả mọi người đều bình đẳng trước pháp luật” được thừa nhận .,;>ng rãi trong luật pháp của các quốc gia nói chung, luật hình sự của các quốc gia nói riêng. Ke thừa sự tiến bộ đó, Công ước về quyền dân sự và chính trị của cá nhân (1966) đã ghi nhận nguyên tăc này như một nội dung của quyên con người và nó cũng được coi là một nguyên tắc của LHSQT. Dưới góc độ luật hình sự quốc tế, nguyên tắc này đòi hỏi các quốc gia khi truy cứu, xét xử người thực hiện tội phạm quôc tế hoặc tội phạm có tính chất quốc tế không phải là công dân của nước mình (như người không có quốc tịch hoặc công dân nước ngoài), phải trao cho họ đầy đủ các quyền như luật pháp đã trao cho công dân nước họ. 1.3.2. Không có tộiphạm nếu không có luật Nguyên tắc này hiện diện trong pháp luật hình sự của hâu hết các quốc gia trên thế giới, được thừa nhận rộng rãi và đã trở thành một nguyên tắc chung của luật. Với nguyên tắc không có tội phạm nếu không có luật (Nullum crimen sine lege), các hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị coi là tội phạm nếu chúng được quy định trong luật. Nguyên tắc này không cho phép việc suy diễn hoặc áp dụng tưoug tự pháp luật khi xác định tội phạm. 1.3.3. Không cỏ hình phạt nếu không có luật Tưong tự như nguyên tắc “không có tội phạm nếu không có luật”, nguyên tắc “không có hình phạt nếu không có luật (Nulla poena sine lege) hiện diện trong pháp luật hình sự của hâu1 3 1 3 Điều 3, khoản 1 Điều 14 và Điều 26 cùa Công ước về quyền dân sự và chính trị 1966 (mờ cho các nước ký kêt, phê chuẩn hoặc tham gia từ ngay 16 tháng 12 năm 1966 và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 03 năm 1976). 165
  • 167. hết các quốc gia và đã trờ thành một nguyên tắc chung của luật. Với nguyên tắc này, người phạm tội chỉ phải gánh chịu những hình phạt được quy định trong luật. Tòa án không có quyền tùy tiện áp dụng những loại hình phạt không được pháp luật quy định đối với người phạm tội. 1.3.4. Trách nhiệm hình sự của cá nhân theo luật quốc tế Nguyên tắc này rất đặc trưng trong LHSQT và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Theo quan điểm truyền thống, luật quốc tế chỉ điều chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia, các tổ chức quốc tế; luật quốc tế không điều chỉnh hành vi của cá nhân. Điều này có nghĩa là luật quốc tế chỉ quy định trách nhiệm của các quốc gia, tổ chức quốc tế trong quan hệ quốc tế mà không trực tiếp quy định trách nhiệm cá nhân. Nguyên tắc “trách nhiệm hình sự của cá nhân theo luật quốc tế” đã khẳng định một quan điểm mới. Theo nguyên tắc này, tòa án quốc tế có thẩm quyền có thể trực tiếp xét xử và buộc người đã thực hiện tội phạm quốc tế phải chịu trách nhiệm hình sự. Ví dụ, khoản 1, Điều 25, phần III của Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế (1998) về các nguyên tắc chung của luật hình sự quy định ràng: Tòa án Hình sự quốc tế có quyền tài phán đối với cá nhân thực hiện các tội phạm thuộc thẩm quyền của tòa. Ngoài ra, các quốc gia cũng có thể xét xử các cá nhân thực hiện tội phạm quốc tế bằng cách áp dụng trực tiếp các quy phạm của LHSQT.1 4 Với nguyên tắc trách nhiệm hình sự của cá nhân, một người đã thực hiện tội phạm cùng với những người khác hoặc thông qua những người khác đều phải gánh chịu trách nhiệm* 1 6 6 1 4Xem thêm phần 4 về Thẩm quyền xét xử các tội phạm quốc tế. 166
  • 168. hình sự, không phụ thuộc vào việc người khác có bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay không.1 3 1.3.5. Không truy cứu hai tằn đổi với cùng một hành vi phạm tội Nguyên tắc “không truy cứu hai lần đối với cùng một hành vi phạm tội” được ghi nhận trong luật hình sự của nhiều quốc gia và có thể được coi là một nguyên tắc chung của luật. Đây cũng là một nguyên tắc của LHSQT. Tòa án Hình sự quốc tế 1998 vận dụng nguyên tắc này theo hướng người phạm tội đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở một quôc gia hoặc đã được tuyên bố không phạm tội ở một quốc gia thì sẽ không bị truy cứu trách nhiệm đối với cùng hành vi ấy bởi Tòa án Hình sự quốc tế.1 5 1 6 Tuy nhiên, cũng cần đề cập rằng Tòa án Hình sự quốc tế 1998 không áp dụng nguyên tắc này trong các trường họp ngoại lệ sau: - Người phạn tội đã bị xét xử bởi một tòa án khác, nhưng việc xét xử chỉ nhằm mục đích bảo vệ cho người phạm tội khỏi phải gánh chịu trách nhiệm hỉnh sự đối với những tội phạm thuộc thẩm quyên xét xử của Tòa án Hình sự quốc tế; - Người phạm tội đã bị xét xử bởi một tòa án khác, nhưng việc xét xử không được tiến hành một cách độc lập hoặc khách quan theo những chuẩn mực ghi nhận trong luật quốc tế; và việc xét xử không đúng với mục đích đưa người phạm tội ra trước công lý.1 7 1 5 Ỵí dụ: xem điểm a khoản 3 Điều 25 Phần III cùa Quy chế Tòa án Hình sụ quốc tế 1998. 1 6 Xem khọản 1 và 2 Điều 20 (Ne bis in idem) Phần II cùa Quy chế Tòa án hình sự quốc tế 1998. n Khoản 3 Điều 20 (Ne bis in idem) Phân II cùa Quy chế Tòa án Hình sự quôc tế 1998. 167
  • 169. 1.3.6. Vị trí chức vụ của cá nhân không giải phóng cá nhân khỏi trách nhiệm hình sự và vị trí chử’ c vụ của cá nhân cũng không được xem ỉà tình tiết giảm nhẹ trong quyết định hình phạt Trong đa số các trường hợp, tội phạm quốc tế được thực hiện bởi những người có chức vụ, có cả những người giữ vị trí lãnh đạo quốc gia.1 8 Do vậy, việc thừa nhận quyền miễn trừ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với những người có chức vụ sẽ làm cho cuộc đấu tranh chống tội phạm mất ý nghĩa. Chính vì lý do này, ngay trong Quy chế của Tòa án Quân sự Nuremberg đã khẳng định nguyên tắc: “vị trí chức vụ của cá nhân không giải phóng cá hhân khỏi trách nhiệm hình sự và vị trí chức vụ của cá nhân cũng không được xem là tình tiết giảm nhẹ trong quyết định hình phạt”.19 Quy chế của những tòa án hình sự quốc tế sau đó, như Tòa án Hình sự quốc tế Yugoslavia và Rwanda, và Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế 1998 tiếp tục khẳng định nguyên tắc này. Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế 1998 nêu rõ: - Quy chế này áp dụng bình đẳng cho tất cả mọi người, không có bất kỳ sự phân biệt nào về vị trí chức vụ. Cụ thể, các vị trí chức vụ đứng đầu nhà nước, thành viên quốc hội, người đại diện do bầu cừ hay cán bộ chính quyền không giải phóng người phạm tội khỏi trách nhiệm hình sự, chúng cũng không phải là căn cứ để giảm nhẹ hình phạt. - Các quyền miễn trừ hay các quy định tố tụng đặc biệt có thể áp dụng cho các vị trí chức vụ nhất định theo luật pháp 1 8 Lucasuk I. I. và Naumob A. B, Sđd, trang 29. 1 9Xem Điều 7 cùa Ọuy chế Tòa án Quân sự Nuremberg 1945 (văn bản này có tại website: http://avalon.law.vale.edu/imt/imtconst.asp) 168
  • 170. quốc gia hay quốc tế không thể cản trở tòa án thực hiện quyền tài phán đối với người phạm tội.20 1.3.7. Trách lĩhiệm hình sự của người chỉ huy hay người có chức vụ cao Nguyên tắc “trách nhiệm hình sự của người chỉ huy hay người có chức vụ cao” được ghi nhận trong LHSQT để đấu tranh với những tội phạm được thực hiện bởi những người chỉ huy hay người có chức vụ cao trong trường hợp họ biết cấp dưới của mình thực hiện hoặc chuẩn bị thực hiện một tội phạm quốc tế mà không áp dụng những biện pháp cần thiết để phòng ngừa hoặc ngăn chặn việc thực hiện tội phạm. Nguyên tắc này được ghi nhận trong LHSQT từ rất sớm, ví dụ như Công ước La Haye về luật lệ chiến tranh năm 1907, Nghị định thư năm 1972 bổ sung cho Công ước Geneva về bảo vệ nạn nhân chiến tranh năm 1949, Quy chế Tòa án Quân sự Nuremberg 1945.21 Hiện nay, Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế 1998 cũng ghi nhận nguyên tắc này. Cụ thể như sau: - Người chỉ huy quân đội hay người hành động như người chỉ huy quân đội phải chịu trách nhiệm hình sự về những tội phạm do lực lượng thuộc quyền kiểm soát của họ thực hiện theo mệnh lệnh của họ. Người chỉ huy quân đội hay người hành động như người chỉ huy quân đội cũng phải chịu trách nhiệm hình sự vê những tội phạm do lực lượng thuộc quyền kiểm soát của họ thực hiện 20Điềụ 27 (Irrelevance ofofficial capacity) Phần III của Quy chế Tòa án Hình Sự quốc tế 1998. 2 1 Xem Lucasuk I. I. và Naumob A. B, Súci trang 31 và Điều 8 cùa Quy chê Tòa án Quân sự Nuremberg 1945. 169
  • 171. nếu họ không thực hiện quyền kiểm soát một cách đúng đắn, có nghĩa là: + Họ biết, hoặc, theo điều kiện khách quan, phải biết rằng lực lượng câp dưới họ đang thực hiện hoặc sẽ thực hiện tội phạm, và: + Họ không thực hiện những biện pháp cần thiết và hợp lý trong thâm quyên của mình đê phòng ngừa hoặc ngăn chặn việc thực hiện tội phạm, hoặc không chuyển giao vụ việc đến người có thẩm quyền để điều tra và truy tố. - về mối quan hệ cấp trên và cấp dưới, ngoài các trường hợp như đã nêu trên, câp trên phải chịu trách nhiệm đối vói những tội phạm do cấp dưới thực hiện trong các điều kiện: + Họ biết hoặc cố ý bỏ qua những thông tin cho biết cấp dưới đang thực hiện hoặc sẽ thực hiện tội phạm; + Tội phạm liên quan đến những hoạt động thuộc trách nhiệm hay quyền kiểm soát của họ; và + Họ không thực hiện những biện pháp cần thiết và hợp lý trong thâm quyên của mình đê phòng ngừa hoặc ngăn chặn việc thực hiện tội phạm, hoặc không chuyển giao vụ việc đến người có thẩm quvền để điều tra và truy tố.22 1.4. Nguồn của LHSQT Nguồn của LHSQT là các hình thức biểu hiện của các nguyên tắc và quy phạm pháp luật hình sự quốc tế. Nhìn chung, nguôn của LHSQT không năm ngoài những nguồn của luật quôc tế nói chung, được nhắc đến tại Điều 38 của Quy chế Tòa án Công lý quốc tế. Đặc biệt, các nguồn quan trọng nhất của LHSQT bao gồm: các điều ước quốc tế, các tập quán quốc tế, các nguyên tắc chung của luật, các nghị quyết, tuyên ngôn của tô 22 Xem Điều 28 (Responsibility of commanders and other superiors) Phần III cùa Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế 1998. 170
  • 172. 1.4.1. Các điều ước quốc tế Điều ước quốc tế là nguồn cơ bản và quan trọng nhất của LHSQT.23 Cần lưu ý rằng, bên cạnh những điều ước chuyên biệt về đấu tranh với tội phạm (ví dụ: Công ước quốc tế về chống buôn bán bất họp pháp các chất ma túy và các chất hướng thần năm 1988, Công ước về chông tội phạm có tổ chức xuyên quôc gia năm 2000), trong số nguồn của LHSQT còn có cả những điều ước điều chỉnh các vẩn đề chung nhưng có chứa đựng các quy phạm pháp luật hình sự. Ví dụ: Công ước về luật biển năm 1982 có chứa đựng những quy phạm vê hợp tác giữa các quốc gia đâu tranh với buôn bán, vận chuyên nô lệ, cướp biển, và một sô hoạt động liên quan đến ma túy và các chất hướng thần. Tuy là một ngành luật mới, số lượng các điều ước quốc tế đa phương và khu vực về đấu tranh với tội phạm quốc tê và tội phạm có tính chất quốc tế khá phong phú. Có thể kể đến một sô điều ước quôc tế quan trọng: - Hiệp ước London năm 1945 về trừng phạt tội phạm chiên tranh và Quy chế Tòa án Quân sự Nurembetg Năm 1945, các nước Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô đã ký hiệp ước tại London về trừng phạt các cá nhân thực hiện tội ác chiến tranh phát xít ở châu Âu. Hiệp ước này là cơ sở đê thành lập Tòa án Quân sự Nuremberg. Quy chê tổ chức và hoạt động của Tòa án Quân sự Nuremberg là văn bản có ý nghĩa quan trọng đối với việc xác định các loại tội phạm quốc tế. Điêu 4 của Quy chế ghi nhận 3 loại tội phạm quôc tế: tội phạm chông hòa bình, tội phạm chien tranh và tội phạm chống loài người. chức LH Q , các quy tắc hoạt động và các phán quyết của các tòa án hình sự quốc tế. 23 Cudrasev V. N., Sđd, tr. 17 và Nguyễn Thị Thuận, Sđd, tr. 12. 171
  • 173. - Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế năm 1998 Viẹc thành lập một tòa án hình sự quốc tế thường trực để xet xư cac tọi phạm quôc tê là một thành tựu to lớn và quan trọng cua cọng đong quôc tê. Trước đây, các tòa án Nuremberg, Yugoslavia và Rwanda đêu là các tòa án ad hoc, thành lập theo vụ viẹc. Quy chê Tòa án Hình sự quốc tế 1998 chứa đựng nhiều quy phạm pháp luật vê hình sự, như các nguyên tắc của luật hình sự, xác đinh các hành vi bị coi là tội phạm diệt chủng, tội phạm chiên tranh, tội chông loài người và tội phạm xâm lược; quy phạm phap luạt to tụng hình sự, như quy định về điều tra, truy tố tội phạm, nguyên tấc xét xử. Công ước chông tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 Công ước chông tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia được thông qua vào ngày 15/11/2000 và có hiệu lực tìr ngày 29/09/2003. Mục đích của Công ước là “thúc đẩy sự hợp tác để ngăn ngừa và đau tranh với tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia một cách hiệu qụả (Điêu 1). Đê đạt được mục đích đã nêu, Công ước quy đinh nghĩa vụ của các quốc gia trong việc tội phạm hóa những hành VI tham gia vào nhóm tội phạm có tổ chức, rửa tiên, tham nhũng và cản trở hoạt động tư pháp. Công ước cũng quy đinh việc thực hiện quyền tài phán của các quốc gia đôi VỚI các tội phạm này, họp tác quốc tế trong việc tịch thu các tài sản do phạm tội mà có, tương trợ tư pháp, điều tra tội phạm, dân độ người phạm tội , chuyển giao phạm nhân để thi hành án và các biện pháp phòng ngừa tội phạm. - Các điêu ước quôc tê đâu tranh phòng chống các nhóm tội phạm cụ thê: như Công ước vê ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm 1948; Công ước Tokyo vê tội phạm và một số hành vi khác thực hiện trên tàu bay năm 1963; Công ước La Haye về ngăn chặn các hành vi chiêm đoạt bât họp pháp máy bay năm 1970; các* 1 7 2 24 Việt Nam đã phê chuẩn Công ước này vào ngày 08/06/2012 172
  • 174. Công ước về chống các tội phạm liên quan đến ma túy và các chất hướng thân năm 1961, 1971 và 1988; Công ước về ngăn chặn và trừng phạt tội phạm băt cóc con tin năm 1979; Công ước về trùng trị tội phạm khủng bô băng bom năm 1997, Công ước về trừng trị hoạt động tài trợ cho khủng bố năm 1999... - Các điều ước quốc tế về tương trợ tư pháp như Công ước của châu Âu về tương trợ tư pháp đối với các vấn đề về hình sự, Hiệp định của các nước ASEAN về tương trợ tư pháp đôi với các vấn đề về hình sự... Như trên đã đề cập, LHSQT ra đời như một công cụ để các quốc gia, các tổ chức quốc tế họp tác với nhau chông lại các tội phạm không giới hạn trong phạm vi lãnh thô một quốc gia. Do đó, trong cuộc đấu tranh này các điều ước quốc tế vê tương trợ tư pháp đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra cơ sở pháp lý cho các quôc gia hợp tác với nhau trong các hoạt động trao đôi thông tin, thu thập chúng cứ để điều tra, truy tố, xét xử tội phạm và thi hành án. 1.4.2. Các tập quán quốc tế và các nguyên tẳc chung của luật Trong lĩnh vực hình sự quốc tế, có một số tập quán và nguyên tac chung của luật được các quôc gia thừa nhận rộng rãi. Có thê kê đện các nguyên tắc như Ne bis in indem (không được truy cứu hai lần đối với cùng một hành vi), Nullum crimen sine lege (không có tội phạm nêu không có luật) và Nulla poena sine leẹe (không có hình phạt nêu không có luật).23 Ngày nay, nhiều tập quán và nguyên tăc chung của luật đã được pháp điển hóa ừong các điều ước quốc tê. Ví dụ: khoản 3, Điều 20 của Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế 1998 quy định vê vân đề Ne bis in indem (không được truy cưu hai lần đối với cùng một hành vi), Điều 22 Phần II của Quy chế Tòa án Hỉnh sự quôc tê 1998 quy định về vấn đề Nullum crimen sine lege (không có tội phạm nêu không có luật), Điều 23 Phần II cùa Quy chế Tòa án 2Í Nguyễn Thị Thuận, Sđd, tr. 17.
  • 175. Hình sự quốc tế 1998 quy định về vấn đề Nulla poena sine lege (không có hình phạt nêu không có luật). Trong khoa học, có quan điểm cho rằng, tập quán quốc tế và nguyên tắc chung của luật là nguồn quan họng hơn điều ước quốc tế vì các tập quán quôc tê được các quôc gia thừa nhận rộng rãi, còn điều ước quốc tế chi có hiệu lực đối vói các quốc gia ký kết. Cũng có quan điểm khác cho rằng, điều ước quốc tế la nguon quan trọng hơn, vì được thê hiện băng văn bản rõ ràng và có giá trị ràng buộc đối với các quốc gia thành viên. Thêm vào đó, số lượng điều ước quốc tế đang ngày càng tăng lên, điều chỉnh nhiều vấn đe và ưở thành một nguồn quan trọng.26 về vấn đề này, cần đề cập rằng, hiện nay nội dung của nhiều điều ước quốc tế phản ánh những tập quán quốc tế đã được thừa nhận rộng rãi (ví dụ: Công ước La Haye về luật lệ chiến ừanh năm 1907, Công ước Geneva về bảo vệ nạn nhân chiến tranh 1949, các quy tắc về tố tụng và hình sự của các Tòa án Hình sự quốc tế Nuremberg, Tokyo, Yugoslavia, Rwanda và Quy chế của Tòa án Hình sự quốc tế 1998).27 Nói cách khác, hai loại hmh nguồn này bổ trợ cho nhau, góp phần tạo thành hệ thống nguồn của LHSQT. 1.4.3. Các tuyên ngôn của tổ chức LHQ Trong số nguồn của LHSQT cần phải kể đến một số tuyên ngôn của tổ chức LHQ; như Tuyên ngôn của LHQ về quyền con người năm 1948, Tuyên ngôn của LHQ về bảo vệ tất cả những người bị ứa tân và các hình thức đôi xừ và hình phạt dã man, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm năm 1975. Chuẩn mực ghi nhận trong các tuyên ngôn này được các nước thừa nhận rộng rãi, và hiện nay, tòa án của một số quốc gia coi các quy phạm trong các tuyên ngôn này là các quy phạm được thừa nhận chung của luật pháp quốc tế.28 26 Cudrasev, Sđd, tr. 18. Xem thêm chương Nguồn cùa luật quốc tế trong giáo trình này. 27 Xem Cudrasev Sđd, tr. 18 và Lucasuk I. I. và Naumob A. V., Sđd, tr. 14-5. 28 Lucasuk I. I. và Naumob A. V., Sđd, tr. 15. Theo Nguyễn Thị Thuận, trong thực tiễn quan hệ quốc tế xuất hiện ngày càng nhiều các nghị quyêt của các tô chức liên chính phù có hiệu lực ràng buộc đôi với các quôc gia thành viên. 174
  • 176. Các quy tắc hoạt động và các phán quyết của các tòa án hình sư quốc tế là một nguồn quan trọng của LHSQT. Các văn bản này có ý nghĩa quan ừọng đối với việc thiết lập các chuẩn mực xét xử tội phạm quốc tế. Ví dụ: các phán quyêt của Tòa án Quân sự Nuremberg (Judgement), Bộ quy tăc tô tụng (Rules ofProcedure) của Tòa án này được thông qua ngày 29 tháng 10 năm 1945, Bộ quy tắc về tố tụng và chúng cứ (Rules o fProcedure and Evidence) của Tòa án Hình sự quốc tế Yugoslavia được thông qua vào ngày 11 tháng 2 năm 1994, Các nguyên tắc về tố tụng và chứng cứ (Rules of Procedure and Evidence) của Tòa án Hình sự quốc tế 1998 được thông qua ngày 10 tháng 9 năm 2002 trong kỳ họp đầu tiên của Hội đồng các nước thành viên từ ngày 3 đến ngày 10/09/2002, Các yếu tố của tội phạm (Elements ofCrimes) của Tòa án Hình sự quốc tế 1998. 1.5. Mối quan hệ giữa luật hình sự quốc tế và luật hình sự quốc gia Xác định bản chât của môi quan hệ giữa luật hình sự quôc tê và luật hình sự quốc gia (LHSQG) là một vấn đề thú vị và có ý nghĩa quan trọng đôi vói việc áp dụng pháp luật. Xoay quanh vân đê bản* 1.4.4. Các quy tắc hoạt động và cácphán quyết của các tòa án hình sự quốc tế Các văn bận này cũng là một loại nguồn của LHSQT, ví dụ như Nghị quyêt của Hội đồng Bảo an LHQ về thành lập các Tòa án Yugoslavia và Rwanda (Xem Nguyễn Thị Thuận, Sđd, tr. 17-8). Theo Lucạsuk 1.1. và Naumob A. V., những nghị quyết của LHQ hay các tổ chức quốc tế khác không trực tiêp chứa đựng những quy phạm pháp luật quốc tế, mà chi có ảnh hường đến quá trình hình thành những quy phạm này nên không được coi là nguồn của LHSQT (Lucasuk I. 1. và Naumob A. V., Sđd, tr. 15). Theo chúng tôi, các nghị quyêt cùa Hội đồng bảo an LHQ về thành lập các Tòa án Yugoslavia và Rwanda chi là các văn bản thê hiện sự thống nhất ý chí cùa HĐBA về việc thành lập hai tòa án đã nêu. Chúng không chứa đựng quy phạm pháp luật tồ tụng hay hình sự (xem các nghị quyết này tại: http://www.un.org/documents/scres.htm). Vì lý do ấy, chúng tôi đồng ý với quan diêm cịia Lucasuk 1. 1. và Naumob A. V. vè việc không coi các nghị quyết này là nguên cùa LHSQT. 29Cho đến ngày 4/11/2008, Bọ quy tắc này đã được sửa đồi bổ SU112 43 lần. 175
  • 177. chất của quan hệ giữa LHSQT và LHSQG, thường đặt ra các vấn đề sau đây. Thứ nhất, LHSQT có phải là một bộ phận của LHSQG hay, ngược lại, LHSQG có phải là một bộ phận của LHSQT. Một số chuyên gia khẳng định rằng, trên thế giới tồn tại hai hệ thống pháp luật: pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia,30 do vậy LHSQT không thể là một bộ phận của LHSQG, và ngược lại, LHSQG cũng không thể là một bộ phận của LHSQT. Nhìn chung LHSQT và LHSQG khác nhau cơ bản về: (i) cơ chế xây dựng các nguyên tắc và quy phạm, (ii) đối tượng điều chỉnh, và (iii) bảo đảm thi hành.31 /. về cơ chế xây dựng các nguyên tác và quy phạm pháp luật Các nguyên tắc và quy phạm pháp luật hình sự quốc gia do cơ quan lập pháp của một quốc gia ban hành, còn các nguyên tắc và quy phạm pháp luật hình sự quốc tế được hình thành bằng con đường thỏa thuận giữa các quốc gia. Vì quốc gia là những thực thể độc lập, có chủ quyền và bình đẳng với nhau trong quan hệ quốc tế nên quốc gia này không có quyền đặt ra pháp luật bắt các quốc gia khác phải tuân theo. Các quốc gia phải cùng nhau thỏa thuận xây dựng các nguyên tắc và quy phạm LHSQT trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng. /7. về đối tượng điều chỉnh LHSQT và LHSQG đều có nhiệm vụ đấu tranh với tội phạm, nhưng đối tượng điều chỉnh của LHSQT khác với LHSQG. LHSQG điều chỉnh quan hệ giữa người phạm tội với nhà nước, còn LHSQT điêu chỉnh quan hệ giữa các quôc gia với nhau trong quan hệ hợp tác 30 Cudrasev V. H., Sđd, tr. 9. Xem thêm chương Lý luận chung về luật quốc tế. 3 1 Có thể nói các khác biệt này hoàn toàn logic nếu ta tính đến những đặc trưng của luật quốc tế so với luật quốc gia đã được trình bày tại Chương đầu tiên cùa giáo trình này. 176
  • 178. đấu tranh với tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế như đã phân tích ở trên. iii. về bảo đảm thi hành Pháp luật quốc gia nói chung, và luật hình sự của quốc gia nói riêng, được bảo đảm thi hành băng nhiêu biện pháp như giáo dục, thuyết phục và cưỡng chế. Đối với biện pháp cưỡng chế, quốc gia có cả một bộ máy các cơ quan như tòa án, công an, viện kiêm sát đê bảo đảm pháp luật được thi hành. Khác với LHSQG, LHSQT điều chinh quan hệ giữa các quốc gia độc lâp, có chủ quyền, nên không có bộ máy siêu quốc gia để cưỡng chê thi hành. Các quôc gia tham gia thỏa thuận vê các biện pháp để LHSQT được bảo đảm thi hành. Thứ hai, LHSQT có ưu thế so với LHSQG hay, ngược lại, LHSQG có ưu thế so với LHSQT. Theo trường phái nhất nguyên luận, luật quốc tế và luật quốc gia chi là hai bộ phận của một hệ thống pháp luật thông nhât, ưong đó bộ phận này phụ thuộc vào bộ phận kia. Trong trường phái này, có hai hệ quan điểm. Hệ quan điểm thứ nhất cho rằng, luật quốc tế có ưu thế hơn luật quốc gia, đứng lên trên luật quốc gia và chi phối luật quôc gia. Luật quôc gia phải tuân thủ theo luật quôc tê.32 Hệ quan điểm thứ hai hoàn toàn ngươc lai so với hệ quan điểm thứ nhất và cho rằng luật quốc gia đứng lên trên luật quốc tế và chi phối luật quốc tế. Cả hai quan điểm này đều phiến diện. Đặt luật hình sự quốc tể lên trên hay xuống dưới luật hình sự quốc gia đều dẫn đến việc vi phạm hoặc phủ nhận chủ quyền quốc gia.33 về bản chất, quan hệ giữa LHSQT và LHSQG là quan hệ ảnh hưởng, tác động lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển; là điều kiện bảo đảm cho nhau ưong quá trình thực hiện. 32 Pháp luật của nhiều quốc gia thường có quy định: trong trường hợp pháp luật của quốc gia có quy định khác với các quy định của dieu ước quốc tê mà quốc gia đó đã ký kết thì áp dụng các quy định của điều ước quốc tế đó (xem Lucasuk I. I. và Naumob A. V., Sđd, tr. 19). 33 Xem Giảo trình luật quốc tế (1993), Sđd, tr. 21.
  • 179. Thứ nhất, LHSQT và LHSQG cỏ ảnh hưởng lẫn nhau, thúc đẩy nhau phát triển Thực tiễn xây dựng các điều ước quốc tế cho thấy, các nguyên tắc, quy phạm pháp luật hình sự của các quốc gia có ảnh hưởng quan trọng đến việc hình thành quy phạm pháp luật hình sự quốc tế. Sự ảnh hưởng đó thể hiện ở những khía cạnh sau: một số tập quán quốc tế được hình thành từ những nguyên tắc, quy định phổ biến rộng rãi trong luật hình sự của các quốc gia (ví dụ như nguyên tắc không truy cứu hai lần đối với cùng một hành vi phạm tội). Hơn nữa, quan điểm tiến bộ trong luật hình sự của một số quốc gia có ảnh hưởng mang tính dẫn dắt đối với việc xây dựng các quy phạm tương ứng của LHSQT. Ví dụ: các quy định về cấm các hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ nhằm hướng tới việc thủ tiêu chế độ nô lệ ở các quốc gia châu Mỹ vào thế kỷ XIX đã được ủng hộ tại Hội nghị Berlin năm 1885 và được thể hiện trong Tuyên bố chung về chống chế độ nô lệ ờ Congo. Sau này, vào năm 1962, các nước đã ký kết Công ước về chống chế độ nô lệ.34 Có thể nói, một mặt, LHSQG có ảnh hưởng đến việc xây dựng quy phạm pháp luật hình sự quốc tế. Mặt khác, các quy phạm của LHSQT là các chuẩn mực để các quốc gia “cập nhật” pháp luật của mình. Khi nội luật hóa, LHSQG chuyển tải các nội dung của LHSQT; do vậy các quy định tiến bộ của LHSQT được chuyển hóa vào luật quốc gia. Như vậy, LHSQT và LHSQG thâm nhập lẫn nhau, tác động qua lại, thúc đẩy nhau phát triển. Thứ hai, LHSQT và LHSQG là điều kiện đảm bảo cho nhau được thực hiện: Dựa trên quan niệm về chủ quyền, mỗi quốc gia có quyền tối cao về hành pháp, lập pháp và tư pháp trong lãnh thổ của mình. Do đó ưong nhiều trường hợp, luật hình sự quốc tế muốn được thi hành ưên lãnh thổ quốc gia thì phải được chuyên hóa vào luật quốc gia* 1 7 8 34 Cudrasev V. H., Sđd, tr. 19. 178
  • 180. (nội luật hóa).35 Nói cách khác, luật hình sự quốc tế được thi hành trên lãnh thổ quốc gia thông qua luật hình sự của quốc gia.36LHSQG là điều kiện đảm bảo thi hành cho LHSQT. Mặt khác, trong quá trình đâu tranh vói tội phạm xuyên biên giới, có những vấn đề mà nếu không có sự họp tác quốc tế, thì mỗi quốc gia đơn lẻ khó có thể hoặc không thể giải quyết được một cách hiệu quả. Ví dụ, khi kẻ phạm tội lẩn trốn ở nước ngoài, hoặc khi hành vi phạm tội diễn ra trên lãnh thổ của một nước nhưng nhằm xâm hại một nước khác. Trong nhũng trường hợp đó, việc các quốc gia xây dựng và thực hiện tốt các quy phạm về hợp tác quốc tế của LHSQT là điều kiện bảo đảm thực hiện có hiệu quả LHSQG. Như vậy, LHSQT và LHSQG là điều kiện đảm bảo cho nhau được thực hiện. 1.6. Mối quan hệ giữa LHSQT và các nhánh khác của luật quốc tế Do những đặc trưng của LHSQT và do xu hướng liên ngành ngày càng phát triển mạnh, ngày nay, quan hệ giữa LHSQT và các nhánh khác của luật quốc tế ngày càng mật thiết. LHSQT có mối liên hệ mật thiêt với luật quôc tê vê quyên con người, luật tô chức quôc tê, luật về giải quyết Uanh chấp quốc tế, luật kinh tế quốc tế, luật vê 35 Mỗi quốc gia có cơ chế riêng để thực hiện các quy phạm pháp luật hình sự quôc tế. Thông thường, luật quốc gia sẽ quy định các điêu kiện mà quy phạm pháp luật hình sự quốc tế có thể được áp dụng trực tiếp. 36 Xuât phát từ lý do này, trong các điều ước quốc tế vê hình sự, chúng ta thường gặp điều khoàn xác định các hành vi mà các quốc gia thành viên phải coi là tội phạm (phải chuyên hóa vào luật quốc gia). Ví dụ: khoản 1 Điêu 3 cùa Công ước chống buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chât hướng thân vê Tộiphạm và Hình phạt (Offences and Sanctions) đòi hòi các quôc gia thành viên phải áp dụng các biện pháp cần thiết để coi các hành vi đã liệt kê íại khoản này là tội phạm. Điều 5 cùa Công ước chống tôi phạm có tô chức xuyên quốc gia năm 2000 về Tộiphạm hóa các hành vi tham gia vào một tô chức tội phạm (Criminalization ofparticipation in an organized criminal group) đòi hỏi các quôc gia thành viên phải áp dụng biện pháp lập pháp hoặc các biện pháp khác, nếu cần thiết, để coi hàng loạt các hành vi liệt kê trong điều này là tội phạm. 179
  • 181. trách nhiệm pháp lý quốc tế của các quốc gia và tổ chức quôc tê, luật về biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia... Các quy định trong các nhánh khác của luật quốc tế giúp thực hiện tốt các mục đích của LHSQT. Ngược lại, các quy định, giải pháp đưa ra trong LHSQT cũng giúp bảo đảm thực hiện những mục đích đặt ra trong các nhánh khác của luật quốc tế. Một trong các ví dụ để minh họa điều này là bản án của Tòa án Công lý quốc tế của LHQ trong vụ Bosnia Herzegovina kiện Serbia và Montenegro liên quan đến việc áp dụng Công ước về việc phòng ngừa và trừng phạt tội diệt chủng. Năm 2007, khi xét xừ vụ việc này, để đưa ra phán quyết của minh, Tòa án Công lý quốc tế của LHQ đã chấp nhận và sử dụng các tình tiết và kết luận của Tòa án Hình sự quốc tế Yugoslavia. Qua đó, Tòa Công lý quốc tế của LHQ ghi nhận tàm quan trọng của việc tôn trọng phán quyết của Tòa án Hình sự quốc tế Yugoslavia, với tư cách là một phần trong hệ thống định chế bảo vệ quyền con người của LHQ. II. TỘI PHẠM THEO QUY ĐỊNH CỦA LHSQT Xuất phát từ chỗ LHSQT tác động đến nhóm những hành vi xác định, đặc biệt nguy hiểm đối với cộng đồng quốc tế bị coi là tội phạm quôc tê và tội phạm có tính chất quốc tế; khái niệm tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Khái niệm này là cơ sở khoa học thống nhất cho việc xác định ranh giới giữa tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế, tội phạm có tính chất quốc tế và tội phạm có yếu tố “nước ngoài”,37 là cơ sở đê nhận thức và áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật hình sự quôc tê. 37 Theo Giáo trình Luật quốc tế cùa Đại học Luật Hà Nội, khoa học luật quốc tế có sự phân biệt 03 loại tội phạm: tội phạm quốc tế (tội ác quốc tế); tội phạm có tính chất quốc tể (tội phạm xuyên quốc gia); tội phạm hình sự chung (xem Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật quốc tể (2008), Nxb. Công an nhân dân, tr. 333). Thực chất, cụm từ “tội phạm hình sự chung” chựa phát triển thành một khái niệm pháp lý chính thông, nó tạm được sử dụng đê nói vê các tội phạm quy định trong luật hình sự qụôc gia mà không thuộc loại tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chât quôc tê. 180
  • 182. 2.1. Khái niệm tội phạm quốc tế Khái niệm tội phạm quốc tế ra đời như là sự phản ứng lại những hành vi chiến tranh xâm lược; chiếm đóng; hủy diệt loài người - những hành vi dã man, gây đau khổ cho con người, hủy diệt cơ sở vật chất của dân cư hòa bình. Cộng đồng quốc tế lên án những hành vi này và những người đã thực hiện chúng. Các nhà khoa học đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về tội phạm quốc tế; nhưng nhìn chung, quan điểm của họ về tội phạm quốc tế khá thống nhất. Họ đều xuất phát từ thực tế là những tội phạm này thực sự tồn tại. Những định nghĩa của các học già trong hệ thống Liên Xô cũ đều xoáy vào mô tả khách thể xâm hại của TPQT để qua đó làm rõ tính đặc biệt nguy hiểm của loại tội phạm này đối với cộng đồng loài người trên thế giới.38 Tuy nhiên, những định nghĩa này chưa thể hiện được một đặc điểm quan trọng liên quan đến tội phạm quốc tế, đó là trách nhiệm hình sự đối với việc thực hiện tội phạm quốc tế phát sinh không phụ thuộc vào nơi tội phạm được thực hiện. Bât cứ quôc gia nào - không phụ thuộc vào việc tội phạm quốc tế có được thực hiện trên lãnh thổ quốc gia đỏ hay không, người phạm tội có phải là công dân của quốc gia đó hay không, tội phạm có xâm hại đến lợi ích của quốc gia đó hay không, nạn nhân có phải là người của quốc gia đó hay không - đều có thê thực hiện việc điều tra, truy tổ, xét xử người phạm tội trên cơ sở của pháp 38 Ví dụ: Levin D.B. xem tội phạm quốc tế là nhũng hành vi xâm hại đến tự do của các dân tộc yêu chuộng hòa bình, xâm hại đến lợi ích của toàn bộ nhân dân tiến bộ, xâm hại đến cơ sở nền tảng của cộng đồng quốc tế, lợi ích cùa tât cả các quốc gia. Romaskin p.c. coi tội phạm quốc tế là những hành vi xám hại cơ sở nên tảng của các quan hệ quốc tê. Lazarev M.I. coi tội phạm quôc tê là những tội phạm xâm hại sự độc lập cùa mỗi dân tộc và quan hệ hòa bình giữa các dân tộc. Modjorian L.A. coi những tội phạm này là các hành vi xâm hại trực tiếp đến sự tồn tại của các quốc gia, các dân tộc. Trainin A.H. xem tội phạm quốc tế là những tội phạm chống loài nơirời, xâm hại cơ sở tồn tại và phát triên của các quốc gia, dân tộc. Carpetx 1. 1., Sđil tr. 31-2. 181
  • 183. luật quốc tế. Bên cạnh tòa án quốc gia, tòa án hình sự quốc tế cũng có thẩm quyền xét xử loại tội phạm này. Từ góc độ này, các học giả khác đã chỉ ra những đặc điểm của tội phạm quốc tế gồm: tội phạm quốc tế là những hành vi đặc biệt nguy hiểm đối với cộng đồng quốc tế39 và tội phạm quốc tế có thể được điều tra, truy tố, xét xử bởi quốc gia hoặc cơ quan quốc tế.40 Như vậy, nhìn chung, các khái niệm về tội phạm quốc tế đã nêu đều thể hiện một bản chất, đó là tội phạm quốc tế là những hành vi đặc biệt nguy hiểm, xâm hại hòa bình và an ninh quốc tế, có thể bị xét xử bởi quốc gia hoặc tòa án hình sự quốc tế theo các quy định của pháp luật quốc tế. 39 Xem Morten Bergsmo, International criminal jurisdictions (2008) <http://www.uio.no/studier/emner/jus/jus/JUR5710/h08/undervisningsmateria le/Bergsmo.ppt.pdf> at 20 April 2009. Antonio Cassese coi tội phạm quốc tế là những hành vi thỏa mãn các điêu kiện sau: (i) đó là những vi phạm đối với các quy phạm tập quán quôc tế (chúng cũng bao gồm cả vi phạm đối với các quy phạm điều ước quốc tế nếu những quy phạm đó pháp điển hóa hoặc giải thích rõ hơn các tập quán quôc tê hoặc đóng góp vào việc hình thành các tập quán quôc tế); (ii) những quy phạm đã nêu bảo vệ những giả trị được toàn bộ cộng đồng quốc tế coi là quan trọng và những quy phạm đó có hiệu lực ràng buộc đối với tât cả các quôc gia cũng như các cá nhân. Những giả trị này không do các học giả hoặc các nhà triêt lý đê xuât mà được ghi nhận trong hàng loạt các vãn bản quôc tế; (iii) toàn bộ cộng đồng quốc tế quan tâm đến việc đấu tranh với loại tội phạm này. Trong những điều kiện quy định, mọi quốc gia đều có quyền truy cứu và xét xử người phạm tội theo luật pháp quốc tế; (iv) cuối cùng, nếu người phạm tội thực hiện tội phạm trên cơ sở vị trí chức vụ, thì nhà nước mà người này phụng sự không được đòi hỏi quyền miễn trừ dân sự và hình sự đối với người phạm tội, kề cả khi người phạm tội là người đứng đầu nhà nước, bộ trưởng bộ ngoại giao hay các cán bộ đại sứ/lãnh sự. Xem Antonio Cassese, Bđd. Với những dấu hiệu đã nêu, Antonio Cassese liệt kê tội phạm quốc tế bao gồm: tội phạm chiến tranh, tội diệt chủng, tội chống loài người, tội tra tấn dã man, tội chiên tranh xâm lược và một số hành vi khủng bố quốc tế. 40 Xem Antonio Cassese, Bđd. Với những dâu hiệu đã nêu, Antonio Cassese liệt kê tội phạm quốc tế bao gồm: tội phạm chiến tranh, tội diệt chủng, tội chống loài người, tội tra tấn dã man, tội chiến tranh xâm lược và một số hành vi khùng bố quốc tê. 182
  • 184. Quy chế Tòa án Quân sự Nuremberg được coi là văn bản pháp luật quốc tế đầu tiên pháp điển hóa các tội phạm quốc tế. Theo Điều 6 của Quy chế này, tội phạm quốc tế bao gồm: tội phạm chống hòa bình, tội phạm chiến tranh và tội phạm chống loài người. Sau đó, với Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm 1948, tội phạm quốc tế đã được mở rộng, bao gồm tội diệt chủng. Hiện nay, theo Điều 9 Phần II của Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế năm 1998, thì tội phạm quốc tế bao gồm: tội phạm diệt chủng, tội phạm chống loài người, tội phạm chiến tranh và tội phạm xâm lược. 2.2. Khái niệm tội phạm có tính chất quốc tế Bên cạnh các tội phạm quốc tế như đã phân tích ở trên, LHSQT còn tác động đến một nhóm tội phạm khác, mà các học giả, các nhà nghiên cứu gọi là tội phạm có tính chất quốc tế hay tội phạm xuyên quốc gia hay tội phạm điều ước. Trong lĩnh vực khoa học nghiên cứu về LHSQT, việc đạt đến một khái niệm thống nhất là tương đối khó khăn; bời vì xuất phát từ những nền tảng xã hội, kinh tế, chính trị, văn hóa khác nhau, trình độ và nhận thức pháp lý cũng khác nhau. Chính vì vậy, việc tồn tại nhiều tên gọi khác nhau đối với nhóm tội phạm này là một điều dễ hiểu. Trong sổ các tên gọi đã nêu, tên gọi “tội phạm xuyên quốc gia” đang ngày càng được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý răng các tài liệu khoa học trước đây của Nga và các nước trong Liên bang Xô viết cũ thường gọi nhóm tội phạm này là “tội phạm có tính chất quốc tế”. Một số tài liệu của Việt Nam hiện nay vẫn sử dụng khái niệm “tội phạm có tính chất quốc tế”. Các chuyên gia về LHSQT đều cho rằng tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tể khác nhau sâu sắc về tính 183
  • 185. phi nghĩa và sự nguy hiểm cho cộng đồng loài người.41 Các định nghĩa đâu tiên về tội phạm có tính chất quốc tế cũng tập trung vào việc làm rõ khách thể xâm hại của loại tội phạm này đê qua đó chỉ ra sự khác biệt của loại tội phạm này với tội phạm quôc tê. Tuy ngôn ngữ sử dụng khác nhau, nhưng nhìn chung các định nghĩa này đều cho ràng tội phạm có tính chất quốc tế xâm hại quan hệ bình thường giữa các quốc gia, xâm hại trật tự pháp luật của các quôc gia.42 Trong một báo cáo của ủy ban Thư ký LHQ về điều tra hoạt động của các hệ thông tư pháp hình sự liên quan đến tội phạm có tính chất quốc tế, tội phạm có tính chất quốc tế được xác định là “những tội phạm mà việc thực hiện, hoạt động phòng ngừa và/hoặc hậu quà trực tiếp hoặc gián tiếp của chúng liên quan đên nhiêu hơn một quốc gia”.43 Định nghĩa này đã làm rõ tính “xuyên quôc gia” của loại tội phạm này 41 Blum M.U. coi nhóm tội phạm này là tội phạm xâm hại trật tụ pháp luật quốc tệ. Ông viết: “tội phạm quốc tế và tội phạm xâm hại trật tự pháp luật quốc tế khác nhau sâu sắc vê tính phi nghĩa, tính nguy hiểm cho số phân hòa bỉnh của nhân loại”. Xem Carpetx I. I, Sđd, tr. 43. 42 Ví dụ, Giáo sư Cartpetx J.I. định nghĩa: “Tội phạm có tính chất quốc tế là những hành vi được quy định trong các điều ược quốc tế, không thuộc nhóm tội phạm chống loài người, nhưng xâm hại đến sự phát triển quan hệ bình thườnẹ giữa các quốc gia, gâỵ tôn hại cho sự hợp tác quốc tế ở các lãnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, tài^sản cùa các quốc gia cũng như các tổ chức công dân và bị trừng phạt theo điêu ược quôc te được phê chuẩn theo trình tự chung hoặc theo các qụy đinh cua phap luật hình sự quốc gia phù hợp với những điều ước quốc tế nàỵ”(xem Carpetx I. I, Sđd, tr48. Định nghĩa này cua GS Cartpetx được một số học giả ùng hộ và sử dụng trong các tài liệu nghiên cứu của họ, ví dụ: xem Lucasuk I. I. vậ Naumob A. V., Luật hình sự quốc tế 0Sđd), tr. 102). Theo Gardoski, khách thê xâm hại cùa các tội phạm có tính chất quốc tế là trật tự pháp luật của quốc gia, lợi ích cùa cộng đồng quốc tế (Xem Giáo trình Luật quốc tế (2008), Sđd, tr. 334 và 336 vắ Nguyễn Thị Thuạn Sđd tr. 43.). 43 “Results of the supplément to the Fourth United Nations Survey of Crime Trends and Operations of Criminal Justice Systems on Transnational Crime (Intérim report by the Secrétariat),” United Nations April 4, 1995. 184
  • 186. (nghla la lien quan den hai quoc gia trd len). Tuy nhien, djnh nghia nay chua phan anh du cac dac diem cua loai toi pham nay. Co the thay rang toi pham quoc te cung lien quan den hai quoc gia trd len, va cung thoa man djnh nghia da neu. Toi pham co tinh chat quoc te xam hai d6n trat tu phap luat cua cac quoc gia, anh hudng tieu cue d£n ddi song cua cong dong quoc te nhung khong den miic nghiem trong nhu toi pham quoc te; do vay quyen tai phan doi vdi loai toi pham nay chi thuoc ve toa an quoc gia. Cac toa an hinh sir quoc te khong xet xu cac toi pham co tinh chat qu6c td. Xuat phat tir su khac biet nay, mot so hoc gia da chi ra cac dac diem cua toi pham co tinh chat quoc te nhu sau: toi pham co tinh chat quoc te la nhung hanh vi duac toi pham hoa mot each quoc te; toi pham co tinh chat quoc t! dugc dieu tra, truy t6, xet xu bdi quoc gia; cac quoc gia khong truy to toi pham co nghia vu dan do nguai pham toi.44 Voi dac dilm “duac toi pham hoa mot each quoc te”, cac toi pham co tinh chat qude t6 dugc ghi nhan trong cac dieu uac quoc ti; do vay tdt ca cac qu6c gia thanh vien cua dieu uac do phai quy dinh trong luat hinh su cua ho la toi pham. Day cung chinh la mot didm khac biet giua tgi pham co tinh chat quoc te vdi toi pham noi chung; bdi vi xuat phat tir su khac biet ve kinh te, van hoa, chinh tri, xa hoi; mot hanh vi bi coi la toi pham d nude nay co thl khong b} coi la toi pham d nude khac. Tir nhung phan tich da neu co the thiy: toi pham co tinh chat quoc te la nhung hanh vi nguy hiem, xam hai trat tu phcip luat cua cac quoc gia, duac quy dinh trong cac diiu ifoc quoc te va bi trung phat bdi quoc gia theo cac quy dinh cua luat hinh su quoc gia phii hqp vdi nhung diiu ude nay. 44 Morten Bergsmo, International criminaljurisdictions (2008) <http://www.uio.no/studier/emner/jus/jus/JUR5710/h08/undervisningsmater'a le/Bergsmo.ppt.pdf> at 20 April 2009. 185
  • 187. 2.3. Phân biệt tội phạm quốc tế vói tội phạm có tính chất quốc tế Các nhà nghiên cứu phân biệt tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế theo nhiều tiêu chí khác nhau. Một số nguời cho ràng sụ khác nhau cơ bản giữa tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế là mức độ nguy hiểm của các loại tội phạm này. So với tội phạm có tính chất quốc tế, tộỉ phạm quốc tế có mức độ nguy hiểm cao hơn vì chúng xâm hại đến hòa bình và an ninh quốc tế.45 Có quan điểm cho rằng hai loại tội phạm này khác nhau ở khách thể xâm hại và sụ hiện diện của nhà nuớc trong việc thục hiện tội phạm, về khách thể, tội phạm quốc tế xâm hại đến cơ sở tồn tại của xã hội loài nguời; trong khi tội phạm có,tính chất quốc tế xâm hại đến những khách thể thuờng gặp trong luật hình sụ quốc gia, ví dụ nhu: quan hệ sở hữu, tính mạng, sức khỏe của con nguời trong tội cuớp biển.46 Ngoài ra, tội phạm quốc tế thuờng đuợc thục hiện bởi những cá nhân mà hành vi của họ là hành vi của nhà nuớc hay đứng sau họ là nhà nuớc. Nói cách khác, đa số tội phạm quốc tế đuợc thục hiện với sụ tham gia trục tiếp hoặc gián tiếp của nhà nuớc. Sụ tham gia cùa nhà nuớc trong việc thục hiện tội phạm quốc tế có thể là trục tiếp, nghĩa là khi tội phạm đuợc thực hiện bởi nguời đứng đầu nhà nuớc hoặc những nguời đại diện cho các cơ quan của nhà nuớc. Sự tham gia của nhà nuớc trong việc thực hiện tội phạm quốc tế cũng có thê là gián tiêp, nghĩa là khi nhà nuớc dung túng cho việc 45 Tuy nhiên, không phải tất cả các học giả đều đồng ý với quan điểm này vì họ cho răng nêu xét theo tiêu chí này thì sẽ không có ranh giới rõ ràng giữa hai phạm trù đã nêu. Ví dụ tội phạm khủng bô, buôn bán bất hợp pháp ma túy và các chất hướng thần, buôn bán người... cũng rất nguy hiểm. Hon nữa, có thể xuất hiện những hành vi mọi bị coi là tội phạm quốc tế và những tội phạm xuyên quốc gia có thê thay đôi mức độ nguy hiểm, từ nhóm tội phạm này chuyển sang nhóm tội phạm khác. 46 Xem Blisenco I. P. và Fixenco I. p., Sđd, tr. 31. 186
  • 188. thực hiện tội phạm, không áp dụng những biện pháp trong thẩm quyền của mình để ngăn chặn tội phạm. Tội phạm quốc tế và tội phạm có tính chất quốc tế khác nhau ở khách thể xâm hại, hình thức pháp lý, thẩm quyền tài phán và luật áp dụng để xét xử. Cụ thể, đối với tội phạm quốc tế, khách thể mà loại tội phạm này xâm hại là hòa bình và an ninh quốc tế. Các tội phạm này đuợc xác lập trong các tập quán quốc tế và các điều ước quốc tế pháp điển hóa hoặc giải thích rõ hơn các quy phạm tập quán quốc tế. Tòa án quốc gia hoặc tòa án hình sự quốc tế có thẩm quyền tài phán đối với loại tội phạm này và luật áp dụng để xét xừ là luật hình sự quốc tế hoặc luật hình sự của quốc gia liên quan. Đổi với tội phạm có tính chất quốc tế, khách thể mà loại tội phạm này xâm hại là trật tự pháp luật của các quốc gia. Các tội phạm này được quy định trong các điều ước quốc tế. Quyền tài phán đối với các tội phạm có tính chất quốc tế chỉ thuộc về tòa án quốc gia và luật áp dụng là luật hình sự quốc gia phù hợp với các điều ước quốc tế quy định về những tội phạm này. III. TRÁCH NHIỆM HÌNH s ự QUÓC TÉ CỦA CÁ NHÂN ĐÓI VỚI TỘI PHẠM QUỐC TÉ 3.1. Sơ lược về lịch sử phát triển của chế định trách nhiệm hình sự quốc tế của cá nhân đối vói tội phạm quốc tê Trước Chiến tranh thế giới lần thứ II, vấn đề trách nhiệm hình sự quốc tế của cá nhân đã được đề cập nhiều lần trong khuôn khổ hợp tác quốc tế đa phương và toàn cầu, nhưng không đạt được kết quả. Cụ thể là sau Chiến tranh thế giới lần thứ I, các nước đã ký kết Hiệp ước hòa bình Versailles ngày 28/6/1919, trong đó buộc tội Hoàng đế Đức William đệ nhị đã thực hiện những tội phạm xâm hại đạo đức quốc tế và hiệu lực của các điều ước quốc tế. Hiệp ước ghi nhận việc thành lập tòa án để xét xử Hoàng đế William đệ nhị với 5 thẩm phán do Mỹ, Anh, Pháp, Ý và Nhật Bản đề cử và yêu cầu 187
  • 189. Đức phải chuyên giao vị Hoàng đế này cho tòa án. Hiệp ước hòa bình Versailles 1919 cũng cho phép các nước thắng trận được quyên kêt án các cá nhân thực hiện tội phạm chiến tranh. Tuy nhiên, trên thực tê, tòa án đã không thành lập được, Hoàng đê này đã không bị kết án (ông được Hà Lan cho tỵ nạn chính tri) và những người thực hiện tội phạm chiến tranh được xét xử rât khoan hông.47 Trong thời gian diễn ra Chiến tranh thê giới lân thứ II, băng Tuyên bố Moscow năm 1943, các cường quôc trong khôi đông minh chống phát xít đã khẳng đinh trách nhiệm hình sự quôc tế của các cá nhân thực hiện tội ác chiến tranh thuộc khối trục phát xít. Trong Tuyên bố này, Liên Xô, Mỹ và Anh thay mặtvcho 32 quốc gia chống phát xít tuyen bo: cac thành viên lực lượng vũ trang của nước Đức và thành viên đảng quôc xã phải gánh chịu trách nhiệm đối với việc thực hiện các tội ác dã man hoặc tham gia vào việc thực hiện các tội ác này, họ phải bị dẫn độ về quốc gia nơi thực hiện tội phạm đê xét xử theo luật của quốc gia đó. Tuyên bố này cũng ghi nhận việc kết án các cá nhân phạm tội nghiêm trọng dựa trên luật quôc tế. Đây là các trường hợp mà hành vi tội ác không giới hạn trên phạm vi lãnh thổ một quốc gia. Mức án sẽ được xác định bời một quyết định chung của chính phủ các quốc gia đồng minh chống phát xít. Hiệp ước Postdam năm 1945 đã chấp nhận các nguyên tăc của Tuyên bô Moscow và quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên phải thông báo danh sách bị cáo trước ngày 01/09/1945. Dựa trên cơ sở của Tuyên bố Moscow và Hiệp ước Postdam. ngày 08/08/1945, Anh, Pháp, Mỹ và Liên Xô đã ký Hiệp ước London về trừng trị các cá nhân thuộc khối trục phát xít thực hiện chiến tranh tại châu Ảu. Đây là văn bản 47 Gerhald Werle, Principles of International Criminal Law (second edition), T.M.C Asser Press, 2009, tr. 4-5 và Nguyên Thị Thuận, Sđd, tr. 220-1. 188
  • 190. pháp lý quốc tế thành lập Tòa án Quân sự Nuremberg năm 1945. Tòa án Nuremberg đã kết án và buộc những cá nhân đã thực hiện các tội phạm chiến tranh, tội phạm chống loài người và tội phạm chống hòa bình phải gánh chịu trách nhiệm hình sự. Sự kiện này là một dấu mốc quan trọng trong chế định trách nhiệm hình sự quốc tế của cá nhân. Sau Tòa án Nuremberg, một số công ước quốc tế đã được ký kêt, mở rộng phạm vi họp tác quốc tế trong việc đấu tranh với các tội phạm quốc tế, ví dụ Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng năm 1948, Công ước về chống phân biệt chủng tộc năm 1965. Năm 1973, LHQ đã thông qua Nghị quyết 3047 (XXVIII) ghi nhận các nguyên tắc hợp tác quốc tế trong vân đê truy tìm và trừng phạt các cá nhân thực hiện tội phạm chiên tranh và tội phạm chông nhân loại. Trong xu thế đó, năm 1993, Hội đồng Bảo an LHQ đã thông qua Nghị quyết số 827 thành lập tòa án hình sự quốc tê xét xử các cá nhân có hành vi xâm hại nghiêm trọng luật nhân đạo quôc tê thực hiện trên lãnh thổ Yugoslavia. Năm 1994, bằng Nghị quyết số 995, Hội đồng Bào an LHQ đã thành lập tòa án hình sự quốc tế để truy tố và xét xử các cá nhân thực hiện tội phạm diệt chủng và có các hành vi khác xâm phạm luật nhân đạo quốc tế thực hiện trên lãnh thổ Rwanda. Căn cứ vào hai nghị quyết này, Tòa án Hình sự quốc tế Yugoslavia được thành lập năm 1993 và Tòa án Hình sự quốc tế Rwanda được thành lập năm 1994. Thành công gần đây nhất cùa cộng đồng quốc tể là việc thành lập Tòa án Hình sự quốc tế thường trực tại La Haye (Hà Lan). Tòa án này có thẩm quyền xét xử đôi với các cá nhân thực hiện tội phạm chiến tranh, tội phạm chống loài người, tội phạm diệt chủng và tội phạm xâm lược. Chủ thê của trách nhiệm hình sụ quốc tế là cá nhân - con người cụ thê đã thực hiện tội phạm. Tương tự như trong luật 189
  • 191. pháp của tất cả các quốc gia,48 luật hình sự quốc tế cũng xác định độ tuổi tối thiểu của những cá nhân phải gánh chịu trách nhiệm hình sự quốc tế. Điều 26 của Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế năm 1998 quy định: “Tòa án này không có thẩm quyền xét xử đối với những người dưới 18 tuổi vào thời diêm thực hiện tội phạm". Điều này có nghĩa là chỉ những cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên, xét vào thời điểm thực hiện tội phạm, mới có thể bị Tòa án này buộc gánh chịu trách nhiệm hình sự quốc tế. 3.2. Các nguyên tắc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm quốc tế Các nguyên tắc về trách nhiệm hình sự được thừa nhận rộng rãi trong pháp luật hình sự của các quốc gia đều được ghi nhận và áp dụng trong việc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm quốc tế, ví dụ: nguyên tắc hành vi; nguyên tắc cỏ lỗi; nguyên tắc trách nhiệm cá nhân; nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm.49 Ngoài ra, LHSQT còn quy định một số nguyên tắc đặc thù trong việc xác định trách nhiệm hình sự đối với tội phạm quốc tế, như: nguyên tắc “vị trí chức vụ của cá nhân không giải phóng cá nhân khỏi trách nhiệm hình sự và vị trí chức vụ của cá nhân cũng không được xem là tình tiết giảm nhẹ trong quyết định hình phạt”; nguyên tắc “trách nhiệm hình sự của người chỉ huy hay người có chức vụ cao”.50 Liên quan đến vấn đề trách nhiệm hình sự đối với tội phạm quốc tế, cần đề cập đến các nguyên tắc của LHSQT về loại trừ trách nhiệm hình sự. Tương tự như luật hình sự của nhiều quốc gia, LHSQT quy định các căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân đôi với việc thực hiện một tội 48 Theo Kibalnhik, không ỡ đâu là không quy định giới hạn độ tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự. Xem Kibalnhik A. G., Sđd, tr. 30. 49 Cudrasev V. H., Sđd, tr. 63. , , 50 Xem các nguyên tắc này trong mục 1.3 vê các nguyên tăc cùa LHSQT. 190
  • 192. phạm quốc tế gồm: phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, bị bệnh tâm thần, bị say/nhiễm độc. Điều 31 Phần III (Các ngnvên tắc chung của luật hình sự) của Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế năm 1998 quy định cụ thể các căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự như sau: - Phòng vệ chinh đáng: một người hành động hợp ỉý để bảo vệ mình hoặc một người khác, hoặc trong trường hợp tội phạm chiến tranh, để bảo vệ tài sản thiết yếu cho sự sống của người đó hoặc người khác, hoặc tài sản thiết yếu cho việc thực hiện nhiệm vụ quân sự; chổng lại việc sử dụng vũ lực một cách bất hợp pháp và ngay lập tức, một cách tương xứng với mức độ nguy hiểm đang đe dọa người đó, người khác hoặc tài sản được bảo vệ. - Tình thế cấp thiết: một người thực hiện hành vi do: (i) có sự đe dọa ngay lập tức về cái chết đối với người đó hoặc người khác; (ii) có sự đe dọa bị xâm hại nghiêm trọng ngay lập tức cơ thê người đó hay người khác hoặc đe dọa tiêp tục bị xâm hại nghiêm trọng cơ thể người đó hay người khác; và người đó hành động một cách cần thiết và hợp lý để tránh sự đe dọa này với điều kiện là người đó không định gây ra một thiệt hại lớn hơn thiệt hại mà người đó tránh. Sự đe dọa có thê là do người khác thực hiện hoặc những hoàn cảnh/điêu kiện nằm ngoài sự kiểm soát của người đó. - Bị bệnh tâm thần: một người bị bệnh tâm thần hoặc bị khuyết tật mà không có khả năng nhận thức tính hợp pháp hoặc bàn chất của hành vi của mình hoặc không có khả năng kiểm soát hành vi của mình để phù hợp với yêu cầu của pháp luật. - Bị say/nhiềm độc: một người ở trong tình trạng say/nhiễm độc và không có khả năng nhận thức tính hợp pháp hoặc bản chất của hành vi của mình hoặc không có khả năng 191
  • 193. kiểm soát hành vi của mình để phù hợp với yêu cầu của pháp luật. Không loại trừ trách nhiệm hình sự đối với trường hợp một người tự nguyện để mình bị say/nhiễm độc trong những hoàn cảnh mà người đó biêt, hoặc bỏ qua những sự nguy hiêm; và với kết quả của việc bị say/nhiễm độc, người này đã thực hiện tội phạm.51 về các hình thức của trách nhiệm hình sự quốc tế của cá nhân, các công ước đấu tranh với tội phạm quốc tế phân biệt 4 hình thức trách nhiệm hình sự quốc tế gồm: (i) tử hình,52 (ii) phạt tù, (iii) phạt tiền, và (iv) tịch thu tài sản do phạm tội mà có. Trong đó, phạt tiền và tịch thu tài sản là những hình thức bổ sung, có'thể áp dụng cùng với phạt tù (tạm gọi là hình phạt bổ sung), về hình phạt tù, theo quy định tại Quy chế Tòa án hình sự quốc tế năm 1998, có hai mức có thể áp dụng: (i) tù có thời hạn với mức tối đa là 30 năm, và (ii) tù chung thân.53 về phạt tiền, Quy chế không ấn định các mức cụ thể, tòa án định đoạt mức phạt phù hợp với các quy tắc tố tụng ghi nhận tại Quy chế về thủ tục và chứng cứ {Rules o f Procedure and Evidence). IV. THẨM QUYỀN XET x ử TỘI PHẠM THEO LHS QT Tội phạm quốc tế (hay còn gọi là tội ác quốc tế) được coi là có mức độ nghiêm trọng hơn tội phạm có tính chất quốc tế, vì vậy LHSQT đã phân hóa những quy định khác nhau về thẩm quyền xét xử đối với hai nhóm tội phạm này. 51 Cần luu ý là trong quá trình xét xử Tòa án có thể áp dụng những căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự khác nhưng phải tuân thù các quỵ định về áp dụng luật và các quy định về quy tắc tố tụng. Xem khoản 3 Điều 31 Phần III cùa Quy chế Tòa án Hình sự qụốc tế năm 1998. _ 5- Lưu ý là trong Ọuy chế tòa án hình sự quôc tế năm 1998 không còn quy định hình phạt từ hình (xem Điều 77 cùa Quy chê này). 53 Xem khoản 1 Điều 77 cùa Quy chế tòa án hình sự quốc tế năm 1998. 192
  • 194. 4.ỉ. Thẩm quyền xct xử tội phạm quốc tế Thông thường, một quốc gia xác lập quyền tài phán hình sự đối với tội phạm căn cứ vào những mối liên hệ nhất định giữa quốc gia với tội phạm. Ví dụ: quốc gia xác lập quyền tài phán đối với tội phạm vì: (i) tội phạm xảy ra trên lãnh thổ của quôc gia đó (nguyên tăc lãnh thô, còn gọi lờ nguyên tăc lãnh thô chủ động); (ii) vì người phạm tội là công dân của quôc gia đó {nguyên tẳc quốc tịch chù động); (iii) vì nạn nhân là công dân của quốc gia đó {nguyên tắc quốc tịch bị động); (iv) vì tội phạm xâm hại lợi ích của quốc gia đó hoặc hướng đên xâm hại lợi ích của quốc gia đó {nguyên tắc an ninh quôc gia hay còn gọi là nguyên tắc bị xâm hại hay nguyên tăc lãnh thô bị động). Trước đây, theo truyền thống, các quốc gia không xác lập quyên tài phán đối với tội phạm nêu không có bât cứ một trong những mối liên hệ nào với tội phạm như liệt kê trên đây. Tuy nhiên, vì tội phạm quốc tế là loại tội phạm đặc biệt nguy hiêm, xâm hại nghiêm trọng đến quyên lợi sông còn của cộng đông quốc tế, đe dọa an ninh và hòa bình thế giới; cho nên các quốc gia đã thấy rõ sự cần thiết phải đưa những kẻ phạm tội ra trước công lý, trừng phạt và răn đe để phòng ngừa chung. Với khẳng định về trừng trị các tội phạm quốc tế, trong các điêu ước quốc tế liên quan, các quốc gia đã xâv dựng một căn cứ mới để xác lập quyền tài phán đối với tội phạm quôc tê, đó là nguyên tẳc thầm quyền phổ cập {universaljurisdiction). Theo nguyên tắc này, tất cả các quốc gia liên quan đêu có quyền sử dụng các biện pháp cần thiết đê xác lập thâm quyên xét xử hình sự đối với tội phạm quôc tê mà không cân viện dẫn đến nguyên tắc lãnh thổ hoặc nguyên tắc quôc tịch (chủ động hoặc bị động) hoặc nguyên tắc an ninh quôc gia. Nguyên tắc phổ cập cho phép quốc gia, nơi người phạm tội đang hiện diện, thực hiện quyền tài phán đôi với người phạm tội, nếu không dẫn độ người phạm tội 193
  • 195. Ngoài việc một quốc gia cụ thể có thể xác lập quyên tài phán đối với tội phạm quốc tế; các quốc gia còn thống nhât với nhau về việc thành lập các tòa án quốc tế để xét xử những tội phạm này. Tòa án Hình sự quốc tễ có thể được thành lập theo vụ việc (ad hoc), như Tòa án Quân sự Nuremberg, Tòa án Hình sự quốc tế Yugoslavia và Rwanda. Năm 1998, các quốc gia thống nhất thành lập Tòa án Hình sự quôc tế thường trực có trụ sở đóng tại La Haye (Hà Lan). Tòa án này có thẩm quyền xét xử đối với tội phạm chiến tranh, tội phạm diệt chủng, tội phạm chống loài người, tội phạm xâm lược. Tòa án có thể xác lập và thực hiện quyên tài phán đôi với vụ việc khi: - Vụ việc do một nước thành viên chuyển đến công tố viên hoặc do công tô viên trực tiêp khời xướng điêu tra; và một hoặc một số quốc gia liệt kê dưới đây là thành viên của Qụy chê hoặc tuy không là thành viên của Quy chế nhưng chấp nhận quyên tài phán của Tòa án: + Quốc gia nơi có tội phạm xảy ra (nghĩa là tội phạm xảy ra trên lãnh thô của quôc gia đó, hoặc tội phạm xảy ra trên tàu biên hoặc tàu bay đăng ký tại quốc gia đó); + Quốc gia mà người phạm tội là công dân. - Vụ việc do Hội đồng Bảo an LHQ chuyển đến công tố viên theo quy định tại Chương 7 của Hiến chương LHQ.54 Trên thực tế, từ sau Chiến tranh thế giới thứ II đến nay, một số tòa án hình sự quốc tế và tòa án hình sự quốc gia đã xét xử tội phạm quốc tế. 4.2. Thẩm quyền xét xử tội phạm có tính chất quốc tế Khác với tội phạm quốc tế, tội phạm có tính chất quốc tế không phải là đối tượng giải quyêt tại các tòa án hình sự quốc tế. Nhóm tội phạm này hoàn toàn thuộc quyên tài phán hình sự* 1 9 4 54 Xem Điều 13, 14 Quy chế tòa án hình sự quốc tế 1998. 194
  • 196. của quốc gia. Toàn bộ quá trình xét xử được tiến hành tại tòa án quốc gia có thẩm quyền và theo pháp luật quốc gia. Tuy nhiên, xuất phát từ tính chất nguy hiểm của nhóm tội phạm này, các điều ước quốc tế đã xây dựng một số quy định yêu câu các quôc gia liên quan phải xác lập quyên tài phán đôi với tội phạm, trường hợp không xác lập quyên tài phán đôi với tội phạm thì phải dẫn độ người phạm tội để quốc gia khác thực hiện việc xét xử {aid dedere aid judicare). Điêu này cho thây răng các điêu ước quốc tế đấu tranh với các tội phạm có tính chất quốc tế đã cổ gắng đưa ra những quy định nhằm bảo đảm công lý được thực hiện một cách trọn vẹn và đây đủ, tội phạm phải bị trừng trị cho dù được thực hiện ở nơi nào, ai là người thực hiện, nhàm chống lại quốc gia hoặc cá nhân nào. Nhìn chung, các điều ước quốc tế đấu tranh với tội phạm có tính chất quốc tể viện dẫn các nguỵên tăc sau đây đê yêu cầu các quốc gia liên quan xác lập quyến tài phán đối với tội phạm: 4.2.1. Nguyên tắc lãnh thỏ Nguyện tấc lãnh thổ đã hình thành lâu đời trong tập quán quốc tế và được thừa nhận rộng rãi; nó phản ánh mối liên hệ rõ rệt nhât giữa quốc gia với tội phạm, phản ánh chủ quyên quốc gia. Vì vậy, nguyên tắc này thường được viện dẫn đầu tiên trong các điều ước quốc tế đấu tranh với tội phạm có tính chất quốc tế, và được coi là căn cứ mà các quốc gia buộc phải xác lập quyền tài phán đối với tội phạm (mandatory jurisdiction). Theo nguyên tắc này. các quốc gia mà tội phạm thực hiện trên lãnh thô của họ phải thực hiện những biện pháp cân thiêt đê xác lập quyền tài phán đối với tội phạm, vấn đê "như thê nào được coi là tội phạm thực hiện trén lãnh thổ cùa qụốc giạ” sẽ được giải thích theo pháp luật quốc gia. Đối với nhiều quốc gia, tội phạm được coi là thực hiện trên lãnh thổ của họ khi một trong các giai đoạn của tội phạm thực hiện trên lãnh thô của quôc gia đó (kê cả lãnh thô mở rộng như tàu bay, tàu biên). 195
  • 197. 4.2.2. Nguyên tắc quốc tịch chủ động Nguyên tắc quốc tịch chủ động cũng đã hình thành lâu đời, dựa trên mối quan hệ pháp lý giữa quốc gia và người thực hiện tội phạm. Nguyên tắc này đã được thừa nhận rộng rãi, do vậy cũng được ghi nhận trong các điều ước đấu tranh với tội phạm có tính chất quốc tế. Theo nguyên tẳc này, các quốc gia mà người thực hiện tội phạm là công dân có thể thực hiện những biện pháp cần thiết để xác lập quyền tài phán đối với tội phạm (trong nhiều trường hợp việc áp dụng nguyên tắc này mở rộng đến quốc gia mà người thực hiện tội phạm thường trú). 4.2.3. Nguyên tắc quốc tịch bị động Nguyên tắc quốc tịch bị động không phổ biến bằng hai nguyên tắc vừa nêu; nhưng để đấu tranh triệt để với tội phạm, nhiều điều ước quốc tế “yêu cầu” các quốc gia mà nạn nhân của tội phạm là công dân thực hiện những biện pháp cần thiết để xác lập quyền tài phán đối với tội phạm. Tuy nhiên, vì nguyên tắc này ít phổ biến, nên các điều ước thường bổ sung thêm một quy định mang tính dung hòa, đó là các quốc gia có thể xác lập quyền tài phán đối với tội phạm trên cơ sở của nguyên tắc này; nếu hiến pháp, các nguyên tắc chung và các quy định cụ thể của quốc gia đó cho phép. 4.2.4. Nguyên tắc an ninh quốc gia (nguyên tắc bị xâm hợi) Nguyên tắc bị xâm hại cũng không phải là căn cứ phổ biến để các quốc gia xác lập quyên tài phán hình sự đối với tội phạm. Do vậy, nhiều điêu ước quôc tế đấu tranh với tội phạm có tính chất quốc tế ghi nhận nguyên tắc này như một căn cứ để các quốc gia xác lập quyên tài phán đối với tội phạm nếu hiến pháp, các nguyên tắc chung và các quy định cụ thể của quốc gia đó cho phép. 196
  • 198. Ngoài 4 nguyên tắc nêu trên, một số điều ước còn ghi nhận các căn cứ đặc thù để các quốc gia xác lập quyền tài phán đối với tội phạm. Ví dụ: Công ước về trừng phạt các hành vi bất hợp pháp Je dọa an toàn hành trình hàng hải năm 1988 (Điều 6) ghi nhận thẩm quyền tài phán của quốc gia mà hành vi tội phạm được thực hiện nhăm ép buộc quôc gia đó phải thực hiện hoặc không thực hiện bất kỳ hành vi nào. Công ước về chổng buôn bán bất hợp pháp ma tủy và các chát hướng thần năm 1988 (Điều 17(4)) ghi nhận: khi một quốc gia có căn cứ đê nghi ngờ tàu biên mang cờ của quôc gia khác tham gia vào việc buôn bán trái phép ma túy khi thực hiện quyên đi lại tự do trên biển cả, dựa trên sự thỏa thuận với quôc gia mà tàu biển mang cờ, quốc gia này có thể tiến hành một sô biện pháp ngăn chặn như tiếp cận tàu, khám xét người và hàng hóa trên tàu. Tiếp theo, theo Điều 4(l)(b)(ii), nếu xác định có hành vi phạm tội về ma túy, dựa trên sự thỏa thuận với quôc gia mà tàu biên mang cờ, quốc gia đã khám xét có thê xác lập quyền tài phán đối với tội phạm thực hiện trên tàu. Quy định này được đánh giá cao vì mở ra một căn cứ mới cho các quôc gia trong việc xác lập quyền tài phán đôi với tội phạm. Yêu tô thỏa thuận giữa quốc gia đã thực hiện các biện pháp ngăn chặn với quôc gia mà tàu biển mang quôc tịch là rât quan trọng. Quốc gia phát hiện ra tàu biển tham gia vào buôn lậu chỉ có thể tiếp cận tàu, tiến hành các biện pháp ngăn chặn và xác lập quyền tài phán đối với tội phạm trên cơ sở thỏa thuận với quôc gia tàu biển mang cờ. Ngoài ra, nguyên tắc thẩm quyền phổ cập cũng được một sô điêu ước đấu tranh với tội phạm có tính chât qụôc tê ghi nhận như là cơ sở pháp lý bổ sung trong việc thiết lập thâm quyên tài phán của quốc gia bên cạnh những nguyên tăc khác. Ví dụ: Công ước thống nhất về các chât ma túy năm 1961 (Điều 36(2)(a)(iv)) ghi nhận: căn cứ vào hiên pháp, các nguyên tăc chung và các quy định pháp luật cụ thê của quôc gia, quốc gia nơi tìm thấy người phạm tội có thể xác lập quyên 197
  • 199. tài phán đối với tội phạm nếu không dẫn độ người phạm tội); Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia năm 2000 (Điều 15(4)) quy định: các quốc gia có thể áp dụng những biện pháp cần thiết để xác lập quyền tài phán đối với tội phạm quy định trong Công ước này khi người thực hiện tội phạm hiện diện ở quốc gia đó, mà quốc gia không dẫn độ người phạm tội). Tóm lại, để những người thực hiện tội phạm quốc tể và tội phạm có tính chất quốc tế không thoát khỏi bị trừng phạt, các điều ước quốc tế đã ghi nhận nhiều căn cứ để các quốc gia xác lập quyền tài phán đối với tội phạm. Ngoài ra, các điều ước thường áp dụng công thức “xét xử hoặc dẫn độ” để yêu cầu quốc gia nơi người phạm tội hiện diện, thực hiện việc xét xử hoặc dẫn độ người phạm tội cho quốc gia khác xét xử. Đây là một thành tựu quan trọng của hợp tác quốc tế trong cuộc đấu tranh với tội phạm. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là vì nhiều quốc gia có thể xác lập quyên tài phán đối với một tội phạm cụ thể, tranh chấp về quyên tài phán có thể xảy ra. Điều đáng tiếc là các điều ước đấu tranh với tội phạm có tính chất quốc té hiện nay chưa đưa ra các nguyên tắc giải quyết tranh chấp về quyền tài phán. TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Anh Gideon Boas, James L Bischoff and Natalie L Reid, Elements o f crime under international law - International law practitioner library series. Volume II (Các yếu tố cấu thành tội phạm trong luật hình sự quôc lê), Nxb. Cambridge University Press, 2009. Robert Cryer, Hảkan Friman, Darryl Robinson and Elizabeth Wilmshurst, An Introduction To International 198
  • 200. Criminal Law And Procedure (Giới thiệu luật hình sự quốc tế và thủ tục tố tụng), Nxb. Cambridge University Press, 2010. Robert Cryer, Prosecuting International Crimes, Selectivity and the International Criminal Law Regime (Truy cứu tội phạm quốc tể: Sự lựa chọn và chế định luật hình sự quốc tế), Nxb. Cambridge University Press, 2005. Tiếng Nga A.r. KnốanBHHK, Tlpecmymeuue M OmeemcmeeuHocmb B MeoKÒyuapoÒHOM yeonoeuo.M Iĩpaee (Tội phạm và trách nhiệm hình sự trong luật hình sự quốc tê), Nxb. CTaBponoiiB, 2002 Bìihuịchko H.IL, Meotcdyuapoònoe yeonoenoe npaeo (Luật hình sự quốc tế), Nxb. Hayxa, 1999. EneHa HHKOJiaeBHa TpHK03, Hanano dexmejibHOcmu MeoKÒyuapoÒHoeo yeonoeũoeo cyòa: cocmofiHue u nepcneKmuebi (Bắt đầu các hoạt động của tòa án hình sự quốc tê: thực trạng và triển vọng), Tạp chí: )KypHaji poccHỈícKoro npaBa, 2005, N.3. H. H. rJie6oB, MeoKÒynapoÒHoe npaeo (Luật quốc tế), Nxb. ,ZỊpo4)a, 2006. H.H. JlyKamyK, MeotcdyuapoÒHoe Iĩpaeo: OcoốeuuaH 1 'Lacmb - yueốuuK /Ị.ĨH Cmyỏeumoe ÌOpuòuHCCKux 0aKyjibinemoe M By306 (Luật hình sự quốc tế: Phần Riêng - Giảo trình cho sinh viên khoa luật của các tritờng đại học), Nxb. BouTepc KnyBep, 2005. Tiếng Việt Nguyễn Bá Sơn (chủ biên), Tòa hình sự quốc tế: Góc nhìn từ Việt Nam, Nxb. Thanh Niên, 2007 Nguyễn Thị Thuận, Luật hình sự quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, 2007. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giảo trình Luật quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, 2008. 199
  • 201. CHƯƠNG XI LUẬT MÔI TRƯỜNG QUỐC TẾ So với những ngành truyền thống của luật quốc tế, những nguyên tắc và quy phạm của luật quốc tế về môi trường còn khá mới mẻ. Mặc dầu vậy, nhận thức về môi trường và tầm quan trọng của môi trường, bảo vệ và gìn giữ môi trường của nhân loại là mối quan tâm lớn của cộng đông quốc tê. Nghiên cứu luật môi trường quốc tế đang trở thành một xu thế phát triển của khoa học luật quốc tế ngày nay. Chương này nghiên cửu'trước hết những vấn đề cơ bản về luật môi trường quốc tế bao gồm sự hình thành và phát triển, chủ thể, nguồn và các nguyên tắc cơ bản của ngành luật này. Phần tiếp theo của chương này giới thiệu những lĩnh vực điều chỉnh cơ bản của luật môi trường quốc tế bao gồm lĩnh vực bảo vệ môi trường biển, bảo vệ khí quyển, đa dạng sinh học, kiểm soát quốc tế đối với các chất và chất thải nguy hại. I. KHÁI QUÁT VÈ LUẬT MÔI TRƯỜNG QUÓC TÉ 1.1. Khái niệm luật môi trường quốc tế So với các ngành luật độc lập khác trong hệ thống pháp luật quốc tế như luật biển quốc tế, luật ngoại giao và lãnh sự hay luật quốc tế về quyền con người, luật môi trường quốc tế là một ngành luật mới mẻ. Khái niệm về một hệ thống các nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh vấn đề môi trường ở phạm vi toàn cầu chỉ được đê cập đến kể từ thế kỷ thứ 19. Bên cạnh đó, cho đến nay vẫn chưa có một thiết chế toàn cầu để điều chinh các vấn đê môi trường (ví dụ như Tổ chức Thương mại thế giới WTO) hay một cơ quan giải quyết tranh1 1 Catherine Redwell, “International environmental law”, trong Malcolm D Evans (ed), International law, 3rded, 2010, tr. 689. 200
  • 202. chấp về vấn đề này (tương tự như cơ quan giải quyết tranh chấp quôc tê của WTO hoặc Tòa Trọng tài để giải quyết các tranh chấp quốc tế về luật biển). Mặc dù vậy, luật môi trường quốc tế đảm bảo các tiêu chí của một ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật quốc tế. Điều này thể hiện ở sự thống nhất về chủ thể, nguồn và phương pháp điều chỉnh, về đối tượng điều chỉnh, luật môi trường quốc tế điều chỉnh hoạt động của các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế trong việc khai thác, bảo vệ và gìn giữ môi trường quốc tế và tài nguyên thiên nhiên và các vấn đề quốc tê khác liên quan mật thiết đến môi trường và sự phát triển chung của cộng đồng quốc tế. Đổi tượng điều chỉnh của luật môi trường quốc gắn liền với định nghĩa về môi trường. Khái niệm “môi trường” nhìn chung chưa được định nghĩa một cách đầy đủ.2 Chẳng hạn, Công ước của LHQ về luật biển năm 1982 đưa ra định nghĩa về khái niệm “ô nhiễm môi trường biển” trong khi khái niệm “môi trường biển” lại không được định nghĩa một cách đầy đủ. “Môi trường” thường được định nghĩa một cách bao trùm trong một sô công ước quốc tế về môi trường. Chẳng hạn, tại Điều 2 khoản 10 của Công ước của Cộng đồng châu Âu năm 1993 về trách nhiệm dân sự đối với những thiệt hại gây ra bởi những hành vi nguy hiểm đối với môi trường, “môi trường” được định nghĩa là “các nguồn tài ngnvên thiên nhiên hữu sinh và vô sinh như không khí, nước, đất, động thực vật và Sự tương hô giữa chúng; những tài sản tạo thành di sản văn hóa và những yếu ¡Ạ đặc thù của cành quan”. Định nghĩa này đã bao quát các đối tượng bảo vệ được đề cập trong các công ước quôc tế quan trọng vê môi trường như: các di sàn 2Catherine Redwell, sđd, tr. 688. 201
  • 203. thiên nhiên và văn hóa;3 các giống và loài cần được bảo vệ4 và sự ô nhiễm môi trường.5 Luật môi trường quốc tế, với tư cách là một ngành độc lập của luật quốc tế, bao gồm những nguyên tắc và chuẩn mực về bảo vệ và gìn giữ môi trường, nghĩa vụ và trách nhiệm của các quốc gia trong việc tuân thủ những cam kết vê môi trường, cơ chế thực thi trách nhiệm pháp lý trong lĩnh vực môi trường và khung pháp lý trong những lĩnh vực môi trường cụ thể. Phạm vi điều chỉnh của Luật môi trường quốc tế bao quát nhiều lĩnh vực gắn liền với con người và sự phát triển. Nghành luật này có mối liên hệ chặt chẽ với luật môi trường quốc gia, thể hiện ở việc những lĩnh vực điều chỉnh của luật môi trường quốc tế gắn liền với lợi ích của mỗi quốc gia, các nguyên tăc và quy phạm của luật môi trường quốc tế là cơ sờ cho việc quy định và tạo khuôn mẫu cho việc điểu chỉnh ở phạm vi quốc gia, đồng thời việc thực hiện có hiệu quả luật môi trường quốc tế phụ thuộc rất lớn vào việc thực hiện tại mỗi quốc gia. Do tính quốc tế của vấn đề môi trường mà ngày nay việc giải quyết bằng pháp luật vấn đề môi trường ở phạm vi quốc gia không thể tách rời với việc giải quyết ở quy mô toàn cầu. Mặc dù vậy, là một ngành mới, luật môi trường quốc tế có những hạn chế so với những ngành luật khác trong hệ thống luật quốc tế. Mặc dù số lượng các điều ước quốc tế ngày càng phong phú và bao quát ở nhiều lĩnh vực môi trường, phần lớn chúng được ghi nhận và áp dụng ở phạm vi khu vực, các công ước ở quy mô toàn cầu không nhiều. Ngoài ra, việc áp dụng các quy phạm luật quốc tế về môi trường 3 Điều chinh bời công ưóc năm 1972 cùa UNESCO về việc bảo vệ các di sản văn hóa và thiên nhiên cùa thê giới. 4 Đe cập trong công ước cùa LHQ năm 1992 về đa dạng sinh học. 5Điều chinh bới các Công ước London 1972 vê sự thài đổ (dumping) và Công ước cùa LHQ năm 1979 vê ô nhiêm không khí tâm xa xuyên biên giới. 202
  • 204. thông qua cơ chế tài phán quốc tế cũng không nhiều, do đó nhiều nguyên tắc, quy phạm và các tiêu chuẩn của luật môi trường quốc tế chưa được làm rõ cũng như việc coi một số nguyên tắc là nguyên tắc tập quán có tính bắt buộc còn chưa thống nhất. Do có sự khác biệt giữa lợi ích và trách nhiệm của các nhóm quốc gia, nhiều nguyên tắc và quy phạm của luật môi trường quốc tế dừng lại ở việc kêu gọi sự tự nguyện thực hiện bởi các quốc gia. Bên cạnh đó, phần lớn các nguyên tắc chưa được giải thích và thống nhất về mặt khoa học, chỉ có tính chất khung, mềm dẻo, thỏa hiệp, chủ yếu nhằm đạt được những thỏa thuận sơ khởi để đối phó với những vấn đề môi trường nảy sinh trước mắt. Ngoài ra, tính cưỡng chế thấp, cơ chế thực hiện lỏng lẻo và thiếu vắng chế tài hữu hiệu cho việc tuân thủ cũng là những điểm hạn chế khác của ngành luật này. 1.2. Sự hình thành và phát triển của luật môi trường quốc tế Mặc dù những quy định của ngành luật môi trường quốc tế có nguồn gốc hình thành từ thế kỷ 19,6 những vẩn đề môi trường chỉ bắt đầu trờ thành một chủ đề quốc tế kể từ sau Thế chiến thứ nhất. Vụ kiện Trail Smelter giữa Mỹ và Canada năm 1941 là một trong những vụ việc đầu tiên trong lĩnh vực này.7 Bắt đầu từ những năm 1960, mối quan tâm đôi với sự suy thoái của môi trường ngày càng lớn. Hội nghị về môi trường con người năm 1972 tại Stockholm dưới sự bảo trợ của LHQ là một bước quan trọng đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ ở phạm vi quốc tế. Tiếp theo đó, LHQ thành lập một cơ quan chuyên trách trực thuộc Đại hội đồng gọi là Chương trình của LHQ về môi trường (United Nations Environment Programme, UNEP) có trụ sở tại 6 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, Guide to International Environmental Law, Martinus Nijhoff Publishers, 2007. 7 Trail Smelter, UNRIAA, vol. HI (Series No. I949.V.2). 203
  • 205. Nairobi (Kenya). Hiện nay UNEP là cơ quan quốc tế duy nhất có chức năng tham gia giải quyết mọi vấn đề liên quan đến môi trường mặc dù một số tổ chức quốc tế trong hệ thống LHQ cũng gánh vác tích cực một phần trách nhiệm đối với môi trường toàn câu như Tổ chức Lương thực thế giới (Food and Agriculture Organization, FAO) chịu trách nhiệm về việc bảọ tồn các nguồn tài nguyên đánh bắt hoặc Tổ chức Hàng hải quôc tê (International Maritime Organization, IMO) chịu trách nhiệm về việc bảo vệ môi trường biển. Nhìn chung, sự phát triển của luật môi trường quốc tế có thê chia thành 3 giai đoạn:8 giai đoạn trước Hội nghị Stockholm, giai đoạn từ Hội nghị Stockholm đến Hội nghị Rio, và giai đoạn từ Hội nghị Rio đếrrnay. 1.2.1. Giai đoạn trước Hội nghị Stockholm Ở thế kỷ 19, các quốc gia đã bắt đầu có những thỏa thuận ở mức độ khu vực nhăm điều chinh những hỉnh thức cụ thể của ô nhiễm môi trường như ô nhiễm do khói bụi, tiếng ồn hoặc ô nhiễm nước và những tác động của chúng đối với con người. Điều ước quốc tế đầu tiên được ký kết liên quan đến thỏa thuận đánh băt cá nhăm mục đích đảm bảo duy trì việc đánh bắt lâu dài các loài có giá trị về kinh tế cũng như các loài di cư hoặc cư trú trên biển cả. Điều ước toàn cầu đầu tiên về môi trường có thể kể đến là Công ước về bảo vệ các loài chim có ích cho nông nghiệp ký năm 1902. Một số điều ước quốc tế song phương và khu vực khác được ký kết nhằm giải quyết những vấn đề riêng rẽ của môi trường.9 8 Phillips Sands, Principles of International Environmental Law, Cambridge, 2n ded. 2003; Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sđd. 9 Cụ thể có thể kể đến Hiệp ước song phưorng giữa Mỹ và Anh về việc bào vệ và bào tồn loài hài cấu năm 1911 và Công ước về bảo tồn hải câu biên Băc Thái Bình Dương năm 1957; các điều ước song phương về các dòng sông và hồ biên giới, chẳng hạn như Hiệp định vê sông biên giới giữa Mỹ và Canada nam 1909 tron° đo đề cáp đến vấn đề ô nhiễm nguon nước và kiểm soát ô 204
  • 206. Mặc dù có phạm vi điều chỉnh hạn chế, các điều ước này đã tạo tiền đề cho các điều ước quốc tế về môi trường sau đó cụ thể như kêu gọi hợp tác, áp dụng các biện pháp bảo tồn cu thể và điêu chỉnh hoạt động thương mại ở quy mô quôc tê. Môt số điều ước trở thành khuôn mẫu cho các điều ước quốc tế về sau, đặc biệt là các điều ước liên quan đến bảo tồn thiên nhiên và các loại động vật hoang dã. Bên cạnh đó, một số án lệ quốc tế cũng đóng góp quan trọng cho sự phát triển của luật môi trường quôc tế thông qua việc ghi nhận các nguyên tắc liên quan đến ô nhiễm xuyên biên giới (vụ Trail Smelter năm 1941) hay nghĩa vụ của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ thuộc chủ quyền của mình không làm phương hại đến quyền của quốc gia khác trong đó có vấn đề môi trường (vụ Eo biển Corfu năm 1949). Sau Thế chiến thứ hai, những vấn đề môi trường toàn cầu ngày càng trở nên có tính thời sự với sự bùng nổ các hoạt động kinh tế và phát triển công nghệ. Một số vấn đề liên quan tới môi trường đòi hỏi cần được điều chỉnh như các sự cố tràn dầu, việc phát triển và sử dụng năng lượng hạt nhân và nguy cơ nhiễm phóng xạ, việc khai thác quá mức dẫn đến tài nguyên sinh vật có nguy cơ bị cạn kiệt, viêc sử dụng hóa chất và các chê phâm công nghiệp độc hại trong nông nghiệp và sự mât cân đôi về phát triển kinh tế giữa các nước giàu và nghèo... Trong bối cảnh đó, Hội nghị về môi trường được triệu tập tại Stockholm năm 1972 dưới sự bảo trợ của LHQ. Bên cạnh sự tham gia và thể hiện quan điểm của các quốc gia đang phát triên, ý nghĩa quan trọng của Hội nghị Stockholm là việc thông qua Tuyên bố Stockholm về môi trường và con người cùng với một kế hoạch hành động bao gồm 109 nhiễm; Công ước về bảo tồn các loài động thực vật trong tình trạng thiên nhiên cùa chúng năm 1933 (áp dụng cho các thuộc địa châu Phi và châu Phi nói chung) và Công ước về bảo vệ thiên nhiên và bâo tồn hoang dã ở Tây bán cầu năm 1940. 205
  • 207. khuyến nghị và một nghị quyết về cam kết tài chính và tổ chức. Đây được coi là những văn kiện quan trọng toàn cầu đầu tiên có tính toàn diện về bảo vệ môi trường.10 Những nguyên tắc quan trọng của Tuyên bố Stockholm có thể chia thành 3 nhóm: - Nguyên tắc thứ nhất: tuyên bố các quyền cơ bản của con người và gắn chúng với việc bảo vệ và phát triển môi trường; - Nguyên tắc từ 2 đến 7: tuyên bố các thành phần của tài nguyên thiên nhiên, nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ cho các thế hệ tương lai, sự cần thiết phải quản lý đầy đủ về môi trường và sự cần thiết phải hợp tác quốc tế và phối hợp hành động vì môi trường; - Các nguyên tắc từ 21 đến 26: đề cập các nguyên tắc của luật môi trường quốc tế, kêu gọi các quốc gia hợp tác phát triển luật quốc tế về trách nhiệm và bồi thường đổi với ô nhiễm và sự thiệt hại liên quốc gia. 1.2.2. Từ Hội nghị Stockholm đến Hội nghị Rio Những kết quả của Hội nghị Stockholm có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của luật môi trường quốc tế ở những thập niên tiếp theo. Các điều ước quốc tế trong thời kỳ này tập trung bảo vệ những lĩnh vực cụ thể của môi trường như biển và các nguồn nước ngọt, khí quyền và không gian, động thực vật hoang dã. Mặc dù vậy, cho đến những năm 1980, việc điều chỉnh những vấn đề môi trường một cách riêng lẻ hoặc chỉ giải quyêt phân ngọn tỏ ra không có hiệu quả trong việc chống lại sự suy thoái môi trường ngày một gia tăng. Ngoài ra, các tô chức quôc tê cho thấy sự hạn chê của mình trong việc giải quyết các vân đề môi trường. Điều đó đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải có những nỗ lực hơn nữa cũng như có cách tiếp cận một cách tổng thể nhằm giải quyết triệt* 2 0 6 10Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sđd, tr. 35. 206
  • 208. để nguồn ảnh hưởng cũng như nguy cơ dẫn đến thiệt hại cho môi trường. Bên cạnh đó, kể từ những năm 1980 đã xuất hiện những vấn đề môi trường mới chưa được nghiên cứu và điều chỉnh trước đó như ô nhiễm không khí tầm xa hay sự suy giảm của tầng ozone, nguy cơ rò rỉ vả nhiễm phóng xạ từ các nhà máy điện nguyên tử, nhu cầu điều chỉnh đối với các hóa chất, chất thải độc hại và quy trình có khả năng gây thiệt hại cho môi trường. Kết quả là một loạt các điều ước quốc tế đã được ký kết như Công ước toàn cầu về bảo vệ tầng ozone năm 1985 và Nghị định thư Montreal năm 1987, Công ước về thông báo sớm về sự cố hạt nhân và Công ước về trợ giúp trong trường hợp tai nạn hạt nhân hoặc sự cố phóng xạ năm 1986, Công ước Basel về vận chuyển các chất độc hại và việc xử lý và một số điều ước quốc tế khu vực liên quan. Ngoài ra trên cơ sờ nguyên tắc 21 của Hội nghị Stockholm, một số nguyên tắc của luật môi trường quốc tế cũng đã được hình thành trong giai đoạn này. Một ví dụ là các nguyên tắc dưới hình thức các văn kiện được đưa ra bởi Tổ chức hợp tác và phát triển (Organisation fo r Economic Co­ operation and Development, OECD) sau đó được thông qua tại các văn kiện của UNEP, chẳng hạn như “Các nguyên tắc ứng xử trong lĩnh vực môi trường hướng dẫn các quốc gia trong việc bảo tồn và sử dụng hài hòa nguồn tài nguyên thiên nhiên chia sẻ giữa hai hoặc nhiều quốc gia” năm 1978. Bên cạnh đó, có thể kể đến một số nguyên tắc tập quán như công nhận chủ quyền quốc gia đối với tài nguyên thiên nhiên, nghĩa vụ đảm bảo giới hạn các hoạt động về môi trường trong phạm vi tài phán quốc gia và không làm ảnh hưởng việc thực hiện chủ quyền của quốc gia khác, nghĩa vụ thông báo và tư vấn về các hoạt động có khả năng ảnh hưởng đến môi trường cho các quốc gia liên quan hay nghĩa vụ đảm bảo sự tiếp cận 2 0 7
  • 209. đối với các quy định về hành chính và tố tụng cho công dân của những nước khác... Sự phát triển mạnh mẽ của luật môi trường quốc tế thể hiện ở việc gắn kết vấn đề bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế, đây là cách tiếp cận chủ đạo của luật môi trường quôc tế trong giai đoạn này. Một số cơ quan thúc đẩy việc xây dựng luật môi trường theo hướng này như ủ y ban Thế giới về môi trường và phát triển (World Commission on Environment and Development), sau đó gọi là ủ y ban Brundtland.1 1 Báo cáo của ủ y ban Brundtland năm 1987 nhấn mạnh sự cần thiết của việc kết hợp chặt chẽ giữa các chính sách phát triển với vấn đề môi trường, đặc biệt là đưa ra khái niệm “phát triển bền vững” (sustainable development). Đây là một tiền đề quan trọng dẫn đến sự triệu tập Hội nghị của LHQ về môi trường và phát triển tổ chức tại Rio de Janeiro, Brazil tháng 6 năm 1992 (Hội nghị Rio). 1,2.3. Từ Hội nghị Rio đến nay Hội nghị Rio đánh dấu sự chuyển biến quan trọng của luật môi trường quôc tê kê từ sau Hội nghị Stockholm năm 1972. Đáng chú ý là hai công ước quan trọng: Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu và Công ước về đa dạng sinh học. Bên cạnh đó là việc thông qua Tuyên bố về môi trường và phát triển (Tuyên bố Rio) và Chương trình nghị sự 21 (Agenda 21) cùng Tuyên bô các nguyên tắc về rừng. Tuyên bố Rio bao gồm 27 nguyên tắc, cụ thể hóa sự kết hợp giữa môi trường và phát triển và khái niệm “phát triển bền vững” nêu ra tại Báo cáo Brundtland. Trong đó, nguyên tắc thứ 4 có ý nghĩa quan trọng nhất, theo đó, để đạt được sự phát triển bền vững, bảo vệ môi trường phải trở thành một phần không thể tách rời của tiên trình phát triển và không thể 1 1 ũy ban này lấy theo tên của Thủ tướng Na Uy Gro Harlem Brundtland được Đại Hội đồng LHỌ ùy nhiệm đứng đầu vào năm 1984. 208
  • 210. xem xét một cách độc lập với tiến trình đó. Các nguyên tắc khác nêu ra tại Tuyên bố Rio khẳng định lại những nguyên tắc của Hội nghị Stockholm, chẳng hạn như những nguyên tắc số 2 (về những tác động xuyên biên giới); nguyên tắc số 10 (về quyền thông tin của công chúng); nguyên tắc số 13 (kêu gọi sự phát triển của các quy định về trách nhiệm). Đồng thời chúng trở thành những nguyên tắc có tính pháp lý bắt buộc đối với các quốc gia và chủ thể khác của luật môi trường quốc tế thông qua việc được ghi nhận trong các công ước quốc tế sau đó về môi trường, chẳng hạn như các nguyên tắc phòng ngừa (nguyên tắc 15), bên gây thiệt hại phải đền bù (nguyên tắc 16) hay yêu cầu thực hiện đánh giá tác động môi trường đối với các hoạt động đã lên kế hoạch (nguyên tắc 17) hay đảm bảo sự tham gia của công chúng và tiếp cận thông tin.1 2 Tuyên bố Rio và các nguyên tắc của nó ảnh hưởng đáng kể đến sự phát triển của luật môi trường quốc tế, đặc biệt là đến việc định hình hệ thống các nguyên tắc và quy phạm điều chỉnh vấn đề môi trường, mặc dù một số nguyên tắc và quy phạm chưa được làm rõ thông qua các cơ chế tài phán quốc tế.1 3 Chương trình nghị sự 21 đặc biệt chú trọng vấn đề môi trường và phát triển. Đây là một chương trình hành động bao gồm 40 chương, đề cập 115 chủ đề cụ thể. Nội dung cơ bản của Chương trình nghị sự 21 đề cập 4 vấn đề sau: 1 2Những nguyên tắc nêu ra tại Hội nghị Rio đã được các quốc gia đưa vào các Công ước quốc tế đa phương và trở thành những nguyên tắc có tính quy phạm như Công ước của LHQ về việc sử dụng không định hướng các nguồn nước quốc tế (the 1997 UN Convention on the Non-Navigational Uses of International Watercourses); Nghị định thư về an toận sinh học cùa Công ước năm 1992 về đa dạng sinh học năm 2000; Công ước năm 1992 về bảo vệ môi trường biển ờ Đông Bắc Đại Tây Dương (the 1992 Convention for the Protection of the Marine Environment of the North-East Atlantic). Xem thêm Alexandre Kiss and Dinah Shelton, Sild, tr. 39-40. 1 3 Gillian Triggs, International Law: Contemporary Principles and Practices, LexisNexis Butterworth, 2011, tr. 906. 209
  • 211. - Các khía cạnh kinh tế - xã hội của vấn đề môi trường, ví dụ như môi trường số, sức khỏe, dân số học, tiêu dùng và các mô hình sản xuất; - Bảo tồn và quản trị tài nguyên (khí quyển, rừng, nước, chất thải, hóa chất...); - Tăng cường vai trò của các tổ chức phi chính phủ và các nhóm hoạt động xã hội như công đoàn, hội phụ nữ, thanh niên; - Các biện pháp thực thi, ví dụ như tài chính, thể chế... Một số chương của Chương trình nghị sự 21 có ý nghĩa quan trọng đôi với sự phát triển của luật môi trường quốc tế.1 4 Đặc biệt, các lĩnh vực khác của luật quốc tế cũng bắt đầu gắn kết với vấn đề môi trường, nhiều điều ước quốc tế ra đời sau Hội nghị Rio đều nhấn mạnh đến bảo vệ môi trường như là mục tiêu chung của các quốc gia. Môi trường, bảo vệ môi trường và hợp tác vê môi trường xuất hiện trong các lĩnh vực truyền thống của luật quốc tế, những nội dung mới được hình thành như thương mại và môi trường, môi trường và quyền con người... Kể từ sau Hội nghị Rio, các hội nghị thượng đỉnh lần lượt được tổ chức, thể hiện sự quan tâm ngày càng cao của 14 Ví dụ, chương 39 về các,văn kiện pháp lý quốc tế và cơ chế nhấn mạnh yếu tố pháp lý cùa sự phát triển bền vững và việc ấn định các tiêu chuẩn môi trương keu gọi sự pháp điển hóa thống nhất các chính sách về môi trường và phát triển vào các điều ước quốc te, nhấn mạnh sự tham gia và đóng góp của các quốc gia trong việc làm sáng tỏ luật môi trường quốc tế trong bối cảnh phát triển bền vững và kêu gọi việc hoàn thiện các cơ chế và thủ tục nhăm tăng cương hiệu quả cùa luật mội trường quốc tế. Chương 8 vệ gắn kết môi trương va phat trien với việc quyết định chính sách nhấn mạrih tầm quan trọng cua pháp luạt môi trường quốc gia trong việc đưa các chính sách môi trường và phát triển vào hành động, kẹu gọi ap dụng các phương thưc co tinh quy phạm trong các chính sách vê kinh te kê hoạch và thị trương nham thực hiẹn các nghĩa vụ quốc tế vê môi trương va nhân mạnh vai tro cua cac chinh phu trong việc thực thi chính sách môi trường và phát triên. 210
  • 212. cộng đồng quốc tế về vấn đề môi trường. Các hội nghị này đã kêu gọi sự hợp tác và nô lực hơn nữa của các quôc gia trong việc tham gia giải quyết vấn đề môi trường, cụ thể như chống sự suy thoái môi trường, phát triển bền vững và biến đổi khí hậu. Năm 2002, một hội nghị thế giới được tổ chức ở Johanesburg nhằm khẳng định lại các cam kết đối với những nguyên tắc nêu ra tại Hội nghị Rio và thực hiện triệt đê chương trình nghị sự 21. Trong hội nghị này, các quốc gia đã thông qua Tuyên bố về sự phát triển bền vững. Tuyên bô khẳng định mong muốn của các quốc gia theo đuổi phát triên môi trường bền vững.1 5 Tiếp theo đó, Hội nghị LHQ về biến đổi khí hậu diễn ra tại Bali (Indonesia) tháng 12/2007 bao gồm 190 quốc gia tham dự. Hội nghị mở đầu cho các đàm phán và thỏa thuận vê ứng phó đối với biến đổi khí hậu toàn cầu. Các khuyến nghị của Hội nghị Bali bao gồm việc xây dựng chương trình hợp tác đa phương để tránh sự biến đổi khí hậu nguy hiểm sau 2012 trên cơ sờ Nghị định thư Kyoto16 cùng lộ trình cho đên 1 5Điệu này thể hiện ở những điểm chính sau cùa tuyên bố: - Tiếp tục phát triển và cũng cổ việc tuân thủ một cách độc lập và trên cơ sờ qua lại các chủ đề chính của phát triển bền vững: phát triển kinh tế, phát triên xã hội và bào vệ môi trường ờ các câp độ địa phương, quốc gia và toàn câu; - Nhấn mạnh môi trường toàn cầu đang tiếp tục bị ảnh hương và những biêu hiện cụ thể như việc mất đa dạng sinh học, suy giảm các đàn cá, sa mạc hóa, biến đỗi khí hậu và ô nhiễm không khí, nước và đại dương; - Khuyến khích các nền kinh tế lớn trở thành “đối tác” cho việc tăng cường phát triển bền vững; - Khẳng định giá trị cùa Chương trình nghị sự 21 đổi với việc giải quyết các vân đề môi trường; - Kêu gọi sự lưu tâm hàng đầu đối với việc thực hiện và tuân thủ các hiệp định quôc tế về môi trường mà các bên đã ký kết và sự hợp tác giữa ban thư ký các hiệp định đa phương về môi trường. Nghị định thư Kyoto bao gồm các cam kẹt dược tiến hành dựa trên các nguyên tắc của Chương trình khung vê biên đôi khí hậu của với mục tiêu chù 211
  • 213. 2020; xây dựng và triển khai các chính sách lập ngân quỹ carbon ở các quốc gia mang tính bền vững; tăng cường sự hợp tác quốc tế và nêu vấn đề thích ứng với biến đổi khí hậu. Gần đây nhất, Hội nghị thượng đỉnh của LHQ về biến đổi khí hậu (COP15) diễn ra tại Copenhagen (Đan Mạch) tháng 12 năm 2009. Hội nghị nhắm đến mục tiêu cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính cũng như việc hỗ trợ tài chính cho việc cắt giảm và khắc phục sự biến đổi khí hậu tại các quốc gia đang phát triển. Tuy nhiên, hội nghị này không đạt được sự đồng thuận về những vấn đề liên quan như mục tiêu cắt giảm cụ thể, cơ chế giám sát, quản lý tài chính, tương lai của Nghị định thư Kyoto và việc cứu rừng nhiệt đới. 1.3. Chủ thể của luật môi trường quốc tế Chủ thể trước tiên và chủ yếu của luật môi trường quốc tế chính là các quốc gia. Điều này được lý giải bởi các vấn đề môi trường liên quan trực tiếp đến các quốc gia. Việc giải quyêt ô nhiêm môi trường, chia sẻ và sử dụng chung các nguôn tài nguyên thiên nhiên cũng như bảo tôn và gìn giữ hệ sinh thái... là những vấn đề có tính chất “xuyên biên giới” hoặc “liên quốc gia”. Bên cạnh đó, việc giải quyết những vấn đề toàn cầu về môi trường ngày nay rất cần đến sự hợp tác của các quốc gia, những chủ thể cơ bản của luật quốc tế. yếu là cắt giảm lượng khí thài gây hiệu ứng nhà kính. Bản dự thảo của Nghị định thư được kí kêt vào ngày 11 tháng 12 năm 1997 tại Kyoto, và chính thức có hiệu lực vào ngày 16 tháng 2 năm 2005. Những quốc gia tham gia kí kết phải châp nhận việc căt giảm khí C 02 và năm loại khí gây hiệu ứng nhà kính khác, cũng như tiến hành biện pháp thay thê như khác nếu không muốn đáp ứng yêu cầu đó. Theo Nghị định thư Kyoto, các nước phát triển được xếp vào nhóm Annex / và phải tuân theo các cam kết nhằm cắt giảm khí gây hiệu ứng nhà kính đồng thời phái có bàn đệ trình thường niên về các hành động cắt giảm khí thài. Các nước đang phát triên được xếp vào nhóm Non-Annex / và không chịu ràng buộc bới các nguyên tăc ứng xù như các nước nhóm Annex I nhưng có quyền tham gia vào Chương trình cơ câu phát triên sạch. 212
  • 214. Chủ thể tiếp theo của luật môi trường quốc tế là những tô chức quốc tế liên chính phủ hoạt động trong lĩnh vực môi trường. Tổ chức quốc tế liên chính phủ toàn cầu quan trọng nhất là LHQ có vai trò tích cực trong việc đề xuất thảo luận, đàm phán và ký kết các điều ước quốc tế về môi trường. Các tô chức quốc tế khu vực như Liên minh châu Âu {European Union, EU) cũng hoạt động khá tích cực trong việc cho ra đời các văn kiện quốc tế giải quyết những vấn đề liên quan đến môi trường trong phạm vi khu vực. Ngoài ra, các tổ chức này tham gia vào các công ước quốc tế về môi trường với tư cách thành viên như trường hợp của Liên minh châu Âu ELI là thành viên của Công ước về biển đổi khí hậu 1992 và Nghị định thư Kyoto 1997. Ngoài ra, các chủ thể đặc biệt trong quan hệ quốc tế (vùng lãnh thổ, các dân tộc đang đẩu tranh giành quyền tự quyêt) vê nguyên tắc cũng có thê tham gia giải quyêt các vân đề môi trường quốc tế. Bên cạnh đó, trong việc tham gia giải quyết các vấn đề môi trường quốc tế, tuy không được coi là những chủ thể của luật quôc tê, các tô chức phi chính phủ cũng đóng vai trò rât tích cực. Các tổ chức này hoạt động tích cực trong việc thúc đây quá trình đàm phán và ký kêt các điêu ước quôc tê đa phương về môi trường cũng như thúc đẩy quá trình thực thi các điều ước đó.17 Ngoài ra, đỏng vai trò là Ban thư ký của Công ước năm 1971 về những vùng đất ngập nước có tâm quan trọng quốc tế (RAMSAR) là Liên minh Quốc tê vê bảo tồn thiên nhiên {International Union for the Conservation o f 1 7 Chẳng hạn, Hội đồng quốc tế về bàc tồn chinV{International Council for Bird Preservation, ICBP) và Văn phòng nghiên cứu vê chim bơi dưới nước và đất ngập mặn quốc tế (International Waterfowl and Wetlands Research Bureau, IWRB) có vai trò rất tích cực trong quá trình ký kết và thực hiện Công ước về tầm quan trọng cùa những vùng đầm lầy (Công trớc Ramsar 1971). Xem Catherine Redwell, sđd, tr. 692. 213
  • 215. Naíure IUCN),n là một cơ quan phối họp giữa các chính phủ và tô chức phi chính phủ.1 8 19 Hiện nay, sự tham gia của các tô chức phi chính phủ trong quá trình đàm phán và ký kết các điều ước quốc tế về môi trường ngày càng được mờ rộng. Đây là một khuynh hướng mở rộng sự tham gia vào việc giải quyêt các vấn đề môi trường toàn cầu, phù hợp với việc coi các vấn đề môi trường là mối quan tâm chung của toàn nhân loại. Tuy nhiên, mặc dù sự đóng góp ngày càng lớn của các tổ chức phi chính phủ vào sự phát triển của luật môi trường quốc tế là không thể phủ nhận, lý luận về chủ thể của luật quốc tế hiện nay không coi những tổ chức này là chủ thể của luật môi trường quốc tế. Ỉ.4. Nguồn của luật môi trường quốc tế về mặt lý luận, luật môi trường quốc tế có nguồn điều chỉnh là các nguôn cơ bản của luật quôc tê và các nguôn bô trợ.20 Cụ thể, các nguồn cơ bản của luật môi trường quôc tê là các điều ước quốc tế về môi trường và các tập quán quốc tê. Các nguồn bổ trợ chính của luật môi trường quốc tế lậ các nguyên tắc pháp luật chung, phán quyết của Tòa án Quốc tê, các học thuyêt pháp lý của những học giả hàng đầu vê luật quốc tế và nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ liên quan đến vấn đề môi trường. 1.4.1. Điều ước quốc tế về môi trường Các điều ước quốc tế là nguồn cơ bản và quan trọng nhất của luật môi trường quốc tế trong đó ghi nhận các thỏa thuận, cam kết của các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế liên quan đến lĩnh vực môi trường. Chúng trở thành nguồn luật quan trọng điều chỉnh hành vi của các chủ thê luật 1 8Xem IUCN website http://www.iucn.org/about/. 19Xem thêm Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sđd, tr. 70. , 20 Các loại nguồn này được liệt kê tại Điều 38 Quy chế tòa án quôc tê. 214
  • 216. quốc tế trong lĩnh vực này thông qua tuân thủ ở phạm vi quốc gia. Những thỏa thuận mang tính chất đồng thuận (,consensus) và chấp thuận cả gói (packơge deal) trong các điều ước về môi trường có ý nghĩa quan trọng cho phép các quốc gia giải quyết các vấn đề cụ thể như ô nhiễm tầm xa xuyên biên giới, biến đổi khí hậu và bảo tôn sự đa dạng sinh học... ngay cả khi giữa các quốc gia còn có khác biệt vê những vấn đề phát sinh và cách thức xử lý. Các điều ước quốc tế về môi trường hiện nay thường đóng vai trò như những điều ước khung ựramework) quy định những vấn đề cơ bản mang tính nguyên tắc cũng như cơ cấu tổ chức của các cơ quan được thành lập trên cơ sở điều ước (treaty bodỉes) như ban thư ký, các ủy ban kỹ thuật... Những vấn đề liên quan đên việc thực thi, ân định những tiêu chuân kỹ thuật cụ thê và sừa đổi bổ sung điều ước thường sẽ được thông qua bởi các nghị định thư hoặc văn kiện kèm theo và các văn bản đó được xem như là một bộ phận cấu thành của điều ước này. Cách tiếp cận như vậy cho phép các điều ước quốc tế có thể được điều chinh kịp thời và thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của vân đê môi trường trên thực tế.21 Ngoài cách tiếp cận “khung” như trên, các điều ước quốc tế về môi trường còn có tính chất mềm dẻo cho phép công nhận một số khác biệt trong việc thực thi các nghĩa vụ điều ước. Ví dụ, Điều 3(1) của Công ước về biến đổi khí hậu công nhận trách nhiệm chung nhưng có sự khác biệt do khả2 1 2 1 Ví dụ như Công ước khu vực năm 1979 về Ô nhiễm không khí tầm xa xuyên biên giới có 8 Nghị định thư kèm theo. Nghị định-thư Kyoto năm 1997 kèm theo Công ước cùa LHQ năm 1992 về Biến đổi khí hậu. Công ước vê Ngăn ngừa các ô nhiễm từ tàu thuyền (MARPOL) số 1973/78 trong khuôn khô Tô chức Hàng hải quốc tế hiện nay có 6 văn bản đính kèm. Công ước về bảo vệ ■nôi trường Đông Bắc Đại Tây Dưong năm 1992 (OSPAR) hiện tại có 5 văn bàn kèm theo và 3 phụ lục. 215
  • 217. năng khác nhau của các quốc gia trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ và gìn giữ hệ thống khí hậu toàn cầu. vấn đề này được thê hiện ờ việc kêu gọi các quốc gia phát triển có trách nhiệm tiên phong trong việc chống lại sự biến đổi khí hậu và những tác hại của nó. Sau đó, Nghị định thư Kyoto năm 1997 có quy đinh chỉ những quôc gia phát triển mới là đối tượng của những mục tiêu cụ thể và thời gian biểu cho việc cắt giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Tại Công ước của LHQ về biên đôi khí hậu năm 1992, các quốc gia thành viên sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình tùy theo khả năng và điều kiện thực tê của quốc gia mình. Nhìn chung, các điều ước quốc tế về môi trường hiện nay thường không ân định một cách chi tiết các nghĩa vụ pháp lý đôi với các bên cũng như vấn đề thực hiện chúng. Các điều ước thường mang tính chất định hướng và kêu gọi sự hợp tác và tuân thủ một cách có thiện chí của các quốc gia thành viên. Những vân đê cụ thê và việc thực thi thông thường sẽ được giải quyết bởi nhiều điều ước quốc tế ký kết tiếp theo dưới hình thức nghị định thư hoặc văn bản kèm theo có giá trị pháp lý ràng buộc. 1.4.2. Tập quán quốc tể về môi trường Tập quán quốc tế về môi trường là một loại nguồn không thành văn của luật môi trường quốc tế. Mặc dù vậy, chúng có giá trị pháp lý ràng buộc đối với tất cả các quốc gia và chủ thê khác của luật quôc tê. Nhiêu tập quán quôc tê đã được thừa nhận rộng rãi và được áp dụng như là những nguyên tắc chuyên biệt của luật môi trường quốc tế. Chẳng hạn, các nguyên tắc đòi hỏi bên gây ô nhiễm phải gánh chịu chi phí cho việc ô nhiễm, nguyên tắc tiến hành các hành động phòng ngừa hoặc nguyên tăc vê việc sử dụng chung các nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguyên tăc phát triên bên vững... được ghi nhận trong nhiêu điều ước quôc tê vê môi trường hiện nay phát sinh từ những nguyên tắc tập quán hình 216
  • 218. thành từ thực tiễn quan hệ quốc tế và được công nhận như là những nguyên tắc có giá trị pháp lý bắt buộc. Bên cạnh việc được khẳng định trong các điều ước quốc tế, các tập quán quốc tế trong luật môi trường quốc tê còn được sử dụng trong các phán quyêt của tòa án quôc tê và cơ quan giải quyêt tranh chấp như một nguôn luật đê giải quyêt các vụ tranh chấp về môi trường. Các tập quán quốc tế mới có thể được hình thành trên cơ sở giải thích và vận dụng các phán quyết của tòa án trong những vụ việc cụ thể. Các tập quán quốc tế về môi trường thông thường được hình thành từ thực tiễn quan hệ giữa các quốc gia. Chẳng hạn như các nguyên tắc về “không gây hại” hay còn gọi là tập quán vê “láng giềng tốt” vốn được hình thành từ thực tiễn giải quyết các vân đê ô nhiễm xuyên biên giới mà tiêu biêu là vụ Trail Smelter giữa Mỹ và Canada. Trên cơ sở đó, nguyên tăc này được áp dụng một cách rộng rãi, buộc các quốc gia phải ngăn chặn, giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm cũng như gây hại cho môi trường, thông báo và tham vấn về các nguy cơ gây thiệt hại cho môi trường. 1.4.3. Các nguồn bổ trơ của luật môi trường quổc tê Lý luận về nguồn của luật quốc tế cho phép phân biệt giữa các nguyên tắc pháp luật chung được đề cập tại Điêu 38 của Quy chê Tòa án quốc tế và các nguyên tắc nền tảng của luật môi trường được thể hiện trong tinh thần của các văn kiện thông qua tại các hội nghị quốc tế về môi trường quan trọng như Hội nghị Stockholm và Rio de Janeiro. Các phán quyết của Tòa án Công lv quốc tế của LHQ cũng như các thiết chế tài phán đóng vai trò như những nguôn bổ trợ bởi lẽ tự bản thân nó không sinh ra các quy phạm pháp lý có giá trị bắt buộc các chủ thể phải tuân theo. Tuy nhiên, chúng có vai trò quan trọng đôi vói sự hình thành và phát 217
  • 219. triển của luật môi trường quốc tế. Trong quá trình xét xử, phân tích và lập luận, các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế nói chung và các nguyên tắc của luật môi trường được làm sáng tỏ, từ đó có thể được viện dẫn để áp dụng cho những vụ việc khác. Các phán quyết của tòa án là cơ sở để hình thành những quy phạm tập quán của luật môi trường quốc tế. Ví dụ tiêu biểu là các phán quyết của Tòa án Công lý quốc té trong vụ Gabcikovo - Nagymaros (Hungary và Slovakia);22 Pulp Mills (Argentina và Urugoay);23 Tòa Trọng tài thường trực (Permanent Court of Arbitration, PCA) trong vụ M OX plant giữa Ireland và Anh,24 Iron Rhine (Bỉ và Hà Lan),25 phán quyết của Tòa án Quốc tế về luật biển (International Tribunal fo r the Law o f the Sea, ITLOS) trong vụ M OX (Ireland và Anh);26 phán quyết của Trung tâm Quốc tế về giải quyết các tranh chấp về đầu tư (International Centre fo r the Settlement o f Investment Disputes, ICSID) trong các vụ Trail Smelter (Mỹ và Canada)27 hay Metaclad (Metalclad Corporation và Mexico).28 22 Gabcikovo - Ncgymaros Project {Hungary v Slovakia), Judgment, ICJ Reports 1997. 23 Case Concerning Pulp Mills on the River Uruguay (Argentina v. Uruguay), Judgment of20April 2010. 24 MOX Plant Case {Irelandv United Kingdom), “Dispute Concerning the MOX Plant, International Movements of Radioactive Materials, and the Protection of the Marine Environment of the Irish Sea” (Perm. Ct. Arb., decision pending as of January 2007. 25 Arbitration regarding the Iron Rhine (“Ijzeren Rijn”) Railway between the Kingdom of Belgium and the Kingdom of the Netherlands, 2005. 26 MOX Plant case, Request for Provisional Measures Order (Ireland v the United Kingdom) (3 December 2001) International Tribunal for the Law of the Sea, ILR vol. 126 (2005). 27 Trail Smelter, UNRIAA, vol. Ill (Sales No. 1949.V.2). 28 Metalclad Corporation v. The United Mexican States (ICSID Case No. ARB(AB)/97/l). 218
  • 220. 1.4.4. Luật mềm (soft law) Trong khoa học luật quốc tế hiện nay, vai trò của các “luật mềm” đang được ghi nhận như là một loại nguồn đặc biệt.29 Những văn kiện loại này không ấn định nghĩa vụ pháp lý cho các bên và do đó không dẫn đến trách nhiệm pháp lý quốc tế trong trường hợp có sự vi phạm. Trong lĩnh vực môi trường, hàng loạt văn kiện quốc tế không quy định ràng buộc pháp lý đối với các bên như quy tắc ứng xử, hướng dẫn, nghị quyết hoặc tuyên bố vẫn được áp dụng bời các quốc gia cũng như các chủ thể khác của luật quốc tế. Chúng đóng vai trò khẳng định và tăng cường sự hợp tác giải quyết các vấn đề môi trường quốc tế, đồng thời làm cơ sở để các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế đi đến những cam kết có tính chất ràng buộc về mặt pháp lý sau này. 1.5. Một số nguyên tắc cơ bản của luật môi trường quốc tế Với tính chất là một ngành của luật quốc tế, ngành luật môi trường quốc tế cũng chịu sự điều chỉnh của những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Những nguyên tắc này đóng vai trò là nền tảng cho hoạt động của các chủ thê luật quốc tế trong việc giải quyết các vấn đề về môi trường. Nổi bật trong số đó là các nguyên tắc về sự hợp tác giữa các quôc gia và chủ thể khác của luật quốc tế, nguyên tắc bình đăng vê chủ quyền giữa các quốc gia... Bên cạnh đó, luật môi trường quốc tế có hệ thống các nguyên tắc đặc thù của nó. Hệ thông các nguyên tắc này có ý nghĩa hết sức quan trọng, đóng vai trò là cơ sở cho việc xây dựng các chế tài và quy phạm quôc tế và điều chỉnh các vấn đề môi trường. 29 Xem them Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sdd, tr. 8-9. Alexandre Kiss and Dinah Shelton, International Environmental Law (Transnational Publishers, 1991), tr. 100; Catherine Redwell, thld, tr, 696. 2 1 9
  • 221. So với các ngành khác của luật quốc tế, trong luật môi trường quôc tê các nguyên tăc tương đối mới, chúng là kết quả của sự công nhận của các quốc gia trong việc điều chỉnh những vân đề môi trường kể từ giữa thế kỷ 20, đặc biệt là những nguyên tắc được đưa ra trong Tuyên bố Rio 1992. Mặc dù được thừa nhận rộng rãi trong nhiều điều ước quốc tế về môi trường cũng như được áp dụng cho nhiều lĩnh vực môi trường cụ thê, nội hàm của những nguyên tăc này vân chưa nhận được sự thông nhất hoàn toàn của các chủ thể của luật quốc tế. Ngoài ra, những nguyên tắc này vẫn mang nặng tính chính trị, kêu gọi và việc tuân thủ chúng chủ yếu dựa vào sự tự giác và việc giải thích, áp dụng cụ thể trong pháp luật môi trường của các quốc gia. Căn cứ vào tầm quan trọng và tính chất của chúng, hệ thống các nguyên tắc của luật môi trường quốc tể có thể được phân chia thành các nhóm sau đây:30 - Các nguyên tắc có tính chất nền tảng; - Các nguyên tắc áp dụng trong quá trình thực hiện; - Các nguyên tắc đảm bảo sự công bàng. 1.5.1. Các nguyên tắc có tính chất nền tảng Đây là những nguyên tắc hình thành trong quá trình phát triển cùa luật môi trường quốc tế và hiện nay đang được thừa nhận chung bởi các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế.3 1 Những nguyên tắc này có nguồn gốc từ các nguyên tắc cơ bản của luật quôc tê và có tính phô biên trong khoa học pháp lý quốc tế. Mặc dù vậy, những nguyên tắc này phần lớn có tính chính trị, thể hiện chủ yếu qua việc kêu gọi thực hiện 30 Xem Alexandre Kiss and Dinah Shelton, sđd, tr. 89-110. 31 Các nguyên tắc này được ghi nhận trong các văn kiện quôc tê đa phương về môi trường tiêu biểu là hai Tuyên Bô Stockholm 1972 và Tuyên bô Rio năm 1992. 220
  • 222. một cách tận tâm, thiện chí và trên tinh thần hợp tác. Điều quan trọng là chúng không được coi như ràng buộc pháp lý đối với các quốc gia. Ngoài ra, nội hàm của những nguyên tăc này vẫn chưa được xác định đầy đủ. Tuy nhiên, chúng đóng vai trổ là kim chỉ nam đối với hoạt động của các chủ thể của luật môi trường quốc tế. Điều này được thể hiện ở việc chúng đươc đề cập đến trong hầu hết các điều ước quốc tế vê môi trường và chương trình nghị sự của các quốc gia, đồng thời còn được viện dẫn trong các án lệ quốc tế về môi trường. 1.5.1.1. Nguyên lẳc môi trường là mối quan tăm chung của nhân loại Từ giữa thế kỷ 20, cùng với sự công nhận quốc tế các quyền tự do cơ bản của con người, việc bảo vệ môi trường sống đã dần dần được coi là mối quan tâm chung của nhân loại.32 Cộng đồng quốc tế đã nhìn nhận việc giải quyết ở quy mô toàn cầu các vấn đề xuyên biên giới về môi trường đòi hỏi phải có sự tham gia của tất cả các quốc gia. Trong bối cảnh đó, khái niệm về “lợi ích chung” của cộng đồng quốc tê đã xuất hiện trong các điều ước quốc tế liên quan đến việc khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên.33 Nguyên tắc này nhấn mạnh tầm quan trọng của môi trường đối với sự sống còn và phát triển của toàn nhân loại và vì thế mọi quốc gia và chủ thể của luật quốc tế càn phải nô lực hợp tác nhằm giải quyết các vân đê môi trường toàn câu. 32Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tlđd, tr. 16. 33 Ví dụ như Lời nói đầu của Công ước Quốc tế về điều chinh hoạt động đánh băt cá voi (International Convention for the Regulation of Whaling, Whasington 02/12/1946); Công ước về đánh bát cá trên vùng biển cả thuộc Băc Thái Bình Dưcrng ký tại Tokyo ngày 9/5/1952. Gần đây, khái niệm “sụ quan tâm chung cùa nhân loại” về môi trường được ghi nhận tại Công ư ớ c vê đa dạng sinh học 1992 (khẳng định bảo tồn đa dạng sinh học lắ mối quan tâm chung cùa nhân loại) và Công ước khung cùa LHQ về biến đổi khí hậu (tuyên bổ sự thay đôi về khí hậu cùa trái đất và những tác động xấu cùa nó là sự quan tâm chung cùa nhân loại). 221
  • 223. Mặc dù, nguyên tắc về sự quan tâm chung của nhân loại đối với môi trường không hàm chứa những quy định và nghĩa vụ pháp lý cụ thể, nguyên tắc này tạo ra cơ sở pháp lý chung cho hoạt động của cộng đồng quốc tế. vấn đề môi trường trở thành vấn đề chung của cộng đồng quốc tế, theo đó cộng đồng quốc tế có trách nhiệm bảo tồn các loài động thực vật đang biến mất hoặc tuyệt chủng, các hệ sinh thái và các nguồn tài nguyên đang bị đe dọa. Bảo vệ môi trường đã được thể hiện thống nhất trong nội hàm của khái niệm về sự phát triển bền vững hiện đang được thừa nhận là mối quan tâm chung của toàn nhân loại.34 Ý nghĩa của nguyên tắc này còn được thể hiện qua việc ghi nhận quyền hợp pháp của tất cả các quốc gia được khởi kiện đối với những thiệt hại do một quốc gia đã có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế làm phương hại đến lợi ích chung của nhân loại liên quan đến môi trường.35 Tòa án Quốc tế trong các bản án của mình đã công nhận trách nhiệm bảo đảm sự cân bàng về sinh thái của trái đất là một lợi ích thiết yếu của 34 Alexandre Kiss and Dinah Shelton tlđd, tr. 14. 35 Luật quốc tế ghi nhận quyền của quốc gia bị thiệt hại khởi kiện một quốc gia khác do có hành vi vi,phạm pháp luật quốc tế. Quyền khởi kiện hiện nay được thừạ nhận không chi' chọ quốc gia bị thiệt hại mà còn được thừa nhận đối với tât cả các quốc gia nếu sự vi phạm đó làm phương hại đến lợi ích chung cùa nhân loại. Đây được coi là một nghĩa vụ chung cùa mọi quốc gia {erga omnes). vấn đề này được khẳng định tại phán quyết của Tòa án Quốc tế trong vụ Barcelona Traction, Light and Power Company giữa Bi và Tây Ban Nha năm 1972 như sau: "Cân thiêt phải có sự phân biệt giữa nghĩa vụ của các quác gia đổi với cộng đồng quốc tế nói chung và những nghĩa vụ phát sinh đôi với một quôc gia khác trong lĩnh vực báo hộ ngoại giao. Bởi bán chát cùa chúng, những nghĩa vụ chung đôi với cộng đồng quốc tế là mối quan tâm cùa tất cá các quôc gia. vẻ tâm quan trọng cùa các quyền Hen quan, tất cả các quôc gia được coi là đêu có một lợi ích pháp lv trong sự bào vệ cùa họ, chúng là những nghĩa vụ chung (erga omnes)". 222
  • 224. mọi quốc gia và mục đích của chúng chính là sự bảo vệ cộng đồng quốc tế nói chung.36 1.5.1.2. Nguyên tắc môi trường là di sản chung của nhân loại Khái niệm “di sản chung của nhân loại” xuất hiện vào cuối những năm 1960 thay thế cho hai cách tiếp cận việc sừ dụng các nguồn tài nguyên chung.37 Khái niệm này là nền tảng cho sự ra đời của nguyên tắc khẳng định quyền sở hữu của cả cộng đồng quốc tế đối với những lĩnh vực ngoài phạm vi chiếm hữu của các quốc gia. Trên cơ sở nguyên tắc này, những chế độ pháp lý đặc biệt được tạo ra nhằm thiết lập sự quản lý quốc tế đối với vùng đáy đại dương và lòng đất dưới đáy đại dương, Nam Cực và mặt trăng. Nguyên tắc “di sản chung của nhân loại” đối với những khu vực ngoài sự tài phán của quốc gia tạo cơ sờ cho việc sử dụng những khu vực đó bảo đảm tính hòa bình, hợp lý và khoa học trên tinh thần bảo tồn di sản chung của nhân loại để chuyển giao cho các thế hệ sau. 1.5.1.3. Nguyên tắc ngăn ngừa sự gây hại (prevention o f harm) Luật quốc tế thừa nhận thẩm quyền tuyệt đối của mỗi quốc gia trên phần lãnh thổ của mình. Tuy nhiên, những hoạt động được phép thực hiện hoặc có nguôn gôc từ lãnh thô của một quốc gia vẫn có thể gây hại hoặc xâm phạm đến chủ 36 Ví dụ vụ kiện Gabcikovo-Nagymaros giữa Hungary và Slovakia năm 1997. 37 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tlđd, tr. 15. Cách tiếp cận thứ nhât (res nulliiis) cho rằng các loài động thực vật hoang dã không thuộc về bắt kỳ ai và vì vậy chúng có thể được tự do sử dụng và chiếm hữu. Cách tiếp cận thứ hai ịres commtmis) ghi nhận quyền sờ hữu chung cùa cộng đồng đồng thời thừa nhận quyền sử dụng chung đối với những nguồn tài nguyên chung cũng như việc khai thác những khu vực chung và quyền tự do hàng hải trong vùng biên quốc tế. 223
  • 225. quyền của quốc gia khác. Điều này dẫn đến xung đột về quyền lợi giữa các quốc gia liên quan. Đây chính là tiên đê cho sự ra đời của nguyên tăc vê ngăn ngừa sự gây hại. Vân đê đầu tiên liên quan tới việc ngăn ngừa những nguy hại cho quốc gia khác là ô nhiễm xuyên biên giới.38 Từ án lệ Traỉỉ Smelter (Mỹ và Canada), nghĩa vụ ngăn chặn sự gây hại cho môi trường có tính chất liên quốc gia đã đặt nền móng cho việc thừa nhận nguyên tắc này tại Tuyên bố Stockholm năm 1972 (Nguyên tắc 21).39 Nguyên tắc này được khẳng định lại trong những điều ước quốc tế về môi trường như Công ước về đa dạng sinh học (Điều 2) và Công ước của LHQ về biến đổi khí hậu và được Tòa án Công lý quốc tế xem như là một tập quán quốc tế về môi trường.40 Nguyên tắc đòi hỏi các quốc gia có nghĩa vụ ngăn chặn các ô nhiễm xuyên biên giới yêu cầu mồi quốc gia phải hành động một cách hợp lý và trên tinh thần thiện chí nhàm điều chỉnh các hoạt động công và tư trong phạm vi thẩm quyền của mình cũng như kiểm soát các nguy cơ gây thiệt hại cho môi trường. Mặc dù không đê cập nghĩa vụ ngăn chặn triệt để tất cả các nguồn gây hại, nguyên tắc này yêu cầu các quốc gia phải câm những hành vi có khả năng gây nguy hại đáng kể cho môi trường (như việc trút bỏ các chất thải độc hại vào các hồ biên giới) và loại trừ khả năng gây hại cho môi trường từ những hành vi hợp pháp (như việc đưa ra những giới hạn 38 Vấn đề ngăn ngừa ô nhiễm xuyên biên giới được các quốc gia nêu ra tại Khuyên nghị cùa OECD năm 1974 (OECD Council Recommendation c (72) 219 14/11/1974). 39 Nguyên tắc số 21 của Tuyên bố Stockholm nêu rõ “Cức quốc gia, trên cơ sờ phù hợp với Hiên chirơng LHQ và những nguyên tắc cùa luật quốc tế, có quyển chú quvền trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên theo những chính sách cùa riêng mình, và có trách nhiệm đàm báo rằng những hoạt động trong phạm vi lài phán hoặc kiêm soát cùa họ là không gây thiệt hại cho môi trường cùa cúc quốc gia khác hoặc những vùng nam ngoài phạm vi quyền tài phán quốc gia". ')0 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, llđd, tr. 91. 224
  • 226. trong việc đưa các chất thải vào khí quyển hoặc các nguồn nước sử dụng chung). Không chỉ đề ra nghĩa vụ ngăn chặn sự gây hại cho môi trường có tính chất liên quốc gia, nguyên tắc này còn nhằm mục đích loại trừ những sự gây hại không phụ thuộc vào việc chúng có ảnh hường xuyên biên giới hay không. Cơ sở cho nghĩa vụ ngăn chặn sự gây hại trong trường hợp này xuất phát từ sự liên hệ mật thiết giữa các yếu tố của môi trường và khả năng không thể tái tạo lại nguyên trạng (ví dụ như những thiệt hại gây ra đối với những giống loài động thực vật có nguy cơ tuyệt chủng, sự xói mòn và thiệt hại gây ra do việc thải đổ các chất độc hại xuống biển hoặc chi phí quá lớn cho việc khắc phục hậu quả). Nguyên tắc này được nhấn mạnh trong nhiều điều ước quốc tế có liên quan đến vấn đề môi trường như Công ước của LHQ về luật biển 1982,41 Công ước của LHQ về sử dụng các dòng sông quốc tế 1979,42 Công ước về đa dạng sinh học năm 1992. Nguyên tắc này tạo tiền đề cho việc hình thành các cơ chế pháp lý nhằm mục đích ngăn ngừa sự gây hại cho môi trường. Chẳng hạn như quy định về việc đánh giá trước các tác hại đối với môi trường và thủ tục cấp phép đối với các hoạt động có nguy cơ gây ô nhiễm đưa ra các điều kiện thực hiện hoạt động và cách xử lý đối với những vi phạm. Ngoài ra, nguyên tắc này là cơ sờ quan trọng để ấn định giới hạn đối với sự ô nhiễm, tiêu chuẩn về sản phẩm hoặc quy trình sản xuất cũng như việc ban hành hoặc bãi bỏ các chính sách quốc gia về môi trường. Nguyên tắc này hiện nay còn được ghi nhận trong các điều ước quốc té điều chỉnh những lĩnh vực khác nhau về môi trường, chẳng hạn như việc bảo vệ hệ sinh 41 Công ước cùa LHQ về luật biển 1982 (UNCLOS), Điềul92. 42 Điều 20 của Công ước cùa LHQ về sừ dụng các dòng sông quốc tế. 225
  • 227. thái của các dòng sông quốc tế43 hoặc bảo vệ các loài sinh vật đang có nguy cơ bị đe dọa.44 1.5. ỉ. 4. Nguyên tắc phòng ngừa (precaution) Nguyên tắc phòng ngừa được coi là một trong những điều khoản quan trọng nhất nêu ra tại Tuyên bố Rio 1992, cụ thể tại nguyên tắc số 15, theo đó “Nhằm bảo vệ môi trường, nguyên tắc phòng ngừa sẽ được áp dụng một cách rộng rãi bởi các quốc gia tùy theo khả năng của họ. Trong trường hợp tồn tại khả năng về sự gây hại một cách nghiêm trọng hoặc không thế khắc phục đối với môi trường, các quốc gia không thể lẩy lý do về sự thiếu chắn chắn về mặt khoa học nhằm trì hoãn việc áp dụng các biện pháp để ngăn chặn sự suy thoái môi trường”. Ke từ năm 1992, nguyên tắc phòng ngừa được đề cập và áp dụng trong hầu hết các điều ước quốc tế về bảo vệ môi trường.45 Bên cạnh đó, nguyên tắc này còn được đề cập trong khuôn khổ của Tổ chức Thương mại thế giới WTO liên quan đến việc sử dụng các biện pháp nhằm bảo vệ môi trường và sức khỏe, đặc biệt là tại Điều XX Hiệp định GATT và tại Hiệp định về các biện pháp vệ sinh và dịch tễ. Tuy nhiên, việc viện dẫn nguyên tắc này không được coi là cơ sở để thực hiện những hành vi trái với các nghĩa vụ của thành viên W T0.46 Nguyên tắc phòng ngừa đòi hỏi các quốc gia có nghĩa vụ tiến hành những biện pháp cần thiết nhằm ngăn ngừa trước những gây hại có khả năng xảy ra đối với môi trường. 43 Ví dụ, Điều 22 của Công ước về các dòng sông quốc tế, 1979. 44 Ví dụ, Công ước Ramsar 1971, Điều 2(6). 45 Ví dụ, Nghị định thư vê an toàn sinh học năm 2000 ban hành trong khuôn khổ Công ước về đa dạng sinh học, Điều 1, 10, 11. 46 Gillian Triggs, International Law, Contemporary Principles and Practices, LexisNexis Butterworth, 2011, tr. 875. 226
  • 228. Nguyên tắc phòng ngừa có sự khác biệt với nguyên tắc về ngăn chặn sự gây hại đối với môi trường. Cụ thể, nguyên tắc phòng ngừa đòi hỏi các quốc gia thực hiện các biện pháp chuẩn bị để đổi phó với những đe dọa đối với môi trường đang còn ở dạng tiềm ẩn, chưa chắc chắn hoặc ở dạng phỏng đoán hoặc việc xảy ra đe dọa đối với môi trường là chưa thể khẳng định bằng những bằng chứng cụ thể. Nguyên tắc ngăn chặn sự gây hại đòi hỏi các quốc gia có những hành động cụ thể áp dụng đối với những nguy cơ xảy ra thiệt hại đối với môi trường dựa trên cơ sở chắc chắn hoặc rõ ràng hơn. Trong trường hợp đã có sự ngăn chặn đối với những thiệt hại có khả năng xảy ra cho môi trường và các biện pháp ngăn chặn không thể loại trừ hoàn toàn những nguy cơ gây hại thì việc đề cao nguyên tắc ngăn ngừa trước là hết sức quan trọng, đặc biệt đối với những hành vi mà hậu quả để lại cho môi trường là hết sức nghiêm trọng hoặc không thể khôi phục lại như ban đầu. 1. 5. 1. 5. Nguyên tắc trách nhiệm đền bù của bên gây ô nhiêm (polluter pays) Nguyên tắc này được đưa ra bởi OECD như một nguyên tắc kinh tế và được coi như là cách thức hữu hiệu nhất để phân định chi phí cho việc ngăn chặn sự ô nhiễm và các biện pháp kiểm soát ô nhiễm.47 Nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc xác định chi phí do việc gây hại cho môi trường mà quốc gia gây ra phải trả. Ngoài ra, nguyên tắc này còn có mục đích khuyến khích việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm và để tránh việc gây tác hại đến môi trường trong các hoạt động thương mại và đầu tư quốc tế. Nội dung của nguyên tắc này được đề cập tại Tuyên bố Rio 1992 như sau: "Cúc nhà chức trách của các quốc gia nên cố gắng đay mạnh sự quốc tế hóa những chi phỉ môi trường và việc sử 47Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tỉđd, tr. 95 2 2 7
  • 229. dụng các biện pháp kinh tể, lưu ỷ đến cách tiếp cận rằng bên gây ô nhiễm về nguyên tắc sẽ gánh chịu chi ph ỉ đôi với ó nhiễm gây ra đổi với lợi ích công và không làm phương hại đến thương mại và đầu tư quốc /é.”48 Nguyên tắc này còn được ghi nhận trong nhiều điêu ước quốc tế về môi trường ở tầm khu vực cũng như toàn câu, chẳng hạn Công ước về bảo vệ môi trường biển ở Đông Băc Đại Tây Dương năm 1992 (Điều 2(2)(b)): “các bên ký kết sẽ áp dụng nguyên tắc đền bù cho ô nhiễm... theo đó những chi p h í của việc ngăn chặn ô nhiễm, kiểm soát và các biện pháp giảm thiểu sẽ do bên gây ra ô nhiễm gánh chịu". Trên thực tế, việc áp dụng nguyên tắc này tùy thuộc vào mức độ của việc kiểm soát và ngăn chặn ô nhiễm, vào mức độ thiệt hại và khái niệm “giảm thiểu” có bao hàm việc bồi thường hay không? Khái niệm bên gây ô nhiễm ịpolutter) có thể bao gồm các nhà sản xuất, khách hàng sử dụng các hàng hóa và những người phải trả giá cao hơn do việc phải áp dụng những biện pháp sản xuất nhằm hạn chế ô nhiễm. Bên phải gánh chịu hậu quả của sự ô nhiễm có thể là cả cộng đồng hoặc những người tiêu dùng. Nguyên tắc này được áp dụng trong phạm vi từng quốc gia thông qua việc áp dụng các hình phạt và trách nhiệm dân sự đối với bên gây ra ô nhiễm. Nhìn chung, bên gây ra ô nhiễm phải chi ưả các chi phí cho các biện pháp kiểm soát ô nhiễm, ví dụ như chi phí cho việc xây dựng và vận hành các hệ thống thiết bị hoặc quy trình được lắp đặt để hạn chế ô nhiễm.49 1 8Tuyên bố Rio, Nguyên tắc 16. 49 Ví dụ như Chi thị của Cộng đông châu Âu EC (Directive 84/631) ngày 6/12/1984 về kiểm soát việc vận chuyên bằng đường biển các loại chất thải độc hại quy định các quốc gia thành viên phải ấn định chi phí vê việc kiêm soát chất thải độc hải đối với chủ sờ hữu các chất thải đó. 228
  • 230. 1.5.1.6. Nguyên tắc phát triển bền vững Kể từ cuối những năm 1980, nguyên tắc phát triển bền vững đã chi phối các ’ />ạt động quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.50 Tại Báo cáo của ủ y ban Thế giới về môi trường và phát triển vào năm 1987, “phát triển bền vững” được định nghĩa là “sự phát triển đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại nhưng không làm ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”. Báo cáo này cũng đã chỉ ra 6 mục tiêu của sự phát triển bền vững, bao gồm: - Phục hồi đồng thời thay đổi chất lượng tăng trưởng; - Đáp ứng nhu cầu thiết yếu về việc làm, lương thực, năng lượng, nước sạch và vệ sinh dịch tễ; - Đảm bảo sự ổn định về dân số - Bảo tồn và phát triển các nguồn tài nguyên - Tái định hướng công nghệ và quản lý nguy cơ gây hại - Gắn môi trường với các vấn đề kinh tế trong quyết định chính sách. Tuyên bố Rio đề cập nguyên tắc “phát triển bền vững” trong nhiều nguyên tắc của mình nhưng không đưa ra một định nghĩa cụ thể. Thay vào đó, “phát triển bền vững” được nêu ra trong sự liên hệ với những yếu tổ gắn liền với nó. Nguyên tắc số 1 khẳng định “con người là sự quan tâm chính yếu của phát triển bền vững”. Nguyên tắc số 3 nêu rõ “phát triển bền vững là việc đáp ứng nhu cầu về môi trường và phát triển của các thế hệ hiện tại và tương lai”. Nguyên tắc số 4 của Tuyên bố Rio nhấn mạnh rằng “để đạt được sự phát triển bền vững, vấn đề bảo vệ môi trường nên được xem như một 50 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tlđd, tr. 97. 2 2 9
  • 231. phần cấu thành của quá trình phát triển và không thể được xem xét tách rời khỏi quá trình đó”. Như vậy, khái niệm “phát triển bền vững” là mục tiêu hướng tới của sự phát triển, trong đó việc bảo vệ môi trường là quan trọng nhằm đảm bảo sự tồn tại và phát triển lâu dài của các thế hệ tương lai. Nguyên tắc này đòi hỏi các quốc gia phải quan tâm đến những chiến lược lâu dài trong đó bao gồm việc giải quyết các vấn đề liên quan đến môi trường như áp dụng các biện pháp đánh giá tác động đến môi trường và xã hội, phân tích nguy cơ và tính toán chi phí - lợi ích cũng như thống kê nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ngoài ra, các quốc gia cần phải đặt vấn đề môi trường trong việc ban hành các chính sách kinh tế, xã hội của mình, đồng thời đảm bảo sự minh bạch và sự tham gia rộng rãi của nhân dân vào việc quyết định các chính sách của nhà nước. 1.5.2. Các nguyên tắc áp dụng trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của quốc gia đối với các vấn đề môi trường Phần này phân tích những nguyên tắc có tính chất kỹ thuật thể hiện dưới hình thức các nghĩa vụ mà các quốc gia áp dụng trong quá trình giải quyết các vấn đề môi trường quốc té. Những nghĩa vụ này bao gôm: - Nghĩa vụ phải biết; - Nghĩa vụ thông tin và tham vấn; - Nghĩa vụ đảm bảo sự tham gia của công chúng. 1 5 2 1 Nghĩa vụ phải biết (duty to know) Nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng trong việc thực thi các biện pháp ngăn ngừa thiệt hại đối với môi trường bởi lẽ việc áp dụng đúng đắn các biện pháp này chỉ có thê được 230
  • 232. thực hiện trên cơ sở kién thức đầy đủ về điều kiện môi trường cũng như khi việc đánh giá tác động môi trường của các hoạt động trong những lĩnh vực liên quan được tiến hành bằng những thông tin cần thiết. Nguyên tắc này được đề cập trong nhiều điều ước quốc tế về môi trường.51 Nguyên tắc này có sự liên hệ với nguyên tắc về ngăn ngừa sự gây hại. Bởi, việc giám định khả năng tiềm ẩn của những thiệt hại đên môi trường là cần thiết cho việc xúc tiến những hoạt động nhàm ngăn chặn sự gây ô nhiễm hoặc thiệt hại đến mội trường. Chẳng hạn, Điều 206 Công ước của LHQ vê luật biên 1982 yêu cầu các quốc gia phải tiến hành đánh giá khả năng dần đên ô nhiễm môi trường biển và công bô báo cáo về kết quả đánh giá này trong trường hợp có cơ sở để tin răng các hoạt động dự định tiến hành trong phạm vi lãnh thô và quyên tài phán của họ có khả năng gây ô nhiêm nghiêm trọng hoặc kéo theo những thay đổi có hại một cách đáng kể đối với môi trường biển. Nguyên tắc này đòi hỏi các quốc gia trong quá trình thực hiện, ban hành các luật và chính sách về môi trường của mình phải đảm bảo thu thập những thông tin đáng tin cậy và đánh giá thường xuyên về môi trường. Để tuân thủ nguyên tăc này, luật môi trường quốc tế và pháp luật môi trường của mồi quốc gia thông thường quy định các cơ chế giám sát, báo cáo và theo dõi thông tin về môi trường. Các thông tin được thu thập từ việc kiêm tra, giám sát trên cơ sở khoa học sẽ là căn cứ đê thực hiện các hoạt động tiếp theo liên quan đên môi trường. Ví dụ, theo Công ước về đa dạng sinh học các quốc gia thành viên có nghĩa vụ xác định các thành phần cấu thành quan trọng của đa dạng sinh học và giám sát chúng thông qua 5 1 Ví dụ như Nguyên tắc số 17 cùa Tuyên bố Rio năm 1992 Côn» ước luật biên 1982, Công ước về đa dạng sinh học. 231
  • 233. việc lấy mẫu hoặc các biện pháp kỹ thuật khác. Hoạt động này có thể được tiến hành bởi các doanh nghiệp, các tổ chức hoặc cơ quan chức năng trung ương hoặc địa phương. Nguyên tắc số 19 của Hiến chương thế giới về thiên nhiên năm 1982 được thông qua bởi Đại hội đồng LHQ khuyên khích các quốc gia, tổ chức quốc tế và cộng đồng doanh nghiệp giám sát ờ tất cả các lĩnh vực của môi trường về nguy cơ suy thoái môi trường nhàm mục đích “tạo khả năng phát hiện sớm sự suy thoái hoặc đe dọa cho môi trường, đảm bảo can thiệp kịp thời và tạo điều kiện cho việc đánh giá chính sách bảo tồn cũng như các phương pháp tiến hành”. Nghĩa vụ giám sát và theo dõi môi trường được quy định rõ ràng trong một số điều ước quốc tế, ví dụ'như Công ước của LHQ về luật biển năm 1982 (Điều 204), Công ước về ô nhiễm tầm xa xuyên biên giới năm 1979. 1.5.2.2. Nghĩa vụ thông tin và tham vẩn Nguyên tắc về nghĩa vụ thông tin và tham vấn được thể hiện tại nguyên tắc số 19 của Tuyên bố Rio, theo đó “các quốc gia nên thông bảo trước và kịp thời và cung cấp những thông tin có liên quan về những hoạt động có khả năng gây tác động xấu đáng kẽ đến môi trường liên quốc gia cho những quôc gia có khà năng bị ảnh hưởng bởi những hoạt động đó, đồng thời nên tham vấn với những quốc gia này ở những giai đoạn sơ khai trên tinh thần thiện chỉ”.51 Như vậy, nguyên tắc này yêu câu các quôc gia trước khi thực hiện hoậc cho phép tiến hành các hoạt động có khả năng tác động đáng kể đến môi trường của một quốc gia khác phải thông báo cho quốc5 2 52 Yêu cầu về việc thông báo trước với thời gian hợp lý và tiến hành tham vấn với các quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng do các hoạt động liên quan đến môi trường được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế, chẳng hạn như Công ước nãm 1979 về ô nhiêm tâm xa xuyên biên giói (Điều 5); Văn kiện của OECD năm 1974 ghi nhận các nguyên tắc liên quan đến ô nhiễm xuyên biên giới (Điều 8). 232
  • 234. gia đó, đồng thời cung cấp cho quốc gia này hồ sơ thích hợp của dự án, miễn là việc cung cấp này không bị cấm đoán bởi pháp luật quốc gia mình hoặc bởi các điều ước quốc tế. Bên cạnh nghĩa vụ cung cấp thông tin, nguyên tắc này còn đòi hỏi các quốc gia tham vấn với các quốc gia liên quan và việc thông tin cũng như tham vấn phải được tiến hành trên tinh thần hợp tác và thiện chí. Quốc gia tiến hành các hoạt động có khả năng gây tác động đến môi trường phải sẵn sàng thảo luận về dự án dựa trên thông tin cung cấp cho các quốc gia có khả năng chịu ảnh hưởng bời những hoạt động đó, đồng thời không cản trở những quốc gia này tiến hành việc theo dõi các hoạt động liên quan đến dự án của mình. Nguyên tắc này còn yêu cầu quốc gia có hoạt động có khả năng gây ảnh hưởng đến môi trường tạo điều kiện cho cư dân của những quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng bởi những hoạt động đó tiếp cận thông tin về dự án cũng như các thủ tục về hành chính và tố tụng, đồng thời tạo điều kiện cho họ có thể tiến hành các hoạt động đòi bồi thường cho những thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Ngoài ra, quốc gia phải thông báo ngay lập tức cho những quốc gia khác về những tình huống hoặc sự việc khẩn cấp có thể làm phương hại đên môi trường của họ cùng với những thông tin cần thiết. Điều này được thể hiện ở nghĩa vụ thông báo về những thảm họa về môi trường trong một số điều ước quốc tế, ví dụ như Công ước của LHQ về luật biển 1982 (Điều 198). 1.5.2.3. Nguyên tắc đảm bảo sự tham gia của công chúng (public participation) Nội dung nguyên tắc đảm bảo sự- tham gia của công chúng được nêu tại Tuyên bố Rio 1992, theo đó các quốc gia phải đảm bảo quyền được tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng và tiêp cận với thủ tục hành chính và tô tụng bao gồm cả quá trình khôi phục lại và khắc phục hậu quả. Nguyên ZÒ3
  • 235. tắc này nhằm đảm bảo quyền của những người dân có khả năng chịu ảnh hưởng bởi các hoạt động liên quan đến môi trường góp tiếng nói của mình trong việc quyết định những vấn đề về môi trường.53 Điều này xuất phát từ quan điểm cho ràng những vấn đề môi trường tốt nhất nên được giải quyết với sự tham gia của dân chúng có liên quan ở những cấp độ thích hợp.54 Đe đảm bảo sự tham gia của dân chúng vào các hoạt động môi trường, các điều ước quốc tế đã đưa ra nhiều hình thức khác nhau, bao gồm các hoạt động như vận động hành lang, phổ biến công khai và đối thoại, tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cũng như các hoạt động khác nhằm đảm bảo sự tham gia của dân chúng 'vào quá trình lập pháp và quyết định chính sách cũng như sự tham gia của dân chúng vào quá trình đánh giá tác động đến môi trường.55 1.5.3. Các nguyên tắc đảm bảo sự công bằng (equitable princỉples) Vấn đề đảm bảo sự công bằng được đưa ra trong hầu hết các điều ước quốc tế về môi trường nhằm mục đích phân bẻ một cách cân bằng và điều phối các nguồn tài nguyên khan hiếm giữa các quôc gia mà cụ thể là giữa các nước phát triển và các nước đang phát triên. Bên cạnh đó, việc thực hiện vấn đề công bằng nhằm đảm bảo những lợi ích do các nguồn tài nguyên môi trường mang lại, những chi phí cho việc bảo vệ chúng và bât kỳ sự suy thoái nào xảy ra cho môi trường đều í5 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tlđd, tr. 102. 54 Tuyên bố Rio 1992, Nguyên tắc 10. 55 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tlđd, tr. 103; Công ước về hiệu ứng xuyên biên giới cùa các vụ tai nạn vê công nghiệp năm 1992; Công ước về đánh giá tác động đôi với môi trường trong bối cảnh xuyên biên giới năm 1991; Nghị định thư Cartagena vê đa dạng sinh học (Điều 23); Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia cùa dân chúng và tiếp cận tư pháp đối với những vấn đề môi trường 1998. 234
  • 236. sẽ được chia sẻ công bằng giữa mọi quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Điều này giúp dung hòa mâu thuẫn giữa những chính sách kinh tế và xã hội nhằm đạt đến sự chia sẻ hợp lý các nguồn tài nguyên. Mặc dù những nguyên tắc này mang nặng tính chính trị nhưng ý nghĩa của chúng trong việc giải quyết những vấn đề môi trường là hết sức quan trọng. 1.5.3.1. Nguyên tẳc đảm bảo sự công bằng giữa các thế hệ Cơ sở của việc ghi nhận nguyên tắc này trong luật quốc tế dựa trên 2 tiền đề cơ bản. Thứ nhất, sự sống của con người xuất phát và phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên của trái đất và chính vì thế không thể tách rời khỏi các điều kiện môi trường. Thứ hai, duy nhất con người có khả năng biến đổi môi trường. Do đó, con người ở thế hệ này có nghĩa vụ đặc biệt phải bảo vệ và gìn giữ sự toàn vẹn của trái đất nhằm mục đích đảm bảo sự tồn tại lâu dài của loài người trong tương lai. Nói một cách khác, thế hệ hôm nay đang thừa hưởng những gì để lại của thế hệ trước, do đó phải có trách nhiệm duy trì và chuyển giao nó cho những thế hệ tiếp theo. Nguyên tắc bảo đảm sự công bằng giữa các thế hệ yêu cầu các quốc gia, đóng vai trò như những người quản lý đối với tài nguyên thiên nhiên cho các thế hệ tương lai, có trách nhiệm trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên hiện có cũng như phải hạn chế và loại trừ lihững tác hại về lâu dài và không thể tái tạo lại được cho môi trường. Từ đó, nguyên tắc này được thể hiện ở ba nội dung cơ bản. Thứ nhất, mỗi thế hệ có trách nhiệm bảo tồn sự đa dạng của tự nhiên và nguồn tài nguyên về văn hóa. Thứ hai, chất lượng của hệ sinh thái chuyển giao cho các thế hệ tương lai phải đảm bảo tương xứng với những gì mà thế hệ hiện nay đang thừa hưởng. Thứ ba, những di sản văn hóa và thiên nhiên hiện tại cũng như còn lại trong quá khứ phải được bảo tồn để đảm bảo cho các thế hệ sau có thể tiếp cận chúng. 235
  • 237. 1.5.3.2. Nguyên tắc trách nhiệm chung trên cơ sở có sự phân hóa (Common but differentiated responsibilities) Nguyên tắc này được thể hiện trong nội dung của các văn kiện của Hội nghị Rio năm 1992, cụ thể là tại các nguyên tắc số 6 và 7 cùa Tuyên bố Rio. Nội dung của các nguyên tắc này thể hiện sự ưu tiên dành cho các quốc gia kém phát triển và các quốc gia dễ bị thương tổn nhất về môi trường. Nguyên tắc này bao hàm trách nhiệm có tính lịch sử của các nước phát triển đối với sự suy thái về môi trường mà họ đã gây ra để có được sự giàu có ngày hôm nay. Nguyên tắc số 7 của Tuyên bố Rio không chỉ nêu ra trách nhiệm có tính lịch sử của các nước phát triển mà còn tuyên bố trách nhiệm của những nước này trong việc đảm bảo phát triển bền vững của hiện tại và trong tương lai. Có thể nói, việc ghi nhận nguyên tắc này trong hầu hết các điều ước quốc tế đa phương về môi trường là một thắng lợi quan trọng của các nước đang phát triển và kém phát triển trong việc đòi hỏi các nước phát triển phải có nghĩa vụ tích cực hơn đối với môi trường, cụ thể là kêu gọi các nước này tiên phong trong việc giải quyết những vấn đề môi trường hiện tại. Điều đáng lưu ý là mặc dù trách nhiệm bảo vệ môi trường là mối quan tâm chung và được chia sẻ bời tất cả các quốc gia, nguyên tắc này yêu cầu các quốc gia có sự đóng góp khác nhau nhằm giải quyết những vấn đề quốc tế trên cơ sở khả nãng và trách nhiệm thực tế của từng nước. Cụ thể hơn, nguyên tắc này yêu cầu các nước phát triển phải đóng góp nhiều hơn thông qua việc chi trả cho những thiệt hại gây ra cho môi trường trong quá khứ cũng như hiện tại và tương lai. Điều này được thể hiện khá rõ nét trong việc thực hiện trách nhiệm khăc phục những thiệt hại cho môi trường như biến đổi khí hậu và suy thoái bầu khí quyển vốn là hậu quả của quá trình công nghiệp hóa ở những quôc gia này. 236
  • 238. 1.5.3.3. Nguyên tắc sử dụng công bằng các nguồn tài nguyên chia sẻ chung (equitable utilisation o f shared resources) Nguyên tắc này được áp dụng rộng rãi trong việc khai thác các ngúồn tài nguyên chia sẻ chung giữa các quốc gia như các nguồn nước, cá và các đối tượng được khai thác khác. Nguyên tắc này được đề cập tại Điều 2 của Công ước về luật đối với việc sử dụng các nguồn nước quốc tế năm 1997 của LHQ, theo đó các quốc gia thành viên có nghĩa vụ phải tiến hành mọi biện pháp cần thiết nhàm đảm bảo các nguồn nước quốc tế được sử dụng một cách hợp lý và công bằng. Nguyên tắc này sau đó còn được công nhận trong các phán quyết của Tòa án Công lý quốc tế trong các vụ việc tranh chấp về thẩm quyền đánh bat (Fisheries Jurisdiction giữa Anh và Iceland, Đức và Iceland) năm 1974, vụ kiện Gabcikovo - Nagymaros (Hungary và Slovakia) năm 1997. Nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc phân chia một cách “hợp lý” hoặc đạt đến một kết quả công bằng trong việc phân chia các nguồn tài nguyên khan hiếm dựa trên những tiêu chí liên quan như nhu cầu, việc sử dụng hoặc quyền sử dụng trước đó cũng như các lợi ích khác. Từ đó, các quốc gia được coi là có quyền bình đẳng trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên, tuy nhiên việc đặt ra những giới hạn cho việc sử dụng của các bên là cần thiết khi mà mỗi bên đều có nhu cầu sử dụng mà nguồn tài nguyên không thể thỏa mãn tất cả các bên hoặc việc sử dụng nguồn tài nguyên này của một quốc gia có thể làm phương hại đến việc sử dụng của quốc gia kia. Nguyên tắc này đã được áp dụng để phân chia nguồn nước giữa Mỹ và Canada theo Hiệp ước về các vùng nước biên giới năm 1907 hoặc giữa Ai Cập và Sudan khi khai thác và sử dụng nguồn nước sông Nil theo Hiệp ước ký năm 1959.
  • 239. II. MỘT SÓLĨNH Vực ĐIÊU CHỈNH cơ BẢN CỦA LUẬT MÔI TRƯỜNG QUOC TÉ Phần này trình bày những lĩnh vực cơ bản của luật môi trường quốc tế hiện đang được điều chỉnh chủ yếu bởi những điều ước quốc tế khu vực và toàn cầu. Đây là những lĩnh vực quan trọng gắn liền với những thành tố của môi trường và có liên hệ mật thiết đến sự tồn tại và phát triển của cộng đồng quốc tế. Cụ thể, phần này nghiên cứu vấn đề bảo vệ môi trường biển; bảo vệ bầu khí quyển; đa dạng sinh học và kiểm soát ở quy mô quốc tế đối với các chất và chất thải nguy hiểm, độc hại. 2.1. Bảo vệ môi trường biển 2.1.1. Khái quát khung pháp lý quốc tế về bảo vệ môi trường biển Vụ việc đầu tiên có ý nghĩa quan trọng cho sự hình thành khung pháp luật môi trường quốc tế điều chỉnh vấn đề ô nhiễm môi trường biển xảy ra vào năm 1967 khi tàu chở dầu Torrey Canyon bị chìm ngoài khơi kênh English Channel. Vụ đăm tàu được coi là một thảm họa môi trường làm tràn hơn 100.000 tân dầu ra biển gây ra hiệu ứng thủy triều đen và làm thiệt hại cho vùng ven biển của Pháp và Anh. Vụ việc dẫn đến nhu câu giải quyêt rất nhiều đơn kiện đòi bồi thường và trách nhiệm dân sự căn cứ vào các quy định pháp luật hiện hành. Tô chức Tư vấn hàng hải quốc tế {International Maritime Consultative Organization, IMCO)56 sau đó đã đưa ra dự thảo 2 công ước vào năm 1969 liên quan đến trách nhiệm dân sự do thiệt hại gây ra do tràn dầu và sự can thiệp ở vùng biển quôc tê trong trường hợp xảy ra ô nhiễm dầu và sau đó là 56 International Maritime Consultative Organization (IMCO) thành lập năm 1948 là tiền thân cùa Tô chức Hàng hải quốc tế (International Maritime Organisation, IMO). 238
  • 240. Công ước bổ sung năm 1971 về thành lập quỹ quốc tế dành cho việc bồi thường thiệt hại do ô nhiễm dầu. Bảo vệ môi trường biển là một trong những vấn đề quan trọng được nêu ra tại Hội nghị Stockholm năm 1992 và trờ thành chủ đề quan tâm trong quá trình lập pháp về môi trường diễn ra kể từ những năm đầu của thập niên 1970.37 Nhu cầu bảo vệ môi trường biển đã có những tác động nhất định tới quá trình soạn thảo Công ước của LHQ về luật biển bắt đầu từ năm 1973 và sau đó Công ước về luật biển cũng đã có những đóng góp quan trọng trong việc hình thành khung pháp luật về bảo vệ môi trường biển, một lĩnh vực điều chỉnh của luật môi trường quốc tế. Cụ thể, phần XII của Công ước luật biển 1982 với 46 điêu khoản quy định việc bảo vệ môi trường biên, trong đó ghi nhận nội dung của các điều ước quốc tế riêng rẽ điều chỉnh vấn đề thải đổ chất thải ô nhiễm xuống biển (Công ước London năm 1972 và Công ước khu vực Oslo năm 1972) và ngăn chặn sự gây ô nhiễm môi trường biển từ tàu thuyền (Công ước về ngăn chặn ô nhiễm biển từ tàu thuyền - International Convention for the Prévention o f Pollution from Ships - MARPOL 73/78). Ngoài ra, những nỗ lực khác trong việc xây dựng các điều ước quốc tế về chống ô nhiễm môi trường biển đã được xúc tiến bởi UNEP trong thời gian này như việc thông qua Công ước Barcelona về bảo vệ Địa Trung Hải chống lại sự ô nhiễm và các nghị định thư kèm theo.5 7 58 57Catherine Redwell, tỉđd, tr..698. 58 Cụ thể, các nghị định thư cùa Công ước Barcelona đề cập đến một loạt các vấn đề như ô nhiễm môi trường biển gây ra bời hoạt độíig thải đô, ô nhiễm bắt nguồn từ đất liền và các hoạt động dưới đáy biển, hợp tác hành động trong trường hợp khẩn cấp, những lĩnh vực bảo vệ đặc biệt và sự vận chuyên xuyên biên giới các chất thải độc hại. Công ước Barcelona đã được sữa đôi vào năm 1995 sau Hội nghị Rio và nội dung cùa Công ước đã trờ thành khuôn mẫu cho việc ra đời cùa các điều ước quốc tế khu vực điều chinh vấn đề chống ô nhiễm môi trường biền. 2 3 9
  • 241. Đối với vấn đề chống ô nhiễm môi trường biển bởi việc thải đổ, các điều ước quốc tế về vấn đề này ở phạm vi khu vực áp dụng cách tiếp cận có tên gọi “cấm trừ khi được phép” (prohibited anless permitted). Theo đó, việc thải đô sẽ không được phép tiến hành trừ khi nó được cho phép trong các trường hợp ngoại lệ. Những trường hợp ngoại lệ này được quy định rât chặt chẽ, liên quan đên các loại chât thải được phép thải đổ như bùn đất do nạo vét hoặc nước thải cũng như những chất thải từ các thiết bị lắp đặt ngoài khơi. Trên cơ sở nguyên tăc phòng ngừa trước, bên gây ô nhiêm phải chứng minh răng việc thải đô xuông biên sẽ không gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với môi trường biển. Liên quan đến vấn đề ô nhiễm gây ra do hoạt động của tàu thuyên, Công ước MARPOL 73/78 áp dụng một cách tiếp cận khung, theo đó đưa ra các quy định kỹ thuật cụ thể liên quan trong 6 phụ lục kèm theo của Công ước bao gồm điều chỉnh việc thải dầu xuống biển (Phụ lục 1); kiểm soát chất độc lỏng độc hại trong thùng chứa (Phụ lục 2); kiểm soát các chât độc hại chuyên chở trên biển dưới dạng đóng gói (Phụ lục 3); quy định ngăn ngừa ô nhiễm do nước thải từ tàu (Phụ lục 4); ngăn ngừa ô nhiễm do rác thải từ tàu (Phụ lục 5) và ngăn ngừa ô nhiêm không khí do tàu thuyền gây ra (Phụ lục 6). Các quốc gia tham gia Công ước MARPOL bắt buộc phải chấp nhận ít nhất là hai Phụ lục số 1 và 2.59 Ngoài ra, một số 59 Một trong những quy định quan trọng của Công ước MARPOL là việc sử dụng các chứng chi tiêu chuân hóa vê chông ô nhiêm dầu quốc tế gắn liền với việc giám sát và kiêm tra thường xuyên đôi với các tàu thuyền. Ngoài ra, các tàu chở dầu và tàu thuyên khác phải có Sô ghi chép liệt kê các hoạt động liên quan đến dầu và sổ ghi chép này có thê được xem xét bời bất kỳ quốc gia thành viên nào của Công ước MARPOL cũng như các quốc gia ven biển nào không phải là thành viên cùa MARPOL, phù hợp với Công ước luật biện 1982. Ngoài Công ước MARPOL, Công ước luật biên cũng ghi nhận quyền của các quốc gia ven biển trong việc tiên hành việc điêu tra, kiêm tra và băt giữ tàu trong những trường hợp cụ thê tại vùng đặc quyền kinh tế của mình. Cơ sơ đe tien hành những hoạt động này là sự vi phạm đến các quy tắc và tiêu 240
  • 242. điều ước quốc tế khác cũng đã được ký kết nhằm điều chỉnh hoạt động của các tàu chở dầu trên biển.60 vấn đề khắc phục ô nhiễm đối với những sự cố tràn dầu cũng được điều chỉnh bởi một số điều ước quốc tế.61 Bên cạnh ô nhiễm cho môi trường biên từ dầu, các ô nhiễm gây ra từ các nguồn khác cũng được điêu chỉnh bởi luật quốc tế.62 2.1.2. Quy định của Công ước của LH Q về luật biển năm 1982 liên quan đến bảo vệ môi trường biển Các điều khoản về môi trường trong Công ước luật biển 1982 điều chỉnh 3 loại nguồn gây ô nhiễm cơ bản: nguồn ô nhiễm từ đất liền, nguồn ô nhiễm từ tàu thuyền và nguồn ô nhiễm từ không khí. Các quy định này áp dụng cho tất cả các vùng biển, bao gồm vùng biển quốc tế và các vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển. Công ước chuẩn quốc tế đối với việc ngăn ngừa, giảm thiểu và kiêm soát đối với những ô nhiễm từ tàu thuyền, ví dụ như công ước MARPOL, nêu sự vi phạm đó đe dọa hoặc gây ra những thiệt hại về môi trường. 60 Cụ thể, có thể kể đến Công ước về trách nhiệm dân sự đối với những thiệt hại do ô nhiễm dầu năm 1969 và Công ước về thành lập quỹ quốc tế về bồi thường cho những thiệt hại do ô nhiễm dầu năm 1971. Hai công ước này xác định trách nhiệm đối với nguy cơ ô nhiễm cho các chù tàu cũng như cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành bồi thường. Hai công ước này được cập nhật bởi Nghị định thư nãm 1992. Một công ước khác, xây dựng trên khuôn mẫu của Công ước về trách nhiệm dân sự đôi với thiệt hại do ô nhiễm dầu, liên quan vấn đề ô nhiễm gây ra do các thùng chứa dầu từ tàu đã được ký kêt vào nãm 2001 và có hiệu lực từ năm 2008. 6 1 Công ước liên quan đến sự can thiệp trên biển cả trong những trường hợp ô nhiễm dầu năm 1969 cho phép quốc gia ven biên được phép can thiệp ở ngoài vùng lãnh hải của họ nếu có sự cố tràn dầu xảy ra. Công ước về dự phòng và đôi phó ô nhiễm dầu năm 1990 yêu cầu sự chuẩn bị các biện pháp đối phó cho những sự cố tràn dầu khẩn cấp. Tiêu biểu, có thể kề đến việc mở rộng phạm vi áp dụng của Công ước về dự phòng và đối phó ô nhiễm dầu đối với các chất nguy hại khác ngoài dâu vào năm 1973 và Nghị định thư thông qua năm 2000 cho phép áp dụng Công ước đối với các chất độc hại và nguy hiểm có khả nâng gây ô nhiễm môi trường biên 241
  • 243. ấn định nghĩa vụ của các quốc gia ven biển liên quan đên việc bảo vệ và gìn giữ môi trường biên. Công ước cũng yêu câu các quốc gia tiên hành hợp tác quôc tê khu vực và toàn câu trong việc bảo vệ môi trường biển. 2. 1. 2. 1. Quyền và nghĩa vụ của các quốc gia trong việc bảo vệ môi trường biển Công ước xác định các quốc gia có thẩm quyền thực thi quyên tài phán đối với vấn đề ô nhiễm biển bao gồm các quốc gia mà tàu thuyền mang quốc tịch; các quốc gia cảng biển và các quốc gia ven biên. Các quôc gia này có nghĩa vụ ban hành luật lệ và các quy định trong nước cũng như tiến hành các biện pháp cần thiết để thực thi các quy tăc và luật lệ quôc tê trong lĩnh vực này nhàm ngăn chặn và kiêm soát ô nhiễm môi trường biển. Các quốc gia mà tàu thuyền mang quốc tịch có nghĩa vụ đảm bảo các tàu thuyên mang cờ của quôc gia mình phải tuân thủ đúng các quy tắc và luật lệ quốc tế cũng như của chính quốc gia mình, bao gôm việc đảm bảo các giây tờ theo quy định và kiểm ưa định kỳ cũng như câm hoạt động trong trường họp không đảm bảo yêu cầu. Các quốc gia này có thâm quyền tiến hành điều ưa, thực hiện hoạt động tố tụng và trừng phạt đối với vi phạm, không phụ thuộc vào vi phạm đó xảy ra ở đâu (Điêu 217) về phía các quốc gia cảng biển, theo Điều 218 của Công ước 1982 về luật biển, ưong trường hợp các tàu thuyền đến các cảng (bao gôm các cảng xa bờ) của mình, các quốc gia này có thể điều tra và khi có bằng chứng đảm bảo, có thể tiến hanh hoạt động tố tụng nếu những chiếc tàu này (i) có hành vi vi phạm các quy tắc và luật lệ quôc tê hiện hành trên vùng biển quốc tế hoặc (ii) có hành vi vi phạm trong vùng nội thủy, lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế của quôc gia khác nêu như quôc gia đó yêu cầu hoặc hành vi vi phạm đã gâỵ ra hoặc có khả năng gây ra ô nhiễm đối với các vùng biển của quôc gia mưih. Ngoài ra, các quốc gia này còn có quyền cấm tàu thuyền nước ngoài đi vào cảng của quốc gia mình nếu có sự vi phạm các quy tắc 242
  • 244. và luật lệ liên quan đến khả năng đi biển, đe dọa gây thiệt-hại cho môi trường, trừ khi sự vi phạm đó đã được xừ lý. Quốc gia ven biển phải áp dụng các biện pháp phòng ngừa để ngăn chặn ô nhiễm biển như thông báo cho các quốc gia khác về nguy cơ ô nhiễm biển sắp xảy ra; xây dựng các phương án đối phó, kiểm soát nguy cơ ô nhiễm và đánh giá khả năng gây ô nhiễm biển và nguy cơ gây tác hại một cách đáng kể đến môi trường biển của các hoạt động và thông báo cho các quốc gia khác về những đánh giá này. Quốc gia ven biển có thẩm quyền tuyệt đối theo Điều 220 trong việc ngăn chặn sự ô nhiễm môi trường biển trong vùng lãnh hải và đặc quyền kinh tế của mình.63 Cụ thể: - Quốc gia ven biển có quyền lập pháp nhằm ngăn chặn ô nhiễm biển bởi tàu thuyền trong vùng lãnh hải (Điều 211(4)) và đặc quyền kinh tế (Điều 211(5)) phù họp với các quy tắc và luật lệ quốc tế. Đối với lãnh hải, thẩm quyền này chi bị giới hạn ưong chừng mực nó không làm phương hại đến quyền qua lại vô hại; - Quốc gia ven biển có quyền tiến hành kiểm ưa đối với một chiếc tàu nếu có cơ sở rõ ràng để tin rằng có sự vi phạm dẫn đến thiệt hại hoặc đe dọa gây ra ô nhiễm môi trường đáng kể cho môi trường biển (Điều 220(5)). Nếu việc vi phạm gây ra thiệt hại lớn hoặc đe dọa gây thiệt hại lớn cho bờ biển hoặc các lợi ích liên quan của mình, quốc gia ven biển có quyền tiến hành các hoạt động tố tụng, bao gồm việc bắt giữ chiếc tàu theo luật quốc gia mình hoặc cho phép chiếc tàu đó tiếp tục hành ưình nếu như nó đã đóng tiền thế chân hoặc có các biện pháp tài chinh đảm bảo việc tuân thủ (Điều 220(7)). Việc tố tụng này cũng phải đảm bảo lợi ích của quốc gia mà con tàu mang quốc tịch; 63 Tuy nhiên, trên nguyên tắc miễn trừ quốc gia các quy định của Công ước về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển sẽ không áp dụng cho các tàu chiến, tàu hải quân hỗ trợ cũng như các máy bay và tàu biển của nhà nước sử dụng vào mục đích phi thưorng mại (Điều 236). 243
  • 245. - Quốc gia ven biển có quyền áp dụng các biện pháp chê tài dân sự nhằm khắc phục và đền bù cho những thiệt hại gây ra cho môi trường biên. Các biện pháp chế tài hình sự được áp dụng đôi vói những vi phạm cố ý và nghiêm trọng trong lãnh hải và chỉ áp dụng các hình thức phạt tiền áp dụng đối với tàu nước ngoài vi phạm ngoài lãnh hải (Điều 230); - Công ước ấn định trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia ven biển do không tuân thủ các nghĩa vụ quốc tế về bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Ngoài ra, quốc gia ven biển cũng chịu trách nhiệm về những thiệt hại hoặc mất mát mà họ gây ra do việc áp dụng các biện pháp quá mức cần thiết hoặc bất hợp pháp trong khi áp dụng các quy định về môi trường biển của Công ước. 2.1.2.2. Hành động trong trường hợp khẩn cấp Trường hợp khẩn cấp có thể hiểu là nhũng sự cố xảy ra do có sự hiện diện hoặc sự đe dọa của hydrocarbon hoặc các chất gây ô nhiễm nguy hiểm khác tạo nên một sự đe dọa tức thì và nghiêm trọng đôi với bò biển hoặc các lợi ích liên quan của một quốc gia.64 vấn đề này cũng là một trong những nội dung phát triển nhất của luật quốc tế về bảo vệ môi trường biển. Ở quy mô toàn cầu, vấn đề này được điều chỉnh băng những nguyên tắc chung của Công ước luật biển 1982 (Điều 189, Điều 204 và Điều 211(7)) cũng như Công ước London về chuẩn bị đối phó và hợp tác chống lại sự cố về dầu năm 1990 và các nghị định thư kèm theo. Trước khi hai công ước này được ký kết, vấn đề này được điều chỉnh bởi các điều ước quốc tế khu vực.65 64 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, Guide to International Environmental Law (Martinus N ijhoff Publishers, 2007) trang 203. 65 Ví dụ Công ước về bào vệ đôi với môi trường biển và khu vực bờ biển Địa Trung Hải - Công ước Barcelona năm 1976(77?e Convention for the Protection of the Marine Environment and the Coastal Region of the Mediterranean)', Công ước Kuwait vê hợp tác và bào vệ môi trường biển khòi sự ô nhiễm - Công ước Kuwait năm 1978 (Kuwait Regional Conventionfor Co-operation on the Protection of the Marine Environmentfrom Pollution); Công ước về bảo vệ môi trường biên và khu vực ven bờ Đông Nam Thái Bình 244
  • 246. Nhìn chung, nghĩa vụ của quốc gia trong trường họp khẩn cấp bao gồm:66 - Thực hiện riêng rẽ hoặc phối hợp các biện pháp thích hợp nhăm chuân bị và săn sàng ứng phó đôi với một sự cô tràn dâu. Sự chuẩn bị bao gồm thành lập cơ quan chuyên trách quốc gia và khu vực, các điểm báo cáo và cơ quan thay mặt cho quốc gia yêu cầu sự trợ giúp; xây dựng chương trình quốc gia về hành động khẩn cấp và huân luyện nhân sự; ừang bị kê hoạch hành động trên các tàu mang quốc tịch của mình và có thể được kiểm tra cũng như xây dựng các kê hoạch hành động tương tự tại cảng biên và các cơ sở trên bờ...; - Đảm bảo khả năng phản ứng khi xảy ra sự cố; - Hợp tác nhằm cung cấp dịch vụ tư vấn, trợ giúp kỹ thuật và trang thiết bị; - Cung cấp những thông tin cần thiết để ứng phó với nguy cơ xảy ra và đảm bảo kết nối thông tin; - Thực thi hệ thống giám sát nguy cơ (quy định tại Điều 204 Công ước luật biển 1982) và hợp tác với các quốc gia nhằm phát triển và hoàn thiện các chương trình đối phó ô nhiễm; - Thành lập các trung tâm trợ giúp lẫn nhau trong trường hợp xảy ra sự cố; - Thông báo kịp thời đến các quốc gia có khả năng bị ảnh hưởng, các quốc gia quan tâm và tổ chức quốc tế liên quan cũng như các tàu thuyền về sự cố gây ô nhiễm hoặc có khả năng gây ô nhiễm Dương - Công ước Lima năm 1981 (Convention for the Protection of the Marine Environment and Coastal Area of the South-East Pacific); Công ước vê hợp tác trong việc bảo vệ và phát triên môi trường biển và bờ biên Tây và Trung Phi - Công ước Abidjian năm 1981 (Convention for Co-operation in the Protection and Development of the Marine and Coastal Environment of the West and Central African Region) 66Xem Công ước London 1990. 245
  • 247. biển về sự hiện diện, đặc điểm và mức độ lan tỏa có thể quan sát được...; - Họp tác thực hiện cứu hộ nhằm giảm thiểu sự đe dọa của ô nhiễm, cung cấp nhân sự, trang thiết bị, giám sát và tạo điều kiện chuyển giao nhân sự, tài liệu và thiết bị. 2.1.2.3. Điều chinh các nguồn gây ô nhiễm biển Phần này trình bày những vấn đề cơ bản liên quan đến việc điều chỉnh các nguồn gây ô nhiễm biển dựa vào bốn tiêu chí phân loại của Công ước của LHQ về luật biển năm 1982 bao gồm: ô nhiễm từ tàu thuyền; ô nhiễm từ đất liền; ô nhiễm từ việc thăm dò và khai thác đáy biển. a. Ô nhiễm từ tàu thuyền Việc gây ô nhiễm môi trường biển có thể do những hành vi từ tàu thuyền bao gồm việc thải đổ chất thải xuống biển, xả xuống biển các loại dầu khác nhau, súc rửa khoang chứa ừên tàu chở dầu và việc xả ra nước biển dùng để cân bàng trong các khoang chứa dầu rỗng. Công ước luật biển 1982 xác lập khung pháp lý quốc tế điều chỉnh vấn đề này bằng các điều khoản 194(3)(b), 211 và 217-221. Để kiểm soát và ngăn chặn nguồn gây ô nhiễm từ tàu thuyền, các quốc gia phải tiến hành các biện pháp bao gồm việc giảm đến mức thấp nhất sự ô nhiễm từ tàu thuyền, xây dựng và áp dụng cơ chế cho việc ngăn ngừa sự cố và xừ lý trong trường hợp khẩn cấp, đảm bảo an toàn cho tàu thuyền hoạt động trên biển, ngăn chặn kịp thời việc xả thải cô ý và vô ý và điêu chinh việc thiết kê, xây dựng, trang bị, hoạt động và khai thác tàu thuyên, phát triển hệ thống định tuyến nhằm hạn chế tối đa nguy cơ xảy ra ô nhiễm. Các quy định cụ thể về nghĩa vụ của quốc gia trong việc hạn chế, giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm từ tàu thuyền được quy định chi tiết tại Điều 211. b. Ô nhiễm từ đất liền Ô nhiễm biển có nguồn gốc từ đất liền có thể được định nghĩa như là những ô nhiễm do sự xả ra bởi các cơ sở ữên bờ biển hoặc từ 246
  • 248. bất kỳ nguồn nào nằm ứên đất liền hoặc công trình nhân tạo, bao gồm cả những ô nhiễm từ các dòng sông đổ ra biển. Mặc dù đây là một nguồn gây ô nhiễm biển khá nghiêm ữọng nhưng việc ngăn chặn và xử lý nó lại khó khăn do sự phức tạp trong việc xác định nguồn ô nhiễm. Điều này dẫn đến nhu cầu điều chỉnh toàn diện đối với các nguồn nước đổ ra biển. Bên cạnh các quy định của pháp luật quốc gia về cấm xả thải hoặc cấp phép trước đối với hoạt động xả thải cụ thể, sự hợp tác của các quốc gia cũng hết sức quan trọng. Các quy định của Công ước luật biển năm 1982 trong lĩnh vực này áp dụng tương tự như đối với các nguồn gây ô nhiễm khác. Theo đó, các quốc gia phải tiến hành các biện pháp càn thiết nhàm hạn chế đến mức thâp nhất có thể việc nhận chìm các chất độc có hại và độc hại, đặc biệt là các chất không bị phân hủy từ các nguồn ở đất liền (Điều 194(3)(a). Các quốc gia có nghĩa vụ ban hành luật và quy định và các biện pháp khác nhàm ngăn chặn, hạn chế và kiểm soát nguồn gây ô nhiễm này (Điều 207) và đảm bảo việc áp dụng chúng (Điều 213). Ngoài ra, bảo vệ các dòng sông khỏi sự ô nhiễm cũng nhằm mục đích ngăn ngừa và hạn chế ô nhiễm biển. Hiện tại, Công ước của LHQ về việc sử dụng không định hướng các nguồn nước quốc tê năm 1997 {the 1997 UN Convention on the Law o f the Non- Navigational Uses o f International Watercourses) có các quy định liên quan đến vấn đề này. Cụ thể, các quốc gia trên cơ sờ riêng rẽ hoặc hợp tác với các quốc gia khác phải tiến hành mọi biện pháp cân thiết nhằm bảo vệ và gìn giữ môi trường biển đối với các nguồn nước quốc tế bao gồm các cửa sông ưên cơ sở phù họp với các quy tắc và tiêu chuẩn quốc tế (Điều 23).67 Ngoài ra, các điều ước quốc tế khu vực cũng điều chỉnh vấn đề chống ô nhiễm từ đất liền, trong đó ngăn cấm việc xả thải các chất độc hại, khó phân hủy; liệt kê các ngành công nghiệp có khả năng gây ô nhiễm như sản xuất điện, lọc dầu, chăn nuôi, du lịch ...; liệt kê đặc điểm của các chất gây ô nhiễm (khó phân hủy, khả năng ảnh hưởng đến sức khỏe, mùi vị, màu sắc, độ 67 Xem Điều 23 Công ước 1997 về sử dụng không định hướng các nguồn nước quốc tế. 2 4 7
  • 249. trong suốt...) hay phân loại các chất độc hại như các thành phần và các chất halogen hữu cơ, kim loại nặng và chất diệt sinh vật.68 c. Thăm dò và khai thác đáy biển Công ước của LHQ về luật biển 1982 xác định nguồn ô nhiễm biển có nguồn gốc từ quá trình vận hành các công trình và thiết bị nhằm thăm dò và khai thác đáy biển. Điều 194(3) quy định các quốc gia có nghĩa vụ tiến hành riêng rẽ hoặc phối họp các biện pháp phù hơp với quy định của Công ước nhằm ngăn ngừa, hạn chế và chế ngự ô nhiễm từ các hoạt động này, đặc biệt là thi hành các biện pháp nhằm phòng ngừa các sự cố và đối phó với các trường hợp khẩn cấp, đảm bảo an toàn cho các hoạt động ưên biển, quy đinh về cách thiết kế, cấu trúc, trang bị, việc khai thác các thiết bị hay phương tiện này và thành phần nhân viên được sử dụng ờ đó. Liên quan tới hoạt động tương tự đối với vùng (phạm vi biển nằm ngoài các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyên và quyên tài phán của các quốc gia, được coi là di sản chung của nhân loại),69 Công ước nêu lên sự cần thiết phải áp dụng các biện pháp thi hành theo đúng Công ước để bảo vệ có hiệu quả môi trường biên chông lại những tác hại có thể có do các hoạt động đó gây ra (Điêu 145). Ngoài các quy định về bảo vệ môi trường biển theo Công ước luật biển 1982, các hoạt động thăm dò và khai thác đáy biển còn được điều chỉnh bởi Công ước của UNESCO về bảo vệ các di sản 68 Ví dụ Công ước Bắc Âu về bào vệ môi trường (Nordic Environmental Protection Convention) năm 1974; Công ước về bào vệ môi trường biên khu vực Baltic (Convention on the Protection of the Marine Environment of the Baltic Sea Area) năm 1974; Công ước về bảo vệ vùng biển Địa Trung Hải chống lại sự ô nhiêm (Conventionfor the Protection ofthe Mediterranean Sea Against Pollution) năm 1976; Công ước vê hợp tác trong việc bảo vệ và phát triển môi trường biên và ven bờ Tây và Trung Phi (Convention for Co- Operation in the Protection and Development of the Marine and Coastal Environment ofthe West and Central African Region) năm 1981... 69 Xem thêm chưong Luật biển quốc tế 248
  • 250. văn hóa nằm dưới nước năm 2002. Công ước này được ký kết nhằm mục đích bảo vệ các nguồn di tích lịch sử và khảo cổ do tàu thuyền bị chim đắm và các cổ vật khác của con người dưới đáy biển. Liên quan đến việc bảo vệ môi trường, Công ước quy định các hoạt động nhắm đến các di sản ở dưới đáy biển cần phải được thực hiện phù hợp với các quy tắc và tiêu chuẩn đổi với việc khảo cổ dưới đáy biển. Các dự án về thăm dò phải được cơ quan chức năng thông qua và tuân thủ các quy định về môi trường và không làm ảnh hưởng đến đáy biển và các sinh vật biển. 2.2. Bảo vệ khí quyển Các quy định của luật môi trường quốc tế về bảo vệ bầu khí quyển được chia thành ba lĩnh vực cụ thể liên quan đến ô nhiễm không khí xuyên biên giới, suy thoái tầng ozone và biến đổi khí hậu toàn cầu. 2.2.1. Ô nhiễm không khỉ Vấn đề chống lại ô nhiễm không khí bắt nguồn từ tranh chấp giữa Mỹ và Canada trong vụ Trail Smelter năm 1941. Phán quyết của trọng tài đã đưa đến một nguyên tắc tập quán theo đó “không quốc gia nào có quyền sử dụng hoặc cho phép sử dụng lãnh thổ của mình để phát tủn khói gây thiệt hại nghiêm trọng đến lãnh thổ, tài sản và ngirời dân của quốc gia khác; những thiệt hại phải thể hiện qua những chứng cứ xác thực Vít thuyết phục”. Từ đó, các quốc gia chịu trách nhiệm về mọi tổn thất gây ra do vi phạm nghĩa vụ kiểm soát ô nhiễm không khí xuyên biên giới. Theo nguyên tắc số 21 của Tuyên bo Stockholm năm 1972, "các quốc gia... có trách nhiệm bão đảm những hoạt động thuộc chủ quyền quốc gia không gây thiệt hại đến môi trường cúa các quốc gia khác hoặc các khu vực virợt quá giới hạn chủ quyền quốc gia”. Cho tới nay, Công ước Geneva về ô nhiễm không khí tầm xa xuyên biên giới năm 1979 là công ước duy nhất ở tầm khu vực quy 249
  • 251. định việc kiểm soát ô nhiễm không khí tầm xa.70 Mục tiêu mà Công ước đề ra là nhàm ngăn ngừa, giảm thiểu và kiểm soát ô nhiễm không khí tầm xa từ nguồn gây ô nhiễm mới và đang tồn tại, qua đó kêu gọi các quốc gia hợp tác thực hiện các biện pháp kiểm soát ô nhiễm và xây dựng các tiêu chuẩn phát thải chung. “Ô nhiễm không khí” được định nghĩa tại Điều l(a) Công ước là “sự đưa vào không khí thực hiện bởi con người một cách trực tiếp hoặc giản tiếp những chất hoặc năng htợng gây ra những hiệu ứng độc hại cho môi trường từ đó gây hại cho sức khỏe của con người, đe dọa các nguồn Sống và hệ sinh thái và tài sản vật chất và làm thiệt hại hoặc can thiệp đối với tiện ích và việc sử dụng một cách hợp pháp môi trường’'. “Ô nhiễm không khí tầm xa xuyên biên giới” đqợc định nghĩa là “những tác hại hiện diện trong phạm vi tài phán của một quốc gia do sự phát thải có nguồn gốc từ khu vực thuộc phạm vi tài phán của một quốc gia khác không phụ thuộc vào việc nguồn phát thải có thể được xác định hay không”. Tính chất “khung” của Công ước thể hiện ở việc thiếu vắng những mục tiêu giảm thiểu ô nhiễm cụ thể. Thay vào đó, Công ước chỉ quy định việc một chương trình giám sát môi trường nhằm thu thập thông tin để đánh giá mức độ nghiêm trọng của ô nhiễm, tiếp theo là việc đàm phán những nghị định thư nhằm giảm thiểu sự phát tán của những chất thải ôn nhiễm không khí cụ thể. Cách tiếp cận “khung” này cho phép các quốc gia từng bước đạt được những thỏa thuận sơ khởi tại thời điểm Công ước ra đời, khi mà các quốc gia thành viên chưa thể đạt được sự đồng thuận về những biện pháp nhăm giải quyêt một vân đê môi trường cụ thể nào đó. Cho đến nay, đã có 8 nghị định thư về giám sát cũng như về các chất gây ô nhiễm không khí cùng với những mục tiêu giảm thiểu cụ thể và các lịch trình lần lượt được ban hành kèm với công ước khung đầu tiên, qua đó đã mở rộng phạm vi cam kết của các quốc gia. 70 Công ước được ký kết giửa các nước ở châu Âu, đồng thời Mỹ và Canada cũng tham gia Công ước này. 250
  • 252. Điều đáng lun ý là Công ước này ban đầu không đề cập ưách nhiệm dân sự cũng như vấn đề tuân thủ mặc dù Công ước cũng đã có những điều khoản về thông báo và tham vấn ừong trường họp có nguy cơ xảy ra ô nhiễm xuyên biên giới đáng kể. Một cơ chế theo dõi việc không tuân thủ Công ước của các quốc gia thành viên đã được bổ sung kể từ năm 199471 cùng với việc thành lập một ủy ban có nhiệm vụ xem xét việc tuân thủ các nghĩa vụ của Công ước và các nghị định thư kèm theo.72 2.2.2. Chổng suy thoái tầng ozone Vấn đề suy thoái tầng ozone đã được nhìn nhận như là một vấn đề môi trường đáng quan tâm kể từ cuối những năm 1970. Kể từ năm 1981, UNEP đã xúc tiến các cuộc đàm phán để ký kết Công ước Vienna về bảo vệ tang ozone vào năm 1985. Cũng giống như Công ước về ô nhiễm không khí tầm xa xuyên biên giới, Công ước Vienna 1985 áp dụng một cách tiếp cận “khung”, thể hiện ở việc Công ước chủ yếu đề cập nhu cầu đánh giá nguyên nhân và hậu quả của vấn đề suy thoái tầng ozone và khả năng hợp tác trao đổi thông tin và công nghệ có liên quan. Điều này có thể được giải thích bởi lợi ích đối lập giữa các quốc gia.73 Những khác biệt về lợi ích này đã được giải quyết bởi việc thông qua Nghị định thư Montreal về các 71 Cụ thể, một cơ chế theo dõi việc tuân thù Công ước đã được đưa vào kể từ năm 1994 theo khuôn mẫu cùa việc kiểm soát tầng ozone cùa Nghị định thư Montreal năm 1987. 72 ửy ban này được thành lập vào năm 1997 có tên gọi là ửy ban về việc thực hiện Công ước (Implementation Committee ). 73 Cụ thể Mỹ quan tâm đến việc thiết lập những quy tắc bình đẳng cho việc điều chỉnh các chất làm suy thoái tànậ ozone trong khi đó các nước đang phát triển quan tâm đến vấn đề đàm bào rang những hạn chế đổi với việc sù dụng các chất gây suy thoái tầng ozone sẽ không làm phương hại đến chính sách phát triên công nghiệp, đồng thời vẫn đảm bào việc tiêp cận đối với những công nghệ thay thế trong trường hợp những hạn chế này được áp dụng. EU, nơi có nhiều các nhà sản xuất lại quan tâm đếii chi phí cho các bước tiến hành đồng thời không tin tường vào các kết luận khoa học về tác hại cùa những chất thải gây suy thoái. 251
  • 253. chât gây suy thoái tâng ozone năm 1987. Bên cạnh việc đưa ra những mục tiêu cắt giảm cụ thể, tiến tới loại bỏ các chất gây suy thoái tâng ozone, bằng những sửa đổi bổ sung tiếp theo, Nghị định thư đã đê xuất những biện pháp khuyến khích dưới hình thức tài chính747 5và kỹ thuật để thu hút các quốc gia đang phát triên tham gia. Bên cạnh đó, một cơ chế giám sát việc không tuân thủ cũng được ban hành. Cụ thể, việc đảm bảo tuân thủ Nghị định thư sẽ được thực hiẹn bởi các quốc gia thông qua hô trợ (cung câp tài chính thông qua quỹ đa phương hoặc hô trợ kỹ thuật) cũng như áp dụng một số biện pháp chê tài (như việc đựa ra khuyên cáo và/hoặc ngưng không áp dụng những đặc quyên quy định tại Điều 5 về việc trì hoãn không thực hiện các biện pháp kiểm soát dành cho các nước đang phát triển). Ngoài ra, các sửa đổi của Nghị định thư cũng đã bô sung thêm những mục tiêu nghiêm ngặt hơn cũng như lịch trình và phương pháp khôi phục tầng ozone. 2.2.3. Biến đổi khỉ hậu Tại Hội nghị Rio năm 1992, những cuộc đàm phán để đi đến một điêu ước quôc tế khung về biến đổi khí hậu được xúc tiến trên cơ sở sự công nhận của Đại hội đồng LHQ ràng bầu khí quyên là “môi quan tâm chung cùa nhân loại” và nghiên cứu của ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu cung cấp những định hướng quan trọng nhằm điều chỉnh việc phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính ở quy mô toàn cầu. Kết quả là Công ước khung của LHQ về biến đối khí hậu đã được thông qua vào năm 1992.73 Muc tiêu của Công ước là nhàm đạt được sự ổn định các nồng độ khí nhà kính trong khí quyển ở mức có thể ngăn ngừa đươc sư can thiệp nguy hiểm của con người đối với hệ thống 74Cụ thể như việc thành lập 1 quỹ đa phương (Multilateral Fund). 75 Con° ước được mở để ky vào ngày 30 tháng 5 năm 1992 và bắt đầu có hiệu lực tìr noày 21 tháng 5 năm 1994. Tại thời điểm tháng 5 năm 2011, Công ước đã có 194 thành viên. 252
  • 254. khí hậu.76 Công ước quy định tất cả các bên ký kết có nghĩa vụ tiến hành kiểm kê các nguồn khí gây hiệu ứng nhà kính và các bể hấp thụ (sinks), thiết lập các chương trình quốc gịa và những chương trình khu vực khi thích hợp đê giảm thiêu sự biến đổi khí hậu toàn cầu; hợp tác đê chuẩn bị thích ứng với những tác hại của khí hậu biến đổi và phát triển nghiên cứu khoa học. Công ước khẳng định việc áp dụng chung cho cả các quốc gia phát triển và đang phát triên trong đó có tính đên những trách nhiệm chung nhưng có khác biệt và những ưu tiên, những mục tiêu và những hoàn cảnh phát triên của từng khu vực và quốc gia. Ngoài ra, Công ước còn ấn định trách nhiệm của các quốc gia phát triển trong việc cung câp các nguồn tài chính mới và bổ sung để đáp ứng cho những chi phí mà các quốc gia đang phát triển phải gánh vác khi tuân thủ Công ước. Nguồn tài chính trong khuôn khổ Công ước là Quỹ môi trường toàn cầu (Global Environemental Facility) do Ngân hàng Thế giới, UNEP và Chương trình phát triên của LHQ (United N ations’ Development Programme, UNDP) quản lý. Các quốc gia thành viên của Công ước được chia thành 3 loại: - Các quốc gia phát triển và những quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi (Phụ lục 1);77 - Các quốc gia phát triển chi trả các chi phí cho các quôc gia đang phát triển (Phụ lục 2). Nhóm này bao gồm các quôc gia thành viên của OECD và những quốc gia được xêp vào danh sách các nền kinh tế chuyển đổi vào năm 1992;78 76 Điều 2 Công ước khung cùa LHQ về biển đồi khí hậu năm 1992. ' Hiện nay có 41 quốc gia thuộc nhóm này, bao gồm Liên minh châu Âu. Hiện nạy nhóm này bao gồm 23 quôc gia và Liên minh châu Âu. Níia và Canada đông ý tham gia Nghị định thư vào năm 2002. 253
  • 255. - Các quốc gia đang phát triển (không nằm trong danh sách các quốc gia ở phụ lục 1). Một vấn đề đáng lưu ý nữa đó là việc thông qua Nghị định thư Kyoto năm 1997, theo đó các nước phát triển đã đưa ra những cam kết rõ ràng và cụ thể về mục tiêu và lịch trình cho việc cắt giảm những khí gây hiệu ứng nhà kính chủ yếu và phát triển những cơ chế quốc tế nhằm đảm bảo việc tuân thủ những cam kết đó. Cụ thể : - Những quốc gia thuộc Phụ lục 1 cam kết giảm thiểu mức độ thải khí gây hiệu ứng nhà kính nhằm đạt đến dưới mức mà những quốc gia này đặt ra vào năm 1990. Các quốc gia thuộc nhóm này sẽ phârt bổ lượng khí thải được phép hàng năm cho các nhà sản xuất của mình. Tuy nhiên, các nhà sản xuất có thể được phép thải nhiều hơn số lượng đó nếu họ mua số lượng phát thải hoặc giải quyết số lượng vượt quá đó thông qua một cơ chế được nhất trí bời các quốc gia thành viên Công ước. - Những quốc gia đang phát triển không phải giảm mức phát thải trừ khi các quốc gia phát triển đã cung ứng cho họ đầy đủ tài chính và công nghệ. Quy định này cho phép các quốc gia đang phát triển tránh được những hạn chế cho sự phát triển kinh tế của họ với lý do rằng sự phát thải gắn liền với khả năng công nghiệp. Đồng thời, các quốc gia này có thể bán định mức phát thải cho những nhà sản xuất của những quốc gia gặp khó khăn trong việc đáp ứng chỉ tiêu phát thải. Ngoài ra, các quốc gia đang phát triển có thể nhận được vốn và công nghệ từ các quốc gia xếp vào Phụ lục 2. Tuy nhiên, các quốc gia đang phát triên cũng có thê tự nguyện xin đưa vào Phụ lục 1 nếu như họ đáp ứng đủ các tiêu chí của quốc gia phát triển. Nghị định thư cũng thành lập ra một cơ quan thực thi {Compliance Committee) bao gồm một ủy ban hỗ trợ và một ủy ban về việc thực thi có mục đích tạo điều kiện, thúc đẩy và 254
  • 256. đảm bảo thực thi Nghị định thư. Nhằm đảm bảo tính hiệu quả của nó, Nghị định thư Kyoto sẽ chỉ có hiệu lực nếu có đủ 55 quốc gia tham gia trong đó bao gồm các quốc gia thành viên thuộc Phụ lục 1 đại diện cho 55% tổng số lượng khí thải dioxide của nhóm này tại thời điểm năm 1990. Nghị định thư Kyoto đã bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 16 tháng 2 năm 2005 với việc có đủ số thành viên và đại diện số phần trăm lượng khí thải dioxide theo quy định.79 2.3. Bảo vệ đa dạng sinh học Sự tương tác giữa con người và các thực thể sống khác là chủ đê bàn cãi từ lâu trong lịch sử và chủ yếu xoay quanh vân đê vai trò, quyền lợi và trách nhiệm của con người đôi với các thực thể sống. Trải qua quá trình khai thác, sừ dụng và biến đổi tự nhiên, con người đã nhận ra nguy cơ đe đọa ngày càng tăng đối với sự đa dạng sinh học do việc khai thác, tàn phá môi trường sổng, sự ô nhiễm và các hoạt động dân đên hậu quả tiêu cực làm tổn hại đến tiến trình sinh hóa. Từ đó, những nỗ lực nhằm điều chỉnh việc sử dụng và bảo vệ các giống loài động thực vật đã được các quốc gia tiến hành trong khuôn khổ pháp luật quốc gia, ví dụ như giới hạn việc săn băt và đánh cá đối với những giống loài quý hiêm. Những nô lực ờ phạm vi liên quốc gia sau đó cũng dân dân được quan tâm do sự cư trú của giống loài động thực vật ở nhiêu quôc gia và nhu cầu bảo vệ chúng khỏi sự khai thác cạn kiệt tại vùng biển cả. Tuy nhiên, ban đầu, việc bảo vệ đa dạng sinh học chỉ được quy định rải rác trong nhiều văn kiện pháp lý quôc tê và thông thường các văn bản này chỉ nhằm bảo vệ những giống loài cụ thể hoặc chỉ đưa ra những biện pháp cấm đoán mà không đề ra những biện pháp nhằm bảo vệ các điều kiện của 79 Mặc dù đã có hiệu lực, cho đến nay Mỹ vẫn chưa tham gia Nghị định thư Kyoto. 255
  • 257. môi trường sống gắn liền với sự tồn tại của những giông loài đó. Những thỏa thuận quốc tế sau này đã chú trọng đên vai trò của các giống loài trong hệ sinh thái nơi chúng xuât hiện và sự cần thiết phải bảo vệ sự đa dạng về gen trước những đe dọa do sự ô nhiễm một cách vô ý hoặc tai nạn như từ việc tràn dâu, thuốc trừ sâu hoặc trước những đe dọa khác đến môi trường sinh sống của các động vật hoang dã. Cách tiếp cận ở góc độ sinh thái như hiện nay được đề cập trong các nguyên tắc quan trọng ghi nhận tại Tuyên bố Stockholm năm 1972 (Nguyên tắc 4), sau đó là trong Hiến chương thế giới về tự nhiên năm 1982 (nguyên tắc 2 và 3). Sự cần thiết của một hệ thống các quy phạm hoàn chỉnh nhằm mục đích bảo vệ đa dạng sinh thái của trái đất đã dân đên sự ra đờivcủa Công ước LHQ về đa dạng sinh học, được thông qua tại Hội nghị Rio năm 1992. Trên cơ sở đó, các điêu ước quốc tế về bảo vệ đa dạng sinh học lần lượt ra đời và được chia thành 3 nhóm cơ bản: - Các điều ước quốc tế về bảo vệ đa dạng sinh học ở mức độ chung nhất; - Các điều ước quốc tế nhằm chống lại những mối đe dọa cụ thể đối với đa dạng sinh học; - Các điêu ước quốc tế đa phương và song phương nhằm mục đích bảo vệ các nhóm loài cụ thể hoặc những nhóm được phân loại đặc biệt như cá voi, dơi, hải cẩu và các loài chim di trú. 2.3.1. Các điêu U'ớc quôc tê về báo vệ đa dạng sinh học ở mức độ chung Công ước về đa dạng sinh học được thông tại Hội nghị Rio vào ngày 22/5/1992 và băt đâu có hiệụ lực từ ngày 29/12/1993.80 “Đa dạng sinh học” được định nghĩa tại Điều 2 80 Hiện tại đã có 193 quốc gia, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế là thành viên của Công ước LHQ về đa dạng sinh học. 256
  • 258. của Công ước là “tính (đa dạng) biến thiên giữa các sinh vật sông của tất cả các nguồn bao gồm các hệ sinh thái tiếp giáp, trên cạn, biển, các hệ sinh thải thủy vực khác và các tập hợp 'ình thái mà chúng là một phần. Tỉnh đa dạng này thể hiện ở trong mỗi bộ loài, giữa các loài và các hệ sinh học”. Công ước có 3 mục tiêu cơ bản: - Bảo tồn sự đa dạng sinh học; - Sử dụng một cách bền vững các thành phần của đa dạng sinh học; - Chia sẻ một cách hợp lý và công bằng các lợi ích có được từ việc tiếp cận và sử dụng đúng đắn các nguồn gen. Công ước đề cập những vấn đề cơ bản, đồng thời quy định các biện pháp nhằm bảo tồn và sử dụng bên vững đa dạng sinh học, theo đó: - Các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện các biện pháp ở phạm vi quốc gia nhằm ngăn chặn sự tàn phá đối với các giống loài, môi trường sống và hệ sinh thái. Các biện pháp bao gờm việc thông qua các quy định vê bảo vệ đa dạng sinh học, trách nhiệm pháp lý, điều chỉnh công nghệ sinh học và các quy định về việc tiếp cận và chi trả cho việc sử dụng các nguồn gen; - Các quốc gia có trách nhiệm áp dụng các quy định của Công ước trong phạm vi lãnh thổ cũng như đối với các hoạt động diễn ra trong phạm vi quyền tài phán của mình. Công ước nhấn mạnh chủ quyền của các quốc gia trong việc quyết định tiếp cận các nguồn gen dựa trên nên tảng pháp luật quốc gia. Các nghĩa vụ của quốc gia bao gồm việc xác định những thành phần của đa dạng sinh nọc và những ưu tiên cũng như các biện pháp bảo tồn đặc biệt cũng như xây dựng quy trình theo dõi tiến trình và các hoạt động có khả năng gây tác hại đối với đa dạng sinh học (Điều 7). Các quốc gia có nghĩa vụ phát triển chiến lược và kế hoạch quốc gia, đưa vấn đề bảo vệ 257
  • 259. đa dạng sinh học vào các kế hoạch và chương trình của từng ngành cũng như vào chính sách chung (Điều 6 và Điều 10);81 - Công ước đưa ra khái niệm “bảo tồn nội vi” {in situ) tại Điều 2, theo đó "bảo tồn nội vi" là sự bảo toàn các hệ sinh thái, các môi trường sống tự nhiên, là sự duy trì và phục hồi dân số của các loài đến số lượng mà chúng có thể sinh tồn được trong môi trường của chúng. Các biện pháp bảo tồn nội vi được quy định chi tiết tại Điều 8, bao gồm từ việc thiết lập các khu vực bảo tồn cho đến khôi phục lại các hệ sinh thái bị xuống cấp và bảo vệ môi trường sống tự nhiên. Việc bảo vệ hệ sinh thái, điều chỉnh và quản lý nguồn sinh học được thực hiện trên quan điểm bảo đảm sự an toàn đa dạng sinh học dù ở trong hay ngoài phạm vi của cầc khu bảo tồn. - “Sử dụng bền vững” cũng là một nội dung quan trọng của Công ước và được định nghĩa là “sử dụng các bộ phận hợp thành của đa dạng sinh học với cách thức và mức độ sao cho đa dạng sinh học không bị suy giảm về lâu dài, bằng cách đó duy trì tiêm năng của đa dạng sinh học đê đáp ứng nhu cầu về nguyện vọng của các thế hệ hiện tại và tương lai” (Điều 2). Các quôc gia có nghĩa vụ điêu chỉnh hoặc quản lý các nguôn sinh học đang khai thác, phát triển các phương pháp bền vững và giảm thiêu các tác hại đối với đa dạng sinh học, xúc tiến nghiên cửu, đào tạo và giáo dục cộng đồng cũng như các biện pháp kỹ thuật như việc đánh giá tác động môi trường. - Điều chỉnh việc tiếp cận đối với các nguồn di truyền và kiến thức cổ truyền, bao gồm việc tiếp cận có sự đồng ý trước của bên ký kết cung cấp nguồn gen. Các quốc gia có nghĩa vụ tạo ra các điều kiện thuận lợi để thúc đẩy việc tiếp cận các nguồn gen để các quốc gia khác có thể sử dụng một 81 Theo Phụ lục 1 của Công ước, những đối tượng cần được quan tâm trong việc xác định và theo dõi bao gôm: hệ sinh thái và môi trường sông; các giống loài và cộng đồng; các bộ gene và các loại gene có ý nghĩa quan trong về mặt xã hội, kinh tế và khoa học. 258
  • 260. cách đúng đắn cũng như không được áp dụng các biện pháp hạn chế có thể làm phương hại đến các mục tiêu của Công ước. Kết quả của việc nghiên cứu và phát triển cũng như những lợi ích có được từ việc sử dụng thương mại và những sử dụng khác các nguồn gen phải được chia sẻ một cách hợp lý, công bằng với bên ký kết cung cấp nguồn gen. - Công ước cũng yêu cầu các quốc gia đảm bảo việc tiếp cận và chuyển giao công nghệ, bao gồm cả công nghệ sinh học cho các chính phủ và cộng đồng địa phương đã cung cấp kiên thức cổ truyền cũng như các nguồn đa dạng sinh học khác; kêu gọi hợp tác về khoa học và kỹ thuật; - Công ước xác định mối liên hệ pháp lý giữa nghĩa vụ bảo tôn đa dạng sinh học của các quôc gia đang phát triên và nghĩa vụ tài chính của các quốc gia phát triển. Theo đó, các quốc gia phát triển được yêu cầu cung cấp * ‘các nguôn tài chính mới và bổ sung” cho các quốc gia đang phát triển nhăm tiến hành các biện pháp cần thiết để thực thi các nghĩa vụ - Quốc gia phải báo cáo về việc tuân thủ các cam kêt trong Công ước. Ngoài ra, trong lĩnh vực bảo vệ đa dạng sinh học, các quốc gia đã ký kết nhiều điều ước quốc tê đa phương và khu vực khác có liên quan.82 82 Có thể kể đến những điều ước quốc tế tiêu biểu sau: - Công ước Bonn về những loài động vật hoang dã di trú năm 1979. Công ước này xác lập một khung pháp lý theo đó các quôc gia có nghĩa vụ thực hiện đon lè hoặc hợp tác nhàm bảo tồn các loại động vật hoang dã di trú và môi trường sông cùa chúng; - Công ước về bảo vệ thiên nhiên và gìn giữ đội sông hoang dã giũa các nước thuộc tây bán cầu năm 1940. Công ước này đề cập việc thiết lập những khu bảo tồn, bảo vệ các loại động vật di trú và đang bị đe dọa tuyệt chùng, giám sát và điều chinh hoạt động thương mại liên quan đến các loại động thực vật hoang dã; 259
  • 261. 2.3.2. Các điều ước quốc tế nhằm chống lại những mối đe dọa cụ thể đối với đa dạng sinh học Hiện tại, có 5 công ước quốc tế riêng biệt bảo vệ động vật hoang dã hoặc bảo vệ những giống loài cụ thể thông qua việc bảo vệ môi trường sống và các biện pháp cấm mua bán. 2.3.2.1. Các công ước liên quan đến việc bảo vệ môi trường sổng Một số điều ước quốc tế quy định việc bảo vệ môi trường sống trong khi một số điều ước khác quy định bảo vệ các giống loài đặc biệt thông qua việc thành lập các khu bảo tồn. Khái niệm “môi trường sống” được định nghĩa là “bất kỳ khu vực nào thuộc phạm vi cư trú của một giống loài bao gồm - Hiệp ước hợp tác giữa các nước vùng Amazone năm 1980 (Bolivia, Brazil, Colombia, Ecuador, Guyana, Peru, Suriname và Venezuela); Công ước về bào tồn đa dạng sinh học và bảo vệ các khu vực hoang dã Trung Mỹ năm 1992; Công ước về quản lý và bảo tôn hệ sinh thái rừng tự nhiên và phát triền trông rừng năm 1993; Hiệp định vê hành lang sinh thái Trung Mỹ năm 1996. - Công ước về bảo vệ thiên nhiên năm 2003 ký kết giữa các quôc gia thuộc Liên minh châu Phi; - Công ước Apia về bảo tồn thiên nhiên ở Nam Thái Bình Dương năm 1976 nhấn mạnh đến việc thành lập các khu bảo tồn cũng như bảo vệ các loài động vật di trú và đang bị đe dọa. - Công ước ASEAN về bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên nãm 1985. Hiện nay Công ước này vân chưa có đủ số thành viên phê chuẩn để có thể có hiệu lực; - Công ước châu Âu về bảo tồn động vật hoang dã và môi trường sống thiên nhiên năm 1979. Mục tiêu của Công ước là bảo tồn các loài động thực vật hoang dã. ngoài việc ghi nhận những nội dung quan trọng về bảo tồn đa dạng sinh học như trong các điều ước quôc tê khu vực khác, Công ước nàỵ thành lập mọt thiet che đảm bảo việc thực hiện các nghĩa vụ, đồng thời ấn định những nghĩa vụ cụ thể cho các quốc gia, thay vì đơn thuần kêu gọi việc tuân thủ từ phía các quốc gia thành viên. 260
  • 262. các điểụ kiện sống thích hợp cho loài đó”.S3 Bảo vệ môi trường sống là mục tiêu chủ yếu của Công ước năm 1971 về những vùng đất ngập ước có tầm quan trọng quốc tế, đặc biệt ỉà nơi cư trú của các loài chim nước (Ramsar) hay Nghị định thư Geneva năm 1982 liên quan đến những khu bảo tồn đặc biệt ở Địa Trung Hải. Trong nhiều điều ước quốc tế khu vực khác, việc thiết lập những khu bảo tồn, chẳng hạn như các công viên quốc gia hoặc khu bảo tồn thiên nhiên và các biện pháp bảo vệ thường được quy định cụ thể.* 84 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, Guide to International Environmental Law (Martinus Nijhoff Publishers, 2007) trang 186. 84 Công ước Ranisar là điểu ưởc quốc tế về môi trường toàn cầu duy nhât điêu chỉnh một vân đê sinh thái, cụ thể là việc bảo tồn và sử dụng khôn khéo {wise use) các vùng đất ngập nước là nơi cư ngụ của các loài chim hoang dã. Các điêu khoản ban đầu cùa Công ước đã được làm rồ thông qua các Hướng dân {Guidelines) thông qua tại Hội nghị của các bên ký kêt. Công ước xây dựng một cơ chế điều chỉnh mà cốt lõi là việc niêm yết các địa điểm {site) và chuyển giao việc bào vệ chúng bàng luật quốc gia. Cụ thể, các bên ký kêt được yêu câu sẽ chỉ định những vùng đât ngập nước thích hợp trong phạm VI lãnh thô của mình và chúng sẽ được đưa vào danh sách các vùng đât ngạp nước có tầm quan trọng quốc tế sau khi thỏa mãn các tiêu chí về việc xác định một vùng đất như thế. Cac quốc gia sẽ báo cáo 3 năm một lần cho các bên ký kết khác về việc thực hiện điều ước, qua đó có điều kiện đánh giá các biện pháp thực hiện ở phạm vi quốc gia. Những địa điểm được đưa vào danh mục của Ramsar sẽ được bảo vệ băng luật của mỗi quốc gia. Một quỹ hỗ trợ dành cho việc bảo tồn và sử dụng khôn khéo các vùng đất ngập nước cũng được thành lập nãm 1990 nhằm thúc đây sự tuân thủ việc thực hiện Công ước cùng với các hình thức trợ giúp kỹ thuạt khác thông qua Cơ quan tư vấn cùa Công ước Ramsar. Các hình thức trợ giúp kỹ thuật này chủ yếu là việc cung cấp thêm thông tin về các vân đê cũng như mối đe dọa cỏ thể xảy ra. Tuy nhiên, việc không phát triển và bảo tôn những vùng đất ngập nước cũng như sử dụng khôn khéo chúng có thê dân dên việc những vùng này được đưa vào “Báo cáo nhừne địa diêm cùa Công ước Ramsar cần sự lưu tâm đặc biệt'1 đề ra vào năm 1990 tại Hội nghị Montreaux trong đó chỉ rõ những đe dọa cho những vùng được bảo vệ này, thậm chí các vùng bão vệ này có thê được dưa ra khỏi danh sách. Xem 261
  • 263. 2.3.2.2. Công ước điều chỉnh việc mua bản các loài động vật hoang dã Việc điều chỉnh hoạt động mua bán, mà cụ thể là cấm việc khai thác quá mức, được coi như một trong những biện pháp bảo vệ các giông loài liên quan. Điều này là quan trọng bời lẽ đôi với một sô quốc gia, đặc biệt là các nước nghèo, việc buôn bán các loài động thực vật là một nguồn thu nhập đáng kê. Điêu ước quốc tế quan trọng trong lĩnh vực này là Công ước vê buôn bán quốc tế các loại động thực vật hoang dã nguy cấp năm 1973 (CITES). Công ước CITES quy định việc bảo vệ các loài động thực vật hoang dã đang bị đe dọa thông qua việc cấm mua bán đồng thời điều chỉnh hoạt động mua bán đôi với những giống loài khác có thể được khai thác thương mại. Mục tiêu của Công ước là nhằm bảo đảm sự bền vững và lợi ích kinh tế của các quốc gia xuất khẩu.85 Việc kiểm soát xuất nhập khẩu các giống loài động thực vật đang bị đe dọa và các sản phâm ờ quy mô toàn cầu được thực hiện thông qua một cơ chế cho phép. Cơ chế này đòi hỏi các quốc gia thành lập những cơ quan có thẩm quyền (.Management and Scientific Authorities). Các cơ quan này có chức năng quản lý và cấp phép, đồng thời tư vấn về tác động của những hoạt động mua bán đối với các giống loài. Bên cạnh đó, các quốc gia phải ban hành luật đê thực hiện Công ước CITES ở phạm vi quốc gia trong đó nghiêm cấm việc buồn bán các loài động thực vật này, các biện pháp chế tài đối với vi phạm và quy định việc thu giữ tang vật. Công ước cũng thành lập ban thư ký có nhiệm vụ theo dõi việc thực hiên các nghĩa vụ của các quôc gia và thúc đây trao đôi thông tin thu thập liên quan đến việc thực hiện của các quôc gia và cũng như nghĩa vụ báo cáo hàng năm. Công ước CITES phân loại các loại động thực vật Patricia Birnie and Alan Boyle, International Law and. the Environment, Oxford. 2nd, 2002, tr. 545-599. 85Alexandre Kiss and Dinah Shelton, trang 186. 262
  • 264. cần được bảo vệ tại 3 phụ lục đính kèm, trong đó mỗi loại sẽ được áp dụng những biện pháp bảo vệ cụ thể.86 2.3.3. Các điều ước quốc tế về bảo vệ những giống loài cụ thể Một số lượng lớn các điều ước quốc tế được ký kết nhằm bảo vệ một số loài động vật đặc biệt như gấu Bắc Cực hoặc bảo tồn các nhóm loài động vật như cá voi, hải cẩu và các loại chim. Các điều ước quốc tế này thường ở dạng điều ước khu vực ở nơi các nhóm loài đó cư trú. Trong số các điều ước thuộc nhóm này, các điều ước về đánh cá và bảo vệ sinh vật biển là những điều ước phổ biến nhất.87 Công ước của LHQ về luật biển năm 1982 có những quy định quan trọng liên quan đến bảo tồn tài nguyên sinh vật biển. Theo đó, các quốc gia ven biển có nghĩa vụ bảo tồn tài nguyên sinh vật biển trong những khu vực thuộc quyền tài phán của mình (lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục đĩa). Trong đó, vùng đặc quyền kinh tế có tầm quan trọng lớn nhất đối với bảo vệ tài nguyên sinh vật biển. Theo Công ước, các quốc gia có các quyền chủ quyền trong việc thăm dò và khai khác, bảo tồn và quản lý đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên sinh vật và không sinh vật. Quyền chủ quyền này 86 Phụ lục I cấm việc mua bán những loài động thực vật đang có nguy cơ tuyệt chùng, tuy nhiên Phụ lục có một số ngoại lệ cho phép việc xuất khẩu, tái xuất hoặc nhập khẩu trên cơ sờ giấy phép. Phụ lục này hiện liên quan đến 800 loài. Phụ luc II cho phép việc mua bán có giới hạn một số loài động thực vật không thuộc điện có nguy cơ tuyệt chùng tuy nhiên có khà năng xảy ra nguy cơ này nêu như việc mua bán không được kiêm soát. Việc câp phép chi giới hạn đôi với việc xuât khâu hoặc tái xuất khẩu. Phụ lục này hiện liên quan đến 32,500 loài. Phụ lục III bao gồm các giống loài được quy định bởi pháp luật quốc gia và được đưa vào trong trường hợp các quôc gia đê nghị các thành viên CITES khác hợp tác nhăm kiêm soát việc mua bán đôi với chúng. Phụ lục này hiện đê cập 170 loài. 87 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, llđd, tr. 187. 263
  • 265. cho phép quốc gia ven biển có khả năng tiến hành mọi biệ1 1 pháp cân thiêt, kê cả khám xét, kiểm tra, bắt giữ và khởi tố tơ pháp đê bảo đảm việc tôn trọng các luật và quy định mà mình đã ban hành theo đúng Công ước (Điều 73). Đông thời, các quốc gia ven biển có nghĩa vụ thi hành các biện pháp thích hợp về bảo tồn và quản lý để các nguôn lợi sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình khỏi bí ảnh hường do khai thác quá mức. Công ước yêu câu các quôc gia hợp tác với các tổ chức quốc tế trong những trường cân thiêt nhăm bảo tôn hoặc khôi phục số lượng các loài bị khu1 thác đê có thê đảm bảo tôi đa sự khai thác bền vững (Điều 61)- Ngoài rạ, các quốc gia ven biển phải chú ý đến tác động cùn chúng đôi với các loài quân hợp (associated) với các loài được khai thác hoặc phụ thuộc vào các loài đó để duy trì hoặc khôi phục các đàn {stocks) của những loài quần hợp hay phụ thuộc này ở một mức độ làm việc sinh sản của chúng khỏi nguy cơ bị tổn hại nghiêm trọng (Điều 61 khoản 4).88 Đối với vùng biển quốc té, Công ước yêu cầu tất cả các quốc gia có nghĩa vụ định ra các biện pháp có thể cần thiết để áp dụng đổi với các công dân của mình nhàm bảo tồn tài nguyên sinh vật của biển cả hoặc hợp tác với các quốc gia khác trong việc định ra các biện pháp như vậy cũng như đòi hỏi các quốc gia hợp tác với nhau về vấn đề này (Điều 117-118). Công ước của LHQ về luật biển năm 1982 với những quy định về đánh bắt cá đã trở thành khuôn mẫu cho các điều ước quốc tế khu vực về vấn đề này. Tương tự như các đàn cá, 8 8 Nguyên văn: ‘7n taking such measures the coastal State shall take into consideration the effects on species associated with or dependent upon hat'vested species with a view to maintaining or restoring populations ofsuch associated or dependent species above levels at which their reproduction niơy7 become seriously threatened'. 264
  • 266. những sinh vật biển khác có nguy cơ bị đe dọa như rùa biển, các loài động vật biển có vú, hải câu, gâu Băc Cực, dơi và nhiều loại chim khác hiện đã được bảo vệ bàng những điều ước quốc tế cụ thể khác. Một mối đe dọa đối với đa dạng sinh học hiện nay là sự xuất hiện các giống loài có khả năng xâm lấn hoặc có tiêu diệt các giống loài khác ở nơi cư trú của chúng, ví dụ như các loài châu chấu sa mạc có khả năng làm thiệt hại cho mùa màn« hoặc các loại thực vật khác. Những giống loài này thường có khả năng sinh sản nhanh dẫn đến ảnh hường nghiêm trọng đến hệ sinh thái, v ấn đề này đã được đề cập tại Hội nghị lần thứ 6 của các bên ký kết Công ước về đa dạng sinh học về việc mở rộng Điều 8(h) của Công ước, theo đó các bên ký kết có trách nhiệm “ngăn chặn việc giới thiệu, kiểm soát hoặc loại trừ những giong loài lạ có khả năng đe dọa hệ sinh thải môi trường sổng hoặc đổi với các giong loài đang hiện hữu" . 2.4. Kiểm soát quốc tế đối với các chất và chất thải độc hại (hazardous or toxic substances and wastes) Các chất độc hoặc nguy hại xuất hiện do những hoạt động của con người có thể gây ra những thiệt hại to lớn đối với môi trường, tài nguyên thiên nhiên và sự vận động của hệ sinh thái. Ở phạm vi quốc tế, kể từ cuối những năm 1970 đã xuất hiện các quy tắc điều chình đối với các chất nguy hại và hoạt động của con người mà tạo ra hoặc có khả năng tạo ra hậu quả xấu cho môi trường hoặc những chất nguy hại mà hậu quả của chúng có thể chuyển dịch từ lĩnh vực này sang những lĩnh vực khác của môi trường. Ke từ đầu những năm 1990 nguyên tắc về sự phòng ngừa trước đã được hình thành và trờ thành nguyên tắc quan trọng điều chỉnh những nguy cơ dẫn đến thiệt 265
  • 267. hại không thể lường trước được hoặc không thể khôi phục lại được cho môi trường, về cơ bản, các quy định quốc tế trong lĩnh vực này liên quan đến các hóa chất, chất thải độc hại, các nguyên liệu hạt nhân và công nghệ sinh hóa. 2.4.1. Kiểm soát đối với các ỉtóa chất nguy hại Các văn kiện quốc tế liên quan đến việc kiểm soát đối với các chất nguy hại được thông qua từ nửa sau của thập niên 1980. Tuy nhiên, các quy định kiểm soát đối với các chất độc hại hoặc nguy hiểm đã có trước đó trong các văn kiện điều chỉnh những lĩnh vực cụ thể, chẳng hạn như việc xả thải xuống biển hoặc sông nội địa. Nhìn chung, các quy định này chú trọng đến điều chỉnh việc sản xuất, buôn bán (bao gồm cả việc vận chuyển), sử dụng và loại trừ các chất nguy hại đó. 2.4.1.1. Công ước Rớtterdam về cơ chế thông bảo trước sự đồng ỷ đối với một sổ loại hóa chất và thuốc trừ sâu độc hại trong thương mại quốc tế năm 1998 Công ước Rotterdam ký kết năm 1998 và có hiệu lực từ năm 2004 thiết lập cơ chế về sự đồng ý được thông báo trước đối việc nhập khẩu các chất độc hại (nhiều chất trong số này được điều chỉnh bằng Công ước Stockholm về các chất hữu cơ gây ô nhiễm lâu dài năm 2001).89 Cụ thể Công ước ấn định những nghĩa vụ cơ bản cho các các bên như sau: 89Các Phụ lục cùa Công ước bao gồm: - Phụ lục 1: Những thông tin phải thông báo; - Phụ lục II: Những tiêu chí áp dụng cho việc đánh giá đôi với các loại hóa chất bị cấm hoặc đặc biệt hạn chê nêu ỡ Phụ lục III; - P h ụ lụ c III: C á c h ó a c h ấ t đ ò i h ỏ i p h ả i c ó s ự đ ồ n g ý th ô n g b á o tr ư ớ c ; - Phụ lục IV: Thông tin và những tiêụ chí áp dụng cho việc đánh giá đối với các loại thuốc trừ sâu đặc biệt nguy hiêm nêu ờ Phụ lục HI; - Phụ luc V: Thông tin yêu cầu đối với việc xuất khẩu; - Phụ lục VI: Giải quyết tranh châp. 266
  • 268. - Đối với các hóa chất xuất khẩu liệt kê ở Phụ lục III cũng như các hóa chất bị cấm hoặc đặc biệt hạn chế trên lãnh thổ của mình, quốc gia phải tuân thủ quy định việc dán nhãn nhằm đảm bảo cung cấp thông tin về nguy cơ hoặc những tác hại cho sức khỏe con người hoặc môi trường dựa trên cơ sờ những tiêu chuẩn quốc tể. Trách nhiệm cung cấp thông tin được xác định cho các nhà sản xuất hoặc đóng gói các hóa chất này; - Các bên phải đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của dân chúng về việc xử lý hóa chất và quản lý tai nạn xảy ra và những biện pháp an toàn áp dụng cho các hóa chất được liệt kê ở Phụ lục III. 2.4.1.2. Công ước Stockholm về các chất hữu cơ gây ô nhiễm lâu dài năm 2001 Công ước Stockholm về các chất hữu cơ gây ô nhiêm lâu dài được ký kết năm 2001 giữa 154 các quốc gia và Liên minh châu Âu.90 Các chất hữu cơ gây ô nhiễm lâu dài chứa các chất độc hại, lâu tiêu hủy, tích lũy lâu dài và có thê di chuyên qua biên giới thông qua không khí, nước hoặc các loài di trú. Chúng gây ra nguy hại cho sức khỏe con người và hệ sinh thái, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển. Trên cơ sở nguyên tắc phòng ngừa trước và nguyên tăc bên gây ô nhiễm phải đền bù, Công ước Stockholm xác định trách nhiệm của nhà sản xuất chất hữu cơ gây ô nhiễm trong việc giảm thiểu tác hại do sản phẩm của họ và cung cấp thông tin cho khách hàng, chính phủ và công chúng về những thành phân nguy hại trong các hóa chất đó. Công ước phân loại các chất hữu cơ gây ô nhiễm làu dài theo từng nhóm, trên cơ sở đó quy định các biện pháp liên 90 Tại thời điểm tháng 4 năm 2011 đã có 173 quốc gia và tẩ chức là thành viên của Công ước. 267
  • 269. quan đến sử dụng và sản xuất, trách nhiệm của các bên ký kết. Cụ thể: - Đối với nhóm các hóa chất được xếp ở phụ lục A, bao gôm các thuôc trừ sâu và hóa chât đa clo diệt trùng (Polychlorinated Biphenyls PCBs), các bên ký kết phải cấm hoặc áp dụng các biện pháp pháp lý và hành chính nhằm hạn chế việc sản xuất và điều chỉnh việc xuất nhập khẩu đối với chúng. Phụ lục B yêu cầu các bên ký kết phải hạn chế đối với việc sản xuất, sử dụng thuốc diệt cỏ DDT (dichlorodiphenyltrichloroethane); - Các bên ký kết phải áp dụng các biện pháp cần thiết như cấm hoặc tuân thủ các quy định về hành chính đối với việc sản xuất ra mà không phải dự tính trước (unintentional production) các hóa chất liệt kê ở Phụ lục c (chủ yếu là thuốc diệt trùng PCBs và dioxin). Để thực hiện điều này, các bên phải phát triển và thực thi một kế hoạch hành động nhằm xác định, phân loại và quy định việc xừ lý chúng bàng các biện pháp kỹ thuật hiện hữu và thực tiễn bảo vệ môi trường tốt nhất; - Các quốc gia có thể áp dụng các biện pháp xử lý rò ri chất độc hại từ các kho chứa và chất thải, cụ thể như chỉ định các kho chứa hóa chất và các biện pháp cụ thể để đảm bảo chất thải được quản lý, thu thập, vận chuyển và cất giữ trong những điều kiện bảo vệ môi trường đúng đắn và cuối cùng đảm bảo các chất hữu cơ gây ô nhiễm lâu dài được tiêu hủy hoặc biến đổi để không gây ra nguy hại đối với môi trường. 2.4.2. Kiểm soát chất thải dộc hại Vấn đề chất thải và tác động của chất thải đối với môi trường là hậu quả của thời đại công nghiệp hóa và sự bùng nô về dân số. Bên cạnh đó, vân đê xử lý chất thải ờ quy mô toàn cầu có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi hiện tượng vận chuyên 268
  • 270. chất thải xuyên biên giới ngày càng phổ biến.91 Cuối cùng, ô nhiễm môi trường do các chất thải độc hại cũng dẫn đến nhu cầu kiểm soát và hạn chế tác hại của chất thải. Công ước Basel về vận chuyển xuyên biên giới các chất thải độc hại và việc xử lý năm 1989 là điều ước quốc tế đầu tiên trong lĩnh vực này, đồng thời đề cập đến việc xử lý việc buôn bán các chất độc hại nhằm tránh chi phí xử lý ngày càng cao tại các nước phát triển sang các nước đang phát triển và các nước Đông Âu.929 3Cụ thể, Công ước điều chỉnh vấn đề vận chuyển xuyên biên giới các chất thải độc hại và xử lý chúng. Ngoài Công ước, còn có một Nghị định thư về trách nhiệm dân sự và bồi thường thiệt hại, bao gồm những thiệt hại cho môi trường, tuy nhiên Nghị định thư này vẫn chưa có hiệu lực. Theo định nghĩa tại Điều 1, các chất thải độc hại được thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước bao gồm những chât được liệt kê tại Phụ lục I và và có một trong sô các đặc diêm như có thể nổ, cháy, độc hại hoặc bào mòn như được quy định tại Phụ lục III. Bên cạnh đó. các chất thải độc hại cũng thuộc phạm vi điều chỉnh cùa Công ước nếu như chúng được định nghĩa theo luật của quốc gia xuất khẩu hoặc quốc gia nhập khẩu. Những nội dung cơ bản của Công ước Basel bao gồm: 91 Alexandre Kiss and Dinah Shelton, tlđd, tr. 210. 92 Catherine Redwell, tlđci, tr. 706. 93 Điều này thể hiện ở các Phụ lục của Công ước, cụ thể: - Phụ lục I phân loại các chất thải cần có sự kiềm soát; - Phụ lục II phân loại các chất thải cần sự quan tâm đặc biệt' - Phụ lục III tiêu chuân hóa các đặc điêm gây Ịiại cũa các chất thải; - Phụ lục IV điều chinh các hoạt động xử lý chất thải; - Phụ lục V quy định các thông tin về chất thãi nguy hại cần phải thông báo; Phụ lục VI quy định về trọng tài. 269
  • 271. - Việc tạo ra các chất thải độc hại và các chất thải khác cũng như việc vận chuyển xuyên biên giới cần phải được hạn chế đến mức thấp nhất, phù hợp với việc quản lý hiệu quả và đúng đăn về mặt môi trường áp dụng cho môi loại (Điêu 4(2)(a)và(b); - Bên ký kết không thể đưa các chất thải độc hại vào lãnh thổ một bên ký kết khác, nơi việc nhập khẩu như vậy là bị cấm đoán (Điều 4(l)(b). Tương tự, việc đưa các chất độc hại cũng không thể được tiến hành, nếu quốc gia tiếp nhận không có đủ các phương tiện để xử lý chất thải (Điêu 4(1 )(b), (c) và (g); - Các quốc gia có chủ quyền trong việc cấm xuất nhập khâu các chất thải độc hại, chẳng hạn như từ chối chuyên chở tới nước mình các chất thải độc hại (Điều 4(1) và (12), đông thời có quyền đòi hỏi sự tôn trọng các quyền này từ phía các quôc gia khác; - Việc vận chuyển các chất thải độc hại xuyên biên giới phải có sự đông ý trước bằng văn bản của quốc gia nhập khâu hoặc các quôc gia nơi chât thải quá cảnh (Điều 4(1 )(c); - Các quốc gia xuất hoặc nhập khẩu có nghĩa vụ đảm bảo chât thải vận chuyên phải được giám sát đầy đủ vê mặt môi trường. Các tàu vận chuyển chất thải độc hại phải được đóng gói và dán nhãn và di chuyển phù hợp với những quy tắc và tiêu chuẩn quốc tế được thừa nhận rộng rãi (Điều 4(7)(b). Các chất thải độc hại khi được vận chuyển phải có các tài liệu kèm theo từ thời điểm chúng bắt đầu được vận chuyển cho đến khi chúng được xử lý (Điêu 4(7)); - Các quốc gia nên xem xét coi việc vận chuyển trái phép các chât thải độc hại là tội phạm hình sự (Điều 4(3); - Khi quốc gia cho nhập khẩu chất thải độc hại không có khả năng để xử lý các loại chất thải đưa vào nước mình một cách hợp pháp và băng các biện pháp đảm bảo ã ĩ toàn cho môi trường, quôc gia xuât khâu có nghĩa vụ phải đưa chúng 270
  • 272. trờ lại quốc gia mình hoặc tìm kiếm biện pháp xử lý chất thải đó đảm bảo cho môi trường (Điều 8); - Nghiêm cấm việc buôn bán các chất thải độc hại với các quốc gia không phải là thành viên Công ước (Điều 4(5). Ngoài ra Công ước cũng nghiêm câm việc chuyên xử lý chất thải độc hại từ các nước thành viên OECD sang các nước ngoài ÒECD;94 - Công ước quy định trách nhiệm bồi thường của các quốc gia và cả các pháp nhân đôi với các thiệt hại cho môi trường; - Một cơ chế thực thi được đưa vào Công ước Basel nhằm thúc đẩy việc phát hiện sớm những vấn đề liên qưan đến việc thực thi (ví dụ như hành vi buôn lậu); nghĩa vụ báo cáo của các quốc gia thành viên về vấn đề thực hiện. Hiện nay, ngoài Công ước Basel, một số điều ước quốc tế ở tầm khu vực cũng đã được ký kết nhằm điều chỉnh viêc vận chuyển các chất thải độc hại.95 2.4.3. Kiểm Sỡát các chất phóng xạ Kiểm soát chất phóng xạ là một trong những vấn đề được quan tâm ở phạm vi quốc tế, điều này xuất phát từ thực 94 Việc cấm chuyển xử lý chất thải độc hại từ quốc gia này sang quốc gia khác tương tự như quy định trong các điều ước quốc tế về chống ô nhiễm môi trường như Nghị định thư London năm 1996 hay Công ước khu vực năm 1992 về bảo vệ môi trường biển ở Đông Bắc Đại Tây Dương. 95 Chẳng hạn, Công ước về bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trường khu vực Nam Thái Bình Dương năm 1987, Công ước về cấm nhập khẩu các chất thải độc hại vào châu Phi nãm 1991 và Công ước về sự kiểm soát đối với việc vận chuyển các chất thải độc hại xuyên biên giới trong phạm vi châu Phi năm 1992; Hiệp định khu vực vê việc vận chuyên các chất thải độc hại xuyên biên giới ký giữa 6 quốc gia Trung Mỹ năm 1992; Nghị định thư vê việc ngăn chặn ô nhiễm Địa Trung Hải do việc vận chuvên xuyên biên giới và xừ lý các chất độc hại năin 1996. Một số Hiệp định song phương dựa trên khuôn mẫu cùa Công ước Basel đã được nhiều quốc gia ký kết, tiêu biểu như Hiệp định giữa Mỹ và Canada năm 1986 và giữa Mỹ và Mexico năm 1986. 271
  • 273. tế rằng các hoạt động liên quan tới năng lượng hạt nhân có tính chất đặc biệt nguy hiểm có khả năng gây ra tác động hủy diệt lớn tới môi trường liên quốc gia. Điều này được minh chứng qua thảm họa của lò phản ứng hạt nhân tại nhà máy điện Chernobyl năm 1986 đã gây thiệt hại cho nhiều quốc gia ở châu Âu. Với việc một số quốc gia sở hữu và có khả năng làm giàu plutonium để sử dụng vào các mục đích quân sự hoặc thương mại, nguy cơ rò rỉ hạt nhân ra môi trường hoàn toàn có khả năng xảy ra, đặc biệt trong quá trình vận hành các lò phản ứng hạt nhân, vận chuyển các chất phóng xạ cũng như do tác động của thiên tai. Chính vì vậy, những điều ước quốc tế đâu tiên ở tầm khu vực và toàn cầu đều chú trọng đến trách nhiệm bồi thường cho những thiệt hại do phóng xạ gây ra. Trong lĩnh vực này, vai trò của 'Tổ chức Năng lượng thế giới (Intenationaỉ Atomic Energy Agency, IAEA) có ý nghĩa hêt sức quan trọng. Dưới sự bảo trợ của mình, IAEA đã xúc tiên nhiều cuộc đàm phán nhàm hình thành khuôn khổ điều chinh an toàn phóng xạ cũng như đưa ra nhiều đề xuất cho việc áp dụng các biện pháp bảo vệ cụ thể. Luật môi trường quốc tế điều chỉnh hoạt động kiểm soát và đảm bảo an toàn phóng xạ thể hiện ờ những lĩnh vực chủ yếu sau đây: về vũ khí hạt nhân, điều ước quốc tế quan trọng nhất là Hiệp ước vê câm thử vũ khí hạt nhân ở môi trường khí quyên, trong không gian và dưới nước ký năm 1963 với sự tham gia của gần như tất cả các quốc gia trên thế giới. Tiếp theo đó, Hiệp ước về không phổ biến vũ khí hạt nhân được ký năm 1968, theo đó mỗi quốc gia không có vũ khí hạt nhân có nghĩa vụ đảm bảo các chẩt phóng xạ, trang thiết bị và thông tin hạt nhân sẽ không được sử dụng để phát triển vào mục đích quân sự. Các quốc gia có nghĩa vụ châp nhận các tiêu chuân quôc tê về bảo dam an toàn hạt nhân dưới sự giám sát của IAEA, bao 272
  • 274. gồm nghĩa vụ báo cáo, xây dựng các thiết bị giám sát và hoạt động giám sát tại các cơ sở hạt nhân (Điều III). Bên cạnh đó, Hiệp ước Nam Cực ký năm 1959 cũng có những điều khoản cấm các vụ thử hạt nhân cũng như vũ khí và các chất thải phóng xạ trên vùng Nam Cực. Tương tự, việc đem vũ khí hạt nhân lên mặt trăng và quỹ đạo quanh mặt trăng cũng bị câm theo Hiệp định điêu chỉnh hoạt động của các quôc gia trên mặt trăng và các bộ phận khác nhau của thiên hà năm 1979. Vào năm 1996, các hình thức thử vũ khí hạt nhân đã bị cấm hoàn toàn theo Hiệp định về cấm thừ vũ khí hạt nhân toàn diện 1996 cùng với Nghị định thư vê việc thi hành. về kiểm soát an toàn phóng xạ, một trong số các điều ước quan trọng nhất là Công ước năm 1980 về bảo vệ các chât phóng xạ. Các quy định trong nhóm này liên quan đên các lĩnh vực cụ thể sau đây: - Kiểm soát việc vận chuyển quốc tế các chất phỏng xạ: Những quy định về vấn đề này thường được thông qua trong các điều ước quốc tế về vận chuyển đường bộ, đường săt, đường biên và đường hàng không, ví dụ như Bộ quy tăc của IMO vê vận chuyên an toàn các nguyên liệu bức xạ, plutonium và chât thải có độ phóng xạ cao băng tàu biển năm 1993. Bên cạnh đó IAEA cũng ban hành Quy tăc ứng xử vê việc vận chuyển quôc tế các chất thải phóng xạ năm 1991. Theo đó, chủ tàu có trách nhiệm trong việc săp xêp và đóng kiện đê đảm bảo sự an toàn bao gồm cả việc dán nhãn và đánh dâu, áp dụng các biện pháp kiểm soát cân thiêt trong quá trình vận chuyên và lưu kho khi quá cảng và câm việc tiếp xúc với các kiện hàng vận chuyền. Ngoài ra, vấn đề vận chuyển các chât phóng xạ qua vùng biển của quốc gia khác còn được điệu chỉnh bàng công ước của LHQ về luật biển, đặc biệt tại Điều 17 liên quan đến quyền qua lại vô hại. - Kiêm soát an toàn hạt nhân: Dưới sự bảo trợ của IAEA, Công ước về an toàn hạt nhân đã được ký kết vào năm 1994. Công ước đề ra một số nghĩa vu cùa các quốc gia trong việc đảm bảo an toàn hạt nhân, bao gôm: nghĩa vụ thiết lập và 273
  • 275. duy trì sự bảo vệ tại các cơ sờ hạt nhân nhằm chống lại nguy cơ rò rỉ phóng xạ (Điêu 1 (ii), kiểm tra càng sớm càng tốt sự an toàn của các cơ sở hạt nhân (Điêu 6); thiêt lập và duy trì khung pháp lý nhăm điêu chỉnh an toàn của các cơ sở hạt nhân, bao gồm hệ thống cấp phép, kiểm tra và giám định đảo bảo sự phù hợp với các quy định và giấy phép (Điều 7). Công ước còn đưa ra các mô tả cụ thê diễu kiện dành cho các địa điểm xây dựng công trình hạt nhân (Điều 17), việc thiết kế và xây dựng (Điêu 18) và vận hành (Điều 19). - Việc tiêu hủy các chất thải phỏng xạ: Các quốc gia có nghĩa vụ kiểm soát chặt chẽ việc xư lý các chất thải phóng xạ trong phạm vi lãnh thô của mình nhằm đảm bảo không gây ra những tác hại môi trường xuyên biên giới. Ngoài ra van đế xử lý chat thải phóng xạ ngoài lãnh thổ hoặc phạm vi tài phán của quốc gia được điêu chỉnh bởi các điều ươc quốc tế liên quan đến việc thải đổ chất thải ra biển, như Công ước London vê ngăn ngừa việc gây ô nhiễm do thải đổ chất thải và các chất khác xuống biển năm 1972, trong đó có quy định tại Điều IV và Phụ lục I cấm việc nhận chìm các chất thải có độ phóng xạ cao hoặc các chất có độ phóng xạ cao khác xuống biển. Hành động khẩn cấp trong trường hợp xảy ra sự cố hạt nhân: Đây là van đề đặt ra sau sự cố Chernobyl năm 1986. Với vai trò tích cực của IAEA, hai công ước quan trọng đã được thông qua bao gôm Công ước về thông báo sớm các sự cô hạt nhân năm 198696 và Công ước về sự trợ giúp trong trường hợp xảy ra sự cô hạt nhân năm 1986.97 96 Công ước vể thông báo sớm các sự cố hạt nhân 1986 quy định một số vân đề cụ thể sau: - Các quốc gia có nghĩa vụ thông báo ngay lập tức cho các quốc gia khác có khả năng bị ảnh hưởng bởi sự cô hạt nhân đên môi trường; - Việc thông báo phải thực hiện càng sớm càng tốt và quốc gia nơi có xảy ra sự cố hạt nhân phải cung cấp các thông tin thích đáng vê sự cô; - Quốc gia bị ảnh hưởng có thê yêu cầu cung cấp các thông tin thêm hoặc tham vẩn nhằm hạn chế đến mức thấp nhất có thể hậu quả rò ri phóng xạ trên phòmg vi lãnh thổ cùa mình; 274
  • 276. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách, giáo trìn h 1. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật quốc tế, Công an nhân dân, 2007 2. Kiss (Alexandre) and Shelton (Dinah), Guide to International Environmental Law, Martinus Nijhoff Publishers, 20079 7 Nghĩa vụ thông báo áp dụng cho tất cà các sự cố liên quan đến bất kỳ phản ứng hạt nhân, bất kỳ cơ sở làm giàu hạt nhân hoặc quá trình quàn lý chất thải phóng xạ nào bao gồm việc vận chuyển và cất giữ nhiên liệu hạt nhân hoặc trong quá trình vận hành như sản xuất, sử dụng, cất giữ, tiêu hủy hoặc vận chuyên đồng vị phóng xạ, kê cả việc sừ dụng tàu vũ trụ dùng năng lượng hạt nhân. Tuy nhiên nghĩa vụ thông báo này không áp dụng đối với vũ khí hạt nhân. 97 Công ước về trợ giúp trong trường hợp sự cố hạt nhân ì 986 quy định những vấn đê cơ bản sau: - Nghĩa vụ giúp đỡ cho những quốc gia là nạn nhân của thảm họa hạt nhân; - Bât kỳ quôc gia nào đối diện với sự cố hạt nhân đều có quyền yêu cầu giúp đỡ không phụ thuộc vào nguồn gốc của sự cố hoặc trường hợp khẩn cấp xảy ra ở trong lãnh thô hoặc trong phạm vi mà quốc gia đó đang thực hiện quyên tài phán hoặc dưới sự kiểm soát của mình; - Các biện pháp và hình thức trợ giúp trong trường hợp xảy ra sự cố: Công ước dự kiến hai trường hợp giúp đỡ khi có yêu cầu trợ giúp: (i) các biện pháp nhăm ngăn chặn và (ii) các biện pháp tiến hành khi sự cố đã xảy ra. Cụ thê, đôi với trường hợp thứ nhất, các quôc gia có thê thông báo và chỉ định IAEA vê các chuyên gia, điều kiện trợ giúp và tài chính, cơ quan chức năng chiu trách nhiệm, kê hoạch hành động khần cấp, việc thực hiện chương trình trợ giúp và kiêm soát phóng xạ. Trong trường hợp thứ hai, quốc gia yêu câu sự trợ giúp cần cung cấp đầy đủ các thông tin cần thiết và có thể yêu câu sự giúp đỡ liên quan đên chữa trị y tế, sơ tán tạm thời những người liên quan tới vụ tai nạn hoặc rò rỉ phóng xạ đến một nơi khác tiên lãnh thổ của mình hoặc mọt nước khác; - Quốc gia yêu cầu sự trợ giúp có đặc quyền kiểm soát, điều phối và giám sát đôi với mọi trợ giúp, cung cap thiết bị và cơ sờ dịch vụ tại địa phương cho việc quản lý hiệu quả việc trợ giúp. Ngoài ra quôc gia yêu cầu trợ giúp có the thanh toán lại các chi phí cho những quốc gia trợ giúp cũng như những cá nhân hoặc tô chức tham gia hoạt động trợ giúp. 275
  • 277. 3. Sands (Phillips), Principles o f International Environmental Law, Cambridge, 2nd ed, 2003 4. Shaw (M alcolm N), International Law, 6th ed, Cambridge University Press, 2008 5. Triggs (Gillian), International Law. Contemporary Principles and Practices, LexisNexis Butterworth, 2011, 899 Các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam 1. Hiến chương Liên hợp quốc 1945 2. Công ước quốc tế về điều chỉnh hoạt động đánh bắt cá voi năm 1946 3. Công ước về đánh bắt cá trên vùng biển cả thuộc Bắc Thái Bình Dương năm 1952 4. Công ước Ramsar 1971 5. Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982 6. Nghị định thư M ontreal năm 1987 7. Công ước về ngăn ngừa các ô nhiễm từ tàu thuyền (MARPOL) số 1973/78 8. Công ước về các dòng sông quốc tế 1979 9. Công ước khu vực năm 1979 về ô nhiễm không khí tầm xa xuyên biên giới 10. Công ước về đánh giá tác động đối với môi trường trong bối cảnh xuyên biên giới năm 1991 11. Công ước khu vực năm 1992 về bảo vệ môi trường biển ở Đông Bấc Đại Tây Dương 12. Công ước về bảo vệ môi trường Đông Bắc Đại Tây dương năm 1992 (OSPAR) 13. Công ước về đa dạng sinh học năm 1992 14. Công ước của Liên hợp quốc năm 1992 về biến đổi khí hậu 15. Công ước về hiệu ứng xuyên biên giới của các vụ tai nạn vê công nghiệp năm 1992 16. Tuyên bố Rio năm 1992 276
  • 278. 17. Nghị định thư Kyoto năm 1997 18. Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của dân chúng và tiêp cận tư pháp đối với những vấn đê môi trường 1998 19. Nghị định thư về an toàn sinh học năm 2000 ban hành trong khuôn khổ Công ước về đa dạng sinh học 20. Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm khoang chứa dâu 2001 21. Nghị định thư Cartagena về đa dạng sinh học năm 2003 Các bản án và vụ việc 1. Trail Smelter (Canada V United States), UNRIAA, vol. Ill (Sales No. 1949.V.2) 2. Gabcikovo-Nagymaros Project (Hungary V. Slovakia), Judgment, 1. ICJ Reports 1997 3. Metalclad Corporation V. The United Mexican States (ICSID Case No. ARB(AB)/97/l) 4. MOX Plant case, Request for Provisional Measures Order (Ireland V. the United Kingdom) (3 December 2001) International Tribunal for the Law of the Sea, ILR vol. 126 (2005) 5. Arbitration regarding the Iron Rhine (“Ijzeren Rijn”) Railway (Belgium V Netherlands) 2005 6. Case Concerning Pulp Mills on the River Uruguay (Argentina V. Uruguay), Judgment of 20 April 2010 Website 1. International Court of Justice <http://www.icj- cij.org/homepage/index.php> 2. International Law Commission < http://www.un.org/law/ilc/index.htm> 3. Cổng thông tin điện tử Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường <http://vea.gov.vn/vn/Pages/trangchu.aspx> 2 7 7
  • 279. CHƯƠNG XII LUẬT KINH TÉ QUÓC TẾ I. KHÁI QUÁT VÈ LUẬT KINH TÉ QUÓC TÉ Theo cách hiểu chung, luật kinh tế quốc tế là hệ thống các quy phạm của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ quốc tế trong lĩnh vực kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế có không ít các quan hệ kinh tế quốc tế được điều chỉnh bởi những hệ thống quy phạm khác của luật quốc tế, chẳng hạn như quan hệ liên quan tới hoạt động kinh tế trên biển và đại dương (như hàng hải, đánh bắt cá, khai thác dầu khí và các tài nguyên dưới đáy biển v.v.) sẽ được điều chỉnh bởi luật biển quốc tể. Quan hệ giữa các quốc gia liên quan tới vận chuyển hàng không sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của luật hàng không quốc tế. Trong khoa học pháp lý, phạm vi điều chỉnh của luật kinh tế quốc tế thường được hiểu là bao gồm quan hệ thương mại quốc tế, cũng như quan hệ quốc tế trong lĩnh vực tài chính và đầu tư. Trong giai đoạn phát triển hiện nay, vai trò của luật kinh tế quốc tế ngày càng trở nên quan trọng. Luật kinh tế quốc tế chính là xương sông cho sự phát triển của các quan hệ hợp tác quốc tế giữa các quôc gia trên thế giới. Sự hình thành và vận hành của các định chế kinh tế toàn cầu (Quỹ tiền tệ quốc tế - International Monentary Fund, IMF; Ngân hàng Thế giới - World Bank, WB; Tổ chức Thương mại thế giới - World Trade Organization, WTO); các liên minh kinh tế khu vực (Liên minh châu Âu —European Union, EU; Khu vực tự do mậu dịch ASEAN —ASEAN Free Trade Area, AFTA; Khu vực tự do mậu dịch Bắc Mỹ - North America Free Trade Area, NAFTA; Khu vực tự do mậu dịch úc — New Zealand — Australia - New Zealand Free Trade Area, ANZFTA); liên khu vực (Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương 278
  • 280. -A sia Pacific Economic Cooperation, APEC)... đều được xây dựng dựa trên cơ sở các quy phạm luật kinh tế quốc tế. Phần 1 của Chương sẽ giới thiệu tổng quan về khái niệm và lịch sử phát triển của luật kinh tế quốc tế (1.1), nguồn của luật kinh tế quốc tế (1.2), phạm vi điều chỉnh của luật kinh tế quốc tế (1.3) và các nguyên tắc cơ bản của luật kinh tế quốc tế (1.4) 1.1. K hái niệm và lịch sử phát triển của luật kinh tế quốc tế Luật kinh tế quốc tế là một bộ phận cấu thành của hệ thống luật quốc tế. Tuy nhiên, so với các ngành luật khác của hệ thống luật quốc tế, ngành luật này được hình thành tương đối muộn. Các điều ước quốc tế điều chỉnh về quan hệ kinh tê giữa các quôc gia chỉ xuất hiện từ cuôi thê kỷ XIX - đâu thê kỷ XX như: các điều ước về trao đổi hàng hóa, thanh toán, vận tải, bưu chính viễn thông, sở hữu công nghiệp, quyền tác giả. Chẳng hạn, Hiệp định Cobden - Chevalier ký kêt ngày 23/1/1860 giữa Anh và Pháp nhằm cắt giảm thuế quan đôi với nguyên liệu và phần lớn các loại thực phẩm lưu thông giữa hai nước; Công ước Berne về bảo hộ các lác phẩm văn học và nghệ thuật (1886)... Sự phát triển của luật kinh tế quốc tế chịu ảnh hưởng của các học thuyết kinh tế, đặc biệt là các học thuyết về lợi thế tuyệt đối (của Adam Smith) và học thuyết vệ lợi thế tương đối (của David Ricardo) được hình thành vào thê kỷ XVIII-XIX. Các quốc gia phương Tây sau khi tiên hành cuộc cách mạng công nghiệp đã dần nhìn thây lợi ích của việc hợp tác kinh tế quốc tế. Các học thuyết kinh tê này đã cô súy cho sự phân công lao động theo hướng chuyên môn hóa giữa các quốc gia trên thế giới và tự do hóa thương mại quôc tê. Các thỏa thuận, điều ước quốc tể vê hợp tác kinh tê - thương mại quốc tế đã hình thành nên các quy phạm, nguyên tắc pháp lý của luật kinh tế quốc tế. 279
  • 281. Tuy nhiên, chỉ sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, các quôc gia trên thế giới mới thật sự thống nhất trong việc xây dựng và phát triển quan hệ quốc tế trên nền tảng hợp tác kinh tế và trao đổi thương mại quốc tế tự do. Sự hình thành của các định chế quốc tế về tài chính, tiền tệ và thương mại dưới sự bảo trợ của LHQ cũng đã tạo dựng một nền tảng quan trọng cho sự phát triển của luật kinh tế quốc tế hiện đại. Sự xuất hiện trên trường quốc tế các quốc gia độc lập» mới thoát khỏi chế độ thuộc địa trong thập niên 50 - 60 của thế kỷ XX, mong muốn độc lập về kinh tế đã dẫn tới thay đổi lớn trong luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Trong những năm 1970, các quốc gia đang phát triển đã yêu càu cải tổ cơ cấu của hệ thống thương mại và tài chính để hướng tới một trật tự kinh tế mới (New International Economic Order, NIEO). LHQ đã thông qua hàng loạt nghị quyết quan trọng vê vấn đề này như Tuyên bố về việc thiết lập trật tự kinh té thê giới mới,1 Hiến chương về quyền và nghĩa vụ kinh tế của các quốc gia.2Những văn bản này đã ghi nhận các nguyên tắc và quy phạm của luật kinh tế quốc tế, trong đó có các nguyên tắc bình đẳng vê chủ quyền trong việc hợp tác giữa các quốc gia, quyền ưu đãi dành cho các quốc gia đang phát triển nhằm xóa bỏ khoảng cách giữa các quốc gia đang phát triển và phát triển.3 Nội dung của các nguyên tắc này được phản ánh rõ nét trong các điều ước thương mại đa phương của WTO liên quan tới chế độ đãi ngộ ưu đãi dành cho các nước đang phát triển. 1 Tuyên bố về thiết lập trật tự kinh tế thế giới mới (Declaration on the Establishment of a New International Economic Order), UNGA Res.3201(S- VI), 01/5/ 1974. 2 Hiến chương về quyền và nghĩa vụ kinh tế của các quốc gia (Charter of Economic Rights and Duties ofStates), UNGA Res.3 2 8 1(XXIX), 12/12/1974. 3 Verwey w. D. “The Principles of a New International Economic Order and the law of the General Agreement on Tariffs and Trade (GATT)”, Leiden Journal ofInternational Law, Vol.3, No.2, 1990, tr. 123. 280
  • 282. Sự chấm dứt của chiến tranh lạnh vào ciiối thập niên 1980 đã tạo ra một bước ngoặt mới trong quan hệ kinh tế quốc tế. Nó giúp hình thành nên một thế giới “đa cực” với nhiêu liên minh kinh tế - thương mại giữa các quốc gia trên thế giới. Các quy phạm của luật kinh tế quốc tế đã nhanh chóng phát triển trong khuôn khổ hệ thống thương mại đa phương của WTO và các thỏa thuận tự do mậu dịch giữa các quốc gia trên thế giới. Tóm lại, luật kinh tế quốc tế là một ngành luật thuộc hệ thống luật quốc tế bao gồm những nguyên tắc, quy phạm do các chủ thể của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên nhằm điều chỉnh mối quan hệ kinh tế (trật tự kinh tế, thương mại, tiền tệ, cân bằng cán cân thanh toán, đầu tư,...) giữa các chủ thể của luật quốc tế (cơ bản và chủ yếu là các quốc gia). Ở đây cần lưu ý khái niệm “chủ thể pháp luật kinh tế quôc tê” và “thực thể tham gia vào quan hệ kinh tê quôc tê”. Quan hệ kinh tế quốc tế có sự tham gia của nhiều thực thể để thực hiện các hoạt động kinh tế xuyên biên giới và thiết lập môi trường kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên, chủ thể quan hệ kinh tế quốc tế chỉ bao gồm những thực thể có năng lực chủ thể pháp luật quốc tế. Quốc gia là chủ thể pháp luật cơ bản của luật kinh tế quốc tế. Từ góc độ lý luận, tư cách chủ thể của quốc gia thể hiện trước hết ở khả năng của quốc gia trong việc thiết lập các quy phạm pháp luật quốc tế và tiếp nhận các trách nhiệm quôc tê, bao gồm ký kết các điều ước quốc tế và tham gia vào việc điều chinh các quan hệ kinh tế quốc tế. Chủ thê của luật kinh tế quốc tế cũng bao gồm các định chế, liên minh pháp lý của các quốc gia và các tổ chức kinh tế quốc tế (liên chính phủ). Trong khi đó, thực thể tham gia vào quan hệ kinh tê quôc tê có thê bao gồm cà các quôc gia, tổ chức của chính phủ cũng như các thiết chế phi chính phủ, tổ chức kinh tế, công ty xuyên quốc gia... Các thực thể này với tư cách là chủ 281
  • 283. thể pháp luật chung sẽ chịu sự điều chỉnh bởi cả các quy phạm pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia. 1.2. Nguồn của luật kỉnh tế quốc tế Luật kinh tế quốc tế là một ngành của luật quốc tế. Do đó nguồn của luật kinh tế quốc tế cũng được đề cập tại Điều 38 Quy chế Tòa án quốc tế. Nguồn của luật kinh tế quốc tế bao gồm các điều ước quốc tế về kinh tế, các tập quán quốc tế, các nguyên tắc chung của luật, các phán quyết của tòa án và các công trình nghiên cửu của các luật gia về luật quốc tế.4 Như vậy, luật quốc gia không phải là nguồn của luật kinh tế quốc tế. Các nguyên tắc, quy phạm của luật kinh tế quốc tế chủ yếu được ghi nhận trong các điều ước quốc tế. Trong một thời gian dài, điều ước quốc tế 4a phưomg trong lĩnh vực kinh tế là nguồn cơ bản và chủ yếu của luật kinh tế quốc tế, đặc biệt là Hiệp định chung về thuế quan và mậu dịch (GATT 1947), hệ thống các Hiệp định Marrakesh 1994 về việc thành lập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Quy chế của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Bên cạnh đó, các điều ước quốc tế của các liên kết kinh tế song phương (Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, Hiệp định khu vực tự do mậu dịch Mỹ - Singapore) và khu vực (NAFTA, EU, AFTA) cũng được coi là nguồn của luật kinh tế quốc tế. Các quốc gia chưa tham gia vào các điều ước quốc tế đa phương về kinh tế có thể áp dụng các quy phạm của các điều ước quôc tê đó với tư cách là tập quán quôc tê. Ngoài hai nguồn cơ bản nói trên, luật kinh tế quốc tế còn có nguồn quan trọng là các nghị quyết của các tổ chức quốc tế và hội nghị quốc tế - thường được gọi là nguồn “luật mềm”. Ở đây, thuật ngữ luật mềm (soft law) được sử dụng để chỉ những* 2 8 2 4 Điều 38 Quy chế Tòa án quốc tế cùa LHQ. 282
  • 284. loại văn bản chứa đựng thỏa thuận giữa các quốc gia hoặc ghi nhận hành vi pháp lý đơn phương của một tổ chức kinh tế quốc tế, như các khuyến nghị, nghị quyết của tổ chức quốc tế hay tuyên bố chung của các quốc gia trong một diễn đàn quốc tế (sau một vòng đàm phán hoặc hội nghị thượng đỉnh giữa các nguyên thủ quốc gia). “Luật mềm” có thể đóng vai trò là tiền thân của “luật cứng”. Nó cũng có thể đóng vai trò thay thế “luật cứng” trong những lĩnh vực còn tồn tại nhiều ý kiến bất đồng giữa các chủ thể của luật quốc tế, ví dụ trong lĩnh vực đầu tư, Bộ quy tắc của Ngân hàng Thế giới về đối xử đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài được ban hành bởi ủ y ban phát triển của Ngân hàng Thế giới là một “luật mềm” có vai trò quan trọng. Tuy không mang tính ràng buộc về mặt pháp lý đối với các quốc gia thành viên của tổ chức này nhưng văn bản trên cũng góp phần làm thay đổi pháp luật quốc gia theo hướng ngày càng mờ cửa và bảo vệ nhà đầu tư nước ngoài. Tương tự, Tuyên bố Doha của WTO về Hiệp định về các khía cạnh của quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (Trade related aspects o f intellectual property rights agreement, TRIPS) và sức khỏe cộng đồng cũng là một văn bản mang tính định hướng không có giá trị ràng buộc, tuy nhiên nó cũng đã thiết lập nên một nguyên tắc quan trọng trong việc cân bằng lợi ích kinh tế (của chủ sở hữu patent dược phâm) và lợi ích cộng đông (bảo vệ sức khỏe cộng đông) trong trường hợp khẩn cấp. 1.3. Phạm vi điều chỉnh của luật kinh tế quốc tế Như đã đề cập ở trên, sau Chiến tranh thế giới thứ II, một trật tự kinh tế mới được chính phủ các quôc gia trên thê giới, khởi đầu là Anh và Mỹ, xây dựng dựa trên cơ sờ công bằng, bình đẳng chủ quyền và hợp tác quốc tế. Ngay từ ban đầu, trật tự kinh tế quốc tế mới này hướng đến việc điều chỉnh ba lĩnh vực trụ cột là tài chính, tiền tệ và thương mại. Bởí lẽ, đây là ba lĩnh vực tối quan trọng để tái thiết sau những thiệt 283
  • 285. hại nặng nề do hai cuộc đại chiến thế giới cũng như CUỘC đại khủng hoảng (Great Depression) trên phạm vi toàn cầu trong suốt thập niên 1930 gây ra. Năm 1944, hội nghị Bretton Woods được triệu tập nhằm bàn luận về việc xây dựng các quy định điều chỉnh hai lĩnh vực tài chính - tiền tệ. Năm 1947 - 1948, hội nghị La Havana được tổ chức nhằm bàn luận về việc điều chình hợp tác trong lĩnh vực thưcmg mại. Suy cho cùng, đây là ba lĩnh vực chính yếu nhất trong quan hệ quốc tế. Chúng bổ sung cho nhau và cùng giữ vai trò đảm bảo sự ổn định, phát triển của kinh tế quốc tế, sự phồn vinh, thịnh vượng của cộng đồng quốc tế. Một hệ thống tài chính vững mạnh tạo điều kiện cho các trao đổi quốc tế (về hàng hóa dịch vụ - thương mại quốc tế) diễn ra một cách năng động. Đổi lại, sự lưu chuyển trơn tru của các trao đổi quốc tế giúp giảm thiểu nguy cơ về mất cân bằng thạnh toán và khủng hoảng tài chính. Chính vì những lẽ trên, luật kinh tế quốc tế với tư cách là khung pháp lý của trật tự kinh tế quốc tế, phải là một hệ thống quy phạm điều chỉnh các quan hệ kinh tế quốc tế, chủ yếu là các quan hệ giữa các chủ thể trong những lĩnh vực sau: thương mại quốc tế, tài chính - tiền tệ quốc tế và đầu tư nước ngoài. Nhìn chung, cũng giống như thương mại trong nước3, nội hàm quan hệ thương mại quốc tế không đồng nhất với quan hệ mua bán mà rộng hơn rất nhiều. Nó có thể bao gồm tất cả các quan hệ giữa các chủ thể của luật kinh tế quốc tế liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu, mua bán, vận chuyển, dịch vụ, giao dịch tài chính, sở hữu trí tuệ5 6... Tuy nhiên, giới hạn phạm vi của các hoạt động thương mại quốc tế đến đâu, có bao gồm hai mảng tài chính - tiên tệ quốc tế và đâu tư nước 5 Ví dụ định nghĩa hoạt động thương mại tại khoản 1 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005: “ Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đâu tư, xtic tiên thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. 6 Xem them Patrick Daillier et al, tlđd, tr. 1241 và Gérard Comu, Vocabulaire juridique, Association Henri Capitant, PUF, 9e ed, 2011. 284
  • 286. ngoài hay không vẫn là một chủ đề chưa đạt đưực sự thống nhất trong khoa học pháp lý quốc tế. Đối tượng điều chỉnh đầu tiên của luật kinh tế quốc tế mà ta sẽ trình bày là quan hệ pháp luật tài chính - tiền tệ bời lẽ tiền tệ chỉnh là phương tiện thiêt yêu đê đảm bảo vê mặt cung cấp tài chỉnh cho các hoạt động đầu tư cũng như mua bản hàng hóa và cung ứng dịch vụ7 (1.3.1). Sau đó chúng ta sẽ xem xét quan hệ pháp luật thương mại quôc tê (1.3.2) và pháp luật về đầu tư quốc tế (1.3.3). 1.3.1. Q uan h ệ p h á p luật tài chính - tiền tệ Quan hệ tài chính - tiền tệ quốc tế là một loại quan hệ đóng vai trò “chất bôi trơn” cho các quan hệ khác thuộc phạm vi điều chỉnh của luật kinh tế quốc tế. Ngày nay, trong khoa học pháp lý, rất khó để tách bạch rạch ròi những quan hệ nào thuộc về tài chính, quan hệ nào là tiền tệ. Quan hệ tài chính - tiền tệ phát sinh trong mọi lĩnh vực hợp tác kinh tế quôc tê khác nhau giữa các quốc gia, chẳng hạn trong tín dụng quôc tế, hoạt động thương mại quốc tế, trong lĩnh vực đầu tư, trong hoạt động vận chuyển quốc tế. Thông thường, các quôc gia tham gia vào một quan hệ tài chính - tiền tệ quốc tê nhăm hướng đến khách thể là tin dụng quốc tế hoặc sự hợp tác trong việc điều chỉnh nhằm đảm báo sự ổn định của dòng lưu thông tiền tệ. Quan hệ tín dụng quốc tế có thể được điều chinh bời các thỏa thuận tín dụng song phương theo đó các quốc gia có thê xây dựng một hiệp định tín dụng dài hạn (trên năm năm), hiệp định tín dụng trung hạn (từ một đến năm năm), hiệp định tín dụng ngắn hạn (đến một năm). Theo dó, quốc gia cho vay tín dụng cho quốc gia vay tín dụng vay một khoản tiền xác định hoặc cung cấp cho quốc gia này một khối lượng hàng hóa nhât định. Đôi lại, quốc gia vay tín dụng cổ nghĩa vụ thanh toán các 7 Xem thêm sách Patrick Daillier et al, tlđcỉ. tr. 1176. 285
  • 287. khoản nợ tín dụng trong thời hạn xác định và theo các điêu kiện mà hai bên đã thỏa thuận và ghi nhận trong hiệp định tín dụng, đông thời quôc gia vay tín dụng phải trả một khoản lãi cho bên kia. Ngoài ra, với sự ra đời của các tổ chức quốc tê liên chính phủ quy mô toàn cầu trong lĩnh vực tài chính - tiên tệ quôc tê như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thê giới (WB) cũng như quy mô liên khu vực như Ngân hàng phát triên châu Á (Asia Development Bank, ADB), hiệp định tín dụng còn có thê là điêu ước quốc tế song phương giữa quôc gia có nhu câu vay vôn với một trong các tổ chức này. Ví dụ> một quốc gia có thể vay vốn ngắn hạn nhằm khắc phục khó khăn trong cán cân thanh toán với IMF hoặc vay vốn dài hạn và trung hạn để phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tê với WB. về quan hệ hợp tác -trong việc điều chỉnh nhằm đảm bảo sự ôn định của dòng (lưu thông) tiền tệ, quản lý tiền tệ chính là một trong những nhiệm vụ cốt lõi để thực hiện chủ quyên quôc gia và chức năng đôi nội của nhà nước. Tuy nhiên, chính sách tiên tệ của một quốc gia có thể vượt ra ngoài biên giới lãnh thô và gây ảnh hường đên các giao dịch thương mại quôc tê. Ví dụ, việc một quôc gia phá giá đồng nội tệ của mình (làm thạy đôi tỉ giá hối đoái của nó so với tiền tệ quốc gia khác) có thê giúp quốc gia đó thu hút được nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, làm tăng giá hàng hóa nước ngoài từ đó giảm nhập khâu và theo chiêu ngược lại, giảm giá hàng hóa sản xuât trong nước từ đó làm tăng xuất khẩu. Một thương nhân sẽ không thể tiến hành hoạt động nhập khẩu nếu quốc gia nơi có trụ sở của thương nhân trên ban hành quy định về tạm ngừng thanh toán hàng nhập khẩu. Trong một thế giới, nơi các nền kinh tế phụ thuộc lẫn nhau một cách tương đối, quốc gia có nền kinh tế càng mạnh thì ảnh hưởng của chính sách tiền tệ nội địa của nó đến thương mại quốc tế càng lớn. Do vậy, các quốc gia phải hợp tác với nhau để ngăn ngừa sự trở lại của các chính sách bào hộ mậu dịch đã gây nên cuộc đại khủng hoảng 286
  • 288. trong những năm 1930, đe dọa đến sự phát triển của cộng đồng quốc tế. Đảm bảo sự ổn định của dòng lưu thông tiền tệ cũng chính là sự đảm bảo cho dòng vốn đầu tư quốc tế và giao dịch thương mại quốc tế được thông suốt, góp phần vận hành hiệu quả nền kinh tế quốc tế. Quan hệ pháp luật tài chính - tiền tệ là quan hệ giữa các chủ thể của luật kinh tế quốc tế (chủ yếu là giữa các quôc gia) được điều chỉnh bởi các hệ thống tài chính - tiền tệ quốc tê. Trong khoa học pháp lý, khái niệm hệ thống tài chính - tiên tệ quốc tế được thừa nhận rộng rãi hiện nay là “tập hợp các quy tắc và thỏa thuận quốc tế được xâv dựng bởi các quốc gia và các tổ chức quốc tế nhằm ngăn ngừa khủng hoảng tiền tệ và khắc phục nỏ”.8 Hệ thống tài chính - tiền tệ quốc tế là hệ thống liên quôc gia (khác với hệ thống mang tính chất tư nhân như các thị trường thuộc “euro-market”) được hình thành vào tháng 7/1944 trong khuôn khổ của Hội nghị tài chính - tiền tệ của LHQ tổ chức tại Bretton Woods, New Hampshire, Hoa Kỳ với việc thành lập hai tổ chức quốc tế là IMF và WB. Hệ thống tài chính - tiền tệ này mang tính chất đa phương có phạm vi toàn cầu với mục tiêu cơ bản là bảo đảm sự ổn định của hệ thông tiền tệ và tài chính quốc tế. Cả IMF và WB đều là các tổ chức liên chính phủ và chỉ điều chỉnh các vấn đề liên quan tới quan hệ tài chính - tiền tệ giữa các quốc gia và quyền và nghĩa vụ của quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tể. Bên cạnh hệ thống tài chính - tiền tệ đa phương, cũng tôn tại hệ thông tài chính khu vực có phạm vi ảnh hưởng giới hạn đối với từng khu vực cụ thể. Trên bình diện khu vực, sự ra đời và tồn tại của khu vực đồng euro, mặc dù đang đứng trước những thách thức rất lớn từ cuộc khủng hoảng nợ công ờ một 8 Dominique Carreau, Patrick Juillard, tlđ d , tr. 552. 2 8 7
  • 289. số nước trong khu vực, đã thực sự nâng tầm quan hệ hợp tác giữa các quốc gia trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ quốc tế. 1.3.2. Quan hệ pháp luật thương mại quốc tế Quan hệ pháp luật thương mại quốc tế có thể được hiêu là quan hệ giữa các chủ thể tiến hành các hoạt động thương mại quốc tế được luật (thương mại) quốc tế điều chỉnh.9 Quan hệ pháp luật thương mại quốc tế giữa các quốc gia được hình thành và vận hành trên cơ sở các chính sách và quy phạm pháp luật do các quốc gia thỏa thuận thiết lập nên. Tuy nhiên, lịch sử cho thấy, các quốc gia thường rất bảo thủ trong việc hợp tác phát triển thương mại vì họ không muốn chia sẻ các nguồn tài nguyên mình sở hữu. Các chính sách pháp luật thương mại quốc gia thường mang nặng tính bảo hộ (sản xuất trong nước) và không tạo, điều kiện thuận lợi cho hợp tác trao đổi thương mại, gây tác động tiêu cực đến dòng lưu chuyển hàng hóa, dịch vụ, đầu tư quốc tế.10 Bảo hộ mậu dịch tràn lan dẫn tới hậu quả là sự hình thành các hệ thống thị trường độc quyền và chia cắt thị trường quốc tế, tác động tiêu cực tới sự trao đổi, sử dụng các nguồn lực và tài nguyên một cách hiệu quả. Đó được coi là một trong những yếu tố cơ bản dẫn tới những mâu thuẫn kinh tế sâu sắc giữa các quốc gia và những cuộc chiến tranh trên phạm vi khu vực và toàn cầu nửa đầu thế kỷ XX. 9 Tại Việt Nam, khái niệm thương mại quốc tế được hiểu rất rộng, bao gồm cả các hoạt động thương mại (vi mô) của các thương nhân (thương mại quốc tế tư) và hoạt động thương mại quốc tế giữa các quốc gia và các định chế kinh tế quốc tế (thương mại quôc tê công). Trong phạm vi chương này, phù hợp với khái niệm vê luật kinh tê quôc tê, chúng ta chì xem xét các quan hệ pháp luật thương mại quốc tế dưới góc độ kinh tế vĩ mô hay còn gọi là các quan hệ thương mại quốc tế công. Xem thêm Mai Hồng Ọùy và Trân Việt Dũng, Luật Thương mại quốc tế, Nxb. ĐHỌG TP.HCM, 2012. 10 Xem Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đưc, 2012, tr. 42-50. 288
  • 290. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, các quốc gia đã hướng tới thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế mới trên cơ sở gia tăng hợp tác kinh tế - thương mại quốc tế thông qua quá trình tự do hóa thương mại đa phương. Nét đặc trưng của quan hệ pháp luật thương mại quốc tế hiện đại nằm ở việc quốc gia chấp nhận ràng buộc trong các cam kết mở cửa thị trường nội địa, hạn chế bảo hộ và bảo đảm sự ổn định trong chính sách và pháp luật thương mại. Điều này đồng nghĩa với việc quốc gia nhượng bộ một phần chủ quyền của mình trong lĩnh vực thương mại. Mối quan hệ này tạo ra một nền tảng quan trọng cho sự phát triển của hệ thống pháp luật thương mại quốc tế và hợp tác kinh tế - thương mại. Trong bối cảnh đó, quan hệ pháp luật thương mại quốc tê giữa các quôc gia được điêu chỉnh thông qua các công cụ pháp lý chủ yếu là điều ước quốc tế đa phương và khu vực (bao gồm cả các điều ước song phương). Các điều ước quốc tế trong lĩnh vực thương mại quốc tể chủ yếu điều chỉnh ba mảng: thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ, thương mại liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ. Các điều ước này thiết lập những quy tắc cho hoạt động thương mại quốc tế giữa các chủ thể, ví dụ như quy chế đối xử tối huệ quốc (Most Favoured Nation treatment, MFN), đối xử quốc gia (National Treatment, NT); thực hiện cắt giảm thuê quan và loại bỏ hạn ngạch; biện pháp bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ; và đưa ra các biện pháp giải quyết tranh châp thương mại (nếu có). Nhìn chung, điều ước thương mại quốc tế khu vực được coi là công cụ quan trọng để quốc gia xúc tiến quan hệ hợp tác thương mại với đối tác thương mại chiến lược của mình. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, đặc điểm, kết quả và ảnh hưởng của các hiệp định thương mại khu vực. nhất là các hiệp định song phương phụ thuộc vào cán cân thương mại của các 2 8 9
  • 291. quôc gia thành viên và trong nhiều trường hợp phụ thuộc vậo quan hệ chính trị - kinh tế của quốc gia. Ở góc độ này, điên ước quôc tế đa phưomg thường đảm bảo tốt hơn sự cân bằng tương đối cho lợi ích thương mại của cộng đồng các quốc gia- Hệ thống thương mại quốc tế đa phương (toàn cầu) hiện nay được điêu phối và giám sát bởi Tổ chức Thương mại th6 giới (WTO). Cụ thể, WTO đã thiết lập một khung pháp lý ch° các lĩnh vực thương mại theo một hệ thống như sau: -Khung pháp lý điều chỉnh quan hệ pháp luật thương mại hàng hóa quốc tể bao gồm Hiệp định chung về thuế qu&n và mậu dịch (GATT) 1947/1994 và các hiệp định đa biên vê thương mại hàng hóa (dưới hình thức phụ lục IA của Hifp đinh thành lập WTO và nhằm mục đích giải thích các điên khoản của GATT). -Khung pháp lý điều chỉnh quan hệ pháp luật thương mại dịch vụ quốc tế dựa trên nền tảng là Hiệp định chung vẻ thương mại dịch vụ (General Agreement on Trade in Services - GATS) (Phụ lục IB của Hiệp định thành lập WTO). Mực đích cơ bản của GATS là thiêt lập một khuôn khổ đa biên chơ những nguyên tắc và quy tắc của thương mại dịch vụ nhằm mở rộng thương mại trong lĩnh vực này trong điều kiện minh bạch và tự do hóa từng bước. - Khung pháp lý điều chỉnh quan hệ pháp luật về quyền sở hữu trí tuệ dựa trên nên tảng là Hiệp định TRIPS. Hiệp định TRIPS là một hiệp định đa phương tổng hợp và thống nhất các quy định vê sở hữu trí tuệ đã tôn tại trong các điêu ước quốc tê về quyền sở hữu trí tuệ (như Công ước Paris, Công ước Berne, Công ước Rome và Hiệp ước về quyền sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp). Các thành viên của WTO bị ràng buộc bởi Hiệp định TRIPS, bất kể họ có phải là thành viên của các điêu ước quốc tế đó hay không. 290
  • 292. Sự lưu chuyển đồng vốn nhàn rỗi từ nơi đang có sẵn đến nơi có nhu cầu đóng vai trò rất quan trọng trong việc vận hành và phát triển kinh tể ở cấp độ quốc gia hay quốc tế. Đầu tư nước ngoài cũng vì thế mang lại nhiều lợi ích đặc biệt cho những quốc gia nhận đầu tư là nước đang phát triển. Nhò nguồn vốn này, họ có thể giải quyết những khó khăn về kinh tế xã hội như lạm phát, thất nghiệp, tạo môi trường cạnh tranh và thông qua tiếp nhận đầu tư nước ngoài, quốc gia tiếp nhận còn có điều kiện học tập và ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại. Ở chiều ngược lại, quốc gia xuất khẩu đầu tư cũng nâng được hiệu quả sử dụng vôn đầu tư. Nhà đâu tư của quôc gia này có điêu kiện tiếp cận nguôn nguyên liệu và nguôn nhân lực giá rẻ để hạ giá thành sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh. Giữ vai trò quan trọng như vậy, nhưng trong các văn bản pháp luật kinh tế quốc tế hiện nay (dù mang tính ràng buộc hay chỉ có giá trị như “luật mêm”), khái niệm hoạt động đâu tư nước ngoài không được đề cập hoặc được đề cập nhưng không đạt được sự thừa nhận rộng rãi. Bộ văn bản hướng dân “Những nguyên tác định hướng của Ngân hàng Thế giới vê đôi xử đôi với đầu tư trực tiêp nước ngoài” ban hành ngày 21/9/1992 bởi ủ y ban phát triển của Ngân hàng Thế giới (WB) và Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đên thương mại (Agreement on Trade-Related Investment Measures, TRIMS) (trong khuôn khổ các Hiệp định đa biên của WTO) đêu không định nghĩa thê nào là đầu tư nước ngoài. Trong bản dự thảo của Hiệp định đa biên về đầu tư {Multinational Agreement on Investment, MAI) của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (Organisation for Economic Co­ operation and Development, OECD), khái niệm đầu tư nước ngoài được định nghĩa là “ ... bao gồm tất cá các loại vốn đầu tư là tài sán hữu hình, động sán hay bất dộng sản tài sản vô 1.3.3. Quan hệ pháp luật về đầu tư quốc tế 291
  • 293. hình như các quyển sở hữu trí tuệ cũng như các tài sản đặc biệt nhiỉ cổ phiếu, trải phiếu... không phân biệt hình thức đầu tư trực tiếp hay giản tiếp”. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không được công nhận rộng rãi bởi cộng đồng quốc tế .1 1 Đầu tư nước ngoài, theo định nghĩa của MAI, có thê hiểu khái quát là việc nhà đầu tư quốc gia này đưa vào quốc gia khác vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt động đầu tư. Tài sản ở đây bao gồm cả tài sản hữu hình và tài sản vô hình. Đầu tư nước ngoài có thể được thực hiện dưới hai hình thức: đầu tư trực tiếp và gián tiếp. Tiêu chí để phân biệt hai hình thức này chính là việc có hay không hành vi trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.12 Tuy nhiên, việc xác định thế nào là “trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư” là chủ đề chưa được thống nhất hiện nay. Quan hệ pháp luật về đầu tư nước ngoài thuộc phạm vi điều chỉnh của luật kinh tế quốc tế được hiểu là mối quan hệ giữa các quốc gia trong việc hợp tác điều chỉnh hoạt động đầu tư nước ngoài (theo hướng ngày càng mở rộng tự do lưu chuyên dòng vôn đâu tư, bảo hộ quyền sở hữu của nhà đâu tư nước ngoài).13 Khung pháp lý đảm bảo cho sự hợp tác đó chính là các điều ước quốc tế. Tuy nhiên, như đã trình bày ở trên, bởi nhiều lý do trong đó có sự không thống nhất về nội hàm của hoạt động đầu tư nước ngoài, cho đến nay cộng đồng quốc tế vẫn chưa thiết lập được một điều ước quốc tế đa phương toàn cầu điều chỉnh toàn bộ quan hệ về đầu tư nước ngoài. 1 1 Hiệp định MAI được soạn thào bời OECD hiện vẫn chưa được ký kết do khône nhận được sự ùng hộ cần thiết của các quốc gia trên thế giới. 12 xém thêm Điều 3.2, 3.3 Luật Đầu tư 2005, Phụ lục D Bộ quy tắc về tự do hóa dòng vốn đầu tư năm 2013 của OECD 1 3 Patrick Daillier et al, tlđd, tr. 1170-1181, cũng xem Giáo trình Luật Kinh tế quốc tế (Me.ìicờvnapoờiioe jKonoMimecKoe npciGÒ), Học viện quốc gia Moscow về quán hệ kinh tế quốc tế (MGIMO), KHoPyc, Moscow, 2012, tr. 182-189 292
  • 294. Bộ văn bản hướng dẫn “Những nguyên tắc định hướng của Ngân hàng Thế giới về đối xử đối vời đầu tư trực tiếp nước ngoài” của thiết rhế này hiện là văn bản duy nhất đề cập một cách có hệ thống các vấn đề trong quan hệ đầu tư quốc tế. Văn bản này hướng đến khuyến khích và bảo hộ đầu tư nước ngoài bằng cách đặt ra các nguyên tấc điều chỉnh hành vi của các quốc gia trong lĩnh vực này như nguyên tắc đối xừ công bằng, nguyên tắc tối huệ quốc, đối xử quốc gia cũng như đặt ra các điều kiện chặt chẽ cho việc quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu tư nước ngoài nhưng cho đến nay các nguyên tắc này không mang tính ràng buộc đối với các quốc gia và không phải là một điều ước quốc tế đa phương toàn cầu (mặc dù đã được công nhận bởi Ngân hàng Thế giới), cần lưu ý ở đây là Bộ văn bản hướng dẫn này vẫn đề cao chủ quyền quốc gia, thông qua việc ghi nhận nguyên tắc quyền tự do của quốc gia trong việc quyết định chấp nhận nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài. Điều đó có nghĩa là tự do hóa sự lưu chuyên dòng vôn đầu tư nước ngoài vẫn bị hạn chế bởi chủ quyền của quốc gia. Điều ước quốc tế đa phương toàn cầu đề cập hoạt động đầu tư nước ngoài có thể kể đến ở đây là Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại TRIMs của WTO. Tuy nhiên văn bản pháp lý quốc tế này chỉ áp dụng đôi với thương mại hàng hóa của doanh nghiệp đầu tư trực tiêp nước ngoài và chỉ hướng đến xóa bỏ các biện pháp đầu tư gầy cản trở thương mại của quốc gia nhận đầu tư chứ không chứa đựng các quy định toàn diện điều chỉnh hoạt động đâu tư, như bảo đảm đầu tư nước ngoài (quv định ấn định các điều kiện cho việc trưng thu tài sản của nhà đầu tư nước ngoài, nguyên tắc bồi thường - mức bồi thường trong trường hợp trưng thu tài sản), giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư nước ngoài...1 4 1 4 Xem Giáo trình Luật Thương mại quốc tế Đại học luật TP.HCM —Phàn I (Luật WTO), Nxb. Hồng Đức, 2012 293
  • 295. Hiện nay, quan hệ pháp luật về đầu tư nước ngoài giữa các quốc gia nói chung chỉ được điều chỉnh bằng các điều ước về hợp tác đầu tư song phương hoặc điều ước mang tính khu vực (hiệp định khu vực tự do thương mại hay hiệp định vê liên minh thuế quan). Nội dung của các điều ước quốc tê này thường bao gồm các vấn đề cơ bản như sau: - Xác định rõ nội hàm của đầu tư nước ngoài, từ đó xác định phạm vi điều chỉnh của hiệp định. Thông thường hoạt động đầu tư nước ngoài được hiểu rất rộng, không phân biệt đầu tư trực tiếp hay gián tiếp. - Quy định trình tự thủ tục cho phép các nhà đầu tư nước ngoài tiến hành các hoạt động đầu tư mà họ quan tâm, đây gọi là giai đoạn tiền đầu tư và trình tự thủ tục này được chia thành 3 loại tùy theo quốc gia lựa chọn mô hình hệ thống nào: hệ thống khai báo; hệ thống xin cho; hệ thống hỗn hợp. - Quy định việc áp dụng các nguyên tắc đối xử quốc gia và đối xử tối huệ quốc cho các nhà đầu tư của các quốc gia thành viên hiệp định. - Quy định các biện pháp bảo đảm cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm khi tiến hành các hoạt động đầu tư (quy định ấn định các điều kiện cho việc trưng thu, quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu tư nước ngoài, nguyên tắc bồi thường - mức bồi thường trong trường hợp trưng thu, quốc hữu hóa tài sản; quy định cho phép tự do chuyển vốn, tài sản ra nước ngoài, ví dụ chuyển lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh, vốn đầu tư, các khoản thanh lý đầu tư trong trường hợp chấm dứt hoạt động đầu tư tại nước nhận đầu tư ra nước ngoài). - Quy định các vấn đề trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư nước ngoài. 294
  • 296. Các nguyên tắc cơ bản của luật quôc tê cũng chính là các nguyên tắc cơ bản của luật kinh tê quôc tê... Tuy nhiên, các nguyên tắc cơ bản sau đây có ý nghĩa quan trọng đặc biệt trong quan hệ kinh tế giữa các quôc gia: (i) Nguyên tắc giải quyêt các tranh châp kinh te quoc te bằng biện pháp hòa bình: tranh châp quôc tê nói chung và tranh chấp kinh tế quốc tế nói riêng giữa các quoc gia phai được giải quyết bằng các biện pháp hòa bình. Cac biẹn phap hòa bình được đề cập tại Điều 33 Hiên chương LHQ, bao gom các biện pháp mang tính chính trị như đàm phan, đieu tra, trung gian và hòa giải; các biện pháp tư pháp bao gôm trọng tài và tòa án.16 Trong Hiến chương của hiệp hội các quôc ^ia E)ông Nam Á đây được coi là một nguyên tăc mang tính nên tảng. Nguyên tắc này buộc các quốc gia phải hướng tới những hiện pháp hòa bình khi giải quyết các tranh chấp trong quan hệ kinh te quoc tế và tranh việc áp dụng vũ lực hay biện pháp tiêu cực như chiến tranh, đong thời nâng cao vai trò và ảnh hưởng của các cơ chế giải quyết tranh châp quoc te; (ii) Nguyên tắc tôn trọng các cam kết C|uốc tê (Pacta sunt sẹrvanda): Trong bôi cảnh quan hệ kinh tể quốc tế nguyên tắc, theo đó các quốc gia phải thực hiện cac cam e , oa thuận cua mình cung như những quy phạm pháp luật kin 1 tê quoc te một cách tận tam, thiện chí và đầy đủ, có ý n^hĩa quan trọng. Neu cac quy pham pháp luật trong nước của quôc g a đó không phù hợp vm cac quy định trong cac đ ều ước quốc tế về kinh té mà quôc gia đó la thành viên thì quốc gia đó có ngh a vụ phải sủa rói bổ s u n g Tay h i^ Pháp luật quốc gia cho phù hạp vói các cam kết kinh quôc tể. 1 .4 . C á c n g u y ê n tắ c c ủ a lu ậ t k in h tê q u ô c tê Xem Chương II Hiến chương LHQ, Điều 33. 295
  • 297. Bên cạnh đó, luật kinh tế quốc tế có các nguyên tắc đặc thù sau: (i) Nguyên tắc các quốc gia có chủ quyền trong việc lựa chọn hệ thống kinh tế phù hợp với ý muốn của nhân dân, mà không có bất kỳ hình thức can thiệp, ép buộc hay đe dọa nào. (ii) Nguyên tắc các quốc gia có chủ quyền vĩnh viễn đối với tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động kinh tế của mình.1 7 18 Cụ thể, các quốc gia có quyền: - Quy định và thực hiện thẩm quyền về đầu tư nước ngoài trong phạm vi quyền tài phán của quốc gia mình. Quốc gia không bị buộc phải dành sự đối xử ưu đãi cho đầu tư nước ngoài; - Điều tiết và giám sát hoạt động của các tập đoàn, công ty xuyên quốc gia trong phạm vi quyền tài phán của quốc gia mình và thực hiện các biện pháp để đảm bảo rằng các hoạt động này được thực hiện theo quy định của pháp luật và các chính sách kinh tế và xã hội của quốc gia. Tập đoàn xuyên quốc gia không được can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia tiếp nhận đầu tư. - Quốc hữu hóa, trưng thu tài sản của thể nhân và pháp nhân nước ngoài có bồi thường thích hợp theo quy định của pháp luật quốc gia tiếp nhận đầu tư. (iii) Nguyên tắc các quốc gia có quyền tham gia vào thưong mại quốc tế và các hình thức hợp tác kinh tế khác mà 17UNGA Res.3281(XXIX), Điều 1. 1 8 UNGA Res.3281(XXIX), Điều 2.1; UNGA Res.3201(S-VI), Principle (e). Chù quyền đối với tài nguyên thiên nhiên của các quốc gia {Permanent sovereignty over natural resources -PSNR) được đề cập tại Nghị quyết cúa Đại họi đồng LHQ năm 1962 (ƯNGA Res. 1803 (XVII), 14/12/1962, "Permanent sovereignty over natural resources"). 296
  • 298. không có bất kỳ sự phân biệt nào về chính trị, kinh tế và xã hội.19 Các quốc gia có quyền tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế để phát triển nền kinh tế của quốc gia mình. Tương ứng, tất cả các quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền đó (bằng cách hạn chế áp dụng các biện pháp kinh tế và chính trị).20 (iv) Nguyên tắc đối xử ưu đãi và thuận lợi hơn dành cho các quốc gia đang phát triển.21 Việc áp dụng nguyên tắc này có thể thể hiện qua hình thức cung cấp, hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho các quốc gia đang phát triển.22 hoặc dành cho các quôc gia đang phát triên những ưu đãi trong tât cả các lĩnh vực hợp tác kinh tế quốc tế.23 (v) Trong quan hệ thương mại, luật kinh tế quốc tế có các nguyên tắc đặc thù nổi bật nhất là: nguyên tắc các quốc gia dành cho nhau quy chế MFN, nguyên tắc NT và nguyên tắc minh bạch.24 II. M ỘT SỐ CHỦ THẺ CHỦ YÉU CỦA LUẬT KINH TÉ QUÓC TẾ về mặt lý luận cũng như thực tiễn, quốc gia có chủ quyền luôn đóng vai trò trung tâm trong quá trình hình thành và phát triển của trật tự kinh tế quốc tế. Quốc gia, chủ thể chủ yếu của luật quốc tế đàm phán, ký kết và tham gia vào các điều ước quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, qua đó tạo cơ sở cho các hoạt động kinh tế quốc tế. Đồng thời, quốc gia không chỉ tiến hành quan hệ kinh tế với quốc gia khác, mà còn trực tiếp tham gia các quan hệ kinh tế với thể nhân và pháp nhân nước i9UNGA Res.3281(XXIX), Điều 4. 20UNGA Res.3281(XXIX), Điều 5. 21 GATT 1994, Art.7. 22 UNGA Res.3201(S-VI), Principle (1). UNGA Res.3281(XXIX), Điều 13(1), (2), (3), (4). 23 UNGA Res.3201(S-VI), Principle (n). UNÒA Res.3281(XXIX), Điều 9. 24 GATT 1994, Điều 10. 2 9 7
  • 299. ngoài (đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư và thương mại). Bên cạnh đó, trong quan hệ kinh té quốc tế hiện đại các tổ chức kinh tế đóng một vai trò rất đặc biệt. Trật tự kinh tế mới đánh dấu sự ra đời và phát triển của các tổ chức kinh tế quốc tế liên chính phủ ở cả cấp độ toàn cầu và khu vực như IMF, WB, WTO hoặc EU, ASEAN, NAFTA... Các tổ chức này tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển của pháp luật kinh tế quốc tế và đặc biệt, trực tiếp điều phối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia, bao gồm việc thúc đẩy sự hợp tác giữa các quốc gia trong việc hoạch định chính sách kinh tế theo các nguyên tắc của luật kinh tế quốc tế, hỗ trợ các quốc gia gặp khó khăn trong việc vận hành nền kinh tế quốc nội cũng như khi tham gia vào các quan hệ kinh tế quốc tế, giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia trong hoạt động kinh tế quốc tế... Bên cạnh đó, với quá trình toàn cầu hóa ngày nay, quan hệ kinh tế quốc tế cũng chịu sự tác động của các thực thể kinh tế dân sự, đặc biệt là công ty đa quốc gia. Mặc dù không phải là chủ thể của luật kinh tế quốc tế nhưng các tổ chức kinh tế này là hạt nhân quan trọng cho sự vận hành của các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế, chịu ảnh hưởng trực tiếp bởi các chính sách kinh tế vĩ mô và tác động trở lại đến sự hình thành các quy phạm luật kinh tế quốc tế. Phần này sẽ giới thiệu về các tổ chức kinh tế toàn cầu (2.1) và các tổ chức kinh tế khu vực (2.2). 2.1. Các tổ chức kinh tế toàn cầu Tại Hội nghị thượng đỉnh giữa các nước đồng minh thắng trận được tổ chức vào năm 1944 tại Bretton Woods, New Hampshire Mỹ, các cường quốc kinh tế đã thống nhất thành lập một hệ thống tài chính tiên tệ toàn cầu - còn gọi là Hệ thống Bretton Woods, có khả năng đẩy mạnh sự hợp tác kinh tế đa phương trên phạm vi toàn cầu. Hệ thống Bretton 298
  • 300. Woods được dự định sẽ là một hệ thống các định chế kinh tế quốc tế trong khuôn khổ LHQ với ba trục cơ bản là IMF, WB và Tổ chức Thương mại thế giới (International Trade Organization —“ITO”)25. Trong đó, IMF bảo đảm cho sự ổn định của tiền tệ và tạo điều kiện cho sự trao đổi chính sách tiền tệ giữa các quốc gia; WB hỗ trợ tái thiết các quốc gia bị tàn phá trong chiến tranh và hỗ trợ tài chính cho các nước đang phát triển trong việc xây dựng và phát triển kinh tế. ITO sẽ là tổ chức điều phối và xúc tiến hợp tác thương mại quốc tế. ITO đã không bao giờ được thành lập nhưng ý tưởng về ITO đã được thực hiện bằng sự ra đời của GATT và của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) sau này, với tư cách là tổ chức kinh tế toàn cầu uy tín nhất hiện nay. 2.1.1. Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) 2.1.1.1. Tổng quan Quỹ tiền tệ quốc tế được chính thức thành lập ngày 27/12/1945, khi 29 quốc gia thống nhất ký kết và phê chuẩn Bản hiến chương IMF (Articles of Agreement of IMF). Quỹ tiền tệ quốc tế có trụ sở chính đặt tại Washington (Mỹ) và có hai văn phòng chi nhánh tại Paris và Geneva. Buổi đầu thành lập, IMF chỉ là một tổ chức có chức năng giám sát hoạt động của hệ thống tài chính - tiền tệ qụôc tế. Trong quá trình phát triển, IMF đã trực tiếp hỗ trợ hệ thông này thông qua việc cung cấp các khoản vay tài chính lớn cho các nước thành viên của tô chức đê họ nhanh chóng khăc phục khủng hoảng tài chính hoặc tái thiết kinh tế, qua đó bảo đảm 25 Vấn đề thành lập ITO không được đề cập chính thức tại các văn bàn cùa Bretton Woods, tuy nhiên các nước tham gia hội nghị đã công nhận sự cân thiết của một tổ chức quốc tế cho thương mại bên cạnh IMF và World Bank. Xem Jackson John, “The World Trade Organization: Constitution and Jurisprudence”, Royal Institute of International Affairs, UK, 1998, tr. 15-16. 2 9 9
  • 301. sự ôn đinh tài chính. Hiện nay, IMF là một tổ chức quốc tê co uy tín với 188 thành viên và quản lý số vốn trên 775 tỷ USD.2 2.1.1.2. Mục tiêu và chức năng Theo quy định của Hiên chương IMF, bốn mục tiêu hoạt động cơ bản của Quỹ tiền tệ quốc tế la:2 6 27 (ì) Thúc đây hợp tác quốc tế thông qua một thiết ehe thường trực cỏ trách nhiệm cung cấp một bộ máy tư vấn yà cọng tac nham giải quyêt các vân đề tiền tệ quốc tế; tạo điêụ kiện mở rộng và tăng trường cân đối hoạt động thương mại quoc te (qua đo tăng cường và duy trì ở mức cao việc làm, tho nhạp thực te và phát triên nguôn lưc sản xuất của tất cả các thành viên); (li) Tang cương ôn định ngoại hối nhằm duy trì một cách có trật tự hoạt động giao dich ngoại hối giữa các thành viên, tránh việc phá giá tiền tệ để cạnh tranh- (in) Hô trợ thiêt lập hệ thông thanh toán đa phương giữa các nước thành viên; (1V ) Cung câp cho thành viên nguồn tài chính từ Quỹ đê đảm bảo duy trì khả năng tài chính và tạo cơ hội cho thành viên sửa chữa sự mât cân đôi trong cán cân thanh toán quốc tế. Khi mới được thành lập, IMF có hai chức năng cơ bản là (i) giám sát thanh toán quôc tê và tỷ giá hối đoái cố định của hệ thống Bretton Woods (qua đó giúp chính phủ quốc gia quản lý tỷ giá hôi đoái và giúp họ tập trung vào tăng trưởng kinh tế) và (ii) cung câp ngăn hạn vôn đê hỗ trợ quốc gia cân bằng thanh toán. Sự trợ giúp vôn của Quỹ trong thời kỳ khủng 26 IMF, “Membership” trong “About IMF”, 2010. http://www.imf.org/extemal/np/sec/memdir/members.aspx (truy cập lần cuối 28/8/2012) 27 Điều I, Hiến chưong IMF. 300
  • 302. hoàng tài chính của quốc gia có ý nghĩa ngăn chặn sự lây lan của khủng hoảng kinh tế quốc tế. Sau sự sụp đổ của hệ thống Bretton Woods dựa trên cơ sỏ tỷ giá hối đoái cố định (theo bản vị là đồng USD)28, các quốc gia thành viên của IMF đã tự xác định tỷ giá hối đoái. Tuy nhiên, theo quy định sửa đổi của Điều IV của Hiến chương, các thành viên vẫn tiếp tục cam kết hợp tác với Quỹ và các thành viên khác để bảo đảm một trật tự trao đổi tiền tệ trong thương mại quốc tế và xúc tiến một hệ thống tỷ giá hôi doái ổn định. IMF vẫn sẽ giám sát chính sách hối đoái của các quôc gia thành viên, và có thêm chức năng hướng dân quôc §ia thành viên xây dựng và áp dụng các chính sách tài chính đôi với tỷ giá hôi đoái. IMF khuyên khích các quôc gia thành viên áp dụng hệ thông tỷ giá hối đoái tự do cho đông tiên quôc gia để xúc tiến thương mại quốc tể. Hiện nay, IMF cũng thực hiện chức năng giám sát chính sách kinh tế và tài chính của quốc gia thành viên. Việc giám sát này được IMF thực hiện dưới 2 hình thức: Thứ nhát, giám sát song phương thông qua các cuộc họp, trao đôi với các quôc gia thành viên, hay còn gọi là ‘Tham vấn theo Điều IV” của bản Hiên chương IMF. Trong các cuộc họp này, đại diện của quôc gia thành viên IMF sẽ giải trình chính sách và kệ hoạch phát triển kinh tế của quốc gia. Trong những năm gần đây, IMF cũng yêu cầu báo cáo về các vấn đề liên quan khác có 28 Hệ thống Bretton Woods có một nhiệm vụ quan trọng bào đảm sự on Ị1Ị tiền tệ quốc tế. Khi hệ thống được hình thành năm 1945, My đa dưng ra ao trợ hệ thống này bằng cách bảo đăm duy trì giá trị đông USD băng vang (-5 USD = 1 ounce vàng). Tuy nhiên, do những khoản chi không lô tr° ns chiến tranh Việt Nam, Mỹ đã không còn khả năng bào đảm giá tri đong bằng vàng và từ bỏ chính sách này vào năm 1971. Với việc Mỹ tư bo bao ^am sự on định của tỷ giá USD, hệ thống Brentton Woods không thê vận hann va đã chấm dứt tồn tạĩ vào năm 1973. Tuy nhiên, các tổ chức quốc tế do hệ thông Bretton Woods thiết lập nên (IMF, WB) vẫn tiếp tục được duy trì và phát trien tới nay. 301
  • 303. ảnh hường tới quản lý kinh tế của quốc gia như vấn đề xã hội, môi trường, thị trường lao động... Thứ hai, IMF thực hiện giám sát đa phương thông qua trao đổi các vấn đề chính sách kinh tế và tài chính giữa các quốc gia thành viên. IMF kiêm tra cả chính sách của các liên kết khu vực, chẳng hạn như Liên minh tiền tệ châu Âu (European Monetary Union) hay Liên minh tiền tệ và kinh tế của các nước Trung Phi (Central African Monetary and Economic Union), và các chính sách liên quan của quốc gia có tầm ảnh hưởng khu vực. IMF sau đó gửi ý kiến của mình về các vấn đề khu vực cho từng quốc gia thành viên trong buổi tham vấn theo Điều IV. Bên cạnh đó, IMF cũng tiến hành các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật thông qua các dự án nghiên cứu, thống kê, dự báo, và phân tích kinh tế trên phạm vi toàn cầu, khu vực và từng nền kinh tế/ thị trường cụ thể; tư vấn chính sách tài chính - kinh tế cho chính phủ và ngân hàng trung ương của các quốc gia thành viên, đào tạo chuyên gia để hỗ trợ các quốc gia thành viên nâng cao khả năng quản lý kinh tế. 2.1.1.3. Cơ cẩu tổ chức Cơ câu tô chức của IMF bao gồm 3 cơ quan đầu não là (i) Hội đông quản trị (Board o f Governers); (ii) Hội đồng điều hành hay còn gọi là Hội đông giám đốc (Executive Board) và (iii) Giám đốc điêu hành (Managing Director). Bên cạnh đó Quỹ cũng có những cơ quan chuyên trách hỗ trợ hoạt động của các cơ quan trên trong từng lĩnh vực và dự án cụ thể. * Hội đồng quản trị Hội đồng quản trị IMF là cơ quan lãnh đạo cao nhất của IMF. Hội đồng quản trị gồm đại diện của các nước thành viên và do mỗi nước bổ nhiệm. Mỗi thành viên được quyền bổ nhiệm tối đa 2 ủy viên quản trị với nhiệm kỳ 5 năm, và có thể 30 2
  • 304. yêu cầu một ủy viên quản trị của một thành viên khác đại diện cho mình. Hội đồng quản trị hiện có 187 ủy viên. Hội đồng quản trị họp mỗi năm một lần. Hội đồng quản trị có thẩm quyền phê duyệt các báo cáo hàng năm về hoạt động của IMF, xem xét việc kết nạp thành viên mới và khai trừ thành viên ra khỏi tổ chức, xem xét việc thay đổi vốn pháp định, đồng thời biểu quyết bổ nhiệm, miễn nhiệm các giám đốc của Hội đồng điều hành. Mặc dù về mặt pháp lý Hội đồng quản trị là cơ quan tối cao của IMF, trên thực tế cơ quan này ủy quyền phần lớn các quyền hạn của mình cho Hội đồng điều hành.29 Hội đồng quản trị IMF được tư vấn bởi hai ủy ban cấp bộ trưởng là (i) ủ y ban tài chính và (ii) ủ y ban phát triển30. * Hội đồng điều hành Hội đồng điều hành là cơ quan chấp hành của IMF (còn gọi là Hội đồng giám đốc). Hội đồng giám đốc gồm 24 giám đốc chấp hành đại diện cho 188 quốc gia thành viên, trong đó 8 thành viên có mức vốn góp lớn nhất mỗi thành viên được bổ nhiệm 1 giám đốc (bao gồm Mỹ, Nhật Bản, Đức, Anh, Pháp, Trung Quốc, Nga, và Arab Saudi); 16 giám đốc còn lại do Hội nghị toàn thể bầu ra theo nhóm thành viên có tính đến khu vực địa lý (một nhóm có thể giao động từ 4 tới 22 nước). Hội đồng quyết định tất cả các vấn đề liên quan tới sự vận hành của IMF trong nền kinh tế quốc tế. Hội đồng điều hành thường đưa ra IMF, Governance Structure, trong “About the IMF”, 2010. [http://www.iinf.org/external/about/histcoop.htin] (truy cập lần cuối: 28/8/2012). 30 ù y ban phát triển là một ủy ban hỗn hợp, có nhiệm vụ tham mưu cho Hội đồng Thống đốc của IMF và Ngân hàng thế giới về các vấn đề liên quan đến phát triển kinh tế ở các quốc gia mới nổi và đang phát triển, ủ y ban này có 24 thành viên (thường là các bộ trưởng tài chính). Nó đại diện cho các thành viên cùa IMF và Ngân hàng Thế giới và chù yếu phục vụ như là một diễn đàn để xây dụng sự đồng thuận liên chính phù về các vấn đề phát triển quan trọng. 303
  • 305. những quyết định dựa trên cơ sở đồng thuận, tuy nhiên ^ không đạt được đông thuận thì vấn đề sẽ được biểu quyết theơ đa số. * Giảm đốc điều hành Giám đôc điêu hành của IMF là người đứng đầu tổ có vai trò điêu hành hoạt động của tổ chức và là Chủ tịch Hội đông điêu hành. Giám đôc điều hành của IMF cũng đôttể thời là Chủ tịch Hội đồng điều hành. Trong lịch sử, Giám đốc điều hành quản lý của iM Ị luôn là người châu Au, trong khi Chủ tịch của Ngân hàng giới luôn do Mỹ bổ nhiệm. Tuy nhiên, truyền thống này ngàỵ càng bị lung lay^ với sự trỗi dậy của các thành viên đến t** những nền kinh tế mới nổi trên thế giới.3 1 2.1.1.4. Thành viên Mọi quôc gia đêu có thể đăng ký và trở thành viên củ3 IMF nêu săn sàng găn bó, trung thành với các chức năng nguyên tăc chủ đạo của Quỹ được quy định trong bản Hi®1 3 chương IMF và các văn bản khác của to chức. Quyền và nghĩ3 vụ của thành viên IMF đối với Quỳ được xác định trên cơ sờ “hệ thống hạn ngạch”. Mỗi quốc gia thành viên IMF sẽ được cấp một mức hạn ngạch dựa trên vai trò của quốc gia trong nền kinh tế thế giới- Mức hạn ngạch sẽ được xem xét lại theo định kỳ.32 Dựa trện hạn ngạch của quốc gia IMF sẽ xác định các vấn đề như quyền1 1 Năm 201 ; các quốc gia trong nhóm BRIC (nhóm liên minh bốn nước Nga, An Độ và Trung Quốc) đã đua ra một tuyên bô chung cho răng truyên thông bô nhiệm một người châu Âu là giám đôc điều hành của IMF la khong phù hợp với tinh thân của Hiên chương IMF “ Lân rà soát gần đây nhât năm 2010 Ban điều hành của IMF đã nhất trí chuyên hơn 6% quyền bỏ phiếu tại IMF tìr các nền kinh tế công nghiêp phát triên sang cho các nền kinh tê mới nôi như Trung Quốc Brazil. 3 0 4
  • 306. biểu quyết, quyền tiếp cận các khoản viện trợ của IMF và quyền rút vốn đặc biệt {Special Drawing Right - SDR).33 * Quyền hiểu quyết Quốc gia thành viên đều được tham gia biểu quyết. Tuy nhiên giá trị của quyền biểu quyết của mỗi quốc gia khác nhau tùy vào hạn ngạch được phân bổ. Cụ thể, mỗi quốc gia thành viên được phân số “phiếu bầu cơ bản” bằng 5,502% tông sô phiếu bầu cộng thêm 1 “phiếu bầu bổ sung” cho mỗi 100.000 SDR hạn ngạch.34 Như vậy, các quốc gia thành viên sẽ có sổ phiếu bầu cơ bản bằng nhau, tuy nhiên các nền kinh tê lớn sẽ có quyền biểu quyết cao hơn dựa trên các phiếu bổ sung xác định bởi S D R .35 Theo cách phân bổ này, Hoa Kỳ, nước đóng góp nhiều nhất cho IMF (khoảng 40 tỷ USD) có 421.965 phiếu (tương đương 16,76% tổng số quyền biểu quyết) trong khi đó Venezuela có 2,659 phiếu (1,08% tổng số quyền biểu quyết) hay Tuvalu chỉ có 759 phiếu (0.03% của tổng số quyền biểu quyết). Hiện nay cổ phần cùa Việt Nam tại IM F là 460.7 triệu SDR, chiếm 0,193% tổng khối lượng cổ phần và Việt Nam có tỷ lệ phiếu bầu là 0,212% tổng sổ quyền biểu quyết. 33 S D R (Q u yền rút vố n đặc b iệt) đ ư ợ c IM F đặt ra năm 1969 th eo đ ề n gh ị củ a 10 n ư ớ c Ịrong C âu lạc b ộ Paris gồm : B ì, C anada, Pháp, Ý , N h ật B ản , H à Lan, T hụy Đ iển , A n h , M ỹ, Đ ứ c. S D R là tài sản d ụ trữ có tính chất q u ố c tế nhằm b ồ su n g ch o tài sàn dự trữ của các q u ốc gia thành viên . S D R có thể đ ư ợ c sừ d ụ n g trong quan h ệ tín dụng giữ a các nư ớc thành viên IM F v ớ i quỹ này cũ n g như trong thanh toán cán cân th ư ơ n g m ại giữ a các q u ốc gia. K hi IM F g iả i n gân , S D R có thể quy đ ổ i ra m ột loại tiền tệ m ạnh nào đó như U S D , E uro, P ou n d s hoặc Y ên N h ậ t ... 34 B lo m b erg , B rock , J L aw ren ce B roz "The P olitical E co n o m y o f IM F V o tin g P ow er". C on feren ce Paper, International P olitical E co n o m y S o ciety (1PES), P rinceton U n iv ersity , (1 0 /0 1 /2 0 0 6 ) h ttp ://w w w .p rin ceto n .ed u /~ p cg lo b a l/co n feren ces/IP E S /p a p ers/b ro z_ b lo m b erg _ F 1 0 3 0 _ l.p d f (tra cứ u lần cu ối 2 8 /8 /2 0 1 2 ) 35 B lo m b erg , B rock , J L aw ren ce B roz, tldd, 2 0 0 6 305
  • 307. * Quyền tiếp cận các khoản viện trợ của IM F Số tiền viện trợ của IMF dành cho một quốc gia thành viên sẽ được xác định trên hạn ngạch dành cho quốc gia thành viên đó. Ví dụ, đối với gói viện trợ “Stand-By and Extended” (SBEA), một loại tín dụng phổ biến mà IFM áp dụng cho các nước đang gặp khủng hoảng tài chính và cần hỗ trợ khẩn cấp, quốc gia thành viên có thể vay lên đến 200% hạn ngạch hàng năm và 600% tích lũy. Tuy nhiên, IMF sẽ có thỏa thuận điều kiện ràng buộc rất khắt khe với các quốc gia tiếp cận gói viện trợ SBEA. Các quốc gia thành viên IMF khi vay của Quỹ sẽ không phải thế chấp, tuy nhiên chính phủ của quốc gia liên quan sẽ phải sửa chữa sự mất cân đối kinh tế vĩ mô thông qua việc thay đổi chính sách tài chính - kinh tế. Nếu các điều kiện trong thỏa thuận viện trợ của IMF không được quốc gia đáp ứng, việc cho vay sẽ bị ngưng lại. Bên cạnh nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các cam kết trong thỏa thuận vay với IMF, quốc gia thành viên cũng phải cam kêt xây dựng và áp dụng các chính sách kinh tê - tài chính bảo đảm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế có trật tự với sự ổn định giá cả hợp lý và phù hợp với hoàn cảnh của mình, không thao túng tỷ giá hối đoái hoặc hệ thống tiền tệ dẫn tới ngăn cản sự điêu chỉnh cán cân thanh toán hoặc để đạt được một lợi thế cạnh tranh không lành mạnh so với các thành viên khác. 2.1.2. N gân hàng Thế giớ i 2.1.2.1. Tổng quan Ngân hàng Thế giới (WB)36 được thành lập vào ngàỵ 27/12/1945 trên cơ sở thỏa ước Bretton Woods như một tổ 36 "N g â n h à n g th ế g i ớ i ” (W o r ld B an k) k h á c v ớ i “N h ó m N g â n h à n g th ế g i ớ i ” (W o r ld B a n k G ro u p ). N h ó m N g á n h à n g th ế g iớ i là n h ổ m c á c to c h ứ c tà i ch ín h b a o g ồ m c á N g á n h à n g q u ô c tê tá i th iế t v à p h á t tr iể n (IB R D ) v à H iệ p h ộ i p h á t 306
  • 308. chức tài chính quốc tế cung cấp những khoản vay nhằm hỗ trợ các nước châu Âu tái thiết kinh tế sau chiến tranh thế giới II. Sau đó, WB mở rộng hoạt động sang các chương trình thúc đẩy phát triển kinh tế và xóa đói giảm nghèo ưên toàn thế giới. WB bao gồm hai cơ quan là Ngân hàng quốc tế tái thiết và phát triển (International Bank fo r Reconstruction and Development, IBRD) và Hiệp hội phát triển quốc tế (International Development Association, IDA)37. Hai cơ quan này huy động vốn từ tất cả các nước thành viên thông qua việc phát hành trái phiếu và đóng góp của một số nền kinh tế lớn. WB sử dụng nguồn tài chính này để cung cấp các khoản vay ưu đãi (không lãi suất và dài hạn) cho các nước thành viên đang phát triển để giúp họ thực hiện các dự án phát triển (chủ yêu là các dự án phát triên cơ sở hạ tâng, giáo dục, phát triên năng lượng, bảo tồn môi trường, phát triển y tế cộng đồng và cải thiện điều kiện vệ sinh). Năm 2012, WB là nhà cung câp vốn cho trên 1.800 dự án trong các lĩnh vực khác nhau tại các quốc gia đang phát triển trên thế giớ i.38 Cùng với các tổ chức chuyên môn khác của LHQ, WB đang đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện Mục tiêu thiên niên kỷ của LHQ. Tính tới 1/2012 WB đã có 188 thành viên, bao gồm hầu hết các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc, ngoại trừ triể n q u ố c t ể (ID A ) v à b a c ơ q u a n k h á c là : C ô n g ty T à i c h ín h q u ắ c tế (International F inance C orporation, IF C ), T ru n g tâ m Q u ố c t ế g iã i q u y ê t tr a n h c h ấ p đ ầ u tir in tern a tio n a l C entre for Settlem ent o f Investm ent D isputes, IC S ID ) v à C ơ q u a n B á o lã n h đ ầ u tư đ a p h ư ơ n g (M ultilateral Investm ent G uarantee A g en cy , M IG A ). B a c ơ q u a n cò n lạ i c ủ a n h ó m N g â n h à n g T h ế g iớ i c ó liê n q u a n tớ i IB R D v à ID A , n h ư n g h o à n to à n đ ộ c lậ p v ề m ặ t p h á p lý v à tà i chính. 37 ID A đu ợ c thành lập vào 1960 38 W orld Bank, “A bout T he W orld Bank (FA O sV ’. (http://w eb.w orldbank.O rg/W B SIT E /E X T E R N A L /E X T SIT E T O O L S/0,,con te n tM D K :20147466~m en u P K :344I89~p ageP K :98400~ p iP K :98424~th eS iteP K : 9 5 4 7 4 ,oo.htm l ) (Truy cập lần cuối 27 /8 /2 0 1 2 ). 3 0 7
  • 309. Andorra, Cuba, Liechtenstein, Monaco, Nauru, CHDCNP Triều Tiên, Tuvalu và Vatican. 2.1.2.2. Mục tiêu và chức năng Mục tiêu cơ bản của Ngân hàng Thế giới là hỗ trợ sự phát triên và nâng cao mức sống của người dân tại các quôc gia thành viên. Theo Hiến chương WB/IBRD các mục tiêu cự thể của Ngân hàng39 là: (i) Hỗ trợ trong việc tái thiết và phát triển của các vùnể lãnh thổ của các thành viên bằng cách tạo điều kiện thuận lợ1 cho việc đầu tư vốn cho mục đích sản xuất (phục hồi các nên kinh tế bị phá hủy hoặc bị gián đoạn do chiến tranh, tái thiêt các cơ sở sản xuất vì nhu cầu hòa bình, và khuyến khích sự phát triển của các cơ sở sản xuất và các nguồn lực của các nước đang phát triển); (ii) Thúc đẩy đầu tư tư nhân bàng cách đứng ra bảo lãnh hoặc tham gia trong các khoản vay và các khoản đầu tư khác được thực hiện bởi các nhà đầu tư tư nhân; (iii) Thúc đẩy tăng trưởng dài hạn cân bàng thương mại quốc tế và duy trì sự cân bằng cán cân thanh toán bằng cách khuyến khích đầu tư quốc tế đối với sự phát triển của các nguồn lực sản xuất của các thành viên, qua đó giúp nâng cao năng suất, chât lượng cuộc sông và điều kiện lao động trong lãnh thổ của họ; (iv) Thu xếp các khoản vay quốc tế hoặc bảo đảm liên quan đến các khoản vay quốc tế thông qua các kênh khác đê các dự án hữu ích và cấp bách hơn sẽ được thực hiện trước; và (v) Thực hiện các hoạt động tạo ảnh hưởng cho đầu tư quốc tế về điều kiện kinh doanh tại các vùng lãnh thổ của các thành viên thời kỳ sau chiến tranh, để hỗ trợ họ trong việc* 3 0 8 39 Đ iều 1 Hiến chương thành lập IBR D 308
  • 310. chuyển đổi thuận lợi từ nền kinh tế trong thời kỳ chiến tranh sang nền kinh tế thời bình. Chức năng cơ bản và chủ yếu của WB là cung cấp các khoản vay nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế cho các quốc gia thành viên đang phát triển. Chức năng này của WB cũng tương tự như IMF. Tuy nhiên, khác với IMF (chỉ cung cấp các khoản vay ngắn hạn nhằm bình ổn cán cân thanh toán để bình ổn nền tài chính đang bị khủng hoảng), WB thường cung cấp các khoản vay dài hạn với mục đích phát triển kinh tế và đặc biệt là củng cố cơ sờ hạ tầng (đường sá, hệ thống tưới tiêu, đê điều...). So với IMF, WB hoạt động giống như một ngân hàng đầu tư hơn là một tổ chức tài chính quốc tế vì WB chủ yếu tham gia vào các hoạt động tài chính đa phương cho mục đích phát triển. IBRD và IDA cung cấp các khoản vay cho mục đích đầu tư phát triển cho chính phủ của quốc gia thành viên hoặc các tô chức tư nhân được chính phù quôc gia thành viên bảo lãnh. 2.1.2.3. Cơ cẩu tổ chức Cơ cấu tổ chức của WB tương tự như IMF, bao gồm ba cơ quan chính là (i) Hội đồng quản trị (Board o f Governers); (ii) Hội đông giám đốc (Board o f Directors) và (iii) Chủ tịch {President) - người đứng đầu WB (có nhiệm kỳ 5 năm). Ngoài ra, Ngân hàng còn các cơ quan chuyên trách có chức năng hỗ trợ các cơ quan điều hành của WB và các chi nhánh đặt tại các quốc gia thành viên để giám sát các dự án được ngân hàng trợ giúp vốn. * Hội đồng quản trị Hội đông quản trị là cơ quan quyền lực cao nhất của WB, có quyên quyết định các vân đê quan trọng của WB. Hội đông quản trị là cơ quan đại diện cho tất cả các thành viên của WB. Môi thành viên của WB đều có. 1 đại diện tại Hội đồng 3 0 9
  • 311. quản trị, thông thường là bộ trưởng tài chính hoặc bộ trưởng kinh tế. Theo Hiến chương, Hội đồng quản trị sẽ quyết định các vấn đế như chấp nhận/khai trừ thành viên, tăng/giảm cổ phần ủy quyền, xác định việc phân phối lợi nhuận của Ngân hàng, quyết định bổ sung/sửa đổi Hiến chương, ký kết các thỏa thuận hợp tác với những tổ chức quốc tế khác, quyết định chấm dứt hoạt động của Ngân hàng, quyết định gia tăng/cắt giảm số thành viên của Hội đồng điều hành... Tuy nhiên, tương tự như tại IMF, Hội đồng quản trị của WB chỉ họp định kỳ mỗi năm một lần và ủy quyền điều hành công việc cụ thể cho Hội đồng giám đốc. * Hội đồng giám đốc Hội đồng giám đốc là cơ quan điều hành hàng ngày quan trọng nhất của WB. Hội đồng gồm 25 thành viên. Năm giám đốc điều hành được bổ nhiệm bời các thành viên nắm số cổ phần lớn nhất là Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đức, Pháp và Vương quốc Anh. Ngoài ra có 3 thành viên đặc cách được bổ nhiệm giám đốc là Trung Quốc, Nga và Saudi Arabia. Các giám đốc còn lại của Hội đồng được bầu bởi các thành viên khác thông qua Hội đồng quản trị. 40 Hội đồng giám đốc là cơ quan điều hành thường trực của WB có chức năng quản lý, giám sát các hoạt động của các cơ quan của WB, bao gồm phê duyệt các khoản vay và bảo 40 T heo quy định của Đ iều V Phần 4(b) H iến chương, H ội đồng quản trị phải quyết định số lượng giám đốc trong H ội đồng giám đốc trên cơ sờ tỷ lệ thuận với sự gia tăng của số lượng thành viên củạ W B. Trước 1/11/1992, H ội đồng 20 giám đốc, trong đó có 17 ngưởi được bâu. N ăm 1992, trong số lượng lớn các thành viên m ới đã gia nhập N gân hàng, số lượng các giám đốc điều hành được bầu tãng lên đến 20. Hai chô ngôi m ới là cùa N ga và m ột nhóm với đại diện là Thụy Sĩ, đưa tổng số giám đôc trong Hội đồng giám đôc lên 24 người. V ới sự khởi đầu hạn ngày 1/11/2010, số lượng các giấm đốc điều hành tiếp tục tăng lên thành 25 người. 310
  • 312. lãnh, các chính sách mới, ngân sách quản trị, chiến lược hỗ trợ quôc gia và các quyết định tài chính và vay vốn. Tương tự như tại IMF, mọi vấn đề sẽ được Hội đồng giám đốc quyết định trên cơ sở biểu quyết hạn ngạch. Một quôc gia thành viên sẽ có một mức hạn ngạch trong việc đóng góp vào vốn của Ngân hàng (được xác định trên kích cỡ của nên kinh tê của họ) được thể hiện dưới hình thức số cô phân sở hữu. Mỗi nước thành viên của WB được phân bổ 250 phiếu cộng thêm một lá phiếu cho mỗi cổ phần nắm giữ trong vốn cổ phân của Ngân hàng. Năm 2010, quyền biểu quyết tại WB được thay đổi và nâng cao vai trò của các nước đang phát triển, đặc biệt là Trung Quôc. Hiện nay nước thành viên có quyên biêu quyêt cao nhất là Mỹ (15.85%), tiếp sau đó là Nhật Bản (6.84%), Trung Quốc (4.42%), Đức (4.00%), Anh (3.75%), Pháp (3.75%), Ắn Đọ (2.91%), Nga (2.77%), Ả Rập Saudi (2.77%) và Y (2.64%).414 2Việt Nam hiện thuộc nhóm các quôc gia có quyền biểu quyết trung bình tại WB - tương ứng với 2,55%. Trong thời gian tới có thể các nền kinh tế mới nôi khác, như Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Mexico, Singapore, Brazil, Tây Ban Nha... cũng sẽ được gia tăng cổ phần và quyền biểu quyêt tại Ngân hàng. Sự gia tăng quyền biểu quyết của các nước đang phát triển sẽ chủ yếu làm giảm tỷ lệ quyền biểu quyết của các nước phát triển. Tuy nhiên, Mỹ vẫn tiếp tục là quôc giạ duỵ nhất có quyền phủ quyết (veto) tuyệt đối đối với các vấn đề quan trọng của WB và đặc biệt là những vấn đề ảnh hưởng tới lợi ích kinh tế của mình.43 41 IB R D , 2 0 1 0 V otin g P ow er R ealignm ent (R eport), W orld B ank G roup, 2011. 42 N h ư trên 43 W ade, R obert H unter, “ T he U s R ole in the M ala ise at the W orld Bank: G et U p, G u lliv er!,” G 24 D iscu ssion Paper Series, 2 001; CŨ112 xem Stephany 311
  • 313. 2.1.2.4. Thành viên Ngân hàng Thế giới có 188 thành viên. Quốc gia muốn trở thành thành viên của WB bắt buộc phải là thành viên của IMF và chỉ các thành viên của IBRD mới được tham gia vào các tổ chức, cơ quan của WB (VD: IDA, ICSID). Các thành viên (thực tế được gọi là cổ đông) của WB/IBRD có quyền sở hữu số cổ phần tương ứng với kích thước của nền kinh tế của mình và số tiền góp vốn vào ngân hàng (thông qua việc mua trái phiếu hoặc khoản hỗ trợ trực tiếp cho Ngân hàng). Hiện nay, các quốc gia thành viên có thu nhập cao cùng nhau nắm giữ khoảng 65,92% cổ phần của WB/IBRD. Tính tới năm 2012, Mỹ là cổ đông lớn nhất với 16,03% cổ phần, tiếp sau đó là Nhật Bản (9,59%) và Đức (4,39%). Tổng số vốn cổ phần của WB vào năm 2012 là trên 190 tỷ USD.44 Số lượng cổ phần sờ hữu sẽ có tác động tới quyền tham gia biểu quyết của thành viên tại WB. Chỉ các quốc gia thành viên WB thuộc nhóm nghèo và đang phát triển mới được vay từ IBRD và IDA. Các quốc gia vượt khỏi ngưỡng này sẽ không là đổi tượng được vay từ WB. WB sẽ xác định ngưỡng của nền kinh tế để xét điều kiện cho vay dựa trên tổng thu nhập quốc dân bình quân đầu người của nước thành viên. Điêu kiện vay được áp dụng cho các nước thành viên sẽ được WB duy trì cho đến khi họ có thể bảo đảm sự phát triển lâu dài mà không cần phụ thuộc vào nguồn vốn ưu đãi của Ngân hàng. Từ năm 1970 đến 2011, 25 quốc gia vay “tốt nghiệp” nhóm các quốc gia đủ điều kiện để cho vay IBRD/IDA, mặc dù sáu trong số những quốc gia này sau đó đã quay trờ lại là G riffith-Jones, Governance of the World Bank, Report prepared for D FID , 2010, tr. 4 44 M oss Todd et al, “The A B C s o f the General Capital Increase”, Report, Center for G lobal D evelopm ent, 2011. 3 1 2
  • 314. nền kinh tế có mức thu nhập thấp và tiếp tục là khách hàng vay của Ngân hàng.45 2.1.3. Tỏ chứ c Thư ơng m ại th ế g iớ i 2.1.3.1. Tổng quan Như đã được phân tích ở phần trên (1.3.2), tổ chức quốc tế điều phối và xúc tiến thương mại trên phạm vi toàn cầu có vai trò quan trọng đối với việc phát triển hợp tác kinh tế quốc tê giữa các quốc gia. Nó đảm bảo một cơ chê thương mại vận hành dựa trên các nguyên tắc và thủ tục pháp lý ổn định giúp cho các quốc gia có thể tin tường và chia sẻ tài nguyên, sử dụng hiệu quả nhất các lợi thế tương đối của các quôc gia đê cùng hường lợi từ trao đổi thương mại. Thông qua hệ thông thương mại quốc tế, các quốc gia sẽ loại bò các chính sách bảo hộ mậu dịch và xúc tiến tự do hóa thương mại trên cơ sở có đi có lại. Tại Hội nghị Bretton Woods, các quốc gia đã đàm phán xây dựng một tổ chức thương mại toàn cầu có tên là Tổ chức Thương mại quốc tế (International Trade Organisation - ITO) bên cạnh Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng Thế giới, và coi đó là ba trụ cột của kinh tế quốc tế trong trật tự kinh tê mới thời hậu chiến. Tuy nhiên việc thành lập và phát triển một định chế quốc tế có khả năng ràng buộc các quốc gia trong lĩnh vực thương mại không đơn giản như trong lĩnh vực tài chính, tiên tệ. Đề án thành lập ITO đã thất bại vì không cỏ được ủng hộ cần thiết của nhiều quốc gia, trong đó có Mỹ. Từ năm 1947 tới 1994, cộng đồng quốc tế không có một tổ chức quôc tê chính thức điêu phôi thương mại mà chỉ dựa vào một cơ chê mang tính tạm thời (ad hoe) của Hiệp định chung vê thuê quan và thương mại (GATT). Phải tới năm 1994, ý tưởng thành lập 45 H eckelm an, Jac C. et al, “Crossing the Threshold: An Analysis of IBRD Graduation Policy”, (R eport), The W orld B ank D evelop m en t R esearch Group, N e w Y ork, 2 0 1 1 . ^ 1 o 3 1 3
  • 315. định chế thương mại quốc tế để xúc tiến thương mại mới chín muồi và sau hơn tám năm đàm phán các quốc gia đã thống nhất về sự ra đời của Tổ chức Thương mại quốc tế (WTO). WTO có trụ sở chính đặt tại Geneva, Thụy Sĩ với 154 thành viên (tính đến năm 2012). Hiện đây là tổ chức quốc tế có tầm ảnh hưởng lớn nhất đối với kinh tế quốc tế và quá trình toàn cầu hóa. Thông qua hệ thống thương mại đa phương của mình, WTO đã liên tục thúc đẩy tự do thương mại, loại trừ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan đối thương mại hàng hóa, xúc tiến quá trình tự do hóa thương mại dịch vụ, tháo gỡ các hình thức bảo hộ mậu dịch, loại bỏ các biện pháp phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại quốc tể, hỗ trợ quá trình hội nhập của các quốc gia đang phát triển vào hệ thống thương mại quốc tế và tối đa hóa mức độ minh bạch trong chính sách và các thủ tục thương mại của các quốc gia thành viên.46 2.1.3.2. Mục tiêu và chức năng Theo quy định của Hiệp định Marrakesh (Hiệp định thành lập WTO)47, WTO được thành lập để đạt được các mục tiêu như sau: (i) Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hóa và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường; (ii) Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thương mại giữa các thành viên trong khuôn khô của hệ thông thương mại đa phương, phù hợp với nguyên tăc cơ bản của công pháp quôc tê; bảo đảm cho các nước đang phát triên đặc biệt là các nước kém phát triển được hưởng những lợi ích thực chất từ sự tăng trưởng của thương mại quốc tế. 46 X em Đ ại học Luật TP. H ồ C hí M inh, G iáo trình Luật Thươngmại quắc lể— Phần Ị (Luật WTO), tlđd tr. 43-44. 47 Phần giớ i thiệu, H iệp định M aưakesh 314
  • 316. (iii) Nâng cao mức sống, tạo công ăn việc làm cho người dân các nước thành viên, đảm bảo các quyền và tiêu chuẩn lao động đối thiểu. WTO thực hiện các mục tiêu trên thông qua việc thiết lập những thỏa thuận tưcmg hỗ và cùng có lợi theo hướng cắt giảm thuế quan và các hàng rào cản trở thương mại khác và theo hướng loại bỏ sự phân biệt đối xử trong các mối quan hệ thương mại quốc tế. WTO cũng xây dựng một cơ chế thương mại đa phương chặt chẽ, ổn định và khả thi, bao gồm các hiệp định đa biên và hiệp định nhiều bên. WTO có 5 chức năng quan trọng48 như sau: (i) Giám sát, tạo điều kiện thuận lợi, kể cả trợ giúp kỹ thuật cho các nước thành viên trong việc thực hiện các nghĩa vụ thương mại quốc tế của họ; (ii) Là diễn đàn cho các cuộc đàm phán giữa các nước thành viên về những mối quan hệ thương mại đa biên trong những vấn đề được điều chỉnh theo các hiệp định thương mại của tổ chức; (iii) Là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc thực hiện và giải thích hiệp định thương mại đa biên và hiệp định nhiều bên của WTO49; 48 Đ iều III, H iệp định M arrakesh 49 T rong khuôn khổ W T O , các hiệp định được phân thành hai nhóm : H iệp định thư ơng m ại đa biên (M ultilateral Trade A greem en t) và H iệp định th u o n g m ại nhiều bên (Plurilateral Trade A greem ent). H iệp định thưcm g m ại đa biên là các hiệp định m à tất cả các thành viên của W T O đều phải tham g ia ký kêt, như m ột điều kiện bắt buộc đối với các thành viên cùa tổ chứ c (vd: G A T T , G A T S , T R IPS, D S U ). H iệp định thương m ại nhiều bên là các hiệp định m ang tính tự n guyện (chì có giá trị bắt buộc đối với các thành viên W T O đã cô n g nhận phê chuấn) được ký kết giữ a các nước 'thành viên trong quá trình đàm phán tự do hoá thương m ại. 315
  • 317. (iv) Là cơ chế kiểm điểm chính sách thương mại của các nước thành viên, bảo đảm thực hiện mục tiêu thúc đẩy tự do hoá thương mại và tuân thủ các quy định của WTO; và (v) Thực hiện việc hợp tác với các tổ chức kinh tế quốc tế khác như Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) trong việc hoạch định những chính sách và dự báo về những xu hướng phát triển tương lai của kinh tế toàn cầu. 2.1.3.3. Cơ cẩu tổ chức WTO có một cơ cấu gồm 4 cấp: (i) Hội nghị bộ trưởng; (ii) Cơ quan quản lý thường trực gồm Đại hội đồng WTO, Cơ quan giải quyết tranh chấp (DSB) và Cơ quan rà soát chính sách thương mại; (iii) Các cơ quan thực hiện chức năng hành chính - thư ký gồm v Tổng giám đốc và Ban thư ký WTO; và (iv) Các cơ quan chuyên trách thừa hành và giám sát việc thực hiện các hiệp định thương mại đa biên, bao gồm Hội đồng GATT, Hội dong GATS và Hội đồng TRIPS cùng các ủy ban và tiểu ban chuyên trách về các lĩnh vực cụ thể trong thương mại quốc tế như ủy ban Nông nghiệp, ủy ban Chống bán phá giá, ủ y ban về xuất xứ hàng hóa, ủ y ban về dịch vụ tài chính ... * Hội nghị bộ trưởng Hội nghị bộ trưởng WTO là cơ quan lãnh đạo chính trị cao nhất của WTO bao gồm đại diện cấp bộ trưởng của tất cả các thành viên. Hội nghị họp ít nhất hai năm một lần. Điều IV. 1 Hiệp định thành lập WTO quy định Hội nghị bộ trưởng WTO thực hiện tất cả các chức năng của WTO và có quyền quyết định mọi hành động cần thiết để thực hiện những chức năng đó. Đặc biệt, Hội nghị bộ trưởng WTO có quyền tối cao trong việc diễn giải các Hiệp định đa biên và nhiều bên của tổ 316
  • 318. chức cũng như quyết định cho phép miễn trừ trách nhiệm/hghĩa vụ của thành viên WTO.50 Hội nghị có trách nhiệm thiết lập các ủy ban chuyên trách thực hiện các chức năng khác nhau theo quy định của các hiệp định thương mại của WTO. Tổng giám đốc, người đứng đầu WTO, cũng được chỉ định tại Hội nghị bộ trường. Các vấn đề nghị sự sẽ được Hội nghị bộ trưởng quyết định thông qua biểu quyết. Khác với IMF và WB, tất cả các thành viên của WTO đều có quyền quyết định ngang bằng nhau (một phiếu bầu). Mặc dù Hội nghị hoạt động theo nguyên tắc đồng thuận (consensus), trên thực tế một số vấn đề có thể được quyết định thông qua bỏ phiếu đa số nếu các nước thành viên không đạt được sự đồng thuận. Ví dụ: việc bổ sung một điều khoản của hiệp định thương mại đa biên hay quyết định chấp thuận một thành viên mới có thể được thông qua với 2/3 phiếu của tất cả các thành viên.5 1 * Đại hội đồng, Cơ quan giải quyết tranh chấp và Cơ quan rà soát chính sách thương mại Trong thời gian giữa các khóa họp của Hội nghị bộ trường WTO, các chức năng của Hội nghị bộ trưởng do Đại hội đồng (General Council) đảm nhiệm.52 Đại hội đồng hoạt động trên cơ sở thường trực tại trụ sở của WTO ở Geneva, Thụy Sĩ. Thành viên của Đại hội đồng WTO là đại diện ờ cấp đại sứ của chính phủ tất cả các thành viên (mỗi thành viên có quyền cử một đại diện, hoặc ủy quyền cho đại diện của một thành viên khác đại diện cho mình tại các phiên họp của Đại hội đồng). 50 Đ iệu IX , H iệp định M arrakesh. 51 Đ iệu X , X I, H iệp định M arrakesh 52 Đ iều IV :2, H iệp định M arrakesh. 3 1 7
  • 319. Đại hội đồng còn thực hiện những chức năng khác được trao trực tiếp theo các hiệp định thương mại đa biên, trong đó quan trọng nhất là chức năng giải quyết tranh chấp và chức năng kiểm điểm chính sách thương mại. Cụ thê, Đại hội đông trở thành “Cơ quan giải quyết tranh chấp” (Dispute Settlement Body, DSB) khi thực hiện chức năng giải quyết tranh chấp và là “Cơ quan rà soát chính sách thương mại'” (Trade Policy Review Body, TPRB) khi thực hiện chức năng rà soát chính sách thương mại của các quốc gia thành viên. Các quyết định của Đại hội đồng cũng được thông qua trên các nguyên tắc tương tự như Hội nghị bộ trường, ngoại trừ trường hợp Đại hội đồng được nhóm họp với tư cách là Cơ quan giải quyết tranh chấp. Trong khuôn khổ cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO, mọi quyết định sẽ được đưa ra trên cơ sở đồng thuận nghịch (negative consensus).5 2 1 * Các cơ quan thừa hành giám sát việc thực hiện các hiệp định thirơng mại WTO có 3 hội đồng (Council) được thành lập để giám sát việc thực thi 3 hiệp định thương mại đa biên nền tảng của hệ thống WTO là: Hội đồng GATT, Hội đồng GATS và Hội đồng TRIPS. Tất cả thành viên đều có quyền tham gia vào hoạt động5 3 53 X em Giáo trình Luật Thương mại quốc tế Đại học luật TP.HCM- Phần ỉ (Luật WTO), tlđd, Ghi chú 1, tr. 408. Đồng thuận nghịch (negative consensus) là một nguyên tắc biểu quyết cita DSB mà theo đỏ một quyết định sẽ phải được thông qua trừ khi tại cuộc họp cùa DSB, các thành viên đồng thuận không thông qua quyết định đó. Nhự vậy, chi cần một thành viên cuộc họp cùa DSB thông qua quyết định thì quyết định sẽ được thông qua. Nguyên tắc này khác với nguyên tăc "đông thuận” ở điêm nguyên tăc đông thuận đòi hói quyêt định chi có thê được thông qua khi tát cá thành viên đôngý. Nguyên tăc đồng thuận nghịch là một phát kiến quan trọng và tiến bộ cùa WTO giúp tránh tình trạng thủ tục GQTC bị đình trệ (như thời GATT) khi một hoặc một số quốc gia càn trở bằng cách biêu quyết không chấp nhận khuyển nghị GQTC liên quan. 318
  • 320. của 3 hội đồng này. Các hội đồng nói trên đều phải trực tiếp báo cáo công việc của mình trước Đại hội đồng WTO. Ngoài ra, trong WTO còn có các cơ quan được các hội đông của WTO thành lập với tư cách là cờ câu trực thuộc {subsidiary bodies) để giúp các hội đồng này trong việc thực hiện các chức năng kỹ thuật, ví dụ như “ủy ban về thâm nhập thị trường'”, “ủy ban về trợ giá nông nghiệp” và các “nhóm công tác” {working group) được thành lập trên cơ sở tạm thời để giải quyết những vấn đề cụ thể, ví dụ như các “nhóm công tác về việc gia nhập WTO” của một số nước. * Tổng giám đốc vờ Ban thư ký WTO Với tư cách là một tổ chức quốc tế thực thụ, WTO có một Ban thư ký rất quy mô, bao gồm khoảng 500 viên chức và nhân viên chính thức. Đứng đầu Ban thư ký WTO là Tổng giám đôc WTO. Tông giám đốc WTO do Hội nghị bộ trưởng bô nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm. Ngoài vai trò điêu hành, Tông giám đốc của WTO còn có một vai trò chính trị rất quan trọng trong hệ thống thương mại đa phương. Các quyền hạn và trách nhiệm cụ thể của Tổng giám đốc do Hội nghị bộ trưởng quyết định. Biên chế Ban thư ký WTO do Tổng giám đốc quyết định. Tông giám đốc và thành viên Ban thư ký WTO được hường quy chế tương tự như viên chức các tổ chức quốc tế,54 hoạt động độc lập và chỉ tuân theo các quyết định và tôn chỉ của WTO. 2.1.3.4. Thành viên WTO là một tổ chức quốc tế rất đặc thù, bởi tổ chức này quy định một cơ chế mềm dẻo về tư cách thành viên của tố chức. Cụ thể, WTO chỉ đòi hỏi các thành viên của mình phải là những chủ thể độc lập, tự chủ về kinh tế quốc tế. Vì vậy, thành viên của WTO bao gồm không chỉ các quốc gia có chủ 54 X em thêm chư ơng Luật tổ chức quốc tế cùa giáo trình này. 319
  • 321. quyền mà cả các vùng lãnh thổ thuế quan độc lập. Ví dụ: Hong Kong, Macao của Trung Quốc là thành viên sáng lập WTO hay Đài Loan là thành viên gia nhập WTO (từ ngày 01/01/2002). Bên cạnh đó, WTO còn có thành viên là tổ chức liên kết khu vực như Liên minh châu Âu (EU). Nhìn chung, các thành viên của WTO đều có quyền ngang nhau trong việc tham gia quyết định các vấn đề của tổ chức. Điều này thể hiện rõ nét thông qua việc mỗi thành viên có quyền biểu quyết ngang bằng nhau cho dù thành viên đó là quốc gia hay vùng lãnh thổ hải quan. Trong khuôn khổ hệ thống thương mại của WTO, các thành viên dù phát triển hay đang và kém phát triển, dù là thành viên sáng lập hay thành viên gia nhập đều có các quyền và nghĩa vụ đôi với hệ thống thương mại đa phương. Đặc biệt, các thành viên phải bảo’đảm sửa đổi chính sách thương mại, chính sách kinh tế phù hợp với các quy định của WTO và các cam kêt thương mại trong biểu cam kết của nước mình.55 Khi tham gia vào hệ thống WTO, các quốc gia không được phép bảo lưu bât kỳ một điêu khoản nào của Hiệp định Marrakesh và các hiệp định đa biên của W T0.56 Quy định này là một nét đặc thù của WTO khác với hầu hết các điều ước đa phương của các tổ chức qụốc tế khác như IMF, WB (các điều ước đa phương của các tô chức này cho phép các quốc gia tham gia được quyền bào lưu một số điều khoản). Các thành viên WTO nhận được những quyền lợi rõ ràng từ hệ thông thương mại đa phương của tổ chức, chăng hạn như được tiêp cận thị trường của các đối tác trong các lĩnh vực thương mại hàng hóa, dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ thuận lợi hơn; được tiêp cận cơ chế giải quyết tranh chấp và rà soát chính sách thương mại của WTO... Tuy nhiên, họ cũng sẽ 55 Điều XVI.4, Hiệp định Marrakesh. 56 Điều XVI.5, Hiệp định Marrakesh. 3 20
  • 322. có những nghĩa vụ pháp lý trong việc mở cửa thị trường và bảo đảm quy chế không phân biệt đối xử trong thương mại.37 Các nghĩa vụ này được quy định cụ thể trong các hiệp định của WTO và các cam kết của các thành viên. Khi thành viên không thực hiện đúng nghĩa vụ pháp lý của mình và vi phạm tới quyền lợi của các thành viên khác thì sẽ có thể đối mặt với thủ tục khiếu kiện được quy định tại Thỏa thuận về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp của WTO (Dispute Settlement Understanding - DSU). Tuy nhiên WTO cũng quy định một số quy chế ưu đãi cho các nước đang phát triển (ví dụ như miễn nghĩa vụ, kéo dài thời hạn phải thực hiện nghĩa vụ mở cửa thị trường, cho phép các thành viên áp dụng chế độ thương mại ưu đãi hơn đối với các quốc gia đang phát triển so với các thành viên khác ...) để giúp họ có thể nhanh chóng phát triển và thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển với các thành viên khác. 2.2. Các tổ chức kinh tế khu vực Hiện nay, các quốc gia hướng đến mức độ hội nhập kinh tế ngày càng cao trong phạm vi khu vực. Trong xu hướng đó, các tổ chức kinh tế khu vực đóng vai trò tạo thuận lợi cho việc hợp tác kinh tế giữa các quốc gia, vùng lãnh thổ trong khu vực. Ngay cả các thành viên của WTO (có mục tiêu toàn cầu hóa thương mại) cũng được thành lập các thiết chế kinh tế khu vực nhàm tạo thuận lợi hơn cho thương mại giữa các lãnh thổ hải quan gần gũi nhau về địa lý, chính trị, kinh tế xã hội. Phần này nghiên cứu tổ chức kinh tế khu vực đã và đang đạt đến mức độ hội nhập cao nhất - Liên minh châu Âu (2.2.1) và tổ chức kinh tế khu vực mà Việt Nam đang là thành viên - Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) (2.2.2). cần lưu ý rằng các tổ chức này không chỉ đơn thuần theo đuổi mục đích5 7 57 X em Giáo trình Luật Thương mại quốc tế Đại học Luật TP.HCM—Phần I (Luật WTO), tlđd. tr. 94-133. 321
  • 323. liên kết kinh tế khu vực mà còn hướng đến sự liên kết toàợ diện vê các mặt chính trị, văn hóa, xã hội. Trong phạm Y ? chương này, ta chỉ xem xét một chức năng duy nhât của các tơ chức này là tạo thuận lợi cho hợp tác kinh tế khu vực. 2.2.1. Liên minh châu Âu Nhu cầu hợp tác liên chính phủ để tái thiết sau 2 cuộc đại chiến thế giới cũng như phòng ngừa những mầm mống cùa hiêm họa chiến tranh thảm khốc trong tương lai đã làm các quốc gia châu Âu, vốn có sẵn nhiều điều kiện thuận lợi chơ việc nhất thể hóa, tiến đến thiết lập một thiết chế quốc tế khỢ vực có mức độ hội nhập sâu rộng nhất thế giới hiện nay te Liên minh châu Âu (European Union - EU)58. Tổ chức này đã tạo ra một trật tự pháp luật đặc thù, không phải là luật quôc gia cũng không giống với luật quốc tế truyền thống. Thậm chí» có tác giả cho răng luật của Liên minh châu Âu là “luật siêư quốc gia”.59 2.2.1.1. Mục tiêu Mục tiêu của Liên minh châu Âu là duy trì bảo vệ hòa bình và thịnh vượng, thiết lập nền tảng phát triển, tiến tới hợp nhất về kinh tế vì lợi ích chung của các dân tộc châu Âu thông qua việc xây dựng một khu vực kinh tế rộng lớn, một thị trường tự do, thống nhất, tạo điều kiện cho việc thống nhất chỉnh trị và hài hòa vê xã hội trong liên minh. Trong những mục đích đó, hợp tác kinh tế quốc tế đóng vai trò rất quan trọng, nó là tiên đê và là nhân tô thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực khác như hợp tác vê chính trị, chính sách xã hội. Thật vậy, các hiệp ước đóng vai trò nguồn cội pháp lý cho sự hình 58 Với 27 quốc gia thành viên, 500 triệu dân và sử dụng 23 ngôn ngữ chính thức. 59 Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Đại học Luật Hà Nội, Nxb. CAN17' 2012. tr. 759. 322
  • 324. thành của Liên minh châu Âu được xây dựng bắt nguồn từ nhu cầu hợp tác trong lĩnh vực kinh tế giữa các quốc gia châu Au. 2.2.1.2. Khung pháp lý cho quan hệ hợp tác kinh tế Liên minh châu Âu được hình thành trong một quá trình lâu dài và là kết quả của sự hợp nhất của nhiều thiết chê hợp tác kinh tế khu vực của các nước châu Âu. Nền tảng pháp lý cho Liên minh châu Âu là các hiệp định hợp tác kinh tế giữa các quốc gia châu Âu bao gồm: -H iệp ước Paris (18/4/1951) thành lập Cộng đồng than thép châu Âu (ECSC) (hết hiệu lực năm 2002) nhằm thống nhất việc sản xuất và phân phối hai sản phẩm chính là thép và than trên toàn lãnh thổ châu Âu, tạo ra sự phụ thuộc giữa các quốc gia thành viên trong lĩnh vực này nhằm ngăn ngừa việc một quốc gia sử dụng vũ lực để tiếp cận và độc chiêm hai nguồn tài nguyên quan trọng cho phát triển công nghiệp của châu Âu là than và thép . -C ác Hiệp ước Rome (25/3/1957) thành lập Cộng đồng năng lượng nguyên tử châu Âu (EURATOM) và Cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) nhằm tạo ra một sức mạnh tổng hợp dưới hình thức một thị trường chung mà lao động, hàng hóa được tự do di chuyển như trong một thị trường nội địa. -H iệp ước M aastricht (7/2/1992) nhằm thành lập một Liên minh tiền tệ châu Âu và tạo lập nền tảng cho một liên minh chính trị. -H iệp ước Amsterdam (2/10/1997) trên cơ sở sửa đổi Hiệp ước M aastricht, Hiệp ước này đã tạo cơ sở pháp lý dể đồng EU, đồng tiền chung của các nước châu Âu chính thức ra đời với tư cách đầy đủ của một đồng tiền thực thụ và đi vào hoạt động từ ngày 01/01/1999 trong phạm vi 11 nước.60 60 Đức, Pháp, Ireland, Bì, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Ý, Luxembourg Phần Lan. òlò
  • 325. Khung pháp lý nêu trên cùng với các văn bản pháp ^ khác do các cơ quan chức năng của Liên minh châu Âu hành đã tạo ra các điều kiện cần và đủ cho việc hình thà*1* một thị trường chung hay còn gọi là thị trường nội địa Âu với 4 cột trụ - 4 “tự do”: tự do dịch chuyển hàng hóa, do dịch chuyển người lao động, tự do dich chuyển vốn, tự d° cung ứng dịch vụ và tự do thành lập doanh nghiệp. ^ trường nội địa châu Âu còn được bảo đảm vận hành bằng điều phối chặt chẽ về chính sách kinh tế giữa các nước thà*1, viên (nhằm phòng tránh trường hợp thâm hụt ngân sách nhiều của các nước thành viên) và sự ra đời của đồng chung châu Âu - euro. 2.2.1.3. Cơ cẩu tồ chức Hiện nay Liên minh châu Âu bao gồm 7 thiết chế với c^° hoạt động được phân công cụ thể nhằm hoàn thành các mục tiêư hướng tới sự liên kết toàn diện của khối. *Hội đồng châu Âu (European Council) Thành viên của Hội đồng châu Âu bao gom Chủ tịch ủy châu Âu cùng những người đựng đầu nhà nước và chính phủ cư? các nước EU. Cơ quan này đê ra các định hướng và ưu tiên ve chính sách tổng thê. Mặc dù là diễn đàn cấp cao nhưng Hội đông châu Âu không có thẩm quyên lập pháp. Nó đóng vai trò như mộ* diễn đàn chính trị cho các quôc gia trong khối, từ đó tạo điều kiệ1 1 thuận lợi cho các hoạt động hợp tác kinh tế quốc tế. * Hội đồng Liên minh châu Âu (Council of the Europeati Union) J . Hội đồng Liên minh châu Au là cơ quan có quyên quyêt địnn cao nhất của EU. Mỗi thành viên EU cử một đại diện tại Hội đông này, là bộ trưởng phụ trách vấn đề đang thảo luận. Cùng với Nghi viẹn châu Au Hội đồng Bộ trưởng quyết định những vấn đề vê pháp luật va ngan sách của Liên minh Châu Âu, đồng thòi điêư hành chinh sách chung về ngoại giao và an ninh. 324
  • 326. * Nghị viện châu Ầu (European Parliament) Nghị viện châu A.U được thành lập thông qua bâu cừ trực tiếp và đại diện cho tiếng nói của người dân EU và có nhiệm kỳ 5 năm. Nghị viện châu Âu là một trong những thiêt chê lập pháp chủ yếu của EƯ, quyết định những vân đê vê pháp luật và ngân sách của EU cùng với Hội đông Liên minh châu Au, giám sát toàn diện các công việc của Eư, có quyên miên nhiệm ủ y ban châu Âu và áp dụng quyền phủ quyết đối với việc gia nhập EU của các nước ứng cử viên. Hội đồng Bộ trưởng và Nghị viện châu Âu ra các văn bản theo cơ chế đồng quyết định nhàm quy định cách thức thực hiện các mục tiêu quy định ưong các điều ước. Các văn bản này bao gôm quy chế, chi thị, quyết định, khuyến nghị hay ý kiên. Trong sô đó, chỉ duy nhất quy chế là văn bản pháp luật có hiệu lực ràng buộc, được áp dụng trực tiếp cho các nước thành viên mà không cân “nội luật hóa” bằng luật quốc gia của các nước thành viên. * ủy ban châu Âu (European Commission) Uỷ ban châu Âu bao gồm 27 ủy viên độc lập, mỗi ủy viên là đại diện của một nước EU. ủ y ban châu Âu là cơ quan châp hành của EU, có thẩm quyền đề xuất pháp luật. Đồng thời, đây là cơ quan giám sát thực thi các điều ước quổc tế, đàm bảo việc thực thi pháp luật và không vi phạm các điều ước quốc tế của các nước thành viên EU. * Tòa kiểm toán châu Âu (European Court ofAuditors) Tòa kiểm toán châu Âu là thiết chế giám sát và đảm bảo việc quản lý tốt các hoạt động tài chính của EƯ. Tòa tiến hành kiểm toán đối với các cá nhân và tổ chức sử dụng nguồn tiền của EU. Hàng năm, Tòa xây dựng một báo cáo tài chính được đăng trên Công báo Liên minh châu Âu, báo cáo này tạo áp lực lên các thiết chế và cơ 325
  • 327. quan hành chính để buộc họ phải đảm bảo việc quàn lý tốt ngân quỹ. Tòa kiểm toán châu Âu phải được các cơ quan lập pháp của EU tham vấn trước khi ban hành các đạo luật để điều chỉnh quan hệ tài chính hoặc có ảnh hưởng tài chính đến hoạt động của Liên minh. * Ngân hàng trung ương châu Âu (European Central Bank) Ngân hàng trung ương châu Âu là thiết chế điều hành chính sách tiền tệ của khu vực đồng tiền chung châu Âu bao gồm 17 nước thành viên. ECB đóng vai trò quan trọng ừong việc đảm bảo sự vận hành của thị trường nội địa châu Âu thông qua việc đảm bảo sự ổn định của giá cả, quản lý nguồn cung tiền và ấn định lãi suất. Cơ quan này hoạt động độc lập với chính phủ các nước thành viên. * Tòa án Công lý châu Âu (Court ofJustice) Tòa án Công lý châu Âu bao gồm 27 thẩm phán (tương ứng với số lượng thành viên EƯ) và 8 tổng chưởng lý. Nhiệm vụ của Tòa án Công lý châu Âu là: giải thích luật EU, đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng luật EU ở tất cả các nước thành viên; giải quyết tranh chấp về pháp luật giữa các chính phủ của các nước thành viên EƯ và các thiết chế của EU. Vì thế, Tòa án này có vai ưò rất quan trọng trong việc đảm bảo tính chính xác trong việc áp dụng khung pháp lý điều chinh quan hệ pháp luật kinh tế giữa các quốc gia trong Liên minh. Ngoài ra, Ngân hàng đầu tư châu Âu (European Investment Bank —“EIB”) tuy không nằm trong các thiết chế chính của Liên minh châu Âu nhưng giữ vai trò quan trọng, có ảnh hưởng đến quan hệ pháp luật kinh tế quốc tế giữa các thành viên Liên minh. Đây là thiết chế có sứ mệnh đóng góp cho sự phát triển cân bằng cùa thị trường chung châu Âu. Ngân hàng tài trợ nguồn vốn vay cho các dự án phát ưiển trong những vùng kém phát triển nhất, các dự án tạo việc làm cũng như hiện đại hóa và chuyển đổi doanh nghiệp. Ngân hàng đầu tư châu Âu còn cung cấp các khoản vay cho các quốc gia 326
  • 328. thứ 3 trong khuôn khổ các chính sách hợp tác ngoại khối và đóng góp vào sự phát triển của Liên minh. 2.2.1.4. Cơ chế ra quyết định Các văn bản pháp luật quan ữọng nhất, mang tính ràng buộc đều được thông qua tại ủy ban châu Âu (đối với các quyết định) và 2 thiết chế có thẩm quyền lập pháp là Nghị viện châu Âu và Hội đồng Liên minh châu Âu (đối với quy chế và chỉ thị). Khác với hai thiết chế kinh tế toàn cầu phụ trách về tài chính - tiền tệ như WB và IMF61 và cũng không giống với đa số các tổ chức quốc tế khác (như LHQ),62 Liên minh châu Âu là một tổ chức khu vực hợp tác toàn diện trong đó số phiếu biểu quyết của các nước thành viên phụ thuộc vào tầm quan trọng của họ trong Liên minh. Tổng cộng 345 phiếu bầu của tất cả 27 thành viên được phân bổ căn cứ trên diện tích lãnh thổ và sức mạnh kinh tế của mỗi thành viên, theo đó các nước lớn như Đức, Pháp, Ý và Vương quốc Anh được 29 phiếu; Tây Ban Nha và Ba Lan được 27 phiếu; Roumania - 14, Hà Lan - 13; Bỉ, Hy Lạp, Hungary, Bồ Đào Nha và Cộng hòa Séc đều được 12 phiếu; Áo, Bungaria và Thụy Điển có 10 phiếu... và Malta chỉ có 3 phiếu. Cách phân clũa này được Liên minh châu Âu xem là giúp cho các quốc gia nhỏ được đại diện tốt tại các thiết chế của EU, cụ thể Malta với khoảng 420.000 dân được 3 phiếu bầu và Đức với khoảng 82 triệu dân chỉ có 29 phiếu bầu. Chế độ ra quyết định trong các cơ quan cùa Liên minh châu Âu dựa trên phương pháp biểu quyết đa số tuyệt đối: việc thông qua văn bản pháp luật trong khuôn khổ Hội đồng Bộ trưởng đòi hỏi phải đạt tỉ lệ 255 /345 phiếu đại diện cho 14 thành viên của Liên 61 Tại các tổ chức này, thành viên được xem nhu cổ đông cùa công ty cồ phần và số phiếu biểu quyết phụ thuộc vào số lượng cổ phần nắm giữ (vì thực tê chức năng chủ yếu của WB và IMF là cho vay và nguôn quỹ cho vay có được từ việc góp vốn cùa các thành viên). 62 Đa số tổ chức quốc tế này tuân thủ nguyên tắc “mỗi nước, 1 lá phiếu” dựa trên bình đăng về mặt chù quyền giữa các quốc gia. 327
  • 329. minh. Tuy nhiên, kể từ năm 2014, văn bản sẽ được thông qua khi h lệ đa số các nước tham gia bỏ phiếu tối thiểu là 15 nước và và thiểu 65% dân số châu Âu ủng hộ. Ngoài ra, đối với các chủ 0e mang tính nhạy cảm như chính sách đối ngoại và an ninh chunể’ việc ra quyết định sẽ phải dựa trên cơ sở đồng thuận 2.2.2. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Ả 2.2.2.1. Tổng quan Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (Association ° f Southeast Asian Nations, ASEAN) là tổ chức liên kết của khu vựỹ Đông Nam Á (ĐNA) được thành lập ngày 8/8/1967 theo Tuyên hh Bangkok, Thái Lan. Hiện nay thành viên của ASEAN bao gồm quốc gia trong khu vực.63 So với các tổ chức khu vực khác trên thế giới, sự liên kết khư vực của ASEAN rât đặc thù vì mặc dù cùng nằm trong một khu vVỸ địa lý, song các quốc gia thành viên ASEAN lại rất khác nhau vê chủng tộc, ngôn ngữ, tôn giáo và văn hóa. Đặc biệt, trình độ phá* triển kinh tế của các thành viên ASEAN không đồng đều. Để vượt qua những khác biệt này và hướng tới phát triển hội nhập khu vực’ ASEAN đã thiết lập một mô hình liên kết đặc thù trên cơ sờ "sh thống nhất trong đa dạng" {unity in diversity). Mô hình này vậfl hành trên cơ sở các nguyên tắc nền tảng sau: (i) tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và đặc tính dân tộc của mỗi quốc gia thành viên; 63 Vào thời điểm được thành lập 1967, ASEAN chị gồm 5 quốc gia thành viên bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore và Thái Lan. Năm 1984 ASEAN kết nạp thêm Brunei Darussalam làm thành viên thứ 6. Trong thập niên 1990 ASẼAN đã hoàn tất việc kết nạp các quốc gia ĐNA (ASEAN-lO). bao gồm Việt Nam (1995), Lào (1997) Myanmar (1999) và Cambodia (1999)- Hiện ASEAN đang xem xét việc mở rộng phạm vi thành viên cho Đông Timor và Papua Tân Guinea - cà hai quốc gia nàỵ hiện đang được hường quy chế quan sát viên ASEAN. 328
  • 330. (ii) tôn trọng quyền của mỗi quốc gia trong việc quản lý đất nước và không bị can thiệp từ bên ngoài; (iii) không can thiệp vào vấn đề nội bộ của thành viên; (iv) giải quyết mọi bất đồng hoặc tranh chấp trong hoà bình; (v) không sử dụng hoặc đe dọa sừ dụng vũ lực; và (vi) bảo đảm hợp tác hiệu quả giữa các thành viên.64 Mô hình liên kết khu vực của ASEAN với tinh thần nhấn mạnh bản sắc khu vực và tin tưởng lẫn nhau trong hợp tác được coi là nền tảng bảo đảm cho sự phát triển bền vững và lâu dài của tô chức. Tất cả các hiệp định của ASEAN đều được đàm phán theo một quy trình chặt chẽ giữa các lãnh đạo để bảo đảm các vấn đê đạt được sự thống nhất tuyệt đổi. Quá trình tham vấn và đồng thuận được ASEAN thiết kế nhằm bảo đảm cách tiếp cận dân chủ khi đưa ra quyết định. Vì vậy, các chính sách của ASEAN sẽ luôn bảo đảm không hợp pháp hóa những vấn đề gây tổn hại hoặc hạ thấp lợi ích của từng quốc gia hoặc cơ chế hợp tác khu vực. ASEAN được coi là một trong những khu vực phát ưiển kinh tế nhanh và năng động nhât của thế giới trong ba thập niên ưở lại đây. 2.2.2.2. Mục tiêu và chức năng Mục tiêu cơ bản mang tính nền tảng của ASEAN là duy trì và thúc đây hòa bình, an ninh, ổn định và tăng cường hợp tác giữa các quôc gia trong khu vực, bảo đảm hòa binh trong khu vực Đông Nam A. Trên cơ sở mục tiêu nền tảng đó, ASEAN đã đề ra 15 mục tiêu và chức năng trong Hiến chương của tổ chức65 trong đó có các diêm quan trọng liên quan tới sự phát ưiển kinh tế khu vực như sau: - Duy trì hòa bình, ổn định và hợp tác khu vực; - Nâng cao khả năng tự cường khu vực thông qua đẩy mạnh hợp tác chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa - xã hội; 64 JJX V N , Quá trình ra đời và phát triển của Hiệp hội ASEAN [http://vvww.vietnamplus.vn/Home/Qua-trinh-ra-doi-va-phat-tnen-cua-Hiep- hoi-ASEAN/201010/65408.vnplus] [xem lần cuối ngày 23/2/2013] 65 Hiến chưcmg ASEAN, Điều 1. 3 2 9
  • 331. " Xay clựng m ọ t tỉlỊ trurrng và c ơ sở sòn x u ấ t d u y nliut vóa ''' 011 đinh, tllịllll vượng, khá năng cạnh tranh và liên kết kinh tê c3ơ’ tạo thuận lợi cho thưorng mại và đàu tư, thông qua di chuyển tự hang hoa, dịch vụ và dòng đâu tư; di chuyển thuận lọi của cữC doanh nhan và lực lượng lao động, di chuyển tự do các dòng vốn; Giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách phát triển tronể ASEAN thông qua hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau- - Tăng cường dân chủ, thúc đẩy quản trị tốt và pháp quy^t*" thuc đay va bao vệ nhân quyên và các quyền tư do cơ bản người dân ASEAN; Thuc đay phát tnên bên vững nhằm bảo vệ môi trườnể khu vực, duy trì các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bao tồn di sảo văn hóa và chất lượng cuộc sống cao của người dân khu vực; - Phat trien nguôn nhân lực thông qua hợp tác chặt chẽ hơn trong lĩnh vực giáo dục và đào'tạo lâu dài, trong khoa học và công nghệ đê tăng cường quyền năng cho người dân ASEAN và thuc đẩy cộng đong ASEAN; - Đê cao bản săc ASEAN thông qua việc nâng cao hơn nữO nhận thức về sự đa dạng văn hóa và các dl sản của khu vực; và - Duy trì vai trò trung tâm và chủ động của ASEAN như lò đọng lực chủ chôt trong quan hệ và họp tác với các đổi tác bên ngoài trong một cấu trúc khu vực mờ, minh bạch và thu nạp. ASEAN đang nỗ lực xây dựng Cộng đồng ASEAN, một liên minh khu vực tương tự như Liên minh châu Au. Tháng 12/1997, lãnh đạo các nước ASEAN đã thông qua văn kiện Tầm nhìn ASEAN 2020, với mục tiêu tổng quát là đưa ASEAN ưở thanh “một nhóm hài hoà các dân tộc Đông Nam Á, gắn bó trong một cộng đông các xã hội đùm bọc lân nhau”. Tại Hội nghị ASEAN năm 2003, ASEAN đã ra Tuyên bố hòa hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II), nhất trí đê ra mục tiêu hinh thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2020 với ba trụ cột chính: Cộng đồng an ninh 330
  • 332. (A S E A N Security Com m unity, ASC), Cộng »lồng, kinh tó lẤSEÀN Economic Community, AEC) và Cọng ổồng văll lìóâ - xẫ llội (ASEAN Socio-Cultural Community, ASCC). Để kịp thích ứng với những chuyển biến nhanh chóng và phức tạp của tình hình quốc tế và khu vực, ASEAN tiếp tục thông qua Chương hình hành động Vientian năm 2007 nhằm đẩy nhanh tiến trình liên kết nội khối dựa ưên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN, nhất trí mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 (thay vì vào năm 2020 như thỏa thuận trước đây). ASEAN đã xây dựng các kế hoạch tổng thể (Blueprint) để xây dựng APSC, AEC và ASCC với các mục tiêu và thời hạn hoàn thành liên minh cụ thể. Trong đó, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) sẽ tạo ra một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, nơi có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề; từ đó nâng cao tính cạnh ưanh và thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả khu vực; tạo sự hấp dẫn với đầu tư —kinh doanh từ bên ngoài đối với Liên minh. AEC sẽ được hình thành ưên nền tảng khu vực tự do thương mại ASEAN (AFTA) đã được các quốc gia thành viên ASEAN thiết lập từ năm 1992. 2.2.2.3. Cơ cẩu tổ chức ASEAN có một cơ cấu tổ chức khá phức tạp với ba cấp nhằm đảm bảo xúc tiến hợp tác và hội nhập khu vực, như sau: a. Các cơ quan hoạch định chính sách - Hội nghị những người đứng đầu nhà nước/chính phủ ASEAN (ASEAN Summit) còn gọi là Hội nghị cấp cao ASEAN và là cơ quan quyền lực cao nhất cùa ASEAN. Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 4 họp tại Singapore năm 1992 quyết định những người đứng đầu chính phủ ASEAN mỗi 3 năm họp chính thức 1 lần và họp không chính thức ít nhất 1 lần để đề ra phương hướng và chính sách chung cho hoạt động của ASEẠN và quyết định các vấn đê lớn. Từ sau Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 5, giữa các cuộc
  • 333. họp cấp cao chính thức 3 năm một lần, hàng năm các thành viên đều tổ chức họp cấp cao không chính thức. - Hội nghị Bộ trưởng ASEAN (ASEAN Ministerial Meeting, AMM) - có trách nhiệm đề ra và phối hợp các hoạt động của ASEAN. AMM có trách nhiệm báo cáo với Hội nghị cap cao ASEAN. - Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN (ASEAN Economic Ministers, AEM) - được thể chế hóa tại Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 2 năm 1977 tại Kuala Lumpur (Malaysia). Cũng như AMM, AEM họp chính thức hàng năm. Ngoài ra AEM có thệ họp không chính thức khi càn thiết nhằm chỉ đạo các hoạt động hợp tác kinh tê trong ASEAN. AEM có trách nhiệm phải báo cáo công việc lên những người đứng đàu chính phủ ASEAN tại các Hội nghị cấp cao. Trong AEM có Hội đồng AFTA được thành lập để theo dõi, phối hợp và báo cáo việc thực hiện chương trinh ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của AFTA. - Hội nghị Bộ trưởng các ngành, bao gồm Hội nghị Bộ trưởng tài chính (AFMM) và Hội nghị Bộ trưởng giao thông vận tải (ATM) và các hội nghị Bộ trưởng năng lượng, khoa học công nghệ và môi trường, lao động, nông nghiệp và phát triển nông thôn, lâm nghiệp, các hội nghị cấp Bộ trường hoặc tương đương khác. - Hội nghị liên tịch các Bộ trưởng (Joint ministerial meeting, JMM) được tổ chức khi cần thiết để thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngành và trao đổi ý kiến về hoạt động của ASEAN. JMM bao gồm các Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Kinh tế ASEAN, dưới sự đồng chủ tịch của Chủ tịch AMM và Chủ tịch AEM. - Cuộc họp các quan chức cao cấp (Senior Officials Meeting, SOM) chịu trách nhiệm về hợp tác chính trị giữa các quốc gia ASEAN và nhóm họp khi cần thiết. SOM báo cáo trực tiếp cho AMM. ASEAN cũng tổ chức các cuộc họp thường kỳ của các quan chức kinh tế cao cap (Senior Economic Officials Meeting, SEOM) và kết quà của hội nghị phải được thông báo trực tiếp cho AEM. 332
  • 334. b. Các ủy ban chuyên trách - ủ y ban thường trực ASEAN (ASEAN Standing committee, ASC): bao gồm Chủ tịch là Bộ trưởng ngoại giao của nước đăng cai Hội nghị AMM sắp tới, Tổng thư ký ASEAN và Tổng giám đốc của các Ban thư ký ASEAN ở các quốc gia. ASC thực hiện công việc của AMM trong thời gian giữa 2 kỳ họp và báo cáo trực tiếp cho AMM. - Các ủy ban hợp tác chuyên ngành: hiện ASEAN có 6 ủy ban hợp tác chuyên ngành hay còn gọi là ủy ban phi kinh tế {non - economic Committees) hoạt động trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hoá và thông tin, môi trường, phát triển xã hội, kiểm soát ma. túy và các vấn đề về công chức. Các ủy ban này xem xét và kiến nghị những vấn đề liên quan đến họp tác của ASEAN về việc triển khai, chuyển giao công nghệ và nghiên cứu trong lĩnh vực cụ thể mà ủy ban phụ trách. c. Ban thư ký Ban thư ký ASEAN được thành lập theo hiệp định ký tại Hội nghị cấp cao làn thứ hai Bali năm 1976 để tăng cường phối hợp thực hiện các chính sách, chương trình và các hoạt động giữa các bộ phận khác nhau trong ASEAN. Từ năm 1992, Ban thư ký ASEAN được mờ rộng vê cơ cấu và có phạm vi trách nhiệm rộng lớn hơn trong việc đê xuất, khuyến nghị, phối hợp và thực hiện các hoạt động của ASEAN; chuẩn bị kế hoạch, chương trình, phối hợp, thống nhất và quản lý tất cả những hoạt động hợp tác đã được thông qua; phôi hợp tiến hành các cuộc đối thoại của ASEAN với các tô chức quốc tế và khu vực cũng như đối với bất cứ bên đối thoại được phân công và quản lý các quỹ hợp tác của ASEAN. Đứng đầu Ban thư ký là Tổng thư ký ASEAN, được những người đứng đầu chính phủ ASEAN bổ nhiệm iheo khuyến nghị của Hội nghị AMM với nhiệm kỳ là 3 năm và có thể gia hạn thêm 1 nhiệm kỳ.
  • 335. 2.2.2.4. Hợp tác kinh tê với các khu vực khác ASEAN luôn hướng tới tận dụng tối đa các ưu thế về đị2 ly, chinh tn, chiên lược và kinh tế, qua đó giữ vai trò cân bằng vạ đieu hòa lợi ích của các nước lớn ờ khu vực. ASEAN cũng rât nô lực trong việc xây dựng và phát triển hợp tác đa phương với các đôi tác thương mại khác như Mỹ, ủc, Án Đọ, Nhật Ban, EU, Hàn Quôc, Nga... để qua đó củng cố vị thế của khôi và từng quôc gia thành viên. ASEAN đã thiết lập quan hệ hợp tác trao đổi với các đối tác theo mô hình ASEAN+1 (các nước ASEAN cùng đàm phán với một quốc gia đối tác)66’ ASEAN+3 (các nước ASEAN cùng đàm phán với 3 đối tác Đông Bắc Á là Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc). Ngoài rạ, ASEAN còn là nhân tô quan trọng của các khuôn khổ hợp tác khu vực và liên khu vực khác như Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Hội nghị Ẩ - Âu (Asia' Europe Meeting; ASEM) và Diễn đan hợp tác Đông Á - Mỹ Latinh (Forum for East Asia-Latin America Cooperation, FEALAC). Các mô hình hợp tác này đã đem lại những hiệu quả thiêt thực cho ASEAN và các thành viên của tổ chức. Chẳng hạn ASEAN+3 đã dẫn tới sự hình thành của 52 cơ chế hợp tác ơ cac cap khac nhau va cac lĩnh vực hơp tác giữa các đối tác và ASEAN được mở rộng ra nhiều lĩnh vực (bao gồm cả ao ninh - chính trị, kinh tế, tài chính - tiền tệ, nông nghiệp, khoa học và công nghệ, giao thông vận tải, năng lượng, môi trường, du^lịch, công nghệ thông tin, y tế, lao đọng, van hóa, phòng chống tội phạm xuyên quốc gia và an sinh xa hội). Trong đó, hợp tác kinh tế, tài chính - tiền tệ của ASEAN+3 là lĩnh vực đại kết quả tích cực nhất. Cụ thể, ASEAN+3 đã hợp tác xử lý 66 ASEAN hiện có quan hệ đối thoại và hợp tác với 10 nước trên cơ sở ASEAN+1, bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Ọuốc, Ấn Độ, Pakistan, Australia, New Zealand, Nga, Hoa Kỳ và Canada và 1tổ chức khu vực là Liên minh châu Âu (EU) và 1 tổ chức quốc tế là LHQ. 334
  • 336. hiêu quả tác động của khủng hoảng kinh tế - tài chính toàn cầu. VỚỊ việc ra Tuyên bố về đối phó với khủng hoảng kinh tế và tài chính toàn cầu vào 2/6/2009, ASEAN+3 đã thể hiện quyết tâm của các nước trong việc tăng cường hợp tác để đưa ra các biện pháp cụ thể xử lý hiệu quả tác động tiêu cực của khủng hoảng đối với kinh tế khu vực. Thông qua quan hệ đối ngoại, ASEAN đã tranh thủ được Sự hợp tác và hỗ trợ thiết thực từ các đối tác bên ngoài, phục Vụ mục tiêu an ninh và phát triển của Hiệp hội; đồng thòi góp phần quan trọng thúc đẩy và kết nối các mối liên kết khu vực với nhiều tầng nấc khác nhau ở châu Á - Thái Bình Dưcmg. ASEAN cũng đã đóng một vai trò quan trọng đối với quá trình hội nhập của Việt Nam, đặc biệt trong quá trình đàm phán gia nhập WTO. Mặc dù vậy, ASEAN vẫn chưa phát huy được tối đa tính hiệu quả vì những khó khăn và thách thức nội tại của khu vực liên quan tới sự đa dạng về văn hoá, tôn giáo, kinh tế, chính trị của các quốc gia. Cuối cùng, cần lưu ỷ rằng trong quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại, mặc dù chưa được công nhận là chủ thể của luật quốc tế nói chung cũng như luật kinh tế quốc tế nói riêng, các công ty đa quôc gia ngày càng được khẳng định vai trò và tầm ảnh hưởng của mình. Với nhu cầu quốc tế hóa ngành sản xuất và phát triển thị trường mới nhằm tránh những rào cản thương mại ở các nước mua hàng, sử dụng được lợi thế so sánh của nước sở tại... một công ty có thể đầu tư vốn trực tiếp để thành lập và điều hành các chi nhánh hoặc công ty con ở nước ngoài. Tập hợp các công ty trong nhóm đó gọi là công ty đa quốc gia, không phân biệt nguồn vốn công ty là nguồn vốn tư nhân hay nguồn vốn công. Trong quá trình hoạt động nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận, công ty đa quốc gia mang lại rihững tác động tích cực
  • 337. cho nền kinh tế quốc gia (cả quốc gia xuất khẩu đầu tư và quốc gia tiếp nhận đầu tư), đồng thời sự phát triên của các công ty đa quốc gia cũng thể hiện được tinh thân toàn câu hóa kinh doanh, vốn là một trong những đặc trưng của trật tự kinh tế quốc tế hiện nay. Nhờ có nguồn vốn đầu tư trực tiêp, quôc gia tiếp nhận đầu tư có thể giải quyết những khó khăn vê kinh tế xã hội như lạm phát, thất nghiệp, tạo môi trường cạnh tranh (với các nhà đầu tư trong nước) và học hỏi được kinh nghiệm quản lý thông qua sự thành lập và hoạt động của công ty con của công ty đa quốc gia. Ở chiều ngược lại, quốc gia nơi có trụ sở chính của công ty đa quốc gia cũng nâng được hiệu quả sử dụng vôn đâu tư, cân băng cán cân xuât nhập khâu. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm thuận lợi nêu trên, hoạt động của công ty đa quốc gia có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đôi với nên kinh tế quốc gia và trật tự kinh tế quốc tê. Đối với quôc gia xuất phát địểm, việc hoạt động sản xuất được chuyên ra nước ngoài kéo theo việc “xuất khẩu” công nghệ mới, tái đầu tư vốn ngoài lãnh thổ của công ty đa quốc gia để tận dụng lợi thê so sánh của nước sở tại, sừ dụng nguồn nhân lực tại nước đó thay vì quốc gia nơi có trụ sở của công ty m ẹ... khiến cho quốc gia này gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tê. Thực trạng này thường diễn ra tại các nước phát triển, vốn là “cái nôi” của các công ty đa quốc gia. Trong khi đó, quốc gia tiếp nhận đâu tư (thường là quốc gia đang phát triển) chịu phụ thuộc vào đông vôn đâu tư từ nước ngoài, từ đó dẫn đến chính sách kinh tê, chính trị bị lệ thuộc. Quốc gia tiếp nhận đầu tư còn đứng trước thực trạng tài nguyên thiên nhiên bị tàn phá dq các công ty đa quôc gia chỉ quan tâm đên lơi nhuân và thực hiện chiến lược kinh tế toàn cầu của mình thay vì lợi ích phát triển của nước sở tại. Ngoài ra, cán cân thanh toán xuất nhập khẩu phụ thuộc nhiều vào sự thay đổi cua các “giao dịch nội bộ” trong công ty đa quốc ẹia (giữa cong ty mẹ và cảc công ty con). Các giao dịch này nàm trong chiến lược “chuyển gia” {transfer pricing) nhắm đối phó với 336
  • 338. các quy định về thuế thu nhập không giống nhau giữa các quôc gia nơi có chi nhánh (hoặc công ty con) và quốc gia nơi có trụ sở của công ty mẹ, gây thất thu thuế cho nhà nước (kể cả quốc gia tiếp nhận đầu tư lẫn quốc gia xuất khâu đâu tư). Đối với trật tự kinh tế quốc tế mới, mặc dù sự phát triển lớn mạnh của các công ty đa quốc gia thể hiện được phân nào 3ự tự do và toàn cầu hóa kinh doanh nhưng các hoạt động của nó, cụ thể là chiến lược chuyển giá đã và đang tiếp tục gây ảnh hường đến nguyên tắc tự do cạnh tranh giữa các chù thê tham gia vào hoạt động kinh tế quốc tế - một trong những nguyên tăc định hướng của trật tự kinh tế quốc tế mới. Ngoài ra, các công ty đa quốc gia, với lượng dự trữ vôn dôi dào (có nhiêu trường hợp còn hơn cả dụ trữ tài chính của quôc gia) có khả năng làm mất ổn định tỳ giá hối đoái, xâm phạm đên một trong những mục tiêu của hệ thống tài chính - tiên tệ quôc tê ra đời sau Hội nghị Bretton Woods năm 1944. Ví dụ điên hình là hoạt động đầu cơ ngoại tệ của một sô công ty tài chính đa quốc gia của Mỹ đã dẫn tới khủng hoảng tài chính tại Thái Lan và sau đó lan rộng thành khủng hoảng tài chính châu A (1997-1999). Tuy không phải là chủ thể của luật kinh tế quốc tế và không tham gia trực tiếp vào quá trình đàm phán, xây dựng luật kinh tế quốc tế nhưng công ty đa quôc gia có sức ảnh hưởng lớn đến trật tự kinh tế quốc tế. về mặt ý tưởng lập pháp, hoạt động của công ty đa quốc gia làm phát sinh nhu cầu thiết lập cơ chế điều chỉnh hoạt động kinh tế quốc tế đa phương. Ngoài ra, với nguồn lực tài chính dôi dào, công ty đa quốc gia có thể thực hiện các cuộc vận động hành lang {lobby) nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tê của mình (ví dụ tạo áp lực để buộc quốc gia nơi có trụ sờ của công ty mẹ và quốc gia nơi nó dự định thành lập công ty con đám phán hiệp định song 337
  • 339. phương nhằm mở cửa thị trường cho việc lưu chuyển đồnể vốn, bảo hộ nhà đầu tư, giải quyết tranh chấp về đầu tư..-)- Cộng đồng quốc tế hiện đang đàm phán một cơ chế đa phươnể mang tính ràng buộc để điều chỉnh hoạt động của các công ty đa quốc gia, hạn chế những tác động tiêu cực của nó đến nẻ1 1 kinh tế quốc gia cũng như trật tự kinh tế quốc tế. Đây là một trong những khuynh hướng phát triển đáng chú ý của luật kinh tế quốc tế. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách, giáo trình, từ điển 1. Carreau (Dominique), Juillard (Patrick), Droit International Économique, L.G.D.J, Paris, 1990 2. Cornu (Gérard), Vocabulaire juridique, Association Henri Capitant, PUF, 9e ed, 2011 3. Daillier (Patrick), Forteau (Mathias), Pellet (Alain)* Droit International Public, L.G.D.J, Paris, 2009 4. Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế - Phần I (Luật WTO), Nxb. Hồng Đức, TPHCM, 2012 5. Đại học Luật Hà Nội, Giảo trình Luật Quốc tể, Nxb. Công an Nhân dân, Hà Nội, 2007 6. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thương mại quốc tế, Nxi). Công an nhân dân, Hà Nội, 2012 7. Đại học MGIMO, Giảo trình Luật Kinh tể quốc tế (MexcflyHapoÆHoe 3KOHOMHHecKoe npaBo), KiroPyc, Moscow, 2012, tr. 182-189 8. Mai Hồng Quỳ, Trần Việt Dũng, Luật Thương mại quốc tể, Nxb. ĐHQG, TPHCM, 2012 338
  • 340. Tài liệu tham khảo khác 1. Blomberg (Brock), Broz (J Lawrence) "The Political Economy of IMF Voting Power", Conference Paper, International Political Economy Society (IPES), Princeton University, (10/01/2006) http://www.princeton.edu/~pcglobal/conferences/IPES/paper s/broz_blomberg_F 1030_l.pdf (xem lần cuối 28/8/2012) 2. Griffith-Jones (Stephany), Governance o f the World Bank, Report prepared for DFID, 2010 3. Heckelman (Jac c.) et al, “Crossing the Threshold: An Analysis o f IBRD Graduation Policy”, (Report), The W orld Bank Development Research Group, 2011 4. IBRD 2010 Voting Power Realignment (Report), W orld Bank Group, (2011) Todd (M oss) et al, “The ABCs of the General Capital Increase”, Report, Center for Global Development, 2011 5. TTXVN, Quá trình ra đời và phát triển của Hiệp hội ASEAN [http://www.vietnamplus.vn/Home/Qua-trinh-ra-doi- va-phat-trien-cua-Hiep-hoi-ASEAN/201010/65408.vnplus] [xem lần cuối ngày 23/2/2013] 6. Verwey w. D., “The Principles of a New International Economic Order and the law of the General Agreement on Tariffs and Trade (GATT)”, Leiden Journal o f International Law, Vol.3, N o.2, 1990, tr.123 7. Wade, Robert Hunter, “The Us Role in the M alaise at the W orld Bank: Get Up, G ulliver!,” G24 Discussion Paper Series, 2001 3 3 9
  • 341. Các văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam 1. Hiến chương LHQ 1945 2. Quy chế Tòa án Công lý quốc tế 1945 3. Hiến chương IMF 1945 4. Hiến chương WB/IBRD 1945 5. Tuyên bố về thiết lập trật tự kinh tế thế giới (.Declaration on the Establishment o f a New Internatiott Economic Order), UNGA Res.3201(S-VI), 01/5/ 1974. 6. Hiến chương về quyền và nghĩa vụ kinh tế của c3c quôc gia (Charter o f Economic Rights and Duties o f States)’ UNGA Res.3281(XXIX), 12/12/1974. 7. Hiệp định Marrakesh thành lập WTO 1994 8. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại 1994 9. Hiến chương ASEAN 2007 10. Luật Đầu tư năm 2005 11. Luật Thương mại năm 2005 T rang web của các tố chức quốc tế 1. International Monetary Fund <http://www.imf.org/external/about/histcoop.htm> 2. World Bank < http://web.worldbank.org > 3. World Trade Organization < http://www.wto.org> 4. European Union <Europa.eu/index_en.htm> 5. Association of Southeast Asian Nations <www.asean.org> 340
  • 342. CHƯƠNG XIII GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TRONG LUẬT QUÓC TẾ I. KHÁI NIỆM 1.1. Định nghĩa và đặc điểm của tranh chấp quốc tế Khi hợp tác quốc tế ngày càng gia tăng, các tranh chấp quốc tế vẫn tiếp tục phát sinh. Các chủ thế luật quốc tế đều nhận thức rõ tranh chấp quốc tế thời nào cũng có và tác động tiêu cực đến quan hệ quốc tế. Một câu hỏi thường đặt ra là: làm thế nào để giải quyết tranh chấp quốc tế đem lại hiệu quả cao nhất, có thể vừa đảm bảo quyền lợi họp pháp cho các bên tranh châp, vừa không tổn hại đến hòa bình, an ninh quốc tế? Từ trước tới nay, các bên tranh chấp đã sử dụng nhiều phương thức để giải quyết những xung đột, bất đồng giữa họ. Mặc dù vậy, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất trong các văn bản pháp lý quốc tế về tranh chấp quốc tế. Tính đến thời điểm hiện nay, khi đề cập giải quyết tranh chấp quốc tế, Hiến chưcmg LHQ cũng chi xác định các biện pháp hòa bình mà các bên tranh chấp có thể áp dụng. Từ góc độ thực tiễn, có thể hiểu tranh chấp quốc tế là hoàn cảnh thực tế, trong đó các chủ thể tham gia có những quan điểm, đòi hỏi trái ngược nhau vê những vân đê liên quan tới lợi ích của họ. So với tranh chấp trong luật quốc gia, tranh chấp quốc tế có hai đặc thù cơ bản. về chủ thê, chủ thể của tranh chấp quốc tế chính là chủ thể của luật quốc tế. Mặc dù quốc gia không là chủ thể duy nhất của luật quốc tế, nhung quan hệ quốc tế chủ yếu vẫn là quan hệ giữa các quốc gia, vì vậy, trong thực tiễn quốc tế, hầu hết các tranh chấp quốc tế chủ yếu xảy ra giữa các quốc gia. Đỗi tượng điêu chinh cùa tranh chảp quôc iê phải là quan hẹ pháp luật thuộc đối tượng điều chỉnh của luật quốc tế. 341
  • 343. biệt với thuật ngữ “tình thế” - tức là khả năng có thẻ dấn đên tranh chấp hoặc gây ra tranh chấp. Hiến chương LHQ đã sử dụng nhiều lần và cùng lúc hai thuật ngữ này, ví dụ “HĐBẠ có quyển điều tra mọi vụ tranh chấp hoặc mọi tình thế có thể dân đên sự bất hòa giữa các nước để xác định xem vụ tranh châp hay tình thế ẩy nếu kéo dài có thể đe dọa nền hòa bình và an ninh quốc tế không"} Tình thế tranh chấp được hiểu là một tình huống quan hệ quốc tế, trong đó ờ một thời điểm và địa điểm cụ thể, xuất hiện mâu thuẫn lợi ích giữa các bên hữu quan, tạo ra sự căng thẳng trong quan hệ quốc tế nhưng chưa kéo theo những ỵêu câu hay đòi hỏi cụ thể của các bên hữu quan. Ví dụ: tình thế tranh chấp có thê xuất hiện do các vụ đụng độ biên giới, sự tập trung quân đội của quốc gia này tại khu vực biên giới. Như vậy, một tình thê tranh châp cụ thể có khả năng tạo ra các vấn đề tranh chấp và trở thành tranh chấp, nhưng không phải tất cả các tình thế tranh chấp đêu trờ thành tranh chấp. Tình thế tranh chấp được hình thành trước khi phát sinh tranh chấp và vẫn có thể được duy trì kể cả sau khi tranh chấp đã được giải quyết. Việc phân biệt tranh chấp và tình thế tranh chấp có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn hoạt động của LHQ. Cụ thể, khi xem xét và giải quyêt các vụ tranh chấp quốc tế tại HĐBA, quốc gia tham gia vào vụ tranh chấp không được quyền biểu quyết. Trong trình tự thủ tục làm việc này đã áp dụng một trong các nguyên tăc pháp luật chung của luật quốc tế: nguyên tắc không ai là quan tòa trong chính các vụ việc của mình. Còn khi xem xét các “tình thế” tranh chấp, các quốc gia có liên quan vẫn đảm bảo có quyền biểu quyết. Theo tinh thần của Điều 34 Hiến chương LHQ thì cà “tranh chấp” và “tình thế” có điểm chung là nếu kéo dài sẽ gây 1 Điều 34 Hiến chương LHQ. 342
  • 344. nguy hiểm cho nền hòa bình và an ninh quốc tế. Cũng theo Điều 34, cơ quan duy nhất có quyền “định danh” các tranh chấp và tình thế như vậy thuộc thẩm quyền của Hội đồng Bảo an(HĐBA). 1.2. Phân loại tranh chấp quốc tế Trong khoa học luật quốc tế, việc phân loại tranh chấp quốc tê được thực hiện dựa trên những tiêu chí khác nhau, cụ thê: - Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia tranh chấp, có thể phân loại tranh chấp thành tranh chấp song phương và tranh chấp đa phương. Tranh chấp song phương là tranh chấp chỉ có hai chủ thể luật quốc tế tham gia trực tiếp, ví dụ: Ấn Độ và Pakistan là các bên tham gia vào vụ tranh chấp vùng đất Cashmir đã kéo dài trên nửa thế kỷ. Tranh chấp đa phương là loại hình tranh chấp mà trong đó có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể luật quốc tế, ví dụ vụ tranh chấp về quần đảo Trường Sa trong khu vực biển Đông giữa các nước ở khu vực địa lý này. Trong tranh chấp đa phương, có tranh chấp đa phương khu vực chỉ liên quan đến một khu vực địa lý xác định, như tranh chấp đa phương khu vực biển Đông nêu trên. Tranh chấp đa phương toàn câu là loại tranh chấp có phạm vi bao trùm toàn bộ hoặc số lớn các quốc gia trên thế giới, đây là loại hình tranh chấp quốc tế có tác động nghiêm trọng, gây hậu quả tiêu cực trực tiếp cho cộng đồng quốc tế. - Căn cứ vào mức độ nguy hại, có thể phân loại tranh chấp quốc tế thành tranh chấp quốc tế nghiêm trọng và tranh chấp quốc tế thông thường. Tranh chấp quốc tế nghiêm trọng là loại tranh chấp có nguy cơ phá hoại hòa bình và an ninh quốc tế. Ví dụ: tranh chấp giữa Israel với các nước Ả Rập về các vùng lãnh thổ mà Israel chiếm đóng. Tranh chấp quốc tế thông thường là tranh chấp không dẫn đến nguy cơ đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế. - Căn cứ vào nội dung vụ tranh chấp, có thể phân loại tranh chấp thành tranh chấp về thương mại; môi trường, tranh chấp về 343
  • 345. quyền và nghĩa vụ trong các điều ước quốc tế, tranh chấp lãnh thổ và biên giới quốc gia... - Căn cứ vào quyền năng chủ thể luật quốc tế của các bên tranh chấp, có thể phân loại tranh chấp thành tranh chấp giữa các quốc gia, giữa các tổ chức quốc tế liên chính phủ hoặc các chủ thể khác của luật quốc tế. - Căn cứ vào điều 34 Hiến chương LHQ có thể phân loại tranh chấp thành tranh chấp định danh và tranh chấp thông thường. - Căn cứ vào tính chất vụ tranh chấp, có thể phân loại tranh chấp thành ừanh chấp chính trị và tranh chấp pháp lý. Cần lưu ý rằng, việc phân loại các tranh chấp quốc tế nêu trên chỉ mang tính qui ước và luật quốc tế không quy định cụ thể về cách thức, nguyên tắc phân loại các tranh chấp quốc tế. 1.3. Thẩm quyền giải qủyết tranh chấp quốc tế Xuất phát từ bản chất pháp lý của luật quốc tế là sự thỏa thuận, thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế cũng có những điểm khác biệt so với thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo luật quôc gia. Dựa trên cơ sở thực tiễn và lý luận, thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế thuộc về các chủ thể pháp lý sau đây: - Các bên trong tranh chấp: trong thực tiễn quan hệ quốc tế, các bên tranh chấp thường trực tiếp giải quyết tranh chấp quốc tế phát sinh giữa họ và thường đạt kết quả cao, nhất là đối với các tranh châp song phương. Trong trường hợp các bên hữu quan không yêu câu chủ thê khác đứng ra giải quyết thì không một tòa án quốc tế, trọng tài quốc tế hay bất kỳ tổ chức quốc tế nào có thâm quyên giải quyêt vụ tranh chấp đó. - Các cơ quan tài phản quốc tế: thẩm quyền giải quyết tranh chấp còn được các bên tranh chấp trao cho các cơ quan tài phán quốc tế. Đây là những cơ quan hình thành trên cơ sở thỏa thuận hoặc thừa nhận của các chủ thể luật quốc tế nhằm thực 344
  • 346. hiện chức năng giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể luật quốc tê với nhau. Cơ quan tài phán quôc tê có thâm quyên giải quyêt tranh chấp bao gồm tòa án quốc tế và trọng tài qụốc tế. Tòa án quốc tế là thuật ngữ pháp lý quốc tế chung để chỉ cơ quan xét xử và giải quyết các loại hình tranh chấp quốc tế thuộc phạm vi điều chỉnh của luật quốc tế. Trong thực tiễn quan hệ quốc tế, có nhiều loại tòa án quốc tế khác nhau. Có tòa án quốc tế là một trong các cơ quan chính của tổ chức quốc tế liên chính phủ như Tòa án Công lý quốc tế (TACLQT) của LHQ2 3 đóng trụ sở tại La Haye (Hà Lan), hay Tòa án của Liên minh châu Au có tru sở tại Brussels (Bỉ). Đồng thời còn xuât hiện các tòa án quôc tế được thành lập và hoạt động dựa trên cơ sở một điều ước quốc tế hữu quan, ví dụ Tòa án quốc tế về Luật biển được hình thành theo các quy định có liên quan của Công ước LHQ về luật biển năm 1982/ về nguyên tắc, các tòa án quốc tế khác nhau sẽ có cơ cấu tổ chức, thẩm quyền, chức năng và phạm vi giải quyết tranh chấp quốc tế không giống nhau. Các vẩn đề pháp lý này đều được quy định trong các bản quy chế của chính tòa án quốc tế đó. Trọng tài quốc tế là cơ quan tài phán quốc tế có mục đích giải quyết tranh chấp giữa các chủ thể luật quốc tế bởi các quan tòa do các bên tham gia tranh chấp lựa chọn trên cơ sở tôn trọng luật quốc tế. Việc giải quyết theo con đường trong tài phải dựa trên sự chấp thuận của các bên tranh chấp. Sự đồng ý này có thể được thê hiện sau (ex post) khi tranh châp đã xảy ra hoặc có thê thỏa thuận từ trước trong các điều ước quốc tế hoặc các điều khoản chuyên biệt trong điều ước quốc tê giữa các quôc gia, được gọi là điêu khoản trọng tài. Nội dung của các quy định trên thường đề cập đối tượng tranh chấp, nguyên tắc và thủ tục xét xử, cơ câu của tòa trọng tài, trách nhiệm của các bên trong việc thông qua và thực hiện các phán quyêt của trọng tài.4 2 Điều 92 Hiến chương LHQ và Điều 1 quy chế TACLQT năm 1945 3 Xem phụ lục VI Công ước 1982 về quy chế của tòa án quốc tế luật biển 4 Cân phân biệt trọng tài quốc tế đang được đề cập ớ đây với trọng tài thương mại quốc tế, như Trọng tài thương mại quốc tế Singapore, Tokyo, Paris... là 345
  • 347. Các cơ quan của lổ chức quốc tế liên chỉnhphủ: trong cơ câu tô chức của các tổ chức C ỊIỊO C tẹ Hên phình phủ toàn Gầu pũng Ịli-Ịừ khu VUC, ỊỊgòàỊ ịiịiCriịg cơ ^|jácụì phuypn riiqii cq Cị^ịíịc nqqg giàì quyết trạnh cháp C ỊU Ọ C tế? nhự ỊACLC^Ỉ pủ^ Tpạ án của Liên minh châu Âu hay cơ quan giãi quyết tranh châp {Dispute Settlement Body, DSB) cùa WTO... còn có các cơ quan chức năng mặc dù có thẩm quyền chủ yếu trong các lĩnh vực hoạt động khác của tố chức quốc tế, nhưng trong quá trình vận hành của mình vẫn có các hoạt động liên quan đến giải quyêt tranh chấp quốc tế. Ví dụ: HĐBA của LHQ ngoài chức năng chủ yếu là duy trì hòa bình và ninh quốc tế vẫn có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp quốc tế nếu tranh chấp đó có khả năng đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế; hoặc Hội nghị cấp cao ASEAN,* 5 Tổng thư ký ASEAN6 trong tổ chức quốc tế ASEAN cũng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế. 1.4. Cơ sở pháp lý của giải quyết tranh chấp quốc tế Giải quyết tranh chấp quốc tế là một định chế trong hệ thống lẶiật quốc tế, vì thế nguồn luật của nó không có gì khác so với nguồn của luật quốc tế nói chung mà khoản 1 Điều 38 Quy chế tòa án quốc tế LHQ đã đề cập.7 Tuy nhiên, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế, ngoài các quy phạm pháp luật quốc tế, ở một số trường hợp ngoại lệ, cơ quan giải quyết tranh chấp quốc tế (cụ thể là trọng tài quốc tế) có thể áp dụng quy phạm pháp luật trong nước để giải quyết tranh chấp quốc tế trên cơ sờ thòa thuận của các bên tranh chấp. Ví dụ, trong vụ Trail co quan giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh giữa các chủ thể tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế, trong đó có những chù thể không phải là chủ thể của luật quốc tế. 5 Điều 26 Hiến chương ASEAN năm 2007 quy định: nếu có 1 tranh chấp chưa được giải quyết, sau khi đã áp dụng các điều khoản theo quy định, tranh chấp đó sẽ được trình lên cấp cao ASEAN để quyết định. 6 Điều 27 Hiến chương ASEAN năm 2007. 7 Xem thêm chương Nguồn của luật quốc tế. 346
  • 348. Smelter 1941 (Mỹ kiện Canada),8 các bên tranh chấp đã thỏa thuận bên cạnh việc ốp dụng luật quốc tế, Tòa Trọng tài có quyên áp ƠỊing các quy Uịniỉ en* Nguồn luật quan ừqíìg llllất điều chỉnhj j f c gịàị Cịụỵết tranh chấp quốc tế là các điêu ước quôc tê, cụ the; - Công ước vê giải qưyêt hòa binh cac xung đọt qưoc t-L được thông qua tại Hội nghị La Haye lân thư nliat vao nam S)J và được bổ sung vào năm 1907 tại Hội nghị La Haye lan thư hai. Đây là công ước quốc tế đa phương toàn câu đâu tien ve giai quyết hòa bình các tranh chấp quôc tê; - Tuyên bố chung về giải quyêt hòa bình các tranh chap quốc tế được Hội quốc liên thông qua ngày 26 thang 9 nam 1928, sau đó được LHQ chấp nhận bằng một nghị quyêt của ĐHĐ ngày 28 tháng 4 năm 1949 (có bổ sung và chỉnh lý); - Hiến chương LHQ có vai trò đặc biệt trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế, đã ghi nhận nhiêu điêu khoan quan trọng liên quan tới việc giải quyết hòa bình các tranh chap quoc tế9. Nhằm mục đích phát triển các điêu khoản này, ĐHĐ LHQ đã thông qua một số các nghị quyết và tuyên bô vê giải quỵêt hòa bình các tranh chấp quốc tế, trong đó có Tuyên bô Manila năm 1982; - Trong sổ các điều ước quôc tê khu vực vê giải quyet hòa bình các tranh chấp quốc tế, cần phải kê đên Hiệp ước Liên Mỹ về giải quyết hòa bình các tranh châp năm 1948 (còn được gọi tên là Hiến chương Bogota); Công ước châu Au vê giải quyêt hòa bình các tranh chấp được Hội đông châu Au thông qua vào năm 1957, Công ước về hòa giải và trọng tài trong khuôn khổ tổ chức an ninh và họp tác châu Âu (Organization for Security and Co-operation in Europe. OSCE) năm 1992. Cũng cân ghi nhận 8 Xem thêm: Nations unies - United Nations, Reports of International Arbitral Awards, 2006, http://untreaty.un.org/cod/riaa/cases/vol iii/1905-1982.pdf 9 Xem chương VI của Hiên chương LHQ từ Điêu 33 đên Điêu 38. 347
  • 349. Hiến chương của các tổ chức quốc tế khu vực như: liên đoàn các nước A Rập, Liên minh châu Phi, Tổ chức các nước châu Mỹ ^ gân đây nhất, Hiến chương của tổ chức quốc tế ASEAN10cũoẽ chứa đựng các điêu khoản điêu chỉnh việc giải quyết hòa bìnl1 các tranh chấp quốc tế; - Các điều ước quốc tế đa phương điều chỉnh sự họp tác giữa các chủ thê luật quốc tế trong các lĩnh vực chuyên môn khác nhau cũng chứa đựng các điêu khoản về giải quyết tranh chấp. V 1 dụ: Công ước vê trách nhiệm quốc tế đối với thiệt hại phát sinh d° phương tiện vũ trụ gây ra năm 1972, Công ước luật biển 1982. Ngoài ra, trong thực tiễn quan hệ quốc tế, các quốc gia đỏ1 khi còn thỏa thuận kí kết các điều ước quốc tế song phương dành riêng cho việc giải quyết tranh chấp quoc tế phát sinh giữa họ, ví dụ các hiệp định vê trọng tài —hòa giải. 1.5. Ý nghĩa của việc giặi quyết tranh chấp quốc tế Thực tiễn đã chửng minh ràng, hiệu quả của hoạt động hợp tác quôc tê cao hay thấp phụ thuộc khá nhiều vào kết quả của việc giải quyêt tranh chấp quốc tế. Xuât phát từ lý luận và thực tiễn giải quyết tranh chấp quoc te, có thê khăng định việc giải quyết tranh châp quôc tê cơ hiệu quả sẽ đem lại những ý nghĩa to lớn sau đây: - Giải quyết tranh chấp quốc tế góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tranh chấp nhất là những tranh châp mà một bên ở vị thế yếu hơn, qua đo bảo đảm trật tự pháp lý quốc tế và trật tự quan hẹ hợp tác quốc te- - Giải quyết tranh chấp quốc tế sẽ góp phần thúc đẩy việc thực thi và tuân thủ luật quốc tế. Thông thương các vụ tranh chấp phát sinh chủ yêu từ các hành vi vi pham luât quốc tế. Việc giải quvết hòa bình các tranh chấp quốc tế đảm bảo cho các bên hữu 10 Xem Hiến chương ASÌĨAN 2007 có hiệu lực ngày 15/12/2008, chương VIII từ Điều 22 đến Điều 28. 348
  • 350. quan có hành vi xử sự phù hợp theo luật định, chấm dứt hành vi xâm phạm, qua đó góp phần khôi phục quan hệ họp tác quốc tế, duy trì hòa bình và an ninh quôc tê. - Việc giải quyết tốt đẹp các tranh chấp quốc tế sẽ góp phần nâng cấp chất lượng các quy phạm hiện hành và xây dựng nên các quy phạm mới của luật quốc tế theo quan điểm dân chủ và tiến bộ, phù hợp với xu thế chung của nhân loại. Ví dụ, khi giải quyết tranh chấp giữa Anh và Na Uy về ngư trường ở biển Bắc, trong phán quyêt của mình, TACLQT đã khăng định phưcmg pháp đường cơ sở thẳng mà Na Uy sừ dụng không có gì trái với luật quốc tế. Hiêu theo nghĩa này, phương pháp đường cơ sở thẳng của Na Uy hoàn toàn được chấp nhận dưới góc độ luật quốc tế. Cùng với thời gian và dựa trên phán quyết này, nhiều quốc gia đã sử dụng phương pháp đường cơ sở thẳng của Na Uy để xác định vùng biển của mình. Từ thực tiễn quốc tế đó, sau này phương pháp đường cơ sở thẳng đã được ghi nhận trong luật biển quốc tế,11trở thành quy phạm mới dân chủ và tiến bộ. 1.6. Các đảm bảo ngăn ngừa và giải quyết tranh chấp theo luật quốc tế Trong thực tiễn, hiện tượng tranh chấp quốc tế là khó tránh khỏi. Điều cần làm là ngăn chặn tối đa sự phát sinh các tranh chấp trong quan hệ quốc tế, đồng thời giải quyết có hiệu quả các tranh chấp đã xuất hiện, qua đó đảm bảo sự ổn định của trật tự xã hội quốc tế. Với mục đích đó, cộng đồng quốc tế nói chung và các chủ thể tranh chấp nói riêng cần có những thái độ đúng đắn như: - Thực thi, tuân thủ nghiêm chỉnh có thiện chí các nguyên tăc và quy phạm luật quốc tế Việc thực thi này dựa nguyên tắc Pacta sunt servanda. Việc thực thi và tuân thủ có thiện chí. tận tâm các nguyên tắc và 1 1 Xem Điều 7 Công uớc của LHQ về luật biển 1982. 3 4 9
  • 351. quy phạm luật quốc tế không chỉ là một đảm bảo cần thiết chơ quá trình giải quyết tranh chấp mà còn góp phần quan trọng ngãẠ ngừa và hạn chê tới mức tối đa các tranh chấp phát sinh. thực tê đã chứng minh đa số các tranh chấp phát sinh từ các hàn!1 vi vi phạm luật quốc tế hoặc hành vi không thiện chí trong qn^t* hệ luật quôc tế. Chính vì vậy, việc các chủ thể luật quốc tế, nhât là các quốc gia tuân thủ nguyên tắc tận tâm và thiện chí thực hiệ1 ^ các cam kêt quôc tê sẽ làm cho các tranh chấp quốc tế không c° điều kiện xuất hiện. Mặt khác, việc thực thi tuân thủ nghiêm chỉnh các quyêt* và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể luật quốc tế luôn đảm bảơ cho quan hệ quốc tế phát triển tốt đẹp, loại trừ các nguy cơ tạo xung đột, mâu thuẫn dẫn đến tranh chấp quốc tế. - Kí kết các điều ước quốc tể chuyên môn hoặc điều khoát* đặc biệt về giải quyết tranh chấp quốc tể Việc tăng cường kí kết các điều ước chuyên môn về giải quyết tranh chấp, cũng như đưa vào các điều ước quốc tế chung các điều khoản liên quan đến giải quyết tranh chấp quốc tế là đảm bảo cho tiên trình giải quyết các tranh chấp phát sinh. Các điều ước quốc tế hay các điều khoản về giải quyết tranh chấp thường quy định các vấn đề cơ bản sau đây: thành lập cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp và quy định các biện pháp giải quyết cụ thể (ví dụ: Điều 11, mục 3 phụ lục V Công ước luật biển 1982);1 2 cam kết chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh châp của TACLQT của LHQ (quy định này được ghi nhận trong 1 2 Điều 11 mục 3, phụ lục V Công ước luật biền 1982: ‘7. Theo đúng mục 3 của phần XV bất kỳ bên nào trong một vụ tranh chấp có thể đưa ra hòa giài theo thủ tục đã trừ định ở mục này, cỏ thể bắt đầu thu tục bằng một bản thônễ báo gửi cho bên kia trong vụ tranh chấp; 2. Bát kỳ bên nào trong vụ tranh chấp, khỉ đã nhận được thông báo đã được trù định ở khoận 1, thì bắt buộc phái chấp nhận thủ tục hòa giàf 350
  • 352. một loạt các điều ước quốc tế khác nhau);13 xác lập nghĩa vụ phải sử dụng một số các biện pháp giải quyết hòa bình cụ thê (ví dụ: khoản 3 Điều 24 Hiến chương ASEAN).14 - Tự nguyện thực hiện các phản quyết giải quyết tranh chấp Giải quyết tranh chấp quốc tế chỉ có ý nghĩa và giá trị đích thực, nếu các quyết định giải quyết tranh chấp được các bên tự nguyện thực thi và tuân thủ theo đúng tinh thần của nguyên íăc Pacta sunt servơnda. Luật quốc tế không có bộ máy cưỡng chế tập trung, thường trực (như quân đội, cảnh sát, tòa án, đội thi hành án...), vì vậy để các quyết định của các cơ quan tài phán quốc tế đã tuyên được thi hành, đòi hỏi thiện chí rất lớn của bên thua kiện. Các điều ước quốc tế thường quy định việc thực hiện các phán quyết trước hết dựa vào ý thức tự nguyện của bên thua kiện. Trong trường hợp phán quyết không được tự nguyện thực hiện thì luật quốc tế cho phép bên thắng kiện hoặc cơ quan quốc tế có thẩm quyền (do các nước thành viên thỏa thuận ấn định) sử dụng các biện pháp chế tài phù hợp.1 5 13 Điều 29 Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 1974; Điều 34 công ước về quy chế người không quốc tịch 1954; Điều 14 công ước về giảm tình trạng không quốc tịch 1961. 14 Khoản 3 Điều 24 Hiến chưcmg ASEAN: nếu không có quy định cụ thê khác, các tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng các hiệp định kinh tế ASEAN sẽ được giải quyết theo nghị định thư ASEAN vê tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp. 1 5 Ví dụ: Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chê giải quyêt tranh chấp năm 2004 quy định, SEOM sẽ giám sát việc thực hiện các kết luận và khuyến nghị trong báo cáo của Ban hội thẩm và cơ quan phúc thâm đã được SEOM thông qua (khoản 6 Điều 15). Nếu hết thời hạn đền bù sau sáu mươi ngày hay thời hạn được các bên tranh chấp nhất trí, bên thắng kiện có thể đề nghị SEOM cho phép tạm ngưng những ưu đãi hoặc nghĩa vụ khác đối với nước thua kiện (khoản 2 Điều 16). Hoặc Hiên chương LHQ quy định: mỗi thành viên LHQ phải cam kết tuân thù các phán quyết cùa TACLQT về vụ tranh chấp mà họ tham gia. Trong trường hợp không tự nguyện thực thi các phán quyết này, theo yêu cầu cùa bên kia HĐBA LHQ có quyền kiến nghị hoặc 351
  • 353. II. KHÁI QUÁT VÈ CÁC BIỆN PHÁP HÒA BÌNH GIẢI QUYẾT TRANH CHÁP QUÔC TÉ 2.1. Khái niệm và phân loại các biện pháp hòa bình Hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế là một trong bảy nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại.16 Đây là nghĩa vụ pháp lý quốc tế của các quốc gia và chủ thể khác của luật quốc tế. Căn cứ vào Điều 33 của Hiến chương LHQ và nội dung cơ bản của nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế, có thể định nghĩa các biện pháp hòa bình giải quyết các tranh chấp quốc tế là các phương tiện, cách thức, thủ tục mà các chủ thể của pháp luật quốc tế có nghĩa vụ phải dùng để giải quyết các tranh chấp, bất đồng trên cơ sở nguyên tắc hòa bình giải quyết ữanh chấp quốc tế để duy trì hòa bình, an ninh quốc tế, phát triển quan hệ hòa bình, hợp tác giữa các quốc gia.17 Các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế có thể được phân loại dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau. Căn cứ vào giá trị pháp lý của các quyết định giải quyết tranh châp, các biện pháp hòa bình được phân loại thành các biện pháp đưa ra phán quyết có hiệu lực bắt buộc đối với các bên hữu quan (như giải quyết tranh chấp thông qua tòa án quốc tế và trọng tài quốc tế) và các biện pháp không đưa đến việc giải quyết quyết định sử dụng những biện pháp cân thiêt để đảm bảo phán quyết được chắp hành (Điều 94 Hiến chương LHQ). 16Xem chương Lý luận chung về luật quốc tế. 17 Xem Điều 33.1, Hiến chương LHQ: “Cúc bẽn đương sự trong các cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc tranh chập ây có thế đe dọa đến hoà bình và an ninh quốc tế, trước hẻt, phải cô găng tìm cách giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán, điêu tra, trung gian, hoà giài, trọng tài, toà án sừ dimg những tổ chức hoặc những điêu ước khu vực, hoặc bằng các biện pháp hoà bình khác tìty thẹo sự lựa chọn của mình" và Tuyên bố về những nguyên tắc cùa luật quoc tế điều chinh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiên chương LHQ 1970. 352
  • 354. tranh chấp có hiệu lực ràng buộc đối với các bên hữu quan (như điêu tra, trung gian, hòa giải). Căn cứ vào chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp quốc tế giữa các bên, có thể phân loại thành các biện pháp giải quyết trực tiếp (như đàm phán) và biện pháp giải quyết gián tiếp, tức thông qua sự trợ giúp của bên thứ ba (như hình thức điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án). Căn cứ vào hình thức giải quyết tranh chấp, có thể chia các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp thành ba nhóm: - Các biện pháp mang tính ngoại giao, gồm: đàm phán, trung gian, điều tra và hòa giải. Biện pháp đàm phán chỉ liên quan đến các bên tham gia tranh chấp. Các biện pháp ngoại giao còn lại có sự tham gia (ở mức độ khác nhau) của bên thứ ba vào quá trình giải quyết tranh chấp quốc tế, nhung có đặc điểm chung là bên thứ ba không có quyền đưa ra quyết định giải quyết có hiệu lực đối với các bên tranh chấp; - Các biện pháp tư pháp giải quyết tranh chấp quốc tế, gồm trọng tài quốc tế và tòa án quốc tế. Việc sử dụng các biện pháp này cũng có sự tham gia của bên thứ ba, nhưng khác với nhóm trên, bên thứ ba ở nhóm này có quỵền đưa ra các quyết định có hiệu lực ràng buộc các bên tranh chấp; - Các biện pháp được quy định trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế hoặc thỏa thuận khu vực (ví dụ: Công ước châu Âu năm 1957 về giải quyết hòa bình các tranh chấp; Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp năm 2004...). 2.2. Các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế 2.2.1. Đàm phản Đàm phán giải quyết tranh chấp qũổc tế là sự tiếp xúc trực tiếp giữa các chủ thể luật quốc tế là các bên tranh chấp để tìm ra ÒDÒ
  • 355. cách thức giải quyết tranh chấp đó một cách hiệu quả, phù hợp với luật quốc tế. Đàm phán không chỉ là biện pháp giải quyêt tranh chấp quốc tế mà còn thường được tiến hành nhăm mục đích trao đổi quan điểm, ý kiến giữa các quốc gia về các vấn đê không nhất thiết có tính tranh chấp, như trao đổi thông tin, thỏa thuận chính sách hay ký điều ước quốc tế. Theo quy định tại Điều 33 khoản 1 Hiến chương LHQ, đàm phán được xếp ở vị trí đầu tiên trong số các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế. Vì vậy, cũng cần phân biệt giữa đàm phản giải quyết tranh chấp quốc tể được ghi nhận tại khoản 1 Điều 33 với đàm phán để kỷ kết điều ước quốc tế. Hai khái niệm này khác biệt về mục đích, tính chất, giá trị pháp lý. Đàm phán là biện pháp đon giản và quan trọng nhất trong số các biện pháp giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế. So với các biện pháp giải quyết tranh chấp còn lại, đàm phán có nhiều ưu thế: (i) thông qua đàm pháh, các bên tranh chấp có cơ hội trực tiếp trình bày quan điểm của mình và xem xét ý chí, quan điểm của bên đôi thoại, qua đó tăng cường sự hiểu biết nhau hơn, xây dựng lòng tin, giảm bớt những nghi kị, tránh được những căng thẳng, bất đồng có nguy cơ phát triển thành những xung đột dẫn đến sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực (ii) đàm phán loại bỏ khả năng tham gia của bên thứ ba vào vụ tranh chấp, từ đó tránh sự can thiệp của các bên thứ ba và thỏa mãn được yêu cầu bảo mật. Đàm phán còn giúp các bên chủ động và tiết kiệm thời gian, giảm tôi đa chi phí tôn kém. Đàm phán để giải quyết tranh chấp quốc tế được tiến hành trên cơ sở nguyên tăc bình đăng và tôn trọng lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, với sự thể hiện thiện chí giải quyết tranh châp quôc tê. Đàm phán có mối quan hệ mật thiết với các biện pháp hòa bình khác. Cụ thể, đàm phán có thể chỉ là giai đoạn khởi đầu của một phương thức giải quyêt tranh chấp khác, đồng thời đàm phán 354
  • 356. có thể là hệ quả của việc áp dụng các phương thức giải quyết tranh chấp trước đó. Ví dụ: nhờ vào biện pháp môi giới, trung gian hay kết quả của xét xử trọng tài mà các bên tranh chấp cùng ngôi vào bàn để đàm phán. về thể thức, thủ tục, thời gian và cấp đàm phán, luật quốc tê hoàn toàn không có quy định bắt buộc nào. vấn đề này hoàn toàn thuộc thẩm quyền của các bên có liên quan. Trong thực tiễn quan hệ quốc tể, đàm phán có thể được thực hiện ở các cấp độ khác nhau: giữa những người đúng đầu nhà nước, đứng đầu chính phủ, bộ trưởng ngoại giao hoặc giữa những đại diện có thẩm quyền của các bên hữu quan. 2.2.2. Trung gian và hòa giải Trung gian và hòa giải là những biện pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế với sự tham gia của bên thứ ba. Bên thứ ba có thể là một quốc gia, nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế, các cá nhân có uy tín quôc tê hoặc cơ quan quôc tê được thành lập. Thông thường bên thứ ba là bên khách quan trong vụ tranh chấp và có quan hệ hữu nghị với cả hai bên tranh chấp, được các bên tranh châp yêu câu. Ngoài ra, bên thứ ba có thê tự mình đưa ra yêu cầu đóng vai trò trung gian, hòa giải. Cơ sở pháp lý của biện pháp trung gian và hòa giải được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế như: Công ước La Haye 1907, khoản 1 Điều 33 của Hiến chương LHQ, Công ước về luật biển 198218, Nghị định thư của Hiến chương ASEAN về cơ chế giải quyết tranh chấp19, Nghị định thư ASEAN 200420. Khi áp dụng biện pháp trung gian, bên thứ ba tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia tranh chấp xúc tiến các hoạt động 18 Điệu 248 Công ước cùa LHQ về luật biển 1982. 19 Điều 6 Nghị định thư cùa Hiến chương ASEAN về cơ chế giải quyết tranh chấp. 20 Điều 4 Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp 2004. 355
  • 357. đàm phán, đưa ra các lời khuyên hoặc chỉ dẫn cho các bên trong vụ tranh chấp, nhàm mục đích giúp đỡ các bên đạt được thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Như vậy, trong vai trò trung gian, bên thứ ba có nhiệm vụ làm dịu sự căng thẳng cũng như trung hòa các đòi hỏi, mâu thuẫn giữa các bên tranh chấp. Theo xu hướng mới những năm gần đây, bên thứ ba đóng vai trò trung gian không chỉ là các quốc gia mà có thể là các cá nhân nổi tiếng trên thế giới.21 Bên cạnh đó, vai trò trung gian có thể được các tổ chức quốc tế và cơ quan quốc tế đảm nhiệm. Khi nghiên cứu về biện pháp trung gian, cần liên hệ với biện pháp môi giới. Biện pháp môi giới không được đề cập trong Điều 33 Hiến chương LHQ, nhưng theo khoa học luật quốc tế, môi giới cũng là một biện pháp giải quyết hòa bình tranh chấp quốc tế, trong đó có sự tham gia của bên thứ ba. Nhiệm vụ của bên môi giới là dàn xếp, tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tranh chấp gặp nhau, đàm phán trực tiếp. Khi các bên tiên tới đàm phán trực tiếp với nhau thì vai trò của bên môi giới sẽ châm dứt. Như vậy, nguyên tắc, cách thức, vai trò của trung gian và môi giới về cơ bản là giống nhau. Sự khác nhau chủ yêu giữa hai biện pháp này là mức độ tham gia vào quá trình đàm phán của các bên tranh chấp. Bên trung gian tham gia sâu hơn vào quá trình giải quyết tranh chấp, như cùng tham gia đàm phán với các bên tranh chấp, đưa ra những lời khuyên, chỉ dẫn cho các bên tranh chấp. Mặc dù vậy, trên thực tế việc phân biệt trung gian và môi giới không phải lúc nào cũng dễ dàng. Lúc đâu, bên thứ ba có thể đóng vai trò môi giới để tạo điều kiện cho các bên tranh chấp thực hiện các cuộc đàm phán trực 21 Ví dụ: trong cuộc xung đột vũ trang giữa Nga - Gzuzia đầu tháng 8 năm 2008, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy với tư cách là chủ tịch luân phiên của Liên minh châu Au đã đóng vai trò trung gian, tạo điêu kiện cho Tỏng thông Nga Dmitri Medvedev và Tổng thống Gzuzia Mikhail Saakassvili gặp g& và đạt được sự nhất tri về “một kế hoạch hòa bình”. 356
  • 358. tiếp, nhưng sau đó bên thứ ba có thể tham gia vào quá trình đàm phán trong vai trò bên trung gian.22 Từ góc độ pháp lý quốc tế, các đề nghị, khuyến cáo của bên trung gian liên quan đến vụ tranh chấp không có giá trị pháp lý ràng buộc. Chúng chỉ có thể là cơ sờ cho các cuộc đàm phán và thỏa thuận giữa các bên tranh chấp. Cùng với biện pháp trung gian, các Công ước La Haye 1899 và 1907 còn quy định biện pháp hòa giải, mặc dù hai cônc ước này không tách biệt giữa hai biện pháp hòa bình này và coi trung gian, hòa giải là một biện pháp hòa bình. Song, tinh thần của khoản 1 Điều 33 và thực tiễn giải quyết tranh chấp quốc tế gần đây có xu hướng tách biệt trung gian và hòa giải. Nhiệm vụ của cơ quan hòa giải là làm sáng tỏ và xác định những yếu tố tạo nên tranh chấp, có thu nhận thông tin theo con đường điều tra hoặc bằng các cách thức khác. Khi tiến hành công việc hòa giải, bên hòa giải có nhiệm vụ trung hòa các bên tham gia tranh chấp. Bên hòa giải có quyền đề đạt những giải pháp, phương thức giải quyết tranh chấp, dự thảo nghị quyết và đưa ra kết luận giải quyết tranh chấp. Như vậy, trong hoạt động hòa giải bao gồm cả hoạt động điều tra và trung gian. Điều đó khiến người ta có thể cho rằng hòa giải là biện pháp có tính chất không hoàn toàn là ngoại giao và cũng không han là biện pháp tư pháp (tòa án). Cũng như biện pháp trung gian, quyết định và kết luận của cơ quan hòa giải chỉ có tính khuyến nghị và tạo cơ sở thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp. Như vậy, việc từ chối không làm 22 Ví dụ: Liên Xô (cũ) đã từng đóng vai trò môi giới làm dịu căng thẳng giữa Pakistan và An Độ trong cuộc xung đột vũ trang giữa hai quốc gia. Khi hai nhà lãnh đạo của hai nước gặp nhau đê đàm phán, họ đã đề nghị Liên Xô (cũ) tiêp tục với vai trò trung gian. Vai trò trung gian của Liên Xô (cũ) và sự tích cực giải quyết tranh chấp của Pakistan và Ân Đọ đã dẫn đến việc ký kết Hiệp định Tasken 1966 giải quyêt tôt đẹp tranh châp vê biên giới vùng đât Cashmir. 357
  • 359. theo các khuyến nghị của cơ quan hòa giải không được coi là hành vi vi phạm pháp luật. Cơ quan hòa giải có thể là ủy ban thường trực hoặc ad hoc. Thành phân của cơ quan này gồm số lẻ các thành viên được lựa chọn với tư cách cá nhân, trong đó có thể bao gồm thành viên là công dân của các bên tranh chấp hoặc chỉ bao gồm công dân của nước thứ ba do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn. Thực tiễn quan hệ quốc tế cho thấy, khá nhiều điều ước quôc tê quy định việc hòa giải như một phương thức mà các nước thành viên có thể sử dụng mỗi khi có tranh chấp. Ví dụ: Công ước của LHQ về luật biển 198223, Công ước Vienna 1969 về luật điều ước quốc tế.24 2.2.3. Điều tra Hoạt động điều tra được coi là biện pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế và thường được thực hiện thông qua ủy ban điêu tra. Nhiệm vụ của ủy ban này là xác định các sự kiện còn gây tranh cãi, không được hiểu thống nhất giữa các bên tham gia tranh chấp nhằm làm sáng tỏ thực trạng vụ tranh chấp. Như vậy, hoạt động điều tra thực chất không giải quyết tranh chấp quốc tế mà chỉ làm sáng tỏ các sự kiện hoặc hành động dẫn đến tranh châp, tạo điêu kiện thuận lợi cho việc giải quyết tranh châp. ủy ban điều tra có hai loại: ủy ban lâm thời (ad hoc) và ủy ban thường trực. Thực tiễn cho thấy có nhiều ủy ban điều tra được thành lập dựa trên sự thỏa thuận của các bên tranh chấp, như thỏa thuận giữa Anh và Nga 1904 về thành lập ủy ban Điều tra vụ thuyền đánh cá của Anh bị bắn, hay thỏa thuận giữa Anh và Đan Mạch năm 1961 về thành lập ủy ban Điều tra vụ hải quân Đan Mạch đã băn tàu đánh cá của Anh. 23 Điều 1 đến Điều 8 phụ lục V của Công ước 1982 về luật biển. 24 Khoản b Điều 66 và phụ lục Công ước Vienna 1969. vê luật điêu ước quốc tế. 358
  • 360. về nguyên tắc, thành phần, thời hạn và thẩm quyền của ủy ban do các bên liên quan thỏa thuận quy định. Vì vậy, thành viên của ủy ban điều tra có thể chỉ là công dân của các bên tranh chấp nhung họ không đại diện cho quốc gia mình, có thể gồm cả công dân của nước trung lập, có thể chỉ có công dần của nước trung lập được các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn.23 ủy ban điều tra thường giải tán khi báo cáo (kết luận) điều tra được thông qua. Báo cáo của ủy ban điều tra thường được thông qua với đa số phiếu. Báo cáo hay kết luận của ban điêu tra không có hiệu lực ràng buộc các bên tranh chấp. Họ có toàn quyền chấp nhận hay bác bỏ toàn bộ hay một phần báo cáo của ủy ban điều tra.2 5 26 2.2.4. Giải quyết tranh chấp thông qua tòa án quốc tế Giải quyết tranh chấp quốc tế theo trình tự thủ tục tố tụng của Tòa án Thường trực quốc tế được coi là một trong các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế. Cùng với trọng tài quốc tế, tòa án quốc tế được coi là cơ quan tài phán quốc tế. Tòa án Thường trực quốc tế là một định chế tương đối mới mẻ. Tòa án Thường trực quốc tế đầu tiên có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp giữa các quốc gia là Tòa án Công lý Trung Mỹ, được 5 quốc gia ở vùng Trung Mỹ thành lập năm 1908. Tòa án quốc tế 25 Ví dụ, trong thời kì chiến tranh Nga - Nhật 1904, một thuyền đánh cá cùa Anh bị bấn, hai ngư dân Anh bị chết, một số người khác trên thuyền bị thưcmg nặng, Anh cho rằng quân Nga đã gây thiệt hại đó. Giữa Anh và Nga xảy ra tranh chấp. Anh và Nga thỏa thuận lập một ủy ban Điều tra gồm đại diện Nga, Anh, Pháp, Mỹ và Áo. ủy ban đã tiến hành điều tra, tìm ra nguyên nhân, hoàn cảnh và thú phạm gây hại. ủy ban đi đến kêt luận là quân Nạa đã băn vào thuyên đánh cá cùa Anh. Từ kết luận này Nga đã châp nhận bôi thường thiệt hại cho Anh. Xem tại: http://www.worldcourts.com/ici/eng/decisions/1905.02.26_doggerbank.htm Hay, năm 1990, theo đề xuất cùa Tổng thư ký LHQ, hội nghị quôc tế Paris đã chấp thuận cừ phải đoàn điều tra tình hình Cambodia từ ngày 9 đến ngày 14/8/1990. 26 Điều 35 Công ước La Haye 1907. 359
  • 361. đầu tiên có tầm ảnh hưởng và ý nghĩa toàn cầu là Toà án Công lý quốc tế thường trực của Hội quốc liên, có các chức năng cơ bản: giải thích điều ước quốc tế, giải quyết các tranh chấp quốc tế và đưa ra các kết luận tư vấn. Sau Chiến tranh thế giới lần thứ II, tòa án này được thay thế bằng TACLQT của LHQ. Hiện tại, TACLQT của LHQ là cơ quan tư pháp có quyền lực và ảnh hưởng toàn cầu. Khi nghiên cứu tòa án quốc tế, ngoài việc phân biệt giữa tòa án quốc tế với tư cách là một trong những cơ quan chính của một tổ chức quốc tế, có chức năng chủ yếu là giải quyết tranh chấp quốc tế với các tòa án quốc tế được thành lập, hoạt động dựa trên cơ sở điêu ước quôc tê, cũng cân phân biệt chúng với các tòa án hình sự quốc tế đang tồn tại và hoạt động.27 Nhìn chung, tòa án quốc tế chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia khi họ chấp thuận thẩm quyền xét xử của tòa. Tuy nhiên, trong thực tiễn còn tồn tại loại hình tòa án quốc tế đặc thù, đó là Tòa án của Liên minh châu Âu (European Union, EƯ). Tòa án này không chỉ giải quyết các tranh chấp quốc tế phát sinh giữa các nước thành viên EU mà còn xem xet các tranh chấp giữa các cơ quan của EƯ, giữa các thể nhân và pháp nhân của các nước thành viên với các cơ quan của EU. Như vậy, Tòa án của EU có thẩm quyền giải quyết tranh chấp rất rộng và đối tượng của tranh chấp cũng rất đa dạng. Có thể nói đây là đặc thù của EU - một tổ chức quốc tế ‘‘siêu quốc gia” duy nhất trên thế giới cho đến thời điểm hiện nay. Như vậy, phạm vi giải quyết tranh chấp của các tòa án quốc tế khác nhau. Mặc dù vậy, các tòa án quốc tế cũng có những đặc điểm chung giúp phân biệt với trọng tài quốc tế. Cụ thể: - Mỗi tòa án quốc tế đêu hoạt động theo quy chế riêng, được thông qua từ trước đê quy định thủ tục và điều chỉnh quan 27Xem chương Luật hình sự quốc tê. 3 6 0
  • 362. hệ giữa tòa với các bên tranh chấp. Ví dụ: TACLQT LHQ hoạt động theo Quy chế TACLQT năm 1945,28 Tòa án Luật biển hoạt động theo phụ lục VI về Quy chế của tòa án luật biển, kèm theo Công ước của LHQ về luật biển năm 1982; - Trừ một số trường hợp đặc biệt,29 thành phần xét xử của tòa án quốc tế là cố định, nghĩa là các bên không có quyền lựa chọn thẩm phán; - Các bên tranh chấp không có quyền thay đổi các quy tắc, thủ tục tố tụng của tòa án; - Phán quyết của mọi tòa án quốc tế đều có giá trị chung thẩm và bắt buộc các bên liên quan phải triệt để tuân thủ. Cơ chế đảm bảo thi hành phán quyết của tòa án quốc tế rất nghiêm ngặt và có hiệu quả. Theo quy chế của tòa hoặc hiến chương của các tổ chức quốc tế, phán quyết của tòa thường được bảo đảm thi hành thông qua thẩm quyền của các cơ quan của tổ chức quốc tế. Ví dụ, Hiến chương LHQ đã trao cho HĐBA quyền đưa ra những nghị quyết về những biện pháp cần áp dụng đôi với quốc gia không thực hiện nghĩa vụ theo phán quyêt của tòa án nhăm đảm bảo cho phán quyêt của tòa được châp hành nghiêm chinh.30 28 Theo Điều 92 của Hiến chương LHQ: TACLQT LHQ hoạt động theo một quy chê xây dựng trên cơ sở Quy chế cùa Tòa án công lý quôc tế thường trưc cùa Hội quốc liên. Quy chế cùa Tòa án quốc tế kèm theo Hiến chương LHQ là một bộ phận câu thành cùa Hiến chương LHQ ngày 26/06/1945. Nguồn: http://www.icj-cij.org. 29 Ví dụ: trong phạm vi chức năng của mình TẠCLQT LHQ có thể thành lập ba loại tòa đặc thù: (1) Tòa rút gọn trình tự tô tụng, theo Điều 29 quy chế TACLQT, tòa này được thành lập hăng năm theo yêu câu các bên tranh chấp tòa gôm 5 thâm phán. (2) Tòa đặc biệt, được thành lập theo khoản 1, Điều 26, quy chế TACLQT, tòa này gồm 3 thẩm phán hoặc nhiều hon theo sự suy xét cùa tòa. (3) Tòa ad hoc được thành lập theo sự thỏa thuận của các bên, số lượnẹ thẩm phán cũng được các bên ¡hóa thuận. 30 Đieu 94 Hiến chương LHQ 361
  • 363. Ngoài chức năng chủ yếu là giải quyết tranh chấp quốc tê và đưa ra các kết luận tư vấn pháp lý trong các vụ việc cụ thê, tòa án quốc tế còn có thể góp phần giải thích và củng cố hoàn thiện các quy phạm luật quốc tế. Đồng thời, hiệu quả hoạt động của tòa là rất lớn. Thông qua hoạt động của tòa án quốc tê, tranh chấp quốc tế có thể được giải quyết triệt để; phán quyết do tòa án quốc tế đưa ra thường đảm bảo được tính công bằng và khách quan; các phán quyết của tòa án quốc tế thường được các bên tôn trọng và tuân thủ nghiêm chỉnh. 2.3. Giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài quốc tế Giống như tòa án quốc tế, trọng tài quốc tế không có thẩm quyền đương nhiên giải quyết tranh chấp quốc tế. Thẩm quyền của tòa trọng tài là thẩm quyền tùy nghi, phụ thuộc vào ý chí của các bên tranh chấp và ý chí đó phải được ghi nhận trong điều uốc quốc tế chuyên môn'hoặc điều khoản trọng tài. Các văn bản này còn xác định cụ thể trình tự, thủ tục xét xử, nguồn luật sử dụng trong xét xừ cũng như thủ tục và giá trị phán quyết của tòa trọng tài. Dưới góc độ lịch sử, so với tòa án quốc tế, tòa trọng tài là biện pháp giải quyết tranh chấp đã được biết từ lâu. Hình thức này đã xuất hiện vào thời kỳ Hy Lạp cổ đại, sau đó vào thời kỳ trung đại, khi Giáo hoàng đóng vai trò trọng tài. Tòa trọng tài phát triển mạnh vào thế kỷ XIX. Năm 1899, Hội nghị hòa bình La Haye đã pháp điển hóa luật về trọng tài quốc tế. Đồng thời, cộng đồng quốc tế đã có sự cố gắng định chế hóa cơ chế trọng tài, bàng cách thành lập Tòa Trọng tài thường trực. Hội nghị hòa bình La Haye năm 1907 đã phát triển luật về trọng tài, với quy đinh theo đó trọng tài quốc tế có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia với thành phân là các trọng tài viên do các bên tranh chấp lựa chọn, dựa trên cơ sở tôn trọng luật pháp quốc tế. 362
  • 364. về phân loại trọng tài khoa học luật quốc tế sử dụng nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại. Cụ thể: - Căn cứ vào tính chất hoạt động, trọng tài quốc tế gồm có trọng tài thường trực (trọng tài theo quy chế) và tòa trọng tài vụ việc (ad hoe). Trọng tài thường trực là trọng tài hoạt động thường xuyên, liên tục, có trụ sở, có danh sách trọng tài viên, có quy chế hoạt động và thủ tục tố tụng. Ví dụ: Tòa Trọng tài thường trực La Haye được thành lập theo hai Công ước La Haye 1989 và 1907.31 Trọng tài vụ việc được thành lập chỉ để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể và sẽ chấm dứt hoạt động khi vụ tranh chấp được giải quyết. - Căn cứ vào sổ lượng trọng tài viên, trọng tài được chia thành trọng tài đơn nhất (chỉ có một trọng tài viên) và trọng tài tập thể (bao gồm từ ba trọng tài viên trở nên). - Căn cử vào thẩm quyền giải quyết, trọng tài được chia thành trọng tài có thẩm quyền chung (có chức năng giải quyêt các tranh chấp phát sinh trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống quốc tế, như trọng tài thường trực La Haye được thành lập theo Công ước 1899 và 1907) và trọng tài chuyên môn (chỉ có thẩm quyền giải quvết tranh chấp trong một hoặc một số lĩnh vực của đời sống quốc tế, như trọng tài quốc tế về luật biển, được thành lập theo Công ước luật biển 1982).32 Thành phần của cơ quan trọng tài do các bên thỏa thuận quy định, có thể chỉ bao gồm một trọng tài viên hoặc nhiều trọng tài viên (hội đồng trọng tài), số lượng trọng tài viên luôn là số lẻ, để đảm bảo phán quyết của trọng tài được thông qua dễ dàng theo nguyên tắc đa số phiếu. Trong trường hợp trọng tài được 31 Mặc dù tòa trọng tài thường trực La Haye có trụ sở tại La Haye nhưng các trọng tài viên không hoạt động thường xuyên, tòa chi có một danh sách trọng tài viên mà các bên có quyền lựa chọn đê hình thành một thành phần cơ cấu xét xử 32 Xem phụ lục VII và VIII của Công ước 1982 về luật biền 363
  • 365. thành lập với một trọng tài viên duy nhất thì người này thường phải là công dân có uy tín của nước thứ ba. Nếu là hội đồng trọng tài, thì thông thường mỗi bên tranh chấp có quyền chỉ định một sô lượng trọng tài viên bàng nhau là công dân nước mình hoặc nước thứ ba. Các trọng tài viên được chỉ định sẽ thỏa thuận lựa chọn trọng tài viên khác làm chủ tịch hội đồng trọng tài. về nguyên tăc, chủ tịch hội đông trọng tài băt buộc phải là công dân của nước thứ ba. Nếu các bên hữu quan không lựa chọn được, hoặc trong trường hợp các bên không muốn chi định trọng tài viên của mình vì một lí do nào đó, họ có thể yêu cầu Chánh án TACLQT hoặc Tổng thư ký LHQ chỉ định. Luật được áp dụng để giải quyết các tranh chấp quốc tế là luật quốc tế liên quan trực tiếp đến vụ tranh chấp. Ngoài ra, các bên có thể tự do thỏa thuận lựa chọn luật quốc gia, nguyên tắc pháp luật chung hay quy định chuyên môn nào đó để trọng tài sử dụng khi giải quyết tranh chấp giữa họ.33 Thủ tục tổ tụng, trình tự phiên tòa trọng tài về nguyên tắc do các bên tranh chấp ấn định. Thông thường, trình tự phiên tòa trọng tài bao gôm hai giai đoạn: thủ tục viết và thủ tục nói. Sau khi các đại diện hoặc cố vấn của các bên đưa ra tất cả các giải thích, chứng cứ, yêu cầu của họ, chủ tịch tòa trọng tài sẽ tuyên bố kết thúc phần tranh tụng và sau đó tòa sẽ tiến hành nghị án. Quyết định của trọng tài sẽ được thông qua theo nguyên tắc nhất trí hoặc đa sô phiêu. Phán quyết trọng tài thường được thông qua tại buổi thảo luận nghị án bàng đa số phiếu và sẽ được tuyên đọc với sự có mặt của đại diện và cố vấn pháp lý của các bên tranh chấp. Phán quyết phải có phân chứng minh lập luận của trọng tài. Vê nguyên tắc, phán quyêt của trọng tài có giá trị chung thâm và hiệu lực 33 Xem thêm: Nations unies - United Nations, Reports of International Arbitral Awards Trail smelter case (United States, . Canada), 2006, http://untreaty.un.org/cod/riaa/cases/vol_iii/1905-1982.pdf 364
  • 366. bắt buộc thi hành đối với các bên. Phán quyết của trọng tài không thể bị khiếu nại, nhưng có thể được xem xét lại trong trường hợp xuất hiện các tình tiết và sự kiện ảnh hường có tính quyết định đến phán quyết, mà trước đó tòa trọng tài chưa được biết đến. Trong trường họp các bên có quan điểm, yêu cầu khác nhau về việc giải thích và thi hành phán quyết thì chính cơ quan trọng tài với cùng thành phần xét xử sẽ xem xét và giải thích. Trọng tài có nhiều điểm chung với tòa án. Ví dụ, việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài hay tòa án quốc tế đều được thực hiện dựa trên cơ sờ luật quốc tế; đồng thời phán quyết trọng tài cũng như phán quyết tòa án quốc tế đều có giá trị chung thẩm và hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Tuy nhiên giữa biện pháp trọng tài và tòa án vẫn có sự khác biệt, cụ thể: - Thứ nhất, về thành phần xét xử, các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, trong khi đó thành phần xét xử của tòa án quốc tế là cố định, các bên không có quyền lựa chọn thẩm phán; - Thứ hai, về thủ tục tố tụng xét xử, các bên có quyền thỏa thuận quy định thủ tục giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, vì vậy thủ tục tô tụng trọng tài đơn giản, linh hoạt và mêm dẻo hơn, qua đó tiết kiệm thời gian và chi phí, rút ngắn quá trình thông qua phán quyết. Trong khi đó, thủ tục tố tụng tòa án là cố định, đã được quy định cụ thể từ trước trong quy chế của tòa; - Thứ ba, về mức độ bảo mật trình tự tố tụng trong từng vụ việc, nếu các bên yêu cầu, nội dung giải quyết tranh chấp bằng trọng tài sẽ được giữ kín, đảm bảo cho các bên liên quan giữ được bí mật quốc gia, bí quyết kinh doanh, quy trình kỷ thuật... và qua đó, góp phần bảo vệ danh dự, uy tín của các bên tranh chấp. Trong khi đó, giải quyết tranh chấp theo tòa án quốc tế phải đảm bảo nguyên tắc xét xử công khai; - Thứ tư, về thể loại tranh chấp quốc tế được giải quyết, trọng tài không nhũng giải quyết tranh chấp pháp lý mà còn giải quyết tranh chấp chính trị, vì vậy, phán quyết của trọng tài có thể 365
  • 367. không mang tính đối nghịch như phán quyết của tòa án quốc tê. Do đó, sau khi có phán quyết của trọng tài, các bên vẫn có thê tiếp tục giữ được mối quan hệ với nhau kể cả trong lĩnh vực vừa xảy ra tranh chấp. Trong khi đó, tòa án quốc tế chỉ giải quyết các tranh chấp pháp lý. - Thứ năm, về khả năng kiểm soát hoạt động tố tụng, trình tự trọng tài do các bên tự quy định, vì thế khả năng kiêm soát hoạt động trọng tài của các bên rộng hom. Trong khi đó, khi tham gia thủ tục trước tòa án, các bên không có quyền này. 2.4. Giải quyết tranh chấp quốc tế tại các tổ chức quốc tế Các tổ chức quốc tế liên chính phủ có vai ừò đặc biệt quan trọng trong quá trình giải quyết các tranh chấp quốc tế phát sinh giữa các quôc gia thành viên. Căn cứ vào các điêu ước quôc tê thành lập tô chức quốc tế, mỗi tổ chức quốc tế đều có thẩm quyền và chức năng giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế. Tuy nhiên, các bên tranh chấp không chỉ tìm đến những cơ chê giải quyêt được ân định trong khuôn khổ của tổ chức quốc tế mà họ là thành viên, mà còn có quyền lựa chọn những biện pháp giải quyết hòa bình khác, vấn đề này thường được quy định trong các điều ước quốc tế của tổ chức quốc tế, như Điều 28 Hiến chương ASEAN năm 200734, khoản 3 Điều 2 Hiến chương LHQ.35 Thông thường các tranh chấp liên quan trong khuôn khổ tổ chức quốc tế được giải quyết theo các cơ chế đã được quy định trong quy chế tổ chức quốc tế. Việc nâng cao vai trò của tổ chức quốc tế và gia tăng số lượng các tổ chức quốc tế làm phong phú 34 Theo Điều 28 Hiến chương ASEAN, trừ khi có quy định khác trong hiến chương này, các quốc gia thành viên có quyên viện dân những hình thức giải quyết tranh chấp hòa bình được quy định tại Điều 33 khoản 1 của Hiến chương LHQ hoặc các vãn bàn luật quôc tế khác mà các quôc gia là thành viên ASEAN. 35 Khoản 3 Điều 2 Hiến chương LHQ ghi nhận: tất cả các thành viên LHQ giải quyết những tranh chấp quốc tể của họ bằng các biện pháp hòa bình. 366
  • 368. thêm các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia. Mỗi tổ chức quốc tế đều có đặc thù, vì vây cơ chế giải quyêt tranh chấp của chủng cũng có nhiều sự riêng biệt. Ví dụ, bên cạnh TACLQT, các tổ chức quốc tế chuyên môn của LHQ, như Tổ chức Nông lương thế giới {Food and Agriculture Organization, FAO), Tổ chức Hàng không quốc tế {International Civil Aviation Organization, ICAO), Tổ chức Lao động quốc tế {International Labour Organization, ILO), Tổ chức Sức khỏe thế giới {W orldHealth Organization, WHO)... cũng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế. Trong quy chế cũng như các điều ước của các tổ chức quốc tế này đều ghi nhận các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tê, như đàm phán trực tiêp giữa các bên, sử dụng cơ chế trọng tài quôc tê và TACLQT cùa LHQ. Các tranh chấp phát sinh trong khuôn khô các tổ chức quốc tế chuyên môn của LHQ thường là các tranh châp liên quan đến thẩm quyền của các tổ chức quôc tê trong việc giải thích và áp dụng các quy chế và điêu ước quôc tê của tô chức. Nhìn chung, các tranh chấp phát sinh giữa các quôc gia thành viên tổ chức quốc tế thường được giải quyêt trong khuôn khổ của chính tổ chức quốc tế và dựa vào cơ chế giải quyết tranh chấp của tổ chức quốc tế. Ví dụ: Điều 84, 85, 86 của Công ước Chicago về hàng không dân dụng quốc tế 1944 quy định vê trình tự giải quyết tranh chấp quốc tế liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng công ước và các phụ lục của công ư ớ c/63 6 36 Điều 84 Công ước Chicago giải quyết tranh chấp nếu có sự bất đồng giữa 2 hoặc nhiêu quôc gia ký kết về việc giải thích áp dụng công ước này và các phụ lục của công ước mà khồng thể giải quyết bàng thương lượng, thì hội đồng phải quyết định theo thỉnh cầu của bất kỳ quốc gia hữu quan nào. Không một thành viên nào cùa hội đồng mà là 1 bên tranh chấp được biếu quyết khi hội đồng xem xét cuộc tranh chấp. Phụ thuộc vào Điều 85 mọi quốc gia ký kết có thể kháng cáo quyết định cùa hội đồng trọng tài đặc trách được thành lập theo sự thỏa thuận với các bên khác trong cuộc tranh chấp hoặc kháne, cáo lên 367
  • 369. Hiện nay, có 17 tổ chức quốc tế chuyên môn của LHQ. Đây là các tổ chức quốc tế liên chính phủ được thành lập trên cơ sở điều ước quốc tế đa phương, còn được gọi là điều lệ của tổ chức quốc tế.37 Phạm vi thẩm quyền của mỗi tổ chức quôc tế chuyên môn được quy định trong điêu lệ của tô chức quôc tê đó, trong Hiến chương LHQ và trong hiệp định song phương giữa LHQ và tổ chức quốc tế chuyên môn do Hội đồng kinh tế - xã hội của LHQ thay mặt cho tổ chức quốc tế toàn cầu này kí kết. Như vậy, cơ chế giải quyết tranh chấp của từng tổ chức quốc tế chuyên môn nói trên sẽ khác nhau, phụ thuộc vào phạm vi hoạt động của từng tổ chức. Các tổ chức quốc tế khu vực nhìn chung đều quy định về trình tự, thủ tục và các biện pháp giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế phát sinh giữa các quốc gia thành viên của tổ chức. Việc giải quyết tranh chấp có thể được khởi xướng theo kiến nghị của quôc gia thành viên tham gia tranh chấp, theo sáng kiến của HĐBA LHQ hạy theo các quy định hiện hành được ghi nhận trong quy chế của tổ chức quốc tế khu vực. III. MỘT SÓ C ơ CHÉ GIẢI QUYÉT TRANH CHÁP QUÓC TÉ Hiện nay, có khá nhiều cơ chế giải quyết tranh chấp, trong đó có cả cơ chế giải quyết tranh chấp tại các tổ chức quốc tế liên chính phủ toàn cầu (như LHQ, WTO) hay khu vực (như ASEAN, EU) và cơ chế giải quyết tranh chấp trong các điều ước quốc tế chuyên môn như Công ước 1982 về luật biển. Phần này sẽ đề cập cơ chế giải quyết tranh chấp của LHQ, ASEAN và cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế về luật biển theo Công ước 1982. toà án công lý quốc tê thường trực. Kháng cáo như vậy phải được thông báo cho hội đồng trong vòng 60 ngày, kê từ ngày nhận được thông báo quyết định hội đồng. 37 Theo Unitied Nation, Structure and organization, http://www.un.org/en/aboutun/structure/index.shtml 368
  • 370. 3.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp tại Liên hợp quốc 3.1.1. Tòa án C ông lý quốc tế của Liên hợp quốc 3.1.1.1. Khái niệm về Tòa án Công lý quốc tế của Liên hợp quốc TACLQT LHQ là cơ quan tư pháp chính của LHQ, hoạt động ưên cơ sở quy chế của mình. TACLQT là cơ quan chính của LHQ, còn Quy chế TACLQT là một bộ phận không thể tách rời của Hiến chương LHQ.38 Tiền thân của TACLQT chính là Tòa án Công lý quốc tế thường trực (còn gọi là Pháp viện thường trực) bên cạnh Hội quốc liên. Tuy nhiên TACLQT thường trực không phải là cơ quan của Hội quốc liên, bởi tòa án này hoạt động dựa trên cơ sở quy chế hoàn toàn độc lập. Thành viên LHQ đương nhiên là thành viên của Quy chế TACLQT. Tuy nhiên, các quốc gia không phải thành viên của LHQ cũng có thể là thành viên của Quy chế TACLQT. Ví dụ, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Nauru khi chưa là thành viên LHQ vẫn được thừa nhận là thành viên của Quy chế TACLQT. Tòa án có trụ sở chính tại thành phố La Haye (Hà Lan), ngoài ra, tòa cũng có thể tiến hành các phiên xử ngoài La Haye khi tòa xét thấy cần thiết.39 Ngôn ngữ chính của tòa án quốc tế là tiếng Anh và tiếng Pháp. Ngoài ra, tòa cũng có thể cho phép các bên theo yêu cầu của họ sừ dụng ngôn ngữ khác.40 Khi xét xử, tòa áp dụng nguồn luật quy định tại Điều 38 của Quy chế tòa. 38 Điều 92 Hiến chương LHQ. 39 Điều 22 Quy chế tòa án quốc tế LHQ 40 Điều 39 Quy chế tòa án quốc tế LHQ 369
  • 371. Cơ sở pháp lý xác định chức năng và hoat đông TACLQT chủ yêu là Hiến chương LHQ,41 Quy c h ỉ của TACLQT và nội quy của tòa.424 3 . 3.1.1.2. Thâm quyên chính của Tòa án Công lý quốc tế Liên hợp quốc Theo Điêu 36 Quy chế TACLQT, tòa có thẩm quyền quyet tat ca các tranh châp mà các bên đưa ra cũng như các đê được quy định riêng biệt trong Hiến chương LHQ hoặc c /c điêu ước quốc tế có hiệu lực. Cụ thể, tòa án quốc tế có 2 thẩm quyên như sau: - Giải quyệt các tranh chấp phát sinh giữa các quốc gia ph1 4 hợp với quy chế của mình. Tòa án không chỉ giơi hạn thẩn1 quyên xét xử giữa các quốc gia thành viên LHQ. Các quốc khong phải là thành viên LHQ có thế tham dự vào quá trình giả* quyêt tranh châp tại tòa với tư cách bên nguyên đơn, bên bị đơn hoạc bẹn liên quan với điêu kiện đáp ứng các đòi hỏi, yêu cầu ào Đại hội đông (ĐHĐ) đưa ra trong từng vu cu thể dưa trên cơ sớ khuyên nghị của HĐBA.44 - Tư van pháp luật, đưa ra các kết luận tư vấn về các vấn đê pháp lý mà ĐHĐ, HĐBA cũng như các cơ quan khác của LHQ, cac tô chức quôc tê chuyên môn được sự chấp nhân của ĐHĐ yêu câu. Riêng đối với ĐHĐ và HĐBA có thể yêu câu tòa kêt luận tư vân vê bất cứ vấn đề pháp lý liên quan 45 41 Chương XIV Quy định về tòa án quốc tế của Hiến chương LHQ 42 Theo Điều 30 Ọuy chê của tòa, tòa án quốc tế có quyền xây dựng nội qưl quy định nguyên tắc thực hiện chức năng, các nguyên tắc thủ tục xét xừ cùa tòa. Ngày 6/5/1946, nội qui của tòa án quôc tê đẩ được thông qua. Năm 19*72, tòa đã thông qua việc sửa đôi một phân nội qui. Ngày 14/4/1978, tòa thông qua sửa đổi nội qui lần hai, nhằm cải tô thủ tục tranh tụng trước tòa. 43 Điều 34.1 Quy chế TAQT LHQ. 44 Điêu 93.2 Hiến chương LHQ. 45 Điêu 96 Hiến chương LHQ. 370
  • 372. * Các phương thức chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án Công lý Liên hợp quốc TACLQT có thẩm quyền giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia chấp nhận thẩm quyền xét xử của tòa. Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng chủ quyền quốc gia của luật quốc tế, TACLQT không có thẩm quyên đương nhiên giải quyêt tranh chấp giữa các quốc gia. Thẩm quyền giải quyết tranh chấp của tòa được xác lập dựa trên sự chấp thuận của các bên liên quan. Chấp thuận này có thể là thỏa thuận trước (trước khi có tranh chấp xảy ra) hoặc thỏa thuận sau (sau khi có tranh châp xảy ra). Căn cứ vào Điều 36 của Quy chế tòa, sự chấp nhận thẩm quyền của tòa được thể hiện theo ba phương thức sau: - Chấp nhận thẩm quyền của tòa án quốc tế theo từng vụ việc (được gọi là thỏa thuận thỉnh cầu). Đây là phương thức chấp nhận sau, tức là khi có tranh châp đã xảy ra, các quôc gia tranh chấp sẽ ký một thỏa thuận, được gọi là thỏa thuận thỉnh cầu, đề nghị tòa giải quyết tranh chấp giữa họ. Hình thức này đã được các quốc gia tranh chấp áp dụng rộng rãi như trong vụ Các đảo Minquiers vả Ecréchous giữa Pháp và Anh,46 vụ Thềm lục địa biển Bắc giữa Cộng hòa liên bang Đức và Đan Mạch, Công hòa Liên bang Đức và Hà Lan.47 - Chấp nhận trước thẩm quyền của tòa án trong các điều ước quốc tế. Ở phương thức này, trong các điều ước quốc tế, các quốc gia dự liệu trong các điều khoản đặc biệt, theo đó khi có tranh chấp xảy ra về việc giải thích và thực hiện điều ước quốc tế, một bên có thể đưa tranh chấp ra TACLQT LHQ. Do đó sau này khi có tranh chấp xảy ra, chỉ cần một bên (nguyên đơn) gửi đơn đến tòa, tòa sẽ có thầm quyền giải quyết. Ví dụ như vụ nhân viên ngoại giao và lãnh sự Mỹ tại Tehran, Mỹ kiện Iran dựa trên 46 Nguyễn Hồng Thao, TACLQT, sđd. tr. 234. 47 Nguyễn Hồng Thao, TACLQT, sđd, tr. 267. 371
  • 373. Nghị định thư về thủ tục giải quyết bắt buộc các tranh chấp trước TACLQT mà cả hai nước đã ký và phê chuẩn. - Chấp nhận trước thẩm quyền của tòa án bằng một tuyên bố đơn phương. Theo phưcmg thức này, khi cả hai quốc gia tranh chấp đều có tuyên bố đơn phương chấp nhận trước thẩm quyền của tòa và các tuyên bố này đồng thời có cùng phạm vi hiệu lực đối với một tranh chấp thì tòa có thẩm quyền xét xử tranh chấp đó.48 Các quốc gia có toàn quyền thể hiện ý chí của mình bằng tuyên bô đơn phương vào bất cứ thời điểm nào, với những nội dung hoặc những điều kiện gì để chấp nhận thẩm quyền xét xử của tòa. Thủ tục đăng ký các tuyên bố đơn phương này được thực hiện bằng cách gừi cho Tổng thư ký LHQ, Tổng thư ký sẽ làm nhiệm vụ lưu chiểu.49 3.1.1.3. Cơ cẩu tổ chức của Tòa án Công lý quốc tế của Liên hợp quốc a. Các thẩm phán thường trực Theo Điều 2 Quy chế TACLQT, tòa có cơ cấu là một hội đồng các thẩm phán độc lập, được lựa chọn không căn cứ vào quốc tịch, trong số những người có phẩm chất đạo đức tôt, đáp ứng các yêu câu đề ra ở quốc gia họ để chỉ định chức vụ xét xử cao nhât, hoặc là những luật gia có uy tín lớn trong lĩnh vực luật quốc tế.50 Tòa án quốc tế gồm 15 thẩm phán và số thẩm phán cần thiết để tiến hành xét xử là 9. Trong số 15 thẩm phán, được bầu chọn theo một trình tự thủ tục do luật quy định, không thê có hai thành viên cung quốc tịch. Thành phần hội đồng thẩm phán phải đảm bảo được tính đại diện, tính công bằng giữa các hệ thông pháp luật cơ bản trên thế giới, giữa các khu vực địa lý cũng như giữa các hình thái văn hóa chủ yếu trên thể giới.51 Quy định này 48 Điều 36.2 Quy chế TACLQT LHQ. 49 Điều 36.4 Quý chế TACLQT LHQ. 50Điều 2 Quy chế TACLQT LHQ. 5 1 Điều 9 Quy chế TACLQT LHQ. 372
  • 374. nhằm mục đích đảm bảo cho các quyết định của tòa có hiệu lực cao và thu hút đông đảo các nước khác nhau trên thế giới áp dụng biện pháp giải quyết tranh chấp giữa họ bằng con đường tòa án quốc tế LHQ. Các thẩm phán có nhiệm kỳ 9 năm và có thể được bầu lại. Các thẩm phán do ĐHĐ và HĐBA bầu ra. Bầu cử được tiến hành ba năm một lần nhằm thay đổi một phần ba (5 thẩm phán) thành phần của tòa. Sau khi trúng cử, 15 thẩm phán sẽ tiến hành bỏ phiếu kín để bầu ra chánh án và phó chánh án có nhiệm kỳ 3 năm và có thể được bầu lại. Quy chế của tòa án ghi nhận, thẩm phán TACLQT làm việc độc lập, không đại diện cho quốc gia mà họ mang quốc tịch, chỉ đại diện cho công lý quổc tế. Trong thời gian là thẩm phán, họ không đảm nhiệm chức trách hành chính, chính trị hoặc nghê nghiệp nào52. Tính độc lập của thẩm phán còn thê hiện về mặt vật chất, như các khoản lương, phụ cấp, thù lao do ĐHĐ ấn định.535 4Trong khi thực hiện chức năng của mình, các thẩm phán của tòa được hưởng quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao. Quy định này nhằm mục đích đảm bảo cho các thẩm phán không bị lệ thuộc, chi phối bởi bất cứ chính phủ nước nào, họ phải toàn tâm toàn ý phục vụ cho tòa. b. Các thẩm phán ad hoc Theo Điều 31 Quy chế TACLQT, một hoặc các bên tranh chấp có thể đề cử các thẩm phán ad hoc (vụ việc) nếu xét thấy trong thành phần xét xử của tòa không có thẩm phán nào mang quốc tịch nước mình. Quy định này giúp cân bằng tình thế trước tòa giữa các bên tranh chấp, tuân thủ nguyên tắc các bên bình đẳng trước tòa, đồng thời cũng phát huy ưu thế phương thức trọng tài. Khi lựa chọn các thẩm phán ad hoc, cũng phải dựa trên tiêu chuẩn của Điều 2 Quy chế tòa liên quan đến việc lựa chọn 52 Điều 16 Quy chế TACLQT LHQ. 53 Điều 32 Quy chế TACLQT LHQ. 54 Điều 19 Quý chế TACLQT LHQ.
  • 375. các thẩm phán thường trực. Cũng cần phải lưu ý rằng, các thẩm phán ad hoc không có nghĩa vụ phải bỏ phiếu để bảo vệ quyền lợi cho bên tranh chấp nào đã lựa chọn họ. Vị thế của các thẩm phán ad hoc ngang bằng với các thẩm phán thường trực trong quá trình xét xử. c. Các phụ thẩm Tòa có thể tự quyết hoặc theo yêu cầu của các bên tranh chấp đưa ra trước khi kết thúc thủ tục viết, các phụ thẩm được đề cử tham gia vào thành phần xét xử của tòa. Họ là những chuyên gia giỏi trong các lĩnh vực kỹ thuật liên quan đến vụ tranh chấp. Các phụ thẩm không có quyền biểu quyết.55 d. Thư ký tòa Thư ký tòa do tòa đề cử.56 Ban thư ký của TACLQT là một ban thường trực và chỉ phụ thuộc vào tòa, khác với Ban thư ký của LHQ (một trong sáu cơ’quan chính của LHQ). Nhân viên của ban thư ký được hưởng chế độ ưu đãi và miễn trừ ngoại giao như nhân viên LHQ. Lương của thư ký tòa do ĐHĐ ấn định theo đề xuất của tòa và cũng được miễn mọi khoản thuế theo tinh thần khoản 8 Điều 32 của quy chế TACLQT. Ban thư ký gồm chánh thư ký, phó chánh thư ký và các nhân viên. Chánh thư ký và phó chánh thư ký do tòa bâu theo phương thức bỏ phiếu kín với nhiệm kỳ 7 năm. e. Các tòa rút gọn Như đã trình bày, thông thường TACLQT tiến hành xét xử bời hội đồng toàn thể. Tuy nhiên, trong khuôn khổ hoạt động của mình, TAQT còn có loại hình gọi là tòa rút gọn, được thành lập để giải quyết từng vụ việc cụ thể của tòa. Theo Điều 28 của Quy chế TAQT, tòa rút gọn có thể được điều hành và thực hiện nhiệm 55 Khoản 2 Điệu 30 - Quy chế TAQT LHQ 56 Khoản 2 Điều 21 - Quy chế TAQT LHQ 374
  • 376. vụ xét xử ở ngoài La Haye, được thực hiện chức năng của mình theo lẽ công bằng và chân lý, ngôn ngữ sử dụng do các bên tranh chấp lựa chọn. Các phán quyết của tòa rút gọn được coi như phán quyết của tòa toàn thể. Căn cứ vào Điều 26 và 29 Quy chế TAQT, có 3 loại tòa rút gọn có thể được thành lập theo ý chí của TACLQT hoặc theo yêu cầu của các bên tranh chấp, cụ thể: - Tòa rút gọn tạm thời (tòa ad hoc), ở trường hợp này, thành phần của tòa rút gọn do TACLQT quy định dựa trên sự nhất trí của các bên.57 Thực tế cho thấy, các bên thường thỏa thuận thành phần của tòa là 5 thẩm phán. Một số vụ tranh chấp đã được giải quyết bời tòa rút gọn tạm thời là vụ Vịnh Maine (Canada/Mỹ) năm 1982; vụ tranh chấp biên giới giữa Burkina Faso và Mali năm 1985.58 - Tòa đặc biệt: theo khoản 1 Điều 26 quy chế của TACLQT, nếu thấỵ càn thiết TACLQT có thể thành lập tòa đặc biệt gồm 3 thẩm phán hoặc nhiều hom, nhàm phân tích từng vụ việc nhất đinh như vụ việc về lao động, quá cảnh và liên lạc quốc tế. - Tòa rút gọn trình tự tố tụng: theo hình thức này, hàng năm TACLQT lập ra tòa rút gọn trình tự tố tụng, có thành phần gồm 5 thẩm phán (chánh án, phó chánh án và 3 thẩm phán khác của tòa toàn thể). Tòa này xem xét và giải quyêt các vụ việc theo trình tự xét xử sơ bộ nhằm muc đích thúc đẩy việc giải quyết các vụ việc.59 Những quy định kể trên cho thấy tòa rút gọn là cơ quan tài phán kết hợp được những thế mạnh của cơ quan tài phán thường trực với thê thức xét xử trọng tài. 3.1.1.4. Thủ tục giải quyết tranh chấp tại Tòa án Công lý quôc tê Liên hợp quôc 57 Khoản 2 Điều 26 quy chế TAQT LHQ ss Nguyễn Hồng Thao, TACLQT, sđd, tr.52 59 Điều 29 - Quy chế TAQT LHQ 375
  • 377. Theo quy định tại Điều 43 Quy chế tòa, thủ tục tố tụng của TAQT LHQ gồm 2 giai đoạn kế tiếp nhau: thủ tục viết và thủ tục nói. a. Thủ tục viết Đây là thủ tục đầu tiên trong toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp tại tòa án quốc tế. Giai đoạn này bao gồm các bước nộp đơn kiện và nộp cho tòa bản bị vong lục và phản bị vong lục. Theo quy định tại Điều 40 Quy chế tòa, các vụ việc được khởi kiện ở tòa, tùy theo từng trường hợp cụ thể, bằng thông báo thỏa thuận thinh cầu hoặc bằng đơn kiện gửi cho thư ký tòa án. Như vậy, các bên có thê đông thuận đưa vụ việc ứanh châp của họ ra trước tòa án bằng con đường thỏa thuận thỉnh cầu. Trong trường hợp này, không có bên nguyên đơn hoặc bên bị đơn, cả hai bên tranh chấp có vị thế pháp lý như nhau trước TACLQT. Ngược lại, một bên có thể đưa tranh chấp ra trước tòa bằng một đơn khởi kiện dựa trên cơ sở bên kia chấp nhận thẩm quyền giải quyết tranh chấp của TACLQT, trong trường hợp này xuất hiện bên nguyên đơn và bên bị đơn trước tòa án. Trong cả hai trường hợp phài nêu rõ đổi tượng tranh chấp và các bên tranh chấp. Thông thường, thỏa thuận thỉnh câu và đơn khởi kiện đều phải do đại diện được cử giao dịch ký tên và được chuyển cho chánh thư ký tòa băng đường công văn ngoại giao hoặc do đại sứ của các bên liên quan trao tận taỵ. Thư ký tòa sẽ chuyển đơn ngay lập tức cho bên kia và cho tất cả các nước thành viên Quy che của tòa.60 Việc thông báo này nhăm đê bên bị đơn biết đồng thời giúp bên thứ ba có thể có quyền lợi liên quan xem xét quyết định họ có nên xin tòa cho tham dự hay không. Sau đó, các bên phải chú ý sao cho nộp bản bị vong lục và phản bị vong lục đúng quy định vê thời gian. Quy chế của tòa, không quy định thời gian nộp các bản bị vong lục và phản bị vong lục. Thời gian này do tòa quy định tùy từng trường hợp. 60 Điều 40 Quy chế TACLQT LHQ. 376
  • 378. Các bản bị vong lục và phản bị vong lục phải trình bày rõ, chi tiết các sự kiện và pháp lý (Điều 44, nội qui của tòa). Ngoài ra, các bên phải nộp tất cả các giấy tờ và tài liệu liên quan làm cơ sở. Mọi giấy tờ của các bên nộp cho tòa phải đồng thời được chuyển cho bên kia bằng văn bản sao có chứng thực.61 Quy chế tòa không quy định trình tự nộp các bản bị vong lục và phản bị vong lục. Thông thường, nếu tranh chấp được đưa ra trước tòa thông qua đơn kiện của nguyên đơn, tòa ấn định thời gian bên nguyên gửi bị vong lục và sau đó bên bị gửi phản bị vong lục. Trong trường hợp tranh châp được đưa ra trước tòa băng thỏa thuận thỉnh cầu, các bên sẽ thỏa thuận trong bản thỏa thuận thỉnh cầu đó số lượng và thời gian nộp các bản bị vong lục và phản bị vong lục. Các bên có thể thỏa thuận mỗi bên nộp một bị vong lục, sau đó là một phản bị vong lục. Ví dụ, trong vụ tranh chấp biên giới giữa Burkina Faso và Mali, mỗi bên nộp một bị vong lực và một phản bị vong lục.62 Nếu thấy các bản bị vong lục và phản bị vong lục chưa rõ ràng, tòa có quyền yêu câu các bên nộp bổ sung bản phân tích.63 cần lưu ý, ở bựớc này các bên phải thu thập tài liệu chứng cứ cho thật đầy đủ để gửi cho tòa, bời khi bắt đầu thủ tục nói, các chứng cứ chỉ được chấp nhận khi bên kia đồng ý.64 Ngoài 2 bước như trên, quá trình xét xử của tòa cũng có thể bị thay đổi bởi những sự kiện như: bên bị đơn đưa ra lý lẽ bác bỏ thẩm quyền của tòa, bên bị đơn vắng mặt, bên thứ ba xin được tham dự khi nhận thấy quyền lợi cùa họ liên quan đến vụ kiện, các bên yêu cầu tòa đưa ra các biện pháp bảo đảm tạm thời, hợp nhất các vụ kiện. Lúc này, tòa phải thực hiện một số thủ tục cần thiết như: (i) Tòa áp dụng các biện pháp cần thiết để xác định thẩm quyền xét xử của mình. Việc xác định này do chính tòa 61 Khoản 3 và 4 Điều 43 Quy chế TACLQT LHQ. 62 Nguyễn Hồng Thao, Tỏa án Công lý quốc íếf sđd, tr. 52. 63 Điều 40 Quy chế TACLQT LHQ. 64 Điều 52 Quý chế TACLQT LHQ. 377
  • 379. xem xét và quyết định; (ii) Tòa áp dụng những biện pháp bảo đảm tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích của các bên, phải có thông báo ngay cho các bên và HĐBA. Thủ tục viêt được coi như kêt thúc sau khi bị vong lục của bên nguyên đã được châp nhận và thời gian dành cho bên bị đon gửi phản bị vong lục đã kết thúc. Bên cạnh đó, nếu một bên không trình diện trước tòa hoặc không đưa ra lý lẽ của mình, theo yêu cầu của bên còn lại, tòa cũng sẽ chuyển sang thủ tục nói.65 b. Thủ tục nói Thủ tục nói được hiểu là quá trình tranh tụng được tiến hành trước tòa dưới sự điều hành của chánh án hoặc phó chánh án.66 Tranh tụng được tiến hành công khai, nếu như không có quyết định khác của tòa án hoặc không có yêu cầu của các bên.67 Mỗi phát biểu, trình bày quan điểm, ý kiến về nội dung vụ việc của mỗi bên tại phiên họp công khai cần phải được thể hiện rõ ràng, cụ thê và chính xác, chỉ ra các điểm bất đồng giữa hai bên. Bởi tât cả các lập luận và các sự kiện đã được các bên phân tích trong các bản bị vong lục và phản bị vong lục, để tiết kiệm thời gian các bên không nhất thiết nhắc lại tất cả những sự kiện và lập luận đó ở giai đoạn nói. Sau khi đại diện của các bên đã trình bày ý kiến, chánh án sẽ tuyên bố chấm dứt tranh tụng và chuyển sang phần nghị án. Việc nghị án của tòa được tiến hành thông qua các phiên họp không công khai và được giữ bí mật.68 Vụ kiện được quyết định băng phản quyêt của tòa với đa sô phiêu của các thẩm phán có mặt. Trường hợp sô phiêu ngang nhau, lá phiếu của chánh án hoặc người thay thê chánh án sẽ có tính quyết định69. 65 Khoản 1 Điều 53 Quy chế TACLQT LHQ. 66 Điều 45 Quy chế TACLQT LHQ. 67 Điều 46 Quy chế TACLQT LHQ. 68 Điều 54 Quý chế TACLQT LHQ. 69 Điều 55 Quy chế TACLQT LHQ. 378
  • 380. Phán quyết của tòa án sẽ được chánh án tuyên đọc công khai tại tòa và tất cả các thẩm phán tham gia bỏ phiếu phải có mặt. Theo Điều 60 của Quy chế tòa, phán quyết của tòa có giá trị chung thẩm và không được kháng cáo. Đây là một trong những đặc thù của TACLQT so với một số phương thức trọng tài quốc tế cũng như phương thức tài phán của các tổ chức quốc tế như WTO, ASEAN có hai cấp xét xử. Ngoài ra, Điều 60 cùa Quy chế tòa còn ghi nhận, trong trường hợp có sự bất đồng về việc giãi thích phán quyết của tòa, theo yêu cầu của bất kỳ bên nào, chính tòa sẽ có thẩm quyền giải thích. Phán quyết của tòa chỉ có giá trị đối với các bên tranh chấp và chỉ trong vụ án đó.70 Mặc dù vậy, trên thực tế, tòa luôn cố gắng bảo đảm sự hài hòa giữa những phán quyết của mình đưa ra và do đó, phán quyết của tòa trở thành nguồn bổ trợ của luật quốc tế. Ví dụ, các quốc gia có thể áp dụng những nguyên tắc mà tòa đưa ra trong vụ Ngif trường Na Uy, liên quan đến phương pháp đường cơ sở thẳng áp dụng trong phân định lãnh hải để lý giải cho lập luận của họ liên quan đến vụ tranh chấp tương tự. Sau này, nguyên tắc đường cơ sở thẳng thể hiện trong phán quyết của tòa đã trờ thành các tiêu chuẩn mới của luật quốc tế, thể hiện trong Điều 7 Công ước luật biển 1982.7 1 Trong trường hợp phát hiện ra các sự kiện pháp lý mà tòa không biết đến trong quá trình xét xử, đồng thời các sự kiện này có ảnh hưởng, tác động đến quyết định của tòa, bất kỳ bên nào cũng có quyền yêu cầu tòa sửa đổi lại phán quyết. Yêu cầu sửa 70 Điều 59 Quy chế TACLQT LHQ. 71 Khoản 1 Điều 7 Công ước luật biển 1982 quy định: Ở nơi nào bờ biển bị khoét sâu và lồi lõm hoặc nếu có một chuỗi đảo nằm sát ngay dọc theo bờ biển, phương pháp đường cơ sở thăng nối liền các điểm thích hợp có thể được sử dụng để kẻ đường cơ sở dùng đê tính chiêu rộng lãnh hài. 379
  • 381. đổi phải đưa ra trong thời hạn chậm nhất là 6 tháng sau khi phát hiện ra sự kiện mới và trong vòng 10 năm kể từ ngày phán quyết được công bố công khái.72 3.1.1.5. Trình tự tư ván Trình tự đưa ra kết luận tư vấn của TACLQT về cơ bản tương tự như trình tự giải quyết tranh chấp, gồm 2 giai đoạn chính: viết và nói. Quá trình xác lập nội dung kêt luận tư vân cũng giống như quá trình nghị án giải quyết tranh chấp quốc tê. Vì vậy, phần này chỉ đề cập đến một số điểm đặc thù: (i) chủ thê và điều kiện được tòa án đưa ra kết luận tư vấn và (ii) giá trị của kết luận tư vấn. (i) Chủ thể và điều kiện được tòa đưa ra kết luận tư vấn Theo quy định tại khoản 1 Điều 65 của Quy chế tòa và Điều 96 của Hiến chương LHQ, chủ thể có thẩm quyền yêu cầu tòa ra kêt luận tư vân về mọi vấn'đề liên quan là ĐHĐ và HĐBA. Ngoài ra, 17 tổ chức chuyên môn của LHQ và các cơ quan khác của LHQ, như Hội đồng kinh tế —xã hội, Hội đồng quản thác cũng có quyên đưa ra yêu cầu kết luận tư vấn nhưng chỉ trong phạm vi hoạt động của mình và phải được ĐHĐ cho phép. Như vậy, nêu như quôc gia là chủ thể duy nhất có quyền tranh tụng trước tòa đê giải quyết các tranh chấp, thì chủ thể có quyền yêu cầu tòa đưa ra kêt luận tư vấn chỉ gồm có ĐHĐ, HĐBA, các cơ quan khác của Liên họp quốc và các tổ chức quốc tế chuyên môn. Quôc gia và các tô chức quốc tế liên chính phủ khác (như ASEAN, EU) và Tông thư ký LHQ không có quyền này. Cũng cần lưu ý rằng, việc yêu cầu tòa đưa ra kết luận tư vấn là quyền của các chủ thể được xác định, tuy nhiên tòa có thể từ chối đưa ra kết luận tư vấn khi có đầy đủ cơ sở pháp lý. Thực tiễn cho thấy, TAQT đã từ chối đưa ra kết luận tư vấn về tính hợp pháp của việc sử dụng vũ khí hạt nhân theo yêu cầu của 72 Khoàn 4 và 5 Điều 61 Quy chế TAQT LHQ. 380
  • 382. WHO năm 1986. Lý do là yêu cầu có nội dung như vậy không thuộc lĩnh vực chuyên môn của WHO, theo tinh thần của khoản 2 Điều 96 của Hiến chương LHQ. (ii) Giá trị của kết luận tư vẩn Nếu như phán quyết giải quyết tranh chấp quốc tế của tòa án có giá trị chung thẩm và LHQ có cơ chế đảm bảo cho phán quyết của tòa được thực thi một cách triệt để,73 thì ngược lại, kết luận tư vấn của TAQT không có giá trị ràng buộc đối với các chủ thể có quyền yêu cầu tòa, nó chỉ có tính chất khuyến nghị.74 Đồng thời, luật quốc tế cũng không có quy định nào cấm các chủ thể này chấp nhận hiệu lực ràng buộc của kết luận tư vấn. 3.1.2. H ội đồng B ảo an HĐBA là cơ quan hạn ché, thường trực và đặc thù của LHQ. HĐBA gồm 15 thành viên, trong đó 5 ủy viên thường trực được chỉ định rõ trong Hiến chương và có quyền phủ quyết (Anh, Pháp, Nga, Mỹ, Trung Quốc), 10 ủy viên không thường trực được ĐHĐ bầu theo nhiệm kì 2 năm. Chức năng và nhiệm vụ của HĐBA rất rộng và tập trung chủ yếu vào hai lĩnh vực: giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế (chương VI của Hiến chương) và duy trì hòa bình và đấu tranh chống xâm lược (chương VII của Hiến chương). Như vậy giải quyết ừanh chấp quôc tê là một trong hai lĩnh vực chủ yêu của HĐBA. Thâm quyền giải quyết tranh chấp quốc tế của HĐBA được ghi nhận tại chương VI của Hiến chương (từ Điều 33 đến 38). Dựa trên những quy định của chương này, có thể khẳng định HĐBA có toàn quyền giải quyết các tranh chấp quốc tế phát sinh trong đời sống quốc tế. Thẩm quyền này được thực hiện theo hai loại tranh chấp: (i) tranh chấp nếu kéo dài có khả năng làm nguy hại hòa bình và an ninh quốc tế và (ii) tranh chấp thông thường. 73 Điệu 94 Hiến chương LHQ. 74 Điều 96 Hiến chương LHQ. 381
  • 383. 3.1.2.1. Tranh chấp nếu kéo dài cỏ khả năng làm nguy hợi hòa bình và an ninh quốc tế Theo Điều 34 Hiến chương LHQ, HĐBA là cơ quan duy nhất có quyền điều tra, xem xét tranh chấp nào là tranh chấp nếu kéo dài có khả năng làm nguy hại hòa bình và an ninh quôc tế. Bên cạnh đó, HĐBA còn có thẩm quyền nghiên cứu những tranh chấp hoặc tình thế nếu kéo dài có khả năng làm nguy hại hòa bình và an ninh quốc tế theo kiến nghị của Tổng thư ký LHQ,73 của ĐHĐ7 5 76 và của một quốc gia (hoặc các quốc gia).77 Điều cân lưu ý là không chỉ quốc gia thành viên LHQ mà cả quôc gia không phải là thành viên LHQ cũng có thê yêu câu HĐBA lưu ý đến bất cứ tranh chấp nào thuộc loại trên mà họ là một bên tranh chấp với điều kiện quốc gia này phải thừa nhận nghĩa vụ giải quyết hòa bình các tranh chấp theo quy định của Hiến chương LHQ. Điều này nhằm đảm bảo không chỉ các cơ quan chức năng của LHQ mà tất cả các quốc gia luôn có ý thức đối với cộng đồng. Sau khi điều tra và HĐBA xác định đó là tranh chấp nếu kéo dài có khả năng làm nguy hại hòa bình và an ninh quốc tế, HĐBA sẽ mời các bên giải quyết tranh chấp bằng một trong những phương thức nêu ở khoản 1 Điều 33 Hiến chương, đó là: đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, thông qua các tô chức quôc tê hay các hiệp định khu vực, hoặc băng các biện pháp hòa bình khác do họ tự chọn. Quyền hạn này của HĐBA còn được mở rộng và phát triển theo Điều 36 Hiến chương, theo đó trong bất kỳ giai đoạn nào của tranh chấp HĐBA có thể khuyến nghị các bên một trình tự và biện pháp giải quyết thích đáng. Bên cạnh đó, HĐBA cũng lưu ý đến biện pháp mà các bên tranh chấp đã tiến hành nhằm giải quyết các tranh chấp quốc tế (khoản 2 Điều 36 Hiến chương). 75 Điều 99 - Hiến chương LHQ 76 Khoàn 3 Điều 11 - Hiến chương LHQ 77 Khoản 1 và 2 Điều 35 —Hiến chương LHQ 38 2
  • 384. 3.1.2.2. Tranh chấp thông thường Khác với tranh chấp nếu kéo dài có khả nặng làm nguy hại hòa bình và an ninh quốc tế, tranh chấp thông thường là loại tranh chấp mà nếu như kéo dài thì cũng không cỏ khả năng đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế. Đây là tranh chấp phát sinh trong mọi lĩnh vực đời sống quốc tế của các quốc gia và không có nguy cơ đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế. Điều 38 của Hiến chương quy định, trong bất kỳ vụ tranh chấp nào do các bên đệ trình, HĐBA có thể giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế đó bằng cách đưa ra các khuyến nghị, cần phải nhìn nhận rằng việc áp dụng quy định này chỉ có thể được thực hiện với điều kiện được sự đồng ý của các bên tranh chấp yêu cầu HĐBA. Khuyến nghị được HĐBA đưa ra trên cơ sờ của Điều 38 Hiến chương không có hiệu lực ràng buộc, bởi vì HĐBA chỉ tham gia giải quyết tranh chấp với tư cách cơ quan hòa giải và đưa ra chỉ dẫn kiến nghị. Tóm lại, dựa trên cơ sở quy định tại chương VI của Hiến chương, có thể khẳng định rằng, HĐBA có thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp quốc tế giữa các quốc gia với các vai trò khác nhau như điều tra, trung gian, hòa giải. Trong tất cả các trường hợp nói trên, HĐBA đưa ra các khuyến nghị phù hợp và các khuyến nghị này không có hiệu lực bắt buộc đối với các bên tranh chấp. Vì vậy, không nên nhầm lẫn giữa các quyết định của HĐBA đưa ra trên cơ sở của chương VI Hiến chương, chỉ mang tính khuyến nghị. Quyết định có giá trị bắt buộc của HĐBA đưa ra trên cơ sở chương VII của Hiến chương trong trường hợp hòa bình bị đe dọa hoặc có hành vi xâm lược. 3.1.3. Đ ại hội đồng và Tổng thư ký Liên hợp quốc ĐHĐ là cơ quan toàn thể duy nhất của LHQ. ĐHĐ có thẩm quyền thảo luận tất cả các vấn đề hoặc các công việc thuộc phạm vi Hiến chương hoặc thuộc quyền-hạn và chức năng của bất kỳ một cơ quan nào của LHQ được ghi trong Hiến chương,
  • 385. trừ những vấn đề được quy định trong Điều 12 của Hiến chương.78 Trên cơ sở tuân thủ Điều 12 Hiến chương, ĐHĐ có quyền đưa ra khuyên nghị vê việc áp dụng các biện pháp thích hợp để giải quyết hòa bình mọi tình thế nảy sinh từ bất kỳ nguồn gốc nào, mà theo sự nhận xét của ĐHĐ, có thể làm hại đến lợi ích chung, hoặc gây tổn hại cho các quan hệ hữu nghị giữa các nước.79 Điều đó có thể khẳng định rằng ĐHĐ có thẩm quyền rất rộng lớn và trong đó có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu kéo dài có khả năng làm nguy hại hòa bình và an ninh quốc tế. Tuy nhiên, khác với HĐBA, quyền hạn giải quyết tranh chấp loại này của ĐHĐ là có hạn chế. Điều này được thể hiện tại nội dung của Điều 12 Hiến chương, theo đó khi HĐBA thực hiện những chức năng được Hiến chương này quy định đối với một vụ tranh chấp hay một tình thế nào đó, thì ĐHĐ không được đưa ra một kiến nghị nào về tranh chấp hay tình thế ấy, trừ khi được HĐBA yêu cầu. Điều này cho thấy, ĐHĐ có thể không giải quyết vụ việc tranh chấp đến tận cùng, vì đến mức độ nào đó, tranh chấp sẽ phải chuyển sang cho HĐBA giải quyết. Do đó, khi đề nghị LHQ quan tâm tới các vụ tranh chấp hoặc các tình thế nếu kéo dài có khả năng làm nguy hại hòa bình và an ninh quốc tế, quốc gia hữu quan phải tự cân nhắc và phải quyết định ràng, vụ việc đó nên đưa cơ quan nào xem xét, HĐBA hay là ĐHĐ. Tổng thư ký LHQ cũng có vị thế nổi bật trong giải quyết tranh chấp quốc tế. Tổng thư ký hoạt động với tư cách viên chức hành chính cao nhất của LHQ tại tất cả các cuộc họp của ĐHĐ, HĐBA, Hội đồng kinh tế - xã hội và Hội đồng quản thác.80 Cũng cần nhìn nhận rằng, mặc dù được tham gia vào các cuộc họp của các cơ quan này vì lợi ích của LHQ, Tổng thư ký không được thỉnh cầu hoặc chấp nhận những chỉ thị từ bất kỳ một chính phủ 78 Điều 10 Hiến chương LHQ 79 Điệu 14 Hiến chương LHQ 80 Điều 98 Hiến chương LHQ 384
  • 386. hay bất kỳ cơ quan nào khác ngoài LHQ.81 Hơn nữa, quyết định của những cơ quan này được thông qua bằng hình thức bỏ phiếu của các quốc gia thành viên trong cơ quan, mà Tổng thư ký LHQ không được phép đại diện cho bất cứ quốc gia nào, vì vậy không có quyền biểu quyết thông qua quyết định của những cơ quan này. Ngoài ra, Tổng thư ký còn có quyền thực hiện các chức năng được các cơ quan khác như ĐHĐ và HĐBA giao phó với vai trò trung gian, hòa giải khi giải quyết tranh chấp quốc tế. Điều 99 của Hiến chương còn quy định Tổng thư ký có thề lưu ý HĐBA về bất cứ vấn đề nào mà theo Tổng thư ký, có thể đe dọa hòa bình và an ninh thế giới. 3.2. Cơ chế giải quyết tranh chấp của ASEAN ASEAN ra đời năm 1967 theo Tuyên bố của Hội nghị bộ trưởng ngoại giao các nước Đông Nam Á (Tuyên bố Bangkok 1967). Cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ ASEAN ngày càng được hoàn thiện thông qua sự hình thành hàng loạt cơ chế giải quyết tranh chấp như: cơ chế giải quyết tranh chấp về chính trị được thể hiện trong Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á (Hiệp ước Bali 1976), cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế theo Nghị định thư Manila 1996 (Nghị định thư 1996); cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế theo Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp 2004 (Nghị định thư 2004), cơ chế giải quyết tranh chấp theo Nghị định thư 2010. Trong quá trình phát triển của mình, ASEAN có tới ba thủ tục để giải quyết tranh chấp quốc tế ở các lĩnh vực khác nhau. Để hiểu rõ cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ ASEAN, cần nắm được khái quát các cơ chế giải quyết tranh chấp thông qua các điều ước kể trên. Điều 100 Hiến chương LHQ 3 8 5
  • 387. 3.2.1. Cơ chế giải quyết tranh chấp theo Hiệp ước thân thiện, hợp tác Đông Nam Á (Hiệp ước Bali 1976) Tuyên bố Bangkok 1967 đề cập giải quyết tranh chấp quốc tế. Với mong muốn thúc đẩy hòa bình và ôn định khu vực thông qua việc tôn trọng luật pháp đồng thòi để giải quyết bất đồng, tranh chấp giữa các nước, Hội nghị thượng định ASEAN lân thứ nhất tại Bali (Indonesia) ngày 24/02/1976, các nước thành viên ASEAN đã ký Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á 1976. Hiệp ước chỉ có 20 điều, nhưng đã dành trọn chương IV (từ Điều 13 đến Điều 17) quy định về giải quyết tranh chấp. Để cụ thể hóa Hiệp ước Bali và tạo điều kiện cho giải quyết tranh chấp được nhanh chóng, không bị cản trở bởi các bên tranh chấp, Hội nghị bộ trưởng ngoại giao ASEAN lần thứ 34 tổ chức tại Hà Nội ngày 23/10/2001 đã thông qua Quy tắc thủ tục của Hội đồng ì _ _ 82 câp cao. về chủ thể của tranh chấp, Hiệp ước Bali điều chỉnh việc giải quyết tranh chấp trước hết là giữa các nước ASEAN tham gia hiệp ước. Ngoài ra, các nước ngoài ASEAN nhưng cũng là thành viên của Hiệp ước đông thời liên quan trực tiếp đến vụ tranh chấp cũng có thể áp dụng Hiệp ước để giải quyết. về đối tượng tranh chấp, Hiệp ước Bali không có điều khoản nào về phạm vi giải quỵết tranh chấp cũng như không quy định giải quyết loại tranh chấp nào: tranh chấp chính trị hay la lãnh thổ, biên giới; thương mại hay văn hóa. Năm 1996, ASEAN thông qua Nghị định thư Manila về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế, vì thế có thể cho rằng những tranh chấp khác được giải quyêt theo Hiệp ước Bali. Cơ quan giải quyết tranh chấp là Hội đồng cấp cao. Đây là cơ quan không thường trực, được thành lập theo Điều 14 của Hiệp ước Bali 1976 để giải quyết thông qua “tiến trình khu vực”. Hội đồng cấp cao chỉ thành lập sau khi tranh chấp xảy ra.8 2 82Quy tắc này thể hiện bằng tiếng Anh tại: http://www.asean.org/3639.htm. 386
  • 388. Thành phần của Hội đồng cấp cao bao gồm đại diện cấp bộ trưởng của tất cả các nước thành viên tham gia Hiệp ước là các nước Đông Nam Á, đồng thời bao gồm bộ trưởng của các nước thành viên Hiệp ước không phải là các nước Đông Nam Á nhưng liên quan trực tiếp đến vụ tranh chấp và chấp thuận sẽ giải quyết theo tiến trình khu vực.83 Chủ tịch hội đồng sẽ là đại diện của một quốc gia thành viên Hiệp ước đang giữ vị trí chủ tịch ủy ban thường trực ASEAN hoặc là một đại diện khác của một quốc gia Đông Nam Á theo quyết định của Hội đồng cấp cao.84 Hội đồng cũng có thể thành lập những nhóm công tác trên cơ sở ad hoc (vụ việc) nếu cần thiết để trợ giúp Hội đồng cấp cao.85 Chức năng của Hội đồng cấp cao là xem xét vụ tranh chấp và tình hình cụ thể có khả năng đe dọa hòa bình và ổn định khu vực. Theo Điều 15, sau khi xem xét, Hội đồng cấp cao sẽ khuyến nghị các bên tranh chấp những biện pháp thích hợp để giải quyết tranh chấp. Hội đồng cấp cao cũng có thể tự đứng ra làm trung gian dàn xếp, điều tra hoặc hòa giải. Toàn bộ hoạt động của Hội đồng cấp cao được thực hiện thông qua các cuộc họp. số đại biểu cần thiết của các cuộc họp gồm tất cả các đại diện của Hội đồng cấp cao.86 về quy trình giải quyết tranh chấp của Hội đồng cẩp cao, theo Hiệp ước Bali 1976, khi phát sinh tranh chấp, các bên tranh chấp phải cùng nhau thương lượng trực tiếp để tìm ra giải pháp. Trong trường hợp tranh chấp không thể giải quyết bằng thương lượng trực tiếp, các bên có thể đệ trình lên Hội đồng cấp cao để giải quyết theo “tiến trình khu vực”. Hiệp ước Bali 1976 khuyến khích các bên tranh chấp chù động giải quyết thông qua thương 83 Quy tắc 3 —Quy tắc thủ tục của Hội đồng cấp cao 2001. 84 Quy tắc 5 —Quy tắc thù tục cùa Hội đồng cấp cao 2001. 85 Quy tắc 24 —Quy tắc thủ tục cùa Hội đồng cấp cao 2001. 86 Quy tắc 24 - Quy tắc thù tục của Hội đồng cấp cao 2001. 387
  • 389. lượng hữu nghị trước khi áp dụng các biện pháp khác theo Điều 33 của Hiến chưcmg LHQ.87 Giải quyết tranh chấp tại Hội đồng cấp cao có thể chia thành 3 giai đoạn: - Thông báo về tranh chấp: một quốc gia ký kết khi viện dẫn thủ tục tố tụng của Hội đồng cấp cao sẽ thông báo bằng văn bản qua con đường ngoại giao cho chủ tịch Hội đồng và những quốc gia ký kết khác. Thông báo này sẽ nêu rõ (i) nguồn gốc của tranh chấp hoặc tình thế được chuyển cho Hội đồng; (ii) các bên tranh chấp và những yêu sách tương ứng của họ; (iii) những cơ sở mà Hội đồng có thể dựa vào đó để xem xét vụ việc tranh chấp hoặc tình thế phù hợp với Hiệp ước.88 ít nhất trong vòng 14 ngày trước khi gửi thông báo như trên, bên ký kết đó phải thông báo bằng văn bản qua kênh ngoại giao ý định làm như vậy cho quốc gia thành viên là một bên tranh ehấp.89 - Chấp nhận giải quyết tranh chấp: Khi nhận được thông báo bằng văn bản nói trên, vị chủ tịch sẽ tìm kiếm sự nhất trí bằng văn bản từ phía tất cả các bên tranh chấp về việc đồng ý áp dụng các qui tắc giải quyết tranh chấp như được quy định tại Điều 1690 của Hiệp ước91. Dựa trên sự chấp thuận bằng văn bản của các bên tranh chấp, chủ tịch ủy ban sẽ triệu tập một cuộc họp của Hội đồng cấp cao trong vòng 6 tuần và thông báo cho tất cả 87 Điều 17 Hiệp ựớc Ball 1976. 88Khoản 1 quy tắc 7 - Quy tắc thủ tục của Hội đồng cấp cao 2001. 89 Khoản 2 quy tắc 7 - Quy tắc thủ tục của Hội đồng cấp cao 2001. 90 Điều 16 của Hiệp ước Bali 1976: Các điều khoản trên đây cùa Hiệp ước này sẽ không được áp dụng đối với một cuộc tranh chấp trừ khi tất cả các bên tranh châp đông ý áp dụng những điêu khoản đó vào tranh châp. Tuy nhiên, điều đó không loại trừ việc các bên khác 5 tham gia Hiệp ước không phải là một bên tranh chấp đưa ra mọi giúp đỡ có thê giải quyêt tranh châp nói trên. Các bên tranh chấp cần có thái độ sẵn sàng đối với các đê nghị giúp đỡ đó. 91 Khoản 2 quy tắc 7 - Quy tắc thủ tục của Hội đồng câp cao 2001. 3 88
  • 390. các đại diện cũng như các thành viên khác ít nhất ba tuần trước khi diễn ra cuộc họp. Thông báo này sẽ gửi kèm với các bản sao của các thông tin cũng như văn bản chấp thuận có liên quan.92 - Tổ chức cuộc họp của Hội đồng cấp cao để xem xét vụ việc tranh chấp: hoạt động của Hội đồng cấp cao được tiến hành thông qua các cuộc họp. số đại biểu cần thiết của các cuộc họp bao gồm tất cả đại diện của Hội đồng cấp cao.93 Các bên ký kết là những quốc gia ngoài Đông Nam Á và cũng không liên quan trực tiếp đến tranh chấp có thể yêu cầu (bằng văn bản) Chủ tịch cho phép cử đại diện là quan sát viên tại các cuộc họp của Hội đồng cấp cao. Theo quy tắc 19 của Quy tắc thủ tục của Hội đồng cấp cao 2001, tất cả các quyết định của Hội đồng cấp cao chỉ được thông qua trên cơ sở đồng thuận tại mỗi cuộc họp được triệu tập hợp lệ. Nhìn về tổng thể, cơ chế giải quyết tranh chấp theo Hiệp ước Bali 1976 còn một số điểm bất cập. Thứ nhất, cơ chế này mang đậm tính hòa giải; quyết định của Hội đồng cấp cao chi mang tính khuyến nghị, không có giá trị bắt buộc. Cơ quan xem xét giải quyết là Hội đồng cấp cao (đại diện của các bên ký kết) - một cơ quan mang tính chính trị. Thứ hai, cơ chế này được vận hành chủ yếu dựa trên phương thức đồng thuận, khiến cho quá trình giải quyết tranh chấp dễ bị trì trệ, kéo dài. Các bên tranh chấp có thể cản trở việc bắt đầu cũng như hoàn tất thủ tục giải quyết tranh chấp bằng việc thể hiện ý kiến phản đối quyết định đưa tranh chấp ra giải quyết tại Hội đồng cấp cao, trì hoãn cử đại diện tham gia vào Hội đồng cấp cao hoặc phủ quyết các quyết định của Hội đồng cấp cao. 92 Quy tắc 10 - Quy tắc thù tục của Hội đồng cấp cao 2001. 93 Quy tắc 12 - Quy tắc thù tục cùa Hội đồng cấp cao 2001. 389
  • 391. 3.2.2. Cơ chế giải quyết tranlt chấp kinh tế của ASEAN theo Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp năm 2004 3.2.2. ỉ. Nguyên nhân ra đời Nghị định thưASEAN 2004 Với nhu cầu hợp tác mạnh mẽ về kinh tế giữa các nước ASEAN, tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ IV vào 1992 ở Singapore, các nước thành viên đã ký kết Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN. Hiệp định thương mại kể trên đã đặt nền tảng cho hàng loạt các hiệp định khác trong nhiều lĩnh vực dịch vụ, hàng hóa, thương mại, sở hữu trí tuệ, công nghiệp... Khi hợp tác kinh tế ngày càng phát triển thì những tranh chấp về lĩnh vực này càng dễ nảy sinh. Do đó, ASEAN cần xây dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp về kinh tế. Đáp ứng nhu cầu này, ngày 20/11/1996, tại Manila (Philippines), các bộ trưởng kinh tế ASEAN, thay mặt chính phủ của 7 quốc gia: Brunei, Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam đã thông qua Nghị định thư về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế của ASEAN (gọi tắt là Nghị định thư năm 1996). Nghị định thư Manila 1996 là một điều ước quốc tế đặc biệt nhằm bổ sung một điều ước “mẹ” đã được ký trước nó, đó là Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN (được Nghị định thư 1996 gọi tắt là Hiệp định) So với cơ chế giải quyết tranh chấp về chính trị được thể hiện trong Hiệp ước Bali 1976 và Quy tắc thủ tục của Hội đồng cấp cao 2001, cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế của ASEAN theo Nghị định thư Manila 1996 có nhiều điểm tiến bộ. Thứ nhất, những quyết định của cơ quan giải quyết tranh chấp có giá trị pháp lý ràng buộc các bên tranh chấp và đồng thời có những biện pháp “đình chỉ ưu đãi”, bảo đảm cho việc tuân thủ quyết định của các cơ quan giải quyết tranh chấp. Thứ hai, thủ tục tô tụng theo Nghị định thư 1996 rõ ràng và chặt chẽ hơn, bên bị đơn 390
  • 392. không có “cơ hội” để phủ nhận thẩm quyền của các cơ quan giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên Nghị định thư 1996 vẫn còn một số điểm bất cập. Thứ nhất, còn tồn tại hai cơ quan giải quyết tranh chấp quốc tế ở “hai cấp” đó là Hội nghị các quan chức cấp cao về kinh tế (Senior Economic Officials Meeting, SEOM) và Hội nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN {ASEAN Economic Ministers, AEM) mà thành phần tham gia đều là đại diện cùa các bên ký kết, vì vậy rất dễ dẫn đến việc chính trị hóa một vụ kiện thương mại. Thứ hai, cơ chế này ủy thác quá nhiều quyền trong quá trình giải quyết tranh chấp cho Ban hội thẩm, nhưng Ban hội thẩm chỉ là cơ quan trợ giúp cho SEOM trong quá trình ra quyết định chứ Ban hội thẩm không có quyền ra quyết định giải quyết tranh chấp. Để khắc phục những hạn chế này, ngày 29/11/2004 tại Vientiane (Lào), các nước thành viên ASEAN đã ký kết Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp 2004 (gọi tắt là Nghị định thư 2004) thaỵ thế cho Nghị định thư 1996. Nghị định thư năm 2004 đánh dấu một bước tiến quan trọng trong việc phát triển cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế hoàn hảo hơn trong khuôn khổ ASEAN. Nhìn chung, cơ chế giải quyết tranh chấp quy định trong Nghị định thư là “bản sao” khá trung thành của cơ chế giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ WTO.94 3.2.2.2. Phạm vi giáỉ qavết tranh chẩp Theo Điều 1 Nghị định thư 2004, Nghị định thư chỉ áp dụng cho những tranh chấp phát sinh từ nhũng hiệp định được ký kết trong quá trình họp tác kinh tế của ASEAN. Do vậy, khác với cơ chế giải quyết của Hiệp ước Ball 1976, phạm vi áp dụng của Nghị định thư 2004 không bao gồm các tranh chấp về các vấn đề 94 Xem Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, chương “Giãi quyết tranh chấp trong WTO”, Giáo trình Luật thương mại quốc té, phần 1,2012. 391
  • 393. chính trị như biên giới, lãnh thổ, chủ quyền quốc gia... Cụ thể, các tranh chấp có thể được giải quyết bởi cơ chế quy định tại Nghị định thư 2004 bao gồm hai nhóm: - Tranh chấp giữa các thành viên ASEAN liên quan đến quyền và nghĩa vụ của họ theo Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế 1992 và được sửa đổi, bổ sung năm 1995; - Tranh chấp phát sinh thẹo các hiệp định được ghi ờ Phụ lục 1 của Nghị định thư này93 và các hiệp định kinh tế của ASEAN trong tương lai (gọi tắt là: các hiệp định liên quan) Như vậy, chỉ những tranh chấp phát sinh từ Hiệp định khung năm 1992 (được sửa đổi bổ sung năm 1995) và những tranh chấp từ các hiệp định liên quan là đổi tượng được giải quyết theo cơ chế của Nghị định thư 2004. Các hiệp định liên quan bao gồm 2 nhóm hiệp định: nhóm hiệp định được liệt kê tại Phụ lục 1 bao gồm 46 hiệp đinh và nhóm hiệp định kinh tế ASEAN trong tương lai. Nhiều điều khoản của Nghị định thư cho thấy, các nươc thành viên Nghị định thư là các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp. Đồng thời, Nghị định thư cũng cho phép bất kỳ nước thành viên nào có quyền lợi đáng kể đối với vấn đề được Ban hội thẩm xem xét và đã thông báo về quyền lợi của mình cho SEOM có cơ hội được điều trần trước Ban hội thấm và gửi bản tường trình với tư cách bên thứ ba. Bên thứ ba không có quyền kháng cáo. Đe bảo vệ quyền lợi của mình, bên thứ ba có thể sừ dụng trình tự giải quyết tranh chấp thông thường theo Nghị định thư9 5 96. Theo khoản 2 Điều 1 của Nghị định thư 2004, các quy định và thủ tục của Nghị định thư này được áp dụng phù hợp với các quy định và thủ tục về giải quyêt tranh chấp chuyên biệt hoặc 95 Thẹo phụ lục 1 của Nghị định thư 2004 có 46 Hiệp định 96 Điều 11 Nghị định thư 2004. 392
  • 394. bổ sung khác trong các hiệp định liên quan. Quy định này khẳng định ASEAN mong muốn có sự nhất quán giữa các cơ chế giải quyết tranh chấp trong ASEAN. Tuy nhiên, Nghị định thư cũng dự liệu, trong trường hợp cỏ sự khác nhau giữa các quy định và thủ tục của Nghị định thư này với các hiệp định liên quan thì ưu tiên áp dụng các quy định chuyên biệt hoặc bổ sung. Bên cạnh đó, cho dù một tranh chấp có thỏa mãn yêu cầu vê chủ thê và đôi tượng tranh chấp thì Nghị định thư 2004 cũng không hạn chê việc các nước thành viên sử dụng các diên đàn khác đê giải quyêt tranh chấp. Các bên ưanh chấp có thể sử dụng các diên đàn giải quyết tranh chấp khác ở bất cứ giai đoạn nào trước khi một bên yêu cầu Hội nghị quan chức kinh tế cấp cao (SEOM) thành lập Ban hội thẩm.97 3.2.2.3. Cơ quan giải quyết tranh chấp - Hội nghị quan chức kinh tế cấp cao SEOM bao gồm các viên chức kinh tế cấp cao của các quốc gia thành viên, họp thường kỳ 2 - 3 tháng một lân. Như vậy, thành phần của SEOM là tất cả đại diện của các thành viên ASEAN. SEOM nhận thông báo tham vấn của bên khởi kiện (khoản 3 Điều 3), thành lập và quyết định các thành viên của Ban hội thâm (khoản 1 Điều 1), thông qua các báo cáo của Ban hội thâm và cơ quan phúc thẩm (khoản 1 Điều 9 và khoản 5 Điều 12), xây dựng quy chế hoạt động của Ban hội thẩm và Cơ quan phúc thâm (khoản Điều 12); đồng thời theo dõi quá trình thực thi các khuyến nghị và phán quyết. Khi theo dõi việc thực hiện các khuyến nghị và phán quyết, SEOM có thẩm quyển cho phép một bên tranh chấp tạm hoãn thi hành nhượng bộ thương mại trong khuôn khổ ASEAN nếu thấy cần thiết. - Ban hội thẩm 97 Khoản 3 Điều 1 Nghị định thư 2004. 393
  • 395. Chức năng của Ban hội thẩm được quy định tại Điều 7 của Nghị định thư 2004, theo đó Ban hội thẩm sẽ: (i) đánh giá một cách khách quan tranh chấp (bao gồm cả việc xem xét các tình tiết liên quan đến vụ tranh chấp, việc áp dụng và tuân thủ các điều khoản của Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN hoặc bất kỳ hiệp định liên quan nào và (ii) đưa ra kết luận và khuyến nghị liên quan đến vụ việc. Ban hội thẩm là một cơ quan ad hoc bao gồm các cá nhân có năng lực tốt, có kiến thức đa dạng và kinh nghiệm rộng rãi, được chọn lựa với mục đích bảo đảm sự độc lập của các thành viên. Vì vậy, công dân của các thành viên là các bên tranh chấp không được tham gia vào Ban hội thẩm, trừ khi các bên tranh chấp thỏa thuận khác.98 Ban hội thẩm được đề cừ từ danh sách hội thẩm viên lập theo giới thiệu của các quốc gia thành viên. Trong quá trình lựa chọn thành viên cho Ban hội thẩm, công dân các nước thành viên ASEAN sẽ được ưu tiên lựa chọn.99 Ban thư ký ASEAN là cơ quan duy trì danh sách các hội thẩm viên và có thẩm quyền đề cử thành phần Ban hội thẩm trong từng vụ việc. Các bên tranh chấp không được phản đối các hội thẩm viên được đề cử trừ khi có những lý do bắt buộc. Tiếp theo đó, Ban thư ký sẽ thông báo đến các nước thành viên ngay sau khi Ban hội thẩm được thành lập. Trong vòng 20 ngày kể từ ngày SEOM quyêt định thành lập Ban hội thẩm mà không có sự nhất trí về thành viên của Ban hội thẩm, theo yêu cầu của bất kỳ bên tranh chấp nào, danh sách Ban hội thẩm sẽ được chỉ định bởi Tổng thư ký ASEAN, sau khi Tổng thư ký tiến hành tham vấn với chủ tịch SEOM và tham khảo ý kiến của các quốc gia liên quan. Trong vòng 10 ngày kê từ ngày nhận được yêu cầu, Ban thư ký ASEAN phải thông báo cho các nước thành viên. Một Ban hội thấm thường bao gồm 3 thành viên. Tuy nhiên, nếu trong vòng 10 ngày kể từ ngày thành lập Ban hội 98 Điều 1, 2, 3, mục I - Phụ lục II . 99 Điều 1 mục I - Phụ lục II. 394
  • 396. thẩm, các bên tranh chấp thống nhất được với nhau thì thành phần Ban hội thẩm có thể gồm 5 thành viên. - Cơ quan phúc thấm Cơ quan phúc thẩm là cơ quan giải quyết tranh chấp thường trực, về thành phần, Cơ quan phúc thẩm của ASEAN gồm 7 thành viên do các bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM) bổ nhiệm với nhiệm kỳ 4 năm và có thể bổ nhiệm lại một lần. Mỗi vụ kháng cáo được xét xừ bởi 3 trong số 7 thành viên của Cơ quan phúc thẩm. Quy trình chỉ định 3 thành viên này được thực hiện trong từng vụ tranh chấp theo quy tắc luân phiên được quy định tại Quy chế làm việc của Cơ quan phúc thẩm.100 Khác với các thành viên của Ban hội thẩm, không có sự phân biệt đối với thành viên của Cơ quan phúc thẩm dựa trên quốc tịch. Tuy nhiên, khi hoạt động, các thành viên này phải hoàn toàn độc lập với chính phủ mình.1 01 về chức năng, cơ quan phúc thẩm chỉ xem xét và giải quyết từng vấn đề pháp lý được đề cập trong báo cáo của Ban hội thẩm và các giải thích pháp lý của Ban hội thẩm.102 3.2.2.4. Ouy trình giải quyết ừ-anh chấp Theo Nghị định thư 2004, quy trình giải quyết tranh chấp có thể được chia làm ba giai đoạn chính: giai đoạn tham vấn, giai đoạn xem xét của Ban hội thẩm và thông qua báo cáo của Ban hội thẩm (và Cơ quan phúc thẩm, nếu có), giai đoạn thực hiện các khuyến nghị của Ban hội thẩm (hoặc Cơ quan phúc thẩm nếu có). a. Tham vấn Cơ chế giải quyết tranh chấp theo Nghị định thư 2004 bắt đầu bằng quá trình tham vấn. Đây là giai đoạn mang tính bắt 100 Khoản 1 Điều 12 Nghị định thư 2004. 1 01 Khoản 3 Điều 12 Nghị định thư 2004. 102 Khoản 6 Điều 12 Nghị định thư 2004. 395
  • 397. buộc của thủ tục giải quyết tranh chấp, nhằm tạo cơ hội cho các bên giải quyết tranh chấp thông qua con đường ngoại giao để đạt được sự thỏa thuận có lợi cho cả hai bên. ASEAN khẳng định rõ ưu tiên “tạo cơ hội thỏa đáng” cho việc giải quyết tranh chấp bằng đàm phán. Đe đảm bảo hiệu quả và tính chặt chẽ của thủ tục tham vấn, Nghị định thư 2004 đưa ra những quy định về thủ tục tiến hành tham vấn và thời hạn tham vấn. về yêu cầu tham vẩn, khoản 2 và 3 Điều 3 của Nghị định thư 2004 khẳng định: nước thành viên nào cho là bất kỳ lợi ích trực tiếp hoặc gián tiếp nào của mình theo hiệp định hoặc hiệp định liên quan bị mất mát hoặc tổn hại, hoặc việc đạt được bất cứ mục tiêu nào của hiệp định hoặc hiệp định liên quan đang bị cản trở do việc nước thành viên khác không thực hiện các nghĩa vụ của mình theo hiệp định hoặc hiệp định liên quan, hoặc trong mọi tình huống khác, có thể nêu ý kiến phản đối hoặc đề xuất với nước thành viên liên quan nhằm mục tiêu giải quyết thỏa đáng vấn đề. Mọi yêu cầu tham vấn phải được thông báo cho SEOM. Yêu cầu phải được làm bằng văn bản nêu rõ lý do yêu cầu, xác định các vấn đề cần tham vấn và cơ sở pháp lý của khiếu nại. về thời hạn tham vấn, trong vòng 10 ngày sau khi nhận được yêu câu, thành viên liên quan phải trả lời yêu câu và phải tiến hành tham vấn trong vòng 30 ngày sau.103 Tuy nhiên, trong trường hợp khẩn cấp, bao gồm các trường hợp liên quan đến hàng hóa dễ hư hỏng, các bên phải nỗ lực tối đa để giải quyết sớm các tranh chấp.104 Nếu tham vấn không đạt được kết quả (cụ thể: bên được yêu cầu tham vấn không trả lời trong khoảng thời gian 10 ngày sau khi nhận yêu câu; hoặc bên được yêu câu tham vân không tham gia tham vân trong vòng 30 ngày sau khi nhận yêu câu; hay tham vấn không giải quyết được tranh chấp trong vòng 60 ngày 1 03 Khoản 4 Điều 3 Nghị định thư 2004. 1 04 Khoản 5 Điều 3 Nghị định thư 2004. 396
  • 398. kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn), tranh chấp sẽ được trình lên SEOM, nếu bên yêu cầu khiếu nại đề nghị thành lập Ban hội thẩm.105 Bên cạnh thủ tục tham vấn, các bên có thể giải quyết tranh chấp thông qua các biện pháp ngoại giao khác như trung gian, hòa giải vào bất cứ thời điểm nào của quá trình giải quyết tranh chấp. Để hồ trợ các bên tranh chấp, khi họ thỏa thuận giải quyết thông qua trung gian, hòa giải, Tổng thư ký ASEAN mặc nhiên đóng vai trò là người trung gian, hòa giải.106 b. Giải quyết tranh chấp trước Ban hội thẩm, SEOM và cơ quan phúc thẩm - Trình tự giải quyết tranh chấp của Ban hội thẩm + Thành lập Ban hội thẩm Yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải bằng văn bản và gửi cho SEOM. Vê nội dung, ngoài việc chỉ rõ kêt quả tham vân, yêu cầu thành lập phải xác định biện pháp cụ thể gây tranh cãi và cung cấp ngắn gọn, rõ ràng về cơ sở pháp lý của đơn kiện.107 Ngoài ra, nếu bên khiếu nại yêu cầu thành lập Ban hội thẩm với quy chế làm việc khác với quy chế làm việc chuẩn, văn bản yêu cầu thành lập Ban hội thẩm phải bao gồm nội dung dự thảo của Quy chế làm việc đặc biệt đó. Khi có nhiều hơn một thành viên yêu cầu thành lập Ban hội thẩm để xem xét cùng một vấn đề, một Ban hội thẩm duy nhất có thể được thành lập để xem xét những đơn kiện này. Nếu điều này không đạt được và có nhiều Ban hội thẩm được thành lập, các Ban hội thẩm riêng biệt này sẽ có cùng thành viên và khung thời gian để giải quyết các tranh chấp đó sao cho phù 105 Khoản 1 Điệu 5 Nghị định thư 2004. 106 Khoản 3 Điệu 4 Nghị định thư 2004. 107 Khoản 3 Điều 5 Nghị định thư 2004. 397
  • 399. hợp.108 Quy định này nhàm tránh các quyết định về cùng một vấn đề nhưng lại mâu thuẫn nhau. Sau khi nhận được yêu cầu của bên khiếu nại, SEOM sẽ ngay lập tức tổ chức một cuộc họp để thành lập Ban hội thẩm, trừ khi có sự đồng thuận của SEOM không làm như vậy.109Nếu cuộc họp của SEOM không được tổ chức trong vòng 45 ngày kê từ ngày nhận được yêu câu, Ban hội thâm sẽ được thành lập băng cách gừi quyết định thành lập đến tất cả các thành viên của SEOM.110 Do vậy, việc thành lập Ban hội thẩm trong cả hai trường hợp sẽ không vượt quá 45 ngày. + Hoạt động của Ban hội thẩm Ban hội thẩm có thể hoạt động theo thủ tục tố tụng tại Phụ lục II của Nghị định thư 2004 hoặc xây dựng các thù tục tố tụng của riêng mình trên cơ sở xem xét quyền lợi của các bên tham gia và ý kiến của họ111. Thủ tựG tố tụng của Ban hội thẩm được tiến hành bí mật. Những cuộc thảo luận của Ban hội thẩm cũng như những giải trình bằng văn bản của các bên sẽ được giữ bí mật. Tuy nhiên, các bên tranh chấp có nghĩa vụ cung cấp bản tóm tăt những thông tin mà mình cho là bảo mật đê có thê công bố công khai theo yêu cầu của phía bên kia.112 Thông thường, thủ tục xem xét của Ban hội thẩm trải qua hai bước, ơ bước thứ nhất, các bên tranh chấp sẽ gửi cho Ban hội thẩm văn bản giải trình trong đó trình bày chi tiết vấn đề tranh châp và những lập luận của mình. Sau đó, Ban hội thẩm sẽ 108Điều 10 Nghị định thư 2004. 109 Khoản 1 Điều 5 Nghị định thư 2004. Đây là một nguyên tắc mới của ASEAN, theo đó một quyết định chi không được thông qua khi tất cà thành viên SEOM bõ phiếu không thông qua. Nguyên tắc này khắc phục hạn chê của nguyên tắc ‘ đồng thuận”, tạo điều kiện cho những quyết định giải quyết tranh chấp của ASEAN được thông qua và thông qua nhanh chóng. 110Khoản 2 Điều 5 Nghị định thư 2004. 1 1 1 Khoản 1 Điều 8 Nghị định thư 2004. 112Điều 3 mục II Phụ lục II. 398
  • 400. tổ chức cuộc họp chính thức lần thứ nhất với các bên. Tại cuộc họp này, bên khởi kiện trình bày quan điểm trước, bên bị kiện trình bày sau. Bước thứ hai bắt đầu bằng việc Ban hội thẩm nhận văn bản đệ trình biện hộ hay phản bác của các bên. Sau đó, Ban hội thẩm tổ chức cuộc họp lần 2, bên bị kiện sẽ được trình bày quan điểm của mình trước.113 Các bên phải cung cấp cho Ban hội thẩm toàn bộ nội dung phát biểu của mình bằng văn bản. Như vậy, theo quy định của Nghị định thư, cuộc họp chính thức giữa Ban hội thẩm với các bên chỉ được tiến hành hai lần. Đe có thể có được một kết luận chuẩn xác về nội dung tranh chấp, bất kỳ lúc nào, Ban hội thẩm cũng có thể đặt câu hỏi và đề nghị các bên giải trình vào bất cứ lúc nào, hoặc tại các cuộc họp, hoặc bằng văn bản, đồng thời các thông tin này phải được cung cấp cho bên tranh chấp còn lại rõ.114 Sau đó, Ban hội thẩm sẽ dự thảo một báo cáo tạm thời và gừi cho các bên, các bên tranh chấp có cơ hội cho ý kiến về bản báo cáo tạm thời này. Sau khi xem xét các ý kiến của các bên tranh chấp, Ban hội thẩm sẽ soạn thảo báo cáo chính thức và chuyển cho SEOM để thông qua. Theo khoản 2 Điều 8 của Nghị định thư 2004, thời gian điều tra, xem xét nội dung vụ việc và lập bản báo cáo của Ban hội thẩm là 60 ngày, hoặc 70 ngày trong trường hợp ngoại lệ, kể từ ngày Ban hội thẩm được thành lập. - SEOM thông qua báo cáo cùa Ban hội thẩm Sau khi Ban hội thẩm chấm dứt những hoạt động kể trên, trong vòng 30 ngày kể từ ngày Ban hội thẩm trình báo cáo, SEOM sẽ thông qua báo cáo của Ban hội thẩm, trừ khi một bên tranh chấp chính thức thông báo cho SEOM về quyết định kháng cáo của mình hoặc SEOM đồng thuận quyết định không thông qua báo cáo. 113 Điều 7 mục II Phụ lục II. 114 Điều 8 mục II Phụ lục II. 399
  • 401. cần lưu ý rằng, SEOM là cơ quan không thường trực và chỉ nhóm họp từ 2 đến 3 tháng một lần. Nghị định thư 2004 dự liệu, nếu trong khoảng thời gian 30 ngày không có cuộc họp nào của SEOM được lên kế hoạch để xem xét thông qua báo cáo của Ban hội thẩm, việc thông qua báo cáo sẽ được thực hiện bằng cách gửi văn bản để lấy ý kiến của tất cả các nước thành viên. Việc không trả lời sẽ được coi là đồng ý mặc nhiên. - Giải quyết tranh chấp tại cơ quan phúc thẩm Cơ quan phúc thẩm chỉ có thể đánh giá các vấn đề pháp lý trong quyết định của Ban hội thẩm và các lý do hỗ trợ cho quyết định đó. Ngay sau khi thông báo kháng cáo được đệ trình cho Cơ quan phúc thẩm, Cơ quan phúc thẩm sẽ cử một nhóm gồm 3 thành viên xem xét vụ việc. Kể từ ngày bên kháng cáo thông báo chính thức về quyết định kháng cáo đến ngày Cơ quan phúc thẩm trình báo cáo, thời hạn không quá 60 ngày và chậm nhất không quá 90 ngày (trong trường họp ngoại lệ). Thời hạn này có thể ngắn hơn trong các trường hợp khẩn cấp, có liên quan đến hàng hóa dễ hư hỏng.115 Tương tự như Ban hội thẩm, Cơ quan phúc thẩm dự thảo báo cáo mà không có sự hiện diện của các bên tranh chấp và chỉ dựa vào bản giải trình và những thông tin do các bên cung cấp.116 Cơ quan phúc thẩm có thể giữ nguyên, sửa đổi hoặc bác bỏ các kết luận và khuyến nghị của Ban hội thẩm.117 Sau khi hoàn thành, báo cáo của Cơ quan phúc thẩm sẽ được trình lên SEOM để thông qua. Tương tự như thông qua báo cáo của Ban hội thẩm, khi thông qua báo cáo của Cơ quan hội thẩm, nguyên tắc đồng thuận nghịch được áp dụng. Do đó, trừ khi có sự đồng thuận của SEOM chống lại việc thông qua báo cáo này, báo cáo sẽ 115 Khoản 5 Điệu 3 và khoăn 5 Điều 12 Nghị định thư 2004. 116 Khoản 9 Điềụ 12 Nghị định thư 2004. 117 Khoản 12 Điều 12 Nghị định thư 2004. 4 0 0
  • 402. được tự động thông qua trong vòng 30 ngày.118 Trong trường hợp SEOM không tổ chức được cuộc họp để thông qua báo cáo trong vòng 30 ngày kể từ ngày bảo cáo được gửi đến các nước thành viên, việc thông qua được thực hiện bằng cách gửi thông báo đến các nước thành viên. Trong trường hợp này, việc thông qua báo cáo cũng không vượt quá thời hạn 30 ngày. Khi được thông qua, báo cáo của Cơ quan phúc thẩm có giá trị ràng buộc các bên tranh chấp. c. Thi hành và các biện pháp bảo đảm thi hành kết luận và khuyến nghị được SEOM thông qua về thời hạn thực hiện các kết luận và khuyến nghị được SEOM thông qua, theo Nghị định thư 2004, trong vòng 60 ngày kể từ ngày SEOM thông qua các kết luận và khuyến nghị hoặc của Ban hội thẩm hoặc của Cơ quan phúc thẩm, bên thua kiện phải tuân thủ các kết luận và khuyến nghị đó, trừ khi các bên tranh chấp đồng ý kéo dài thời gian thực hiện.119 Trong trường hợp một bên tranh chấp yêu cầu kéo dài thời gian thực hiện khuyến nghị, bên còn lại sẽ chấp nhận trừ khi có lý do hợp lý để từ chối. Thời hạn kéo dài phải do các bên thỏa thuận trong vòng 14 ngày kể từ ngày SEOM thông qua các kết luận và khuyến nghị trong báo cáo của Ban hội thẩm hoặc Cơ quan phúc thẩm. về tính phù hợp cùa việc thực thi các kết luận và khuyến nghị được SEOM thông qua, theo quy định tại khoản 5 Điều 2, nếu các bên không thống nhất về sự tồn tại hoặc tính phù hợp với hiệp định liên quan của các biện pháp được thực thi nhằm tuân thủ các két luận và khuyến nghị trong báo cáo của Ban hội thẩm hoặc cơ quan phúc thẩm đã được SEOM thông qua, vụ việc có thể được xem xét bởi một Ban hội thẩm, kể cả Ban hội thẩm đã xem xét vụ việc từ ban đầu. Nghị định thư cũng quy định thêm rằng, Ban hội thẩm có thẩm quyền sẽ trình báo cáo trong vòng 60 1,8 Khoản 13 Điều 12 Nghị định thư 2004. 119 Khoản 1 Điều 15 Nghị định thư 2004 401
  • 403. ngày hoặc chậm nhất là 90 ngày kể từ ngày tranh chấp được đệ trình. Trong trường họp chậm trễ, Ban hội thẩm phải thông báo bằng văn bản cho SEOM về lý do của sự chậm trễ và dự kiến thời hạn trình báo cáo. Cần lưu ý rằng, Ban hội thẩm làn này không xem xét về nội dung vụ việc mà chỉ xác định xem bên thua kiện có thực hiện khuyến nghị hay không và việc thực hiện khuyến nghị đó có phù hợp với các hiệp định liên quan của ASEAN hay không. Việc giải quyết tranh chấp này phải theo thủ tục quy định tại Nghị định thư 2004, do đó Ban hội thẩm chỉ được thành lập khi các bên tranh chấp có yêu cầu. Nếu các biện pháp thực thi kết luận và khuyến nghị không được tiến hành đúng thời hạn, bên đi kiện có quyền hưởng bồi thường hoặc áp dụng các biện pháp trả đũa thương mại. cần nhìn nhận răng, bôi thường và trả đũa thương mại hoặc các nghĩa vụ khác là các biện pháp khắc phục tạm thời khi bên thua kiện không thực hiện các kết luận và khuyến nghị trong báo cáo của Ban hội thâm hoặc cơ quan phúc thẩm đã được SEOM thông qua theo khoản 2 Điêu 16, bên thua kiện phải tiến hành thương lượng với bên khởi kiện, nhằm thỏa thuận mức đền bù thỏa đáng cho cả hai bên. Trong trường hợp các bên không thể thống nhất về biện pháp bôi thường trong thời hạn 20 ngày kể từ khi kết thúc thời hạn thực hiện các kêt luận và khuyến nghị, theo yêu cầu của bên đi kiện, SEOM sẽ ra quyết định cho phép bên đi kiện có thê áp dụng các biện pháp trả đũa thương mại thông qua việc tạm dừng các ưu đãi.120 Theo quy định tại khoản 3(a), 3(b) và 3(c) Điều 16, bên đi kiện có thể thực hiện trả đũa thương mại với ba cấp độ sau: - Tạm ngừng ưu đãi và những nghĩa vụ khác trong cùng lĩnh vực mà Ban hội thâm hoặc cơ quan phúc thẩm xác định có 120 Khoản 6 Đ iều 16 —N gh ị định thư 2004. 402
  • 404. vi phạm. Điều này cho thấy, việc trả đũa chỉ được thực hiện trong phạm vi lĩnh vực liên quan đến vụ kiện. Theo khoản 3 Điều 16, đối với hàng hóa, “lĩnh vực” chỉ tất cả các loại hàng hóa; đối với dịch vụ “lĩnh vực” chỉ một lĩnh vực chính được xác định trong lộ trình cam kết hiện nay của Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ. - Nếu thấy việc tạm ngừng ưu đãi trong lĩnh vực liên quan đến vụ kiện là không hiệu quả hoặc không thực tế, bên đi kiện có thể tạm ngừng ưu đãi trong những lĩnh vực khác của cùng hiệp định. - Nếu bên đi kiện vẫn thấy việc tạm ngừng ưu đãi là không hiệu quả hoặc không thực tế, đồng thời nếu tình hình “thực sự nghiêm trọng” thì có thể tạm ngừng ưu đãi theo một hiệp định khác. Trường hợp này còn được gọi là trả đũa chéo. Khoản 3 Điều 16 giải thích thuật ngữ “hiệp định” được hiểu là toàn bộ các hiệp định liên quan đến hàng hóa được liệt kê tại Phụ lục I của Nghị định thư 2004121 và Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ và các nghị định thư kèm theo, càn lưu ý ràng, mức độ tạm ngừng ưu đãi hoặc các nghĩa vụ khác phải tương đương với mức độ quyền lợi bị mất hoặc tổn hại.122 3.2.3. Cơ chế giải quyết tranh chấp theo Nghị định thư 2010 3.2.3.1. Nguyên nhân ra đời cùa Nghị định thư 2010 Hiến chương ASEAN 2007 đã dành trọn chương VIII (từ Điều 22 đến Điều 28) cho việc đưa ra các nguyên tắc, cách thức chung về giải quyết tranh chấp quốc tế. Trong đó, ASEAN khẳng định: ASEAN sẽ duy trì và thiết lập các cơ chế giải quyết tranh 121 T h eo phụ lục I của N g h ị định thư 2 0 0 4 , danh m ục các hiệp định liên quan gôm 4 6 hiệp định. 122 K hoản 4 Đ iều 16 —N gh ị định thư 2004. 403
  • 405. chấp trong tất cả các lĩnh vực hợp tác của ASEAN.123 Điều 25 Hiến chưcmg ASEAN còn khẳng định sẽ thiết lập các cơ chế giải quyêt tranh châp phù họp, bao gồm cả hình thức trọng tài, đê giải quyết những tranh chấp liên quan đến việc giải thích hoặc áp dụng Hiến chương hoặc các văn kiện khác của ASEAN, trừ khi có quy định khác. Ngày 04/08/2010, các nước ASEAN đã thông qua Nghị định thư của Hiến chương ASEAN về cơ chế giải quyết tranh chấp124(Nghị định thư 2010). 3.2.3.2. Phạm vi giải quyết tranh chấp theo Nghị định thư 2010 Điều 2 của Nghị định thư 2010 ghi nhận, Nghị định thư chi áp dụng giải quyết các tranh chấp liên quan đến giải thích hoặc áp dụng Hiến chương ASEAN và các văn kiện pháp lý khác của ASEAN. Điều 2 của Nghị định 2010 chỉ rõ, văn kiện pháp lý khác của ASEAN gồm các văn kiện có quy định các phương thức giải quyết tranh chấp đặc thù. Ví dụ Hiệp ước Bali về giải quyết tranh chấp chính trị năm 1976 và các văn kiện trong đó có quy định rõ sẽ áp dụng toàn bộ hoặc một phần của Nghị định thư này. 3.2.3.3. Thù tục giải quyết tranh chấp theo Nghị định thư ASEAN 2010 Quy trình giải quyết tranh chấp của Nghị định thư 2010 có thể chia làm 3 giai đoạn chính: giai đoạn tham vấn, giai đoạn xem xét của Hội đồng trọng tài hoặc Hội đồng điều phối ASEAN (nếu bên bị đơn không đồng ý thành lập Hội đồng trọng tài), giai đoạn thực hiện phán quyết của trọng tài và thỏa thuận giải quyêt tranh chấp. 123 Khoản 2 Đ iều 22, H iến chưong A S E A N . 124 C ó thể đọc toàn bộ nội dung cùa N gh ị định thư 20 1 0 tại: http://cil.nus.edu.sg/20l 0/2010-protocol-to-the-asean-charter-on-dispute- settlem ent-m echanism s/ 404
  • 406. a. Tham vấn Tương tự như các Nghị định thư trước đó, tham vấn là giai đoạn bắt buộc của thủ tục giải quyết tranh chấp. Quá trình tham vấn được tiến hành trong vòng 60 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn. Tổng quỹ thời gian cho giai đoạn tham vấn là 90 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn trừ khi các bên có thỏa thuận khác125. Điều này cho thấy, thời hạn dành cho giai đoạn tham vấn theo Nghị định thư 2010 là rất dài so với thời hạn này được quy định trong Nghị định thư 2004 (chỉ có 30 ngày). Nếu trong thời hạn này, tham vấn không đạt được kết quả (bị đơn không trả lời trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn; bị đơn không bước vào tham vấn trong vòng 60 ngày sau khi nhận được yêu cầu tham vấn; trong vòng 90 ngày hoặc bất kỳ thời hạn nào mà các bên ưanh chấp thỏa thuận kể từ ngày nhận được yêu cầu tham vấn, tranh chấp vẫn không giải quyết được), bên nguyên đơn có quyền yêu cầu thành lập Hội đồng trọng tài. Tương tự như Nghị định thư 1996 và 2004, theo Nghị định thư 2010, tranh chấp cũng có thể được giải quyết thông qua môi giới, trung gian, hòa giải. Các biện pháp này được bắt đầu và kết thúc bất kỳ lúc nào theo sự thỏa thuận của các bên tranh chấp. Chủ tịch ASEAN hoặc Tổng thư ký ASEAN sẽ đóng vai trò môi giới, trung gian hoặc hòa giải.126 Các bên tranh châp được tự do thỏa thuận lựa chọn các biện pháp ngoại giao nàỵ. Tuy nhiên, nếu các bên sừ dụng các biện pháp này và tranh chấp được giải quyết thì các bên phải ký một văn bản thỏa thuận về kết quả đạt được. Lúc này, tranh chấp sẽ chấm dứt, đông thời các bên bị ràng buộc bởi thỏa thuận đó. Đây là điểm mới của Nghị định thư 2010 nhằm mong muốn nhanh chóng giải quyết dứt điểm các tranh chấp thông qua nhiều biện pháp, đặc biệt biện pháp “phi tài phán”. 125 Đ iều 5 N gh ị định thư 2 0 1 0 . 126 Đ iều 6 N gh ị định thư 2 0 1 0 . 405
  • 407. Khi tham vấn và các biện pháp môi giới, trung gian, hòa giải (nếu được các bên thỏa thuận áp dụng) không giải quyết được tranh chấp, nguyên đơn có thể yêu cầu thành lập Hội đồng trọng tài để giải quyết tranh chấp. Lúc này, nếu bị đơn, không chấp thuận thành lập Hội đồng trọng tài hoặc không trả lời yêu cầu thành lập trọng tài của nguyên đơn, trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo của bên nguyên đơn, nguyên đơn có thể đệ trình vụ tranh chấp đến Hội đồng điều phối ASEAN. Nêu bên bị đơn chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, trong 30 ngày kể từ ngày bên nguyên đơn nhận được trả lời chấp thuận thành lập trọng tài từ phía bị đơn, các bên sẽ tiến hành thành lập Hội đồng trọng tài.127 Ngoài ra, trọng tài cũng có thể được yêu cầu giải quyết tranh chấp từ định hướng của Hội đồng điều phối ASEAN. Ở trường hợp này, Hội đồng trọng tài sẽ bắt đàu quá trình thành lập trong vòng 45 ngày, kể từ ngày các bên nhận được thông báo từ hội đồng điều phối ASEAN về việc giải quyết tranh chấp bằng Hội đồng trọng tài. b. Giải quyết tranh chấp tại Hội đồng điều phối ASEAN và Hội đồng trọng tài - Thủ tục giải quyết tại Hội đồng điều phổi ASEAN Hội đồng điều phối ASEAN là một trong 9 cơ quan chính của ASEAN, bao gôm các bộ trường ngoại giao của tất cả các nước thành viên ASEAN, họp ít nhất hai lần một năm.128 Khi nhận được yêu cầu của bên nguyên đơn, chủ tịch Hội đồng điều phối ASEAN sẽ xác định các thủ tục của Hội đồng, bao gồm tư vấn qua thư, email, video của hội nghị hoặc các phương thức khác. Trong trường hợp đặc biệt, Hội đồng điều phối có thể triệu tập cuộc họp khẩn cấp để bày tỏ ý kiến của 127 Khoản 2 Đ iều 1 Phụ lục IV của N ghị định thu 2010. 128 Đ iều 8 Hiến ch u ôn g A S E A N . 406
  • 408. mình về vụ tranh chấp.129 Sau khi xem xét, Hội đồng điều phối có thể đi đến quyết định đề nghị các bên tranh chấp giải quyết các tranh chấp giữa họ thông qua môi giới, trung gian, hòa giải hoặc trọng tài.130 Thời gian để hội đồng điều phối ASEAN thông báo quyết định của mình cho các bên tranh chấp là 45 ngày (hoặc 75 ngày nếu Hội đồng điều phối gia hạn thêm) kể từ ngày tranh chấp được chuyển tới Hội đồng.131 Hết thời hạn này, nếu Hội đồng điều phối ASEAN không đưa ra được một quyết định nào về việc giải quyết tranh chấp, thi một ừong các bên tranh chấp có thể đưa vụ hanh chấp ra Hội nghị cấp cao ASEAN giải quyết. Nhìn tổng thể, theo quy định của Nghị định thư ASEAN 2010, Hội đồng điều phối ASEAN không trực tiếp giải quyết tranh chấp giữa các bên mà chi đóng vai ữò “hướng dẫn” các bên giải quyết tranh chấp bằng một biện pháp cụ thể. Nếu các bên tranh châp đông ý với sự chỉ dẫn này của Hội đồng điêu phôi, thì trình tự, thời hạn để giải quyết bằng từng biện pháp cụ thể đó sẽ tuân theo các phụ lục tương ứng: phụ lục I (quy định về môi giới), phụ lục II (quy định vê trung gian), phụ lục III (quy định về hòa giải), phụ lục IV (quy định về trọng tài) của Nghị định thư ASEAN 2010. Những quyêt định của Hội đồng điều phối ASEAN chỉ mang tính khuyến nghị đôi với các bên tranh chấp. - Giải quyết tranh chấp tại Hội đồng trọng tài Hội đồng trọng tài được thành lập trên cơ sở thỏa thuận trực tiêp của các bên tranh chấp hoặc theo định hướng của Hội đông điều phối ASEAN. về thành phần, Hội đồng trọng tài gồm 3 trọng tài viên, trong đó mỗi bên tranh chấp chỉ định một trọng tài viên, đồng thời các bên tranh chấp thỏa thuận đề cử trọng tài viên thứ ba làm chủ tịch 129 K hoản 2 Đ iệu 9 N g h ị định thư 2 0 0 4 . 130 K hoản 1 Đ iều 9 N g h ị định thư 2 0 0 4 . 131 K hoản 2 và 3 Đ ỉều 9 N gh ị định thư 2 0 0 4 . 4 0 7
  • 409. Hội đồng trọng tài. Các trọng tài viên này được lựa chọn từ danh sách trọng tài viên do Tổng thư ký ASEAN lưu giữ. Mỗi quốc gia thành viên được đề cừ tối đa 10 người vào danh sách trọng tài • - >1 3 2 viên. về phạm vi và thời gian hoạt động, Hội đồng ừọng tài phải tuân thủ quy định liên quan của Nghị định thư ASEAN 2010 và phụ lục 4 (về quy định trọng tài). Tuy nhiên, Hội đồng trọng tài có thể sửa đổi thủ tục này dựa trên sự thỏa thuận của các bên tranh chấp phù họp với Điều 8 của phụ lục 4. Điều này thể hiện tính mềm dẻo của hình thức trọng tài. Thòi gian hoạt động của Hội đồng trọng tài không vượt quá 6 tháng, kể từ ngày thành lập cho đến ngày cuối cùng của phiên họp, trừ khi các bên tranh chấp thỏa thuận kéo dài. Tưong tự như các trọng tài quốc tế khác, thủ tục giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài có thể chia thành 2 giai đoạn chính kế tiếp nhau: tố tụng viết và tố tụng nói. Ở giai đoạn viết, mỗi bên tranh chấp gửi văn bản cho Hộfđồng trọng tài, trong đó nêu các sự kiện và lý lẽ của mình về vấn đề tranh chấp. Thời hạn để nộp những văn bản này được ghi nhận trong thòi gian biểu do Hội đồng trọng tài xác lập trong vòng 15 ngày kể từ ngày Hội đồng trọng tài được thành lập. cần lưu ý rằng, để đảm bảo cân bằng lợi ích họp pháp của các bên tranh chấp, đồng thời tôn trọng sự thỏa thuận của họ, trong suốt thời gian tiến hành tố tụng, Hội đồng trọng tài phải thường xuyên tham khảo ý kiến của các bên tranh chấp, tạo cơ hội thích họp cho việc tìm kiếm một giải pháp mà các bên tranh chấp thỏa thuận.* 133Ở giai đoạn nói, khoản 4 Điều 8 phụ lục 4 khẳng định Hội đồng trọng tài phải dành ít nhất một buổi để các bên tranh chấp trình bày quan diêm của mình trước Hội đồng. Phán quyết của Hội đồng trọng tài được thông qua bằng đa số phiếu, trường hợp không có đa số, phiếu của chủ tịch hội đồng trọng tài có tính quyết định. Phán quyết của Hội đồng trọng tài được 1,2 Đ iều 1 phụ lục 4 của N ghị định thư 2010. 133 Khoản 5 Đ iều 8 phụ lục 4. 408
  • 410. tất cả các ừọng tài viên ký, nếu thiếu chữ ký của trọng tài viên nào phải nêu rõ lý do. Phán quyết phải được thông báo cho các bên tranh chấp và Tổng thư ký ASEAN. Neu Hội đồng trọng tài được thành lập theo chỉ dẫn của Hội đồng điều phổi ASEAN thì phán quyết phải được thông báo tới Hội đồng điều phối ASEAN.134Phán quyết của hội đồng trọng tài là chung thẩm và ràng buộc các bên tranh chấp.135 3.3. Cơ chế giải quyết tran h chấp theo Công ước 1982 về luật biển 3.3.1. Giải quyết các tranh chấp bằng các biện pháp ngoại giao Cơ chế giải quyết các tranh chấp về biển là một bộ phận của Công ước 1982 về luật biển. Tất cả các quốc gia thành viên của Công ước đều là thành viên của cơ chế giải quyết tranh chấp này. Công ước luật biển 1982 đã quy định rõ tại các Điều 279, 280, 283 và 284 nghĩa vụ của các quốc gia giải quyết tranh chấp băng các phương pháp hòa bình. Các thành viên có quyên thỏa thuận giải quyết ưanh chấp vào bất cứ lúc nào và bằng bất cứ phương pháp hòa bình nào (Điều 280), ví dụ tiến hành trao đổi về quan điểm (Điều 283) hay hòa giải (Điều 284). 3.3.2. Giải quyết các tranh chấp bằng tàiphán quốc tể Trong trường hợp các biện pháp mang tính ngoại giao nêu trên không thể giải quyết được tranh chấp, theo yêu cầu của một bên tranh chấp, tranh chấp phải được đưa ra tòa án có thẩm quyền. Khi ký hay phê chuẩn Công ước hoặc tham gia Công ước, hay ở bất kỳ thời điểm nào sau đó, quốc gia này đã tự do lựa chọn một hay nhiều biện pháp bắt buộc sau đây:136 134 Đ iều 17 phụ lục 4 N gh ị định thư 2010. 135 K hoản I Đ iều 15 N gh ị định thư 2010. 136 Đ iều 2 8 6 và 287 C ông ước Luật B iển 1982. 4 0 9
  • 411. - Tòa án quốc tế về luật biển được thiết lập theo đúng phụ lục VII của Công ước; - Tòa án quốc tế; - Một tòa trọng tài được thành lập theo đúng phụ lục VII của Công ước; - Một tòa ừọng tài đặc biệt được thành lập theo đúng phụ lục VIII để giải quyết một hay nhiều loại ừanh chấp đã được quy định rõ trong đó. Cần lưu ý rằng, sự lựa chọn các thủ tục bắt buộc nêu ưên cần phải căn cứ vào thẩm quyền mà Công ước đã trù định cho các tòa nêu ữên và phải loại trừ các trường hợp được ghi nhận tại Điều 298 của Công ước, cụ thể: - Các tranh chấp vê việc giải thích hay áp dụng các Điều 15, 74 và 83 liên quan đến việc hoạch định ranh giới các vùng biển hay các vụ ừanh chấp về các vịnh hay danh nghĩa lịch sử; - Các ưanh chấp liên quan đến các hoạt động quân sự, kể cả hoạt động quân sự của tàu thuyền và phương tiện bay của nhà nước được sử dụng cho một dịch vụ không có tính chất thương mại, và các vụ ưanh chấp liên quan đến các hành động bắt buộc chấp hành, đã được thực hiện trong việc thi hành các quyền thuộc chủ quyền hoặc các quyên tài phán mà Điều 297, khoản 2 và 3 đã loại trừ khỏi thẩm quyền của một tòa án; - Các vụ tranh chấp mà HĐBA LHQ, ừong khi thi hành các chức năng của mình do Hiên chương LHQ giao phó có ưách nhiệm giải quyết, trừ khi HĐBA quỵết định xóa vấn đề ừong chương ưình nghị sự của mình hay yểu câu các bên tranh chấp giải quyết tranh chấp của họ bằng các phương pháp đã quy định trong công ước. 3.3.2.1. Giải quyết tranh chấp tại Tòa án Quốc tế về luật biển Tòa án Quốc tế về luật biển là một ữong số cơ quan tài phán có chức năng giải quyết những loại tranh chấp nhất định thuộc lĩnh 410
  • 412. vực luật biển bằng trình tự, thủ tục tư pháp phù hợp với quy định của Công ước 1982 và Quy chế của tòa. Tòa có trụ sở chính đặt tại thành phố Hamburg. a. Cơ cấu tổ chức của Tòa Tòa án Quốc tế về luật biển là một thiết chế độc lập, có quy chế là phụ lục VI của Công ước luật biển 1982. Thẩm phán của Tòa án Quốc tế về luật biển do các quốc gia thành viên của Công ước bầu. Cụ thể, theo khoản 4 Điều 4 Quy chế của Tòa án Quốc tế về luật biển, các thẩm phán của tòa này sẽ được bầu tại các hội nghị của các nước thành viên Công ước. Tòa có 21 thẩm phán chuyên ừách và số thẩm phán cần thiết để tiến hành xét xử mỗi vụ kiện là 11. Nhiệm kỳ của các thành viên của Tòa là 9 năm và có thể tái đắc cử, cứ sau 3 năm lại thay 1/3 số lượng thẩm phán. Nếu như các thẩm phán của TACLQT (LHQ) là do ĐHĐ và HĐBA bầu đồng thời nhưng hoàn toàn độc lập, thì các thành viên của Tòa án Quốc tế về luật biển không do bất kỳ một cơ quan quyền lực nào bầu ra. Tòa có một chánh án và phó chánh án do các thành viên của Tòa bầu với nhiệm kỳ 3 năm và có thể tái đắc cử. Tòa cũng bổ nhiệm thư ký của tòa và các viên chức khác nếu thấy cần thiết137. Bên cạnh các thẩm phán chuyên trách, thẩm phán ad hoc là thẩm phán do một hoặc các bên ừanh chấp không có thẩm phán mang quốc tịch nước minh trong thành phần của Tòa đề cử. Quy định này nhằm đảm bảo sự tuân thủ nguyên tắc các bên bình đẳng trước Tòa. Các thẩm phán ad hoc tham gia vụ việc có địa vị hoàn toàn bình đẳng với các thẩm phán khác.138 137 Đ iều 12 phụ lục V I, C ôn g ước về luật biển 1982, 138 K hoản 1 Đ iều 8 nội qui cũa T A Ọ T về luật biến. X em thêm N g u y ễn H ồng Thao, Tòa Ún quốc tế về luật biên, phụ lục II, tr. 196, N xb . T ư pháp, Hà N ội, 2006. 411
  • 413. Đối vói những tranh chấp liên quan đến vấn đề khoa học hay kỹ thuật, theo yêu cầu của một bên hoặc theo Tòa, sau khi tham khảo ý kiến của các bên, Tòa có thể chọn ít nhất hai chuyên gia khoa học kỹ thuật vào thành phần xét xử của Tòa. Tuy nhiên, các chuyên gia này không có quyền biểu quyết.139 Hoạt động xét xử của tòa được thực hiện thông qua các phiên xét xử thông thường. Ngoài ra, Tòa án Quốc tế về luật biển còn lập ra các viện để giải quyết các tranh chấp đặc biệt. Phán quyết của các viện này đều được coi như phán quyết của tòa. b. Thẩm quyền giải quyết ừanh chấp Thầm quyền giải quyết tranh chấp của Tòa án Quốc tế về luật biên được xác định dựa trên hai tiêu chí: nội dung tranh chấp và chủ thể tranh chấp. Vê nội dung tranh châp, Tòa án Quốc tế về luật biển có thẩm quyên giải quyêt các tranh châp liên quan đến việc giải thích, áp dụng Công ước luật biển 1982.140Thẩm quyền giải quyết các tranh chập này của tòa có những giói hạn và ngoại lệ được quy định tại Điêu 297 và 298 của Công ước luật biển 1982 , Vê chị thề ,ham gia tranh chấp, Tòa án Quốc tế về luật biển co,tham quyen giai quyêt ưanh châp giữa các quốc gia thành viên- Đông thời, các thực thê không phải là quốc gia thành viên của Công ươc cung co quyen đưa vụ tranh chấp ra trước tòa, nếu tranh chấp liên quan đên việc quản lý và khai thác vùng (theo phần XI) cũng như mọi tranh chấp được đưa ra theo mọi thỏa thuận khác, ¿ u thẩm quyền của Tòa được các bên tranh chấp chap thuận.1 4 1 Ve chu thể 13^ Đ iều 289 C ông ước luật biền 1982 và Đ iều 15 N ộ i quy của T òa án Quốc tế vê luật biển. 140 Khoản 1 Đ iều 288 C ông ước 1982, Đ iều 21 Quy chế của Tòa án Q uốc tẽ về luật biển. Đ iêu 20 Quy chế của Tòa án Q uoc te vê luật biên. 4 1 2
  • 414. tham gia tranh chấp, nếu như các bên có quyền tranh bạng trước Tòa án Công lý của LHQ chỉ là các quốc gia, thì theo quy chế của Tòa án Quốc tế về luật biển, khi giải quyết những tranh chấp liên quan đến quản lý và khai thác vùng đáy đại dưcmg, ngoài quốc gia ra thì các thực thể như cơ quan quyền lực quản lý vùng, xí nghiệp của cơ quan quyền lực, các pháp nhân, cá nhân được một quốc gia bảo ượ cũng có quyền tranh tụng. Ngoài thẩm quyền giải quyết tranh chấp như đã đề cập ở trên, Tòa án Quốc tể về luật biển (thông qua Viện giải quyết tranh chấp liên quan đến đáy đại dương) cũng có thẩm quyền đưa ra các ý kiến tư vấn theo yêu cầu của ĐHĐ hay Hội đồng của cơ quan quyền lực về những vấn đề pháp lý được đặt ra.142 N hư vậy quốc gia và các thực thể khác không có quyền yêu cầu Viện giải quyết tranh chấp liên quan đến đáy biển cho ý kiến tư vấn. c. Thủ tục tố tụng và giá ưị của phán quyết Tòa án Quốc tế về luật biển có nhiều điểm tương đồng với TACLQT của LHQ nhất là thủ tục tố tụng tại phiên tòa và giá trị pháp lý của phán quyết. Thủ tục tố tụng theo tòa toàn thể tương tự như TACLQT của LHQ, gồm hai giai đoạn: tranh tụng viết và tranh tụng miệng. Bên cạnh đó, Tòa án Quốc tế về luật biển cũng xây dựng ưình tự xét xử theo thủ tục rút gọn. Giống như TACLQT, Tòa án luật biển thông qua phán quyết theo đa số. Trường hợp phiếu thuận và phiếu chống ngang nhau thì lá phiếu của chánh án hay người thay thế chánh án chủ tọa phiên tòa là lá phiếu quyết định. Phán quyết của Tòa mang tính chất chung thẩm và có giá ưị bắt buộc đối với các bên tranh chấp. 3.3.2.2. Giải quyêt trcmh chấp bằng trọng tcú vô luật hiên 142 Đ iề u 191 v à k h o ả n 10 Đ iề u 159 C ô n g ư ớ c lu ật b iển 1 9 8 2 . 413
  • 415. a. Trọng tài qụốc tế về luật biển Ở đây, thuật ngữ “trọng tài quốc tế về luật biển” được hiểu là trọng tài thường trực được quy định theo phụ lục VII của Công ước luật biển 1982 và “tòa ừọng tài” được hiểu là một hội đồng xét xử gồm 5 trọng tài viên theo phụ lục VII của Công ước luật biển 1982. Trọng tài quốc tế về luật biển được thành lập và hoạt động ừên cơ sở Điều 287, 288 và phụ lục VII của Công ước luật biển 1982. Trọng tài quốc tế về luật biển có thành phần bao gồm các ưọng tài viên do các quốc gia thành viên Công ước 1982 chỉ định. Mỗi quốc gia thành viên có quyền đề cử 4 ừọng tài viên là những người có năng lực, kinh nghiệm về luật biển, có tư cách đạo đức tốt. Căn cứ vào đề cử này, Tổng thư ký LHQ sẽ lập một danh sách các ữọng tài viên. Khi có ữanh chấp xảy ra, dựa vào danh sách các ưọng tài viên của Tổng thư ký LtỊQ, một hội đồng trọng tài gồm 5 thành viên sẽ được thành lập. Mỗi bên tranh chấp có quyền chỉ định một thành viên tham gia hội đồng trọng tài. Ba thành viên còn lại do các bên thỏa thuận cử ra, một trong ba người này sẽ được lựa chọn là chánh án của tòa trọng tài đó. Trọng tài quốc tế về luật biển có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp tương tự như Tòa án Quốc tế về luật biển. Bên canh đó, nếu các bên tranh chấp không chấp thuận cùng một thủ tục để giải quyết tranh chấp, thì vụ tranh chấp chỉ có thể được đưa ra giải quyết theo thủ tục trọng tài, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.143Ngoài ra, một quốc gia thành viên tham gia vào một vụ tranh chấp mà không được một tuyên bố còn hiệu lực bảo vệ thì được xem là đã chấp nhận thủ tục trọng tài quốc tế về luật biển.144 Trừ khi các bên có thỏa thuận khác, tòa trọng tài tự quyết định thủ tục của mình bằng cách cho mỗi bên có khả năng bảo vệ 143 K hoản 5 Đ iệu 287 C ông ước luật biện 1982 144 Khoản 3 Đ iều 287 C ông ước luật biển 1982. 414
  • 416. các quyền của mình và trình bày căn cứ của mình.143 Khi một trong số các bên trong vụ tranh chấp không ra tòa trình bày các lý lẽ của mình, bên kia có thể yêu cầu tòa tiếp tục trình tự tố tụng và ra phán quyết. Việc một bên vắng mặt hay không trình bày lỷ lẽ của mình không cản ừở trình tự tố tụng.1 4 5 146 Tưcmg tự như phán quyết của Tòa án Quốc tế về luật biển. Phán quyết của trọng tài quốc tế về luật biển có giá trị chung thẩm, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.147 b. Trọng tài đặc biệt Trọng tài đặc biệt có thành phần gồm các chuyên viên được lập ra để giải quyết tranh chấp liên quan đến bốn lĩnh vực như sau: đánh bắt hải sản, bảo vệ và giữ gìn môi trường biển, hàng hải.148 Tòa trọng tài đặc biệt gồm 5 thành viên do các bên cử. Chánh tòa họng tài đặc biệt do các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn trên danh sách thích họp và là công dân của một quốc gia thứ ba, trừ khi các bên có thỏa thuận khác.149 Ngoài các quy định riêng liên quan đến thẩm quyền chuyên biệt và thành phần của tòa, các đặc điểm khác của tòa trọng tài đặc biệt tương tự như tòa trọng tài quốc tế về luật biển. Nếu được tất cả các bên trong một vụ ừanh chấp yêu cầu thì tòa trọng tài đặc biệt có thể thảo ra các khuyến nghị, những khuyến nghị này không có giá trị quyết định mà chỉ là cơ sờ để các bên tiến hành xem xét lại những vấn đề làm phát sinh ra tranh chấp.150 145 Đ iệu 5 phụ lục VII C ông ước luật biển 1982. 146Đ iều 8 phụ lục VII C ông ước luật biển 1982. 147 Đ iều 11 phụ lục VII C ông ước luật biển 1982. 148 Khoản 2 Đ iều 2 phụ lục VIII C ông ước luật biển' 1982. 149 Đ iếm a, b, c, d Đ iều 3 phụ lục VIII C ông ước luật biển 1982. 150 Khoản 3 Đ iều 5 phụ lục 8 415
  • 417. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách, giáo trình 1. Lưu Văn Bình, Định chế quốc tế, Luật khoa Sài Gòn, 1970-1971 2. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, 2007 3. Đại học Luật Hà Nội, Giảo trình Luật Quốc tế: Dùng trong các trường Đại học chuyên ngành luật, ngoại giao, Nxb. Giáo dục, 2010 4. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Nxb. Khoa hoc - xã hội, Hà Nội, 1998, 5. Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, Giải quyết tranh chấp thương mại WTO, tóm' tắt 1 sổ vụ kiện và phán quyết quan trọng của WTO, Nxb, Lao động, Hà Nội 6. Đaị học luật Tp. Hồ Chí Minh, giáo trình luật thương mại quốc tế, 2012 7. Tăng Kim Đông, Quốc tế công pháp, quyển I, Luật quốc tế, Sài Gòn, 1975 8. Khoa luật Đại học Tổng hợp Melbourne Australia, Tài liệu hội thảo quốc tế, Luật quốc tế, các vẩn đề thương mại và kinh tế ở châu A, các vụ việc và tài liệu, AusAID, 1999 9. Khoa luật quốc tế, Tập bài giảng Tranh chấp và giải quvết tranh chấp quốc tế, Đại học luật TP.HỒ Chí Minh, 2009 10. Nhà pháp luật Việt-Pháp, Pháp luật cộng đồng châu Ấu hội nhập quốc tê và khu vực, Hội thảo quốc tế, Hà Nội, 1999 416
  • 418. 11. Rebeca (M.), Luật quốc tế, Thomson, 2002 12. Nguyễn Bá Sơn, Nguyễn Thị Thanh Hà, Phạm Thị Thu Hương, Lê Đức Hạnh, Tòa Hình sự quốc tê, góc nhìn từ Việt Nam, Nxb. Thanh niên, TP.HỒ Chí Minh, 2007 13. Nguyễn Hồng Thao, Nguyễn Trung Tín, Lê Thị Mai Thanh, Giảo trình Luật quốc tế, Đại học Huế, 1997 14. Nguyễn Hồng Thao, Tòa án Công lý quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000 15. Nguyễn Hồng Thao, Tòa án Quốc tế về luật biển, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2006 16. Trần Văn Thắng, Lê Mai Anh, Luật quốc tế lý luận và thực tiễn, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2001 17. Nguyễn Thị Thuận (chủ biên), Nguyễn Thị Yên, Đỗ Mạnh Hồng, Công Phương Vũ, Luật hình sự quốc tế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007 18. Võ Anh Tuấn, Hệ thống Liên hợp quốc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004 19. ủ y ban khoa học xã hội Việt Nam, Viện luật học, Liên hợp quốc tổ chức những vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb. Khoa học —xã hội, Hà Nội, 1985 20. Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, một sổ vẩn đề lý luận cơ bản về luật quốc tế, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà NỘI, 1994 2 1 . Ngụyễn Thị Yên, Ngô Hữu Phước, Tập bài giảng Khái luận chung về luật quốc tể, TP. Hồ Chí Minh, 2008 22. Nguyễn Thị Yên, Ngô Hữu Phước, Tập bài giảng Tranh chấp và giải quyết tranh chấp quốc tế, Tp. Hồ Chí Minh, 2008. 4 1 7
  • 419. Văn bản pháp luật quốc tế và Việt Nam 1. Công ước Chicago về hàng không dân dụng quốc tế năm 1944 2. Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 3. Quy chế Tòa án Công lý quốc tế năm 1945 4. Tuyên bố Bangkok năm 1967 5. Công ước Vienna về luật điều ước quốc tế năm 1969 6. Tuyên bố về các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế điêu chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quôc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc năm 1970 7. Hiệp ước thân thiện và hợp tác Đông Nam Á năm 1976 8. Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 9. Công ước của Liên hợp quốc về luật biển năm 1982 10. Hiệp định khung về tăng cường hợp tác kinh tế ASEAN năm 1992 11. Nghị định thư Manila về cơ chế giải quyết tranh chấp kinh tế giữa các nước ASEAN năm 1996 12. Quy chế Tòa án Hình sự quốc tế (ICC), Quy chế Roma năm 1998 13. Quy tắc thủ tục của Hội đồng cấp cao ASEAN năm 2001 4 1 8
  • 420. 14. Nội quy của Tòa án Quốc tế về luật biển, thông qua năm 1997, sửa đổi bổ sung năm 2001 15. Nghị định thư ASEAN về tăng cường cơ chế giải quyết tranh chấp năm 2004 16. Hiến chương của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á năm 2007 17. Nghị định thư của Hiến chương ASEAN về cơ chế giải quyết tranh chấp năm 2010 W ebsite 1. http://www.itlos.org 2. http://www.icj- cij .org/docket/index.php?p 1=3&p2=2 3. http://www.asean.org/3639.htm 4. http://cil.nus.edu.sg/2010/2010-protocol-to-the- asean-charter-on-dispute-settlement-mechanisms/ 5. http://www.un.org 6. http://www.worldcourts.com/ici/eng/decisions/1905. 02.26_doggerbank.htm 4 1 9
  • 421. CHƯƠNG XIV TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ QUỐC TẾ Mặc dù các quy phạm và nguyên tắc quy định trách nhiệm pháp lý của quốc gia mới chỉ được xây dựng vào đâu thê kỳ XX, chế định ừách nhiệm phập lý quốc tế của quôc giạ xuât hiện cùng với sự ra đời của các quốc gia và tồn tại trong suôt quá trình hình thành và phát ữiển của quan hệ pháp luật quốc tê. Sau hai cuộc đại chiến thế giới, một loạt các quy phạm, nguyên tăc mới cua luạt quốc tế về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quôc gia đã được xây dựng với nội dung dân chủ và tiến bộ, bảo vệ các nước ngheo va đang phát triển trước sự bành trướng ảnh hưởng của các nước đệ quốc - tư bản. Đồng thời, sự phát triên mạnh mẽ của khoa học va công nghệ đã đẩy nhanh quá trình khai thác và sử dụng các ngụon tài nguyên thiên nhiên trên quy mô lớn với mục đích phát trien kinh tế, đặt toàn thể nhân loại trước một hiêm họa khôn lương - o nhiễm môi trường trên phạm vi toàn cầu. Đe ngăn chặn môi đe dọa này, luật quốc tế đã hình thành các nguyên tăc và quy phạm về trách nhiệm pháp luật quốc tế đối với các hành vi gây ô nhiem môi trường. Rõ ràng cùng với sự phát triển của luật quôc te, cac quy định về ưách nhiệm pháp lý quốc tế ngày càng được cung co và phát triển để giải quyết kịp thời các vấn đề pháp lý quôc tê phat sinh trong đời sống quốc tế, góp phần ổn định và củng cô trạt tự pháp lý quốc tế. Chương này trình bày những vấn đề cơ bản của chê đinh trách nhiệm pháp lý quốc tế. Phần thứ nhất phân tích khai mẹm, đặc điểm bản chất pháp lý và ý nghĩa của ưách nhiệm pháp lý quốc tế; nguồn và chủ thể của chế định này và phân tích cac hanh vi làm phát sinh quan hệ trách nhiệm pháp lý quôc tê. Phân thư hai nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan đến xác định và thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với quôc gia trong trương 4 2 0
  • 422. họrp có hành vi vi phạm pháp luật quốc tế. Phần thứ ba đề cập trách nhiệm pháp lý của tổ chức quốc tế liên chính phủ. Phần cuối cùng giới thiệu nl ' ng vấn đê cơ bản vê trách nhiệm vật chât đôi với thiệt hại gây ra bởi hành vi mà luật quôc tê không câm. I. KHÁI NIỆM TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ QUÓC TÉ 1.1. Định nghĩa và đặc điểm của trách nhiệm pháp lý quốc tế Khái niệm ừách nhiệm pháp lý quốc tế đã được đê cập khá rõ trong một số phán quyết của các tòa án quốc tế. Ví dụ trong vụ Spanish Zone o f Morocco năm 1923, Tòa thường trực Hội quôc liên đã kết luận: “trách nhiệm pháp lý là một hệ quả tất yếu của một quyền. Tất cả các quyền của một chủ thể luật quôc tê đêu gân với trách nhiệm pháp lý quôc tê. Trách nhiệm pháp lý dân đên nghĩa vụ thực hiện việc bồi thường nêu những nghĩa vụ được nói đến không được thực thí”} Đồng thời, trong vụ kiện Nhà mảy Chorzow (Chorzow Factory Case) (Đức và Ba Lan, 1928), Tòa án Thường trực quốc tế của Hội quốc liên (tiền thân của Tòa án Công lý quốc tế) đã kết luận: “Một nguyên tắc của luật quốc tế được thừa nhận rộng rãi là bất kỳ một sự vi phạm đổi với một nghĩa vụ quốc tế nào đều sẽ dẫn đến việc bồi thường”.1 2 Những nhìn nhận về định nghĩa trách nhiệm pháp lý quốc tế kể trên đều có chung một điểm cơ bản là nếu có vi phạm pháp luật quốc tế và gây thiệt hại thì phải bồi thường. Đây chính là nguyên tắc mang tính tập quán được khẳng định trong phán quyết vụ Nhà máv Chorzoxv của Tòa Thường trực của Hội quốc liên và được khẳng định trong Điều 1 Dự thảo các điều luật về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đổi với các hành vi sai trái quốc tế (Draft Articles on Responsibility o f International 1 Spanish Zone of Morocco Claims (Anh và -Tây Ban Nha) (1924) 2 RIAA 615. 2Factory at Chorzow (Đức và Ba Lan) (1927) PCIJ series A No. 9. 421
  • 423. Organisationsfor Internationally Wrongful Acts) được thông qua tại khóa họp lần thứ 61 của ủy ban Pháp luật quốc tế tháng 7 năm 2009. Cụ thể, Điều 1 khẳng định “Mọi hành vi sai trái quốc tế của một quốc gia dẫn đến trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đó Từ thực tiễn và lý luận của luật quốc tế, trách nhiệm pháp lý quốc tế có thể được định nghĩa là nghĩa vụ pháp lý của chủ thể luật quốc tế phải loại bỏ thiệt hại mà chủ thể này gây ra cho chủ thể khác của luật quốc tế do vi phạm nghĩa vụ pháp lý quốc tế hoặc có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại gây ra do hành vi mà luật quốc tế không cấm nếu việc bồi thường đó được qui định trong các điều ước quốc tế chuyên biệt. Định nghĩa “trách nhiệm pháp lý quốc tế” cũng cần phân biệt với khái niệm “chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế”. Tương tự như pháp luật quốc gia, trong luật quốc tế đã tồn tại chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế từ thời điểm xuất hiện quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới, đây là một chế định pháp lý riêng biệt và độc lập của luật quốc tế. Như vậy, có thể định nghĩa chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế bao gồm tổng thể các nguyên tắc, quy phạm luật quốc tế điều chỉnh các quan hệ pháp lý phát sinh từ các hành vi vi phạm luật quốc tế hoặc hành vi mà luật quốc tế không nghiêm cấm (hành vi hợp pháp) của chủ thể luật quốc tế này gây ra thiệt hại cho chủ thể luật quốc tế khác trong đời sống quốc tế, quy định các hậu quả pháp lý cho chủ thể gây hại bao gồm nghĩa vụ bồi thưòng thông qua các hình thức và biện pháp đã được luật quốc tế xác lập.3 3 Dự thảo các điều luật về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đối với các hành vi sai trái quốc tế 2009. Xem thêm Malcolm N Shaw, International Law, Cambridge, 5th ed, 2003, tr. 694. 422
  • 424. Trách nhiệm pháp lý quốc tế có những điểm đặc thù sau đây: - Chủ thể trách nghiệm pháp lý quốc tế là quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế (chủ thể gây hại và chủ thể bị hại); -Trách nhiệm pháp lý quốc tế bao gồm trách nhiệm pháp lý quốc tế chủ quan (trách nhiệm phát sinh do hành vi vi phạm luật quốc tế) và trách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan (trách nhiệm phát sinh từ hành vi mà luật quốc tế không cấm). Tro112 trường họp thứ hai, hành vi thực hiện là họp pháp nhưng theo quy định của luật quốc tế (cụ thể điều ước quốc tế hữu quan) nếu gây ra thiệt hại, thì bên gây hại phải bồi thường cho chủ thể bị hại theo các quy định tương ứng của luật quốc tế. Trong khoa học luật quốc tế, loại hình trách nhiệm này còn được gọi là trách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan. Ví dụ: việc phóng phương tiện bay vũ trụ để nghiên cứu và sử dụng khoảng không vũ trụ là hành vi luật quốc tế không nghiêm cấm, nhưng nếu thiệt hại phát sinh từ hành vi này thì chủ thể gầy hại phải chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế; -Trách nhiệm pháp lý quốc tế (bao gồm trách nhiệm khôi phục lại tình trạng ban đầu hoặc bồi thường thiệt hại của bên gây hại và quyền đòi bôi thường thiệt hại của bên bị hại) được thực hiện trên cơ sở các qui định của luật quốc tế. Như vậy, những quy tắc và cách thức thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế không thể căn cứ vào pháp luật quốc gia. 1.2. Ý nghĩa của chế định “trách nhiệm pháp lý quốc tế” Chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế giúp đảm bảo trật tự pháp lý quốc tế, đồng thời duy trì, củng cố và pháp triển quan hệ thân thiện, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi giữa các chủ thể luật quốc tế. Cụ thể: Thứ nhất, chế định trách nhiệnV pháp lý quốc té giúp bảo đảm sự tuân thủ nghiêm ngặt các qui phạm pháp luật quốc tế. 423
  • 425. Nếu thiếu chế định trách nhiệm pháp lý thì các qui phạm pháp luật sẽ mất đi giá trị đích thực của mình là những khuôn mẫu ứng xử cho các hành vi của các chủ thể luật quốc tế, và như vậy chúng chỉ đon thuần mang tính chất chính trị hoặc đạo đức. Mặt khác, nếu không đặt ra vấn đề trách nhiệm pháp lý quốc tế thì sự vi phạm các qui phạm của luật quốc tế sẽ trở nên phổ biến vì các chủ thể luật quốc tế sẽ từ chối thực hiện các nghĩa vụ quốc tế đã cam kết của mình. Thít hai, chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế giúp bảo đảm sự thực hiện nghiêm chinh một trong những nguyên tắc cơ bản của luật quốc tể: tôn ừọng các cam kết quốc tế. Đây là một trong những qui phạm mang tính mệnh lệnh (jus cogens), theo đó, tất cả các chủ thể của luật quốc tế có nghĩa vụ phải tuân thủ những nghĩa vụ quốc tế mà mình đã cam kết một cách tận tâm và có thiện chí. Tuy nhiên, không, phải trong mọi trường hợp pháp luật quốc tế đều được các chủ thể luật quốc tế (trước tiên và chủ yếu là các quốc gia) tuân thủ một cách triệt để, nhất là khi có những vẩn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi của họ. Điều này ảnh hường đến quyền lợi và lợi ích hợp pháp của một hay một số chủ thể khác, thậm chí cả cộng đồng quốc tế. Thứ ba, chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế giúp xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể bị hại. Nếu không đặt ra vấn đề truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với những hành vi vi phạm từ phía các chủ thể gây hại thì quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể bị hại không được khôi phục và như vậy các quy phạm pháp luật quốc tế sẽ không được bảo đảm thực hiện. Một hành vi vi phạm pháp luật mà không bị xử lý hoặc có biện pháp đối phó thích hợp sẽ tạo tiền đề cho những vi phạm tiếp theo của chủ thể vi phạm đó hay những chủ thê khác của luật quốc tế. Mặc dù vậy, trong việc xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thê bị 424
  • 426. hại cũng cần lưu ý đến yếu tố tương xứng. Điều này có nghĩa là việc thực hiện trách nhiệm phải được xem xét ở mức đô hơp lý và tương xứng với tính chât, quy mô và mức độ thiệt hại mà chủ thê gây hại đã gây ra. Điêu này giúp chông lại việc lạm dụng quyên đòi hỏi thực hiện và áp trách nhiệm pháp lý quốc tế một cách quá mức. 1.3. Bản chất pháp lý của trách nhiệm pháp lý quốc tế Trong khoa học luật quốc tế, có các quan điểm khác nhau vê bản chất pháp lý của trách nhiệm pháp lý quốc tế. Cụ thể, có hai quan diêm chủ đạo. Quan điểm thứ nhất cho rằng trách nhiệm pháp lý quốc tế đơn thuần chỉ có ý nghĩa là trách nhiệm vật chât và như vậy chi yêu cầu bồi thường thiệt hại vật chất đã phát sinh. Quan điểm thứ hai cho rằng trách nhiệm phải bao gồm cả nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, cả nghĩa vụ chấm dứt hành vi vi phạm luật quôc tê, nghĩa vụ khôi phục lại trật tự pháp lý quôc tê bị vi phạm và hơn thế nữa là sự đảm bảo các hành vi xâm phạm sẽ không tái phạm trong tương lai. Trong hai quan điểm nêu trên, quan điểm thứ hai thể hiện tính dân chủ và tiến bộ có lợi cho các nước nghèo trong quan hệ quốc tế với các nước giàu về vấn đề trách nhiệm pháp lý quốc tế. 1.4. Nguồn của chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế Trong lịch sử hình thành và phát triển, nội dung pháp lý của chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế đã có sự thay đôi cơ bản, những quy tắc, quy phạm mới đầy tính dân chủ vậ tiến bộ được hình thành, như quy định trách nhiệm pháp lý quôc tê của quôc gia đôi với chiên tranh xâm lược, hành vi duy trì chê độ thuộc địa, tội ác apartheid.... đồng thời các nguyên tăc, quy phạm cũ và lạc hậu như quy phạm “quyền chiên tranh”, “bảo hộ và tô nhượng” đã bị loại bỏ. Trong thời điểm hiện nay, nguồn chù yếu và cơ bản của định chế trách nhiệm pháp lý quốc tế là tập quán quốc tế và điều ước quốc tế. Các nguồn này có những dặc điểm sau đâv: 425
  • 427. Thứ nhất, tập quán quốc tế có số lượng chiếm ưu thế. Điều này xuất phát từ chỗ những quy tắc điều chỉnh vấn đề thực hiện trách nhiệm pháp lý, như quyền và nghĩa vụ, các hình thức thực hiện trách nhiệm pháp lý... hình thành chủ yếu từ thực tiễn quan hệ giữa các quốc gia. Mặc dù Dự thảo các điều luật về trách nhiệm pháp lý quốc tế đang được hoàn thiện kể từ năm 1996 đến nay nhưng phần lớn các quy định ghi nhận trong Dự thảo này đã tồn tại từ rất lâu trong lịch sử quan hệ quốc tế. Thứ hai, trong chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế, điều ước quốc tế cũng có vị trí quan trọng. Trước tiên, cần phải kể đến Hiến chưcmg LHQ được xác định là điều ước quốc tế đa phương toàn cầu có vị trí đặc biệt trong hệ thống pháp luật quốc tế. Hiến chương ghi nhận trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với hành vi xâm hại nghiêm trọng hòa bình và an ninh quốc tế (như Điều 39, 41, và 42). Ngoài ra, trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế cũng được điều chỉnh trong các điều ước quốc tế đa phương toàn cầu quan trọng khác, như: Công ước 1973 về ngăn chặn và trừng trị tội phân biệt chủng tộc, Công ước 1948 về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng, Công ước 1972 về trách nhiệm pháp lý đối với thiệt hại phát sinh từ hoạt động vũ trụ, các công ước chuyên môn về bảo vệ môi trường... Đây là các điều ước quốc tế chuyên biệt quy định trình tự và thủ tục tiến hành truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với chủ thể gây hại. Có thể khẳng định rằng, các điều ước quốc tế này đã thể hiện tương đối hiệu quả vai trò của mình trong việc điều chỉnh các vấn đề pháp lý về trách nhiệm pháp lý quốc tế. Trong thời kỳ tồn tại của mình, Hội quốc liên đã có nhiều nỗ lực to lớn trong quá trình pháp điên hóa các quy phạm quốc tế liên quan đến trách nhiệm của quốc gia đối với thiệt hại gây ra cho tài sản và tinh thần của mỗi thể nhân. Đi theo xu thế này, trong khuôn khổ LHQ, tại kì họp lần thứ nhất của ủy ban Pháp luật quốc tế năm 1949, vấn đề trách nhiệm pháp lý quốc tế đã 426
  • 428. được quan tâm đặc biệt. Nghị quyết số 799 ngày 7/12/1953 của Đại hội đồng LHQ đã yêu cầu ủy ban tiến hành nhanh chóng công việc pháp điển hóa các qui phạm luật quốc tế liên quan đến trách nhiệm pháp lý quốc tế. Theo định hướng này, từ năm 1969, Uy ban Luật quốc tế của LHQ bắt đầu công việc soạn thảo. Năm 1996, ủy ban đã dự thảo xong công ước về trách nhiệm pháp lý của quốc gia. Dự thảo công ước này gồm 3 chương, 60 điều, đã được gửi tới các quốc gia để lấy ý kiến đóng góp. Trên cơ sở đó, Uy ban đã hoàn chỉnh dự thảo tiếp theo vào năm 2001 đê tiêp tục hoàn thiện Công ước.4 Đồng thời, một Dự thảo tương tự về trách nhiệm pháp lý quốc tế của các tổ chức quốc tế cũng đã được soạn thảo vào năm 2009.5 Thứ ba, trong những trường hợp cá biệt, những văn bản pháp luật đơn phương của quốc gia như sắc lệnh, tuyên bố, công hàm, các tuyên bố của những người có thẩm quyền... có giá trị độc lập và hoàn chỉnh mà thông qua đó, quốc gia tự nguyện cam kêt những nghĩa vụ quôc tê đối với quôc gia khác và được các quôc gia này công nhận thì được coi là cơ sở pháp lý đê xác định trách nhiệm quốc tế. Việc không thực hiện đúng và đầy đủ những cam kết, dù là đơn phương, cũng có thể dẫn đến trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia. Thứ tư, các phương tiện bổ trợ nguồn của luật quốc tế như nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ và đặc biệt là 4 Dự thảo các điều luật về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đối với các hành vi sai trái quốc tế (Draft Articles on Responsibility of States for Internationalỉy Wrongflil Acts) được thông qua tại khóa họp lân thứ 53 của Uy ban Pháp luật quốc tế, tháng 8 năm 2001. Văn kiện này có thể được gọi là “Công ước” và được sử dụng trong toàn bộ clnrong này. Từ đây, dự thảo sẽ được gọi tắt là Dự thảo công ước năm 2001. 5 Dự thảo các điều luật về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đối với các hành vi sai trái quốc tế (Draft Articles on'Responsibility of International Organisationsfor Internationallv Wrongful Acts) được thông qua tại khóa họp lần thứ 61 của ủy ban Pháp luật quốc tế tháng 7 năm 2009. 42 7
  • 429. những phán quyết của Tòa án Quốc tế và trọng tài quốc tế cũng đóng vai trò quan ừọng ghi nhận các chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế. Nghị quyết của các tổ chức quốc tế là những văn bản pháp lý trong đó thể hiện ý chí của các quốc gia về những vấn đề thuộc chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của tổ chức đó. Mặc dù không mang tính chất pháp lý bắt buộc (trừ các nghị quyết về vấn đề thủ tục, vấn đề thuộc hoạt động nội bộ của tổ chức) nhưng những nghị quyết của tổ chức lại có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng quy phạm pháp lý quốc tế và pháp điển hóa luật quốc tế. Trong số các Nghị quyết của tổ chức quốc tế thì nghị quyết của Đại hội đồng LHQ có vị trí hết sức quan trọng, ví dụ như Nghị quyết năm 1960 của Đại hội đồng LHQ về trao trả độc lập cho các nước thuộc địa.6Các bản án của Tòa án Quốc tế cũng có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh trách nhiệm pháp lý quốc tế. Các vụ việc quan trọng đã được Tòa án Quốc tế và trọng tài quốc tế xét xử thường được viện dẫn trong những vụ việc sau này liên quan đến vấn đề trách nhiệm pháp lý quốc tế, ví dụ như các phán quyết của Tòa án Thường trực của Hội quốc liên và Tòa án Công lý quốc tế trong các vụ Nhà mảy Chorzow năm 1928 (Đức và Ba Lan); Corfu năm 1949 (Anh và Albani); u s Diplomatic and Consular Hostages (Mỹ và Iran) năm 1979... Đây là những phương tiện bổ trợ quan trọng làm sáng tỏ những khía cạnh pháp lý của chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế.7 6 X em thêm chương 2 cùa giáo trình về N guồn của luật quốc tế. 7 N hững khía cạnh pháp lý cùa chế định trách nhiệm pháp lý quốc tế đã được thề hiện qua rất nhiều vụ việc do Tòa án C ông lý quốc tế xét xử và các kết luận tư vấn khác như Reparation for Injuries Suffered in the Service of the United Nations, A dvisory O pinion, ICJ Reports 1949; Military and Paramilitary Activities in and against Nicaragua (Nicaragua V. United States of America), M erits, Judgm ent, ICJ Reports 1986; Legality of the Threat or Use of Nuclear Weapons, A dvisory O pinion, I.C.J. Reports 1996; Case concerning the difference between New Zealand and France concerning the interpretation or application of two agreements concluded on 9 July 1986 between the two States and which related to the problems arising from the 4 2 8
  • 430. 1.5. Chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế Chủ thể của quan hệ trách nhiệm pháp lý quốc tế cũng là chủ thể của luật quốc tế và bao gồm: - Các quốc gia độc lập có chủ quyền. - Các tổ chức quốc tế liên chính phủ. - Các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết. -Các thực thể đặc biệt trong quan hệ quốc tế, như Tòa thánh Vatican, Monaco, Andorra... Trong đó, chủ thể quan trọng nhất là quốc gia và sau đó là tô chức quôc tê liên chính phủ. Trong quan hệ trách nhiệm pháp lý quôc tê, các chủ thể có thể tham gia với bât kỳ vị trí nào, có thê là bị đon hoặc nguyên đon, phụ thuộc vào tùng trường họp cụ thê của bôi cảnh quốc tế. Trách nhiệm pháp lý quôc tê đặt ra đối với các quốc gia cũng như các chủ thể khác của luật quốc tế, mặc dù trên thực tế thiệt hại có thể xảy ra đối với các cá nhân. Điêu này khăng định đặc thù của hệ thống luật quốc tế là chi điêu chỉnh quan hệ giữa các quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế. Trong trường hợp cá nhân bị thiệt hại, nhà nước mà cá nhận đó là công dân sẽ đứng ra thực hiện trách nhiệm pháp lý quôc tê nhân danh công dân nước mìph. 1.5. L Quốc gia Với tư cách là chủ thể cơ bản và chủ yếu của luật quốc tế, quốc gia cũng được coi là chủ thể quan trọng nhất của chê định trách nhiệm pháp lý quốc tế. Các quốc gia phải gánh vác trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với các hành vi của chính mình khi hành vi đó gây ra thiệt hại cho chủ thể khác trong đời sông quôc tế. Hành vi gây thiệt hại của quốc gia chính là hành vi của các cơ Rainbow W arrior affair, UNRIAA. vol. XX; Elettronica Sicula S.p.A. (ELSI), Judgment, ICJ Reports 1989; LaG rand (Germ any v. U nited States o f Am erica), Provisional Measures, Order of 3 March 1999, ICJ Reports 1999... 429
  • 431. quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện trong các lĩnh vực hành pháp, tư pháp và lập pháp, không phụ thuộc vào việc hành vi đó được thực hiện ở trong hay ngoài lãnh thổ quốc gia. Trách nhiệm pháp lý quốc tế đặt ra đối với quốc gia khi các hành vi này là các hành vi được cơ quan nhà nước thực hiện với tư cách là đại diện quốc gia trên trường quốc tế, kể cả trong trường hợp cơ quan nhà nước hoạt động vượt quá thẩm quyền hoặc lạm dụng quyền hạn của mình khi thực thi công vụ. Dự thảo năm 2001 vê trách nhiệm của quốc gia qui định: "Hành vi của bất kỳ một cơ quan nhà nước nào sẽ được coi như là một hành vi của quốc gia đó theo pháp luật quôc tê, bât kê cơ quan này thực hiện chức năng hành pháp, lập pháp, tư pháp hoặc các chức năng khác; bât kê cơ quan này có vị trí như thế nào trong hệ thong tổ chức cơ quan nhà nước của quốc gia và bất kể cơ quan này là cơ quan nhà nước ở trung ương hay cơ quan nhà nước ở địa phương”.8 Bên cạnh đó, quốc gia không có quyền viện dẫn pháp luật nước mình, kể cả hiến pháp để lẩn tránh ưách nhiệm pháp lý quốc tế.9 Điều này thể hiện sự ràng buộc nghiêm ngặt của quốc gia vào các nghĩa vụ quốc tế trên cơ sở nguyên tắc pacta sunt servanda. 1.5.2. Tổ chức quốc tế liên chính phủ Cùng với sự pháp triểĩi mạnh mẽ của quan hệ quốc tế, chủ thể của trách nhiệm pháp lý quốc tế được mở rộng cho cả các tổ chức quốc tế liên chính phủ, đồng thời nhóm chủ thể này hiện nay có sô lượng nhiêu nhât và ngày càng phát triên mạnh mẽ trong tương lai. Cũng như quốc gia, tổ chức (Ịuốc tế liên chính phủ phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với các hành vi do chính mình thực hiện và gây ra thiệt hại cho chủ thê khác trong quan hệ quốc tế. Hành vi của các cơ quan chức năng, các viên chức hoặc binh sĩ của tổ chức quốc tế chính là hành vi của tố chức quốc tế liên chính phủ, khi họ thực thi công vụ được ủy 8Điều 4 Dự thảo năm 2001. 9 Xem mục 2 cùa chương này. 430
  • 432. quyền. Ví dụ: các quan chức hoặc binh sĩ gìn giữ hòa bình của LHQ trong khi thực hiện nhiệm vụ tại quốc gia thành viên của LHQ đã có hành vi, gây thiệt hại vật chất hoặc tinh thần cho quốc gia hay công dân của nó, thì LHQ phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với các thiệt hại do viên chức hoặc binh sĩ của mình gây ra với tư cách là chủ .thể luật quốc tế. 1.5.3. Dân tộc đang đẩu tranh giành quyền tự quyết Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của phong trào giải phóng dân tộc của các thập niên 1950 - 1970, các dân tộc đang đấu tranh, giành quyền tự quyết là nhóm chủ thể luật quốc tế xuất hiện trong thời kỳ này. Ý nghĩa cũng như vai trò của nhóm chủ thể này đã được chứng minh qua thực tiễn của lịch sử quan hệ quốc tế. Cho tới nay, các chủ thê này không còn nhiêu, vì hâu hêt các dân tộc đâu tranh đòi quyền dân tộc tự quyết đã giành được độc lập và thành lập quốc gia có chủ quyền, về nguyên tắc, dân tộc đấu tranh giành quyên tự quyết cũng phải gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế do hành vi vi phạm hoặc không trái pháp luật gây thiệt hại của minh. Theo đó, khi các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang thực thi các nhiệm vụ được chủ thể này giao phó gây thiệt hại cho chủ thể khác của luật quôc tê thì dân tộc đâu tranh giành quyên tự quyêt sẽ là chủ thê gánh chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế10... Ngoài ra, các thực thể đặc biệt trong quan hệ quốc tế khác như là Tòa thánh Vatỉcan, Monaco, Andorra... cũng phải chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế với tư cách là chủ thể đặc biệt của luật quôc tê. Tuy nhiên phạm vi trách nhiệm của họ được giới hạn bởi 10 Ví dụ: các dân tộc đang đấu tranh giành quyền tự quyết phải chịu trách nhiệm pháp lý quôc tê nêu trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc cùa mình, các binh sĩ cùa chủ thê này đã thực hiện một số hành vi trái pháp luật quốc tế như tân công, phá hủy các đại sứ quán, lãnh sự quán cùa các quôc gia khác đặt trên lãnh thổ đang bị chiếm đóng, gây thưcmg vong cho các nhân sự trong các cơ quan này. Đây là hành vi vi phạm quy định vê bát khả xâm phạm của các cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự theo pháp luật quốc te. 431
  • 433. phạm vi quyền năng chù thể có tính chất đặc biệt của nhóm chủ thể này. Cuối cùng, cần nhấn mạnh rằng trong luật quốc tế hiện đại đã xuất hiện và tiếp tục phát triển định chế trách nhiệm hình sự quốc tế của cá nhân. Đây là loại hình trách nhiệm pháp lý đặc biệt đối với các cá nhân phạm tội ác quốc tê, như: tội phạm chống nhân loại, tội ác chống con người, tội ác chiến tranh... Chủ thể tham gia quan hệ trách nhiệm hình sự quốc tế với tư cách là cơ quan xét xử quốc tế là pháp nhân quốc tế, như tòa án hình sự quốc tế (ICC) hiện nay hay tòa án quân sự Nuremberg và Tokyo trước kia, còn các cá nhân phạm tội ác quốc tế được coi là các bị cáo trước tòa.1 1 1.6. Các hành vi làm phát sinh quan hệ trách nhiệm pháp lý quốc tế Như đã phân tích ở mục 1.4, hiện nay có hai loại hình trách nhiệm pháp lý quốc tế: trách nhiệm pháp lý quốc tế chủ quan và trách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan. Xuất phát từ nhận thức chung này, hành vi làm phát sinh quan hệ trách nhiệm pháp lý quốc tế cũng bao gồm hai loại: hành vi vi phạm pháp luật quốc tế dẫn đến trách nhiệm pháp lý quốc tế chủ quan và hành vi không vi phạm luật quốc tế dẫn đến trách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan. 1.6.1. Hành vi vi phạm pháp luật quốc tể làm ph át sinh quan hệ trách nhiệm pháp lý quốc tế Từ góc độ nghiên cứu của khoa học luật quốc tế, hành vi vi phạm luật quốc tế được hiểu là các hành vi xừ sự không phù hợp với các quy định hiện hành của luật quốc tế chung hoặc luật 1 1 Vì sự khác biệt cơ bản giũa loại hình trách nhiệm hình sự quốc tế với trách nhiệm pháp lý quốc tế, các vấn đề lý luận liên quan đến trách nhiệm hình sự quốc tế sẽ được nghiên cứu riêng ờ chương Luật hình sạ quốc tế của giáo trình này. 432
  • 434. quốc tế khu vực, không phụ thuộc vào tính chất, mức độ cũng như phạm vi của hành vi vi phạm, không lệ thuộc vào việc hành vi vi phạm được thể hiện ở dạng hành động hay không hành động.1 2 Dựa trên cơ sở mức độ nguy hiểm đối với đời sống quốc tê, trong khoa học luật quôc tê đã có sự phân loại hành vi vi phạm pháp luật quốc tế thành hành vi tội ác quốc tế và hành vi vi phạm pháp luật quốc tế thông thường.1 3 1.6.1.1. Hành vỉ tội ác quốc tế Hành vi tội ác quốc tế được xác định là các hành vi vi phạm cực kỳ nghiêm trọng luật quốc tế của một chủ thể, làm tổn hại đến hòa bình và an ninh quốc tế, quyền lợi quan trọng và sự sống còn của cộng đồng quốc tế, sự tồn tại của một quốc gia, một dân tộc hoặc một tổ chức quốc tế, chà đạp thô bạo lên các nguyên tắc cơ bản, các qui phạm jus cogens của luật quốc tế. Loại hành vi này được ghi nhận trong nhiều điều ước quốc tế phô cập như: Công ước 1948 về chống tội diệt chủng, Công ước 1973 vê chông chủ nghĩa apartheid. Đặc biệt, bôn nhóm hành vi nguy hiêm cho loài người đã được ghi nhận tại Quy chê Rome năm 2002 về Tòa án Hình sự quốc tế (ICC) dưới dạng những tội ác quốc tế,14 cụ thể các hành vi tội ác quốc tế được quy định tại Điều 5 Công ước gồm các tội phạm sau: tội phạm diệt chủng,1 5 12 Điều 2 Dự thảo các điều luật về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia đối với các hành vi sai trái quốc tế 2009. Xem thêm Malcolm N Shaw, I n te rn a tio n a l L a w , Cambridge, 5th ed, 2003, tr. 697. 1 3 Xem ủ y ban Pháp luật quốc tế, “Draft articles on Responsibility of States for Internationally Wrongful Acts, with Commentaries 2001”, Chapter 111, http://untreaty.un.org/ilc/texts/instruments/english/commentaries/9_6_2001.pdf 1 4 Quy chế Rome 2001 về Tòa án Hình sự quốc tế. 1 5 Quy chế Rome về Tòa Hình sự quốc tế 1998, Điều 6: T ội p h ạ m d iệ t c h u n g g ồ m c á c h à n h vi: giết các thành viên cũa cộng đồng; gây tôn hại vê thê xác hoặc tinh thần cho thành viên của cộng đồng; cố tình áp đặt điểu kiện sống lên một cộng đồng, nhóm người một cách có tính toán nham tạo ra một sự hủy diệt về mặt thể chất đối với một phần hoặc toàn bộ cộng đồng... 433
  • 435. tội phạm chống nhân loại,16tội phạm chiến tranh,1 7tội gây chiến tranh xâm lược.1 8Việc ghi nhận các tội ác quôc tê như vậy chỉ có tính minh họa, vì theo dự báo của Uy ban Luật quôc tê của LHQ, trong tương lai có khả năng xuất hiện các loại hành vi tội ác quốc tế mới. Trong khuôn khổ luật quốc tế, cộng đồng quốc tế đã nhất trí một chế độ trách nhiệm pháp lý quốc tế thống nhất có tính đặc biệt đối với các chủ thể luật quốc tế thực hiện hành vi tội ác quốc tế.19 Theo đó, ngoài quốc gia bị hại, toàn thể cộng đồng quốc tế đều có quyền thực hiện các hành động cần thiết để truy cứu trách 16 Quy chế Rome về Tòa Hình sự quốc tế 1998, Điều 7: T ội p h ạ m c h ố n g n h ân lo ạ i g ô m c á ch h àn h vỉ: giết người, hủy diệt, băt làm nô lệ, trục xuất hoặc cưỡng bức di chuyển dân cư, cầm tù hoặc những hành vi khác tước doat tự do về mặt thể xác vi phạm các nguyên tắc cơ bàn cùa pháp luật quốc tế, tra tấn, hiêp dâm, nô lệ tình dục, cưỡng ép hoạt động mại dâm, cưỡng ép mang thai, cường ép triệt sản ... 17 Quy chế Rome về Tòa Hình sự quốc tế 1998, Điều 8: T ội á c ch iến tra n h là những hành vi vi phạm nghiêm trọng Công ước Geneva 1949, chống lại loài người và những tài sản được bảo vệ theo các điều khoản liên quan của Công ước này như cố ý tàn sát, tra tấn hoặc những cách đối sự phi nhân tính bao gồm cả thí nghiệm sinh học, cố ý gây nên sự đau đớn hoặc làm bị thương một cách nghiêm trọng tới thể xác và sức khỏe, bắt cóc con tin, việc phá hủy trên diện rộng và chiếm đoạt tài sản không bởi sự cần thiết cho quân sự mà được tiến hành một cách trái pháp luật và vô đạo đức... Ngoài ra những sự vi phạm một cách nghiêm trọng luật pháp và tập quán được thừa nhận trong xung đột vũ trang quốc tế, đạt được trong khuôn khổ PLQT kể tên sau đây cũng là hành vi tội ác chiến tranh, gồm: tấn công mang tính chất quốc tế có nhấm vào những cộng đồng dân cư hoặc những cư dân cá biệt không không phải là kẻ thù, tấn công mang tính chất quốc tế có định hướng vào những mục tiêu dân sự không phải mục tiêu quân sự... 1 8 Đây là những hành vi cực kì nguy hiểm vi phạm nghĩa vụ quốc tế có ý nghĩa căn bản để đảm bao hòa bình và an ninh quốc tế, bao gồm các hành vi như lập kế hoạch, tiến hành chiến tranh xâm lược. 19 Xem ửy ban Pháp luật quốc tế. ‘Draft articles on Responsibility of States for internationally Wrongful Acts, with Commentaries 2001’ Chapter III, tr. 113-116, http://untreaty.un.org/ilc/texts/instruments/english/commentaries/9_6_2001.pdf 434
  • 436. nhiệm đối với chủ thể gây hại trong khuôn khổ luật quốc tế cho phép, ví dụ như nỗ lực của cộng đồng quốc tế nhằm thực hiện Điều 41 và 42 của Hiến chưcmg LHQ trong trường hợp có sự xâm lược.20 Chế độ trách nhiệm pháp lý quốc tế đặc thù như vậy sẽ đảm bảo ngăn chặn và trừng trị các chủ thể luật quốc tế có hành vi tội ác quốc tế một cách có hiệu quả. Cũng cần lưu ý rằng, đối với các hành vi tội ác quốc tế, bên cạnh việc chủ thể vi phạm phải chịu trách nhiệm pháp lý quốc té (như nước Đức, Ý, Nhật Bản trong chiến ừanh thế giới thứ 2 hay Iraq trong quốc chiên tranh vùng vịnh lân thứ nhât 1991), các cá nhân thực hiện các tội ác cũng phải chịu trách nhiệm hình sự quốc tế. Tuy nhiên những cá nhân phạm tội này không được coi là chủ thể của luật quốc tế. Trách nhiệm hình sự của những cá nhân phạm tội này được ghi nhận trong nhiêu điêu ước quôc tế như quy chế tòa án quân sự quốc tế Nuremberg, tòa án quân sự quốc tế Tokyo hay gần đây nhất là Quy chế Rome ngày 17/07/1998 của Tòa án Hình sự quốc tế (International Crimỉnaỉ Court, ICC). 1.6.1.2. Hành vi viphạm pháp luật quốc tế thông thường Các hành vi vi phạm luật quốc tế không nằm trong nhóm hành vi tội ác quốc tế được xác định là các hành vi vi phạm pháp luật quôc tế thông thường. Các hành vi này được thực hiện không phù hợp với các qui định của luật quốc tế và gây ra thiệt hại cho các chủ thê khác trong đời sống quốc tế, nhưng mức độ thiệt hại không nghiêm trọng như hành vi tội ác quốc tế. Ví dụ: các hành vi của Pháp nghiêm cấm nhập khẩu thịt bò của Anh vào thị trường nội địa với lý do là thịt bò “điên” vi phạm các quy định của luật quốc tế về tự do hóa thương mại. vấn dề đặt ra ờ đây là quốc gia áp dụng biện pháp cấm cần phải chứng minh tính hợp lý của biện pháp mà mình đưa ra cũng như có cơ sở đê khăng định việc cho phép nhập khâu như vậy sẽ làm ảnh hưởng 20 Xem thêm Hiến chương LHQ, Điều 39 - 42. 435
  • 437. đến sức khỏe cộng đồng... Nếu những chứng minh của Pháp cho việc đưa ra các biện pháp ngăn cấm như vậy là không đầy đủ thì hành vi này được xem là hành vi vi phạm pháp luật quốc tế thông thường gây thiệt hại cho Anh. Đối với các hành vi vi phạm pháp luật quốc tế thông thường, chỉ có chủ thể bị hại mới có quyền được truy cứu trách nhiệm pháp lý, các chủ thể khác hay cộng đồng quốc tế không có quyền này. Như ở ví dụ trên, chỉ có Anh mới có quyền tiến hành các thủ tục cần thiết để yêu cầu Pháp thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế. Phân biệt giữa hành vi vi pháp luật quốc tế thông thường với hành vi không thân thiện trong quan hệ quốc tế là vấn đề được đề cập trong khoa học luật quốc tế. Hành vi không thân thiện trong quan hệ quốc tế được hiểu là hành vi của quốc gia (chủ thể luật quốc tế) làm thiệt hại cho quốc gia khác nhưng không vi phạm cam kết quốc tế. Chúng đơn thuần chỉ là hành vi không thân thiện, không hữu nghị trong quan hệ bang giao quốc tế giữa các nước có liên quan. Các hành vi không thân thiện đó làm thiệt hại đến lợi ích của quốc gia khác nhưng những lợi ích này không được luật quốc tế bảo vệ. Trong khi đó, hành vi vi phạm thông thường luật quốc tế là hành vi được thực hiện trái với qui định của luật quốc tế. Điểm chung là cả hai hành vi này đều gây ra thiệt hại cho chủ thể khác trong đời sống quốc tế và đều dẫn đến hậu quả pháp lý cuối cùng là chủ thể bị hại có quyền áp dụng các biện pháp trả đũa, phù hợp nguyên tắc tương xứng. Hành vi không thân thiện xuất hiện nhiều trong thực tiễn đời sống quốc tế, đặc biệt là quan hệ ngoại giao. Ví dụ: trong quan hệ ngoại giao giữa Anh và Nga, vì những bất đồng trong vấn đề điệp viên Nga chạy sang Anh và sau đó bị tử nạn do nghi ngờ là bị đầu độc, Anh trục xuất ba quan chức ngoại giao Nga (hành vi không thân thiện), sau đó Nga cũng trục xuất ba quan chức ngoại giao Anh cùng cấp bậc và chức vụ ngoại giao với các quan chức Nga bị trục xuất. 436
  • 438. Trong trường hợp trên, hành vi trục xuất quan chức ngoại giao Nga của Anh không coi là hành vi trái với luật quốc tê mà chỉ được coi là hành vi không thân thiện. Còn hành vi trục xuất quan chức ngoại giao Anh của Nga là hành vi trả đũa tuân theo nguyên tăc tương xứng. 1.6.2. Hành vi không vi phạm pháp luật quốc tể làm ph át sinh quan hệ trách nhiệm pháp lý quốc tế Hành vi không vi phạm pháp luật quốc tế khi gây ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể khác của luật quốc tể làm phát sinh quan hệ ừách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan. Chẳng hạn những hoạt động nghiên cứu, sử dụng khoảng không vũ ứụ, xẩy dựng các lò hạt nhân đê sử dụng năng lượng nguyên tử phục vụ cho mục đích dân sự... không bị luật quốc tễ cam. tuy nhiên luật quốc tế quy định các chủ the luật quoc tế phải bồi thường thiệt hại khi các hoạt động kể trên gây thiệt hại cho các chủ thể khác. Như vậy, hành vi không vi phạm pháp luật quôc tế có thể là một trong những cơ sở đê xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế khách quan. Loại hành vi này được ghi nhận trong một sô các điêu ước quôc tê vê khai thác và sử dụng khoảng không vũ trụ, ví dụ: Công ước 1972 về trách nhiệm đối với thiệt hại phát sinh do phương tiện bay vũ trụ gây ra. II. TRÁCH NHIỆM PHẬP LÝ QUÓC TÉ CỦA QỤÓC GIA DO HÀNH VI TRÁI PHÁP LUẬT QUÓC TÉ (TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ CHỦ QUAN) Phần này nghiên cứu những vấn đề pháp lý của việc thực hiện trách nhiệm pháp lý đôi với quôc gia do hành vi trái pháp luật quốc tế. Trươc hết, phần này phân tích vấn đề quy trách nhiệm pháp lý đối với quỗc gia dựa trên cơ sở xác định hành vi của các cơ quan, viên chức nhà nước và hành vi của công dân. Tiếp theo, phần này trình bày ba căn cứ xác định trách nhiệm pháp lý quoc tể là hành vi trái pháp luật quôc tê, thiệt hại thực tế phát sinh và mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật quốc tế và thiệt hại. Cuối cùng, phân này đê câp vần đê thực hiện trách nhiệm pháp lý quốc tế, trọng đó bao gônì các trường hợp miễn trách nhiệm pháp lý quôc tê. 437
  • 439. 2.1. Vấn đề quy trách nhiệm pháp lý đối vói quốc gia Từ góc độ chủ thể của luật quốc tế, quốc gia sẽ gánh chịu trách nhiệm pháp lý về các hành vi của mình trong quan hệ bang giao quôc tê. Hai vân đề quan trọng đặt ra cần phải được làm rõ trước khi đặt ra vấn đề trách nhiệm đó là: phải có sự tôn tại của hành vi được quy cho quốc gia và hành vi đó phải được mô tả là trái với pháp luật quốc tế.21 Trong vụ Con tin ngoại giao Mỹ tại Tehran năm 1980, Tòa án Công lý quốc tế đã cho rằng, để có thể quy trách nhiệm pháp lý quốc tế cho nước Cộng hòa Hồi giáo Iran, trước hết cần phải xác định hành vi đó có thuộc trách nhiệm của nhà nước Iran hay không, sau đó là việc xem xét có sự phù hợp hay không giữa những nghĩa vụ quốc tế đang có hiệu lực mà Iran phải thực hiện, bao gồm các nghĩa vụ điều ước và những nghĩa vụ phát sinh từ luật quốc tế đang có giá trị thi hành.222 3 Việc quy trách nhiệm cho quốc gia được xác định trên hai cơ sở chính: - Hành vi của cơ quan nhà nước, bao gồm cả hành vi của các viên chức nhà nước, - Hành vi của công dân quốc gia đó.24 2.1.1. Trách nhiệm pháp lý của quốc gia đối với hành vi của cơ quan nhà nước Rõ ràng, các hoạt động của quốc gia chi được thực hiện thông qua các hành vi thực hiện chức năng của hệ thống cơ quan nhà nước, ví dụ như hành vi lập pháp của cơ quan lập pháp, hành 21 Xem thêm lập luận cùa Tòa án Thượng trực quốc tế cùa Hội quốc liên trong vụ Phosphates in Morocco. (Phosphates in Morocco, Judgment, 1938, P C I.J., Series A/B, No. 74) 22 United States Diplomatic and Consular Staff in Tehran, Judgment, I.C.J. Reports 1980, tr. 3, tr. 29, đoạn 56. 23 Điệu 4 và 7 Dự thảo Công ước 2001. 24 Điều 5 Dự thào Công ước 2001. 4 3 8
  • 440. vi xét xử của cơ quan tư pháp...25 Vì vậy, hệ quả pháp lý của hành vi của các cơ quan nhà nước sẽ được ghi nhận là hành vi của quốc gia, không phụ thuộc vào việc hành vi xử sự đó do cơ quan nhà nước ở cấp nào, có thẩm quyền trong lĩnh vực nào thực hiện. Cụ thể, quốc gia phải chịu trách nhiệm quốc tế bời hành vi của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. 2.1.1.1. Trách nhiệm của quốc gia đổi với hành vi cùa cơ quan lập pháp Cơ quan có chức năng lập pháp là cơ quan có chức năng “nội luật hóa” các điều ước quốc tế mà quốc gia đã kí kết hoặc tham gia. Hành vi của các cơ quan lập pháp có thể được coi là hành vi của quốc gia một cách trực tiếp, tức thời. Quốc gia có trách nhiệm đối với hành vi của cơ quan lập pháp trong những trường hợp sau đây: - Ban hành những văn bản pháp luật trái với những nghĩa vụ pháp lý quốc tế của quốc gia; -Không ban hành những văn bản pháp luật cần thiết để thực hiện một nghĩa vụ quốc tế; - Không hủy bỏ những văn bản trái với các nghĩa vụ quốc tế. 25 Tòa án Thường trực quốc tế đã lập luận “hành vi của các quốc gia chi có thể thực hiện bởi và thông qua các cơ quan và người đại diện của mình”. Xem Kết luận tư vấn của Tòa trong vụ G e rm a n S e ttle r s in P o la n d , A d v is o r y O p in io n , 1 923, P .C .I.J ., S e r ie s B, N o. 6, tr. 22. Tương tự, Tòa án Công lý quốc tế cũng tuyên bố “ că n c ứ v à o n h ữ n g n g u y ê n tã c đ ư ợ c g h i n h ậ n r ộ n g r ã i tr o n g lu ậ t q u ô c tê, h à n h v i c ù a b â t k ỳ c ơ q u a n n h à n ư ớ c n à o p h á i đ ư ợ c c o i là h àn h v i c ù a q u ô c g ia n ó i tr ê n ... q u y tă c n à y c ó g iá tr ị n h ư m ộ t tậ p q u á n q u ố c t ế ’. Xem D iffe re n c e R e la tin g to Im m u n ity fr o tn L e g a l P r o c e s s o f a S p e c ia l R a p p o r te u r o f th e C o m m iss io n o n H u m a n R ig h ts, Advisory Opinion, I.C.J. Reports 1999, D iffe re n c e R e la tin g to Im m u n ity f r o m L e g a l P r o c e s s o f a S p e c ia l R a p p o r te u r o f th e C o m m iss io n o n H u m a n R ig h ts, Advisory Opinion, I.C.J. Reports 1999, tr. 62 439
  • 441. 2.1. ỉ.2. Trách nhiệm của quốc gia đối với hành vi của cơ quan hành pháp Quốc gia phải chịu trách nhiệm đối với mọi hành vi vi phạm của các cơ quan hành pháp, kể cả ở trung ương cũng như địa phương trong khi các cơ quan đó thực hiện chức năng của mình. Cụ thể, quốc gia phải chịu trách nhiệm về các hoạt động công vụ của tổng thống, chủ tịch nước, thủ tướng chính phủ và các thành viên cao cấp khác trong bộ máy nhà nước, cũng như các quan chức ngoại giao - lãnh sự, và hoạt động của lực lượng vũ trang. 2.1.1.3. Trách nhiệm của quốc gia đối với hành vi của cơ quan tư pháp. Các cơ quan tư pháp trong quá trình áp dụng pháp luật để xét xử đã gây thiệt hại cho các chủ thể khác của luật quốc tế thì quốc gia sẽ phải chịu trách nhiệm về hành vi đó. Các hành vi của cơ quan tư pháp có thể dẫn đến trách nhiệm pháp lý quốc tế là: - Ra bản án, quyết định sai trái với các nghĩa vụ quốc tế; - Ra bản án, quyết định sai trái, bôi nhọ, xâm phạm quyền và lợi ích của quốc gia hoặc công dân, tổ chức của quốc gia khác; - Từ chối nghĩa vụ xét xử... 2.1.2. Trách nhiệm pháp ỉý của quốc gia đối với hành vi của các viên chức nhà nước Quốc gia phải chịu trách nhiệm đối với hành vi của các viên chức nhà nước (cảnh sát, thuế vụ, binh sĩ...) trong những trường hợp họ thực hiện nhiệm vụ nhân danh nhà nước mình (thừa hành công vụ), hoặc trong trường hợp họ vượt quá phạm vi thẩm quyền của mình (ultra vires). Theo Điều 7 của Dự thảo năm 2001 thì "hành vi của một cá nhân hoặc mật tổ chức được trao quyền thực hiện các yếu tố của quyền lực nhà nước sẽ được 440
  • 442. coi là hành vi của nhà nước đó theo luật quốc tế nếu như những người này thực hiện hành vi trong phạm vi thẩm quyền quv định đó, thậm chỉ vượt quá phạm vi thẩm quyền hoặc trải với sự hưởng dẫn ”.26 Trong vụ Youman’ s Claim (Mỹ và Mexico) năm 1926, một nhóm quân đội Mexico được cừ đến bảo vệ chống lại những đe dọa nhằm vào các công dân Mỹ đang sống tại Mexico, tuy nhiên những nhóm quân nhân này đã tham gia vào vụ tấn công và kết quả là công dân Mỹ Neer bị giết chết. Một ủy ban chung được lập ra dê giải quyết theo đon kiện của Mỹ đã kết luận rằng Mexico phải chịu trách nhiệm do hành vi bất hợp pháp nói ừên của các binh sĩ Mexico, mặc dù họ đã làm trái mệnh lệnh mà họ phải thực thi.27 Tương tự, ữong vụ Caire (Pháp và Mexico), một công dân Pháp đã bị hai cảnh sát Mexico bắn chết khi người này không chịu giao tiền theo lệnh của cảnh sát. ủy ban trọng tài đã tuyên bố trách nhiệm vẫn thuộc về Mexico bởi những người này đang thực hiện nhiệm vụ trong phạm vi thẩm quyền và tư cách của họ. Cụ thể ủy ban nêu rõ “hành vi của các viên cảnh sát, ngay cả trong trường hợp hành động ngoài tham quyền... hoặc thậm chí hành động vượt quá chỉ thị, vân sẽ được quy trách nhiệm cho quốc gia bởi lý do họ đã thực hiện hành vi với tư cách nhân viên công quyền của mình và sử dụng các biệnpháp có được từ tư cách đỏ 28 2.1.3. Trách nhiệm pháp lý của quốc gia đổi với những hành vi của công dãn Đây là trường hợp liên quan đến những cá nhân, công dần hành động ‘'không nhân danh nhà nước”, cụ thể những cá nhân, công dân này không phải là các sĩ quan quân đội, nhân viên hải quan, cảnh sát ... Hành vi của các cá nhân, công dân nói trên có 26 Điều 7 Dự thào 2001. 27 Y ou m an s C la im (Mỹ và Mexico) (1926) 4 UNRIAA 110. 28 C a ir e C la im (1929) (Pháp và Mexico) 5 RIAA 516. 441
  • 443. thể dẫn đến trách nhiệm của quốc gia hay không được xem xét tùy vào các yếu tố sau: - Hành vi được thực hiện với tư cách đại diện cho quốc gia (nhân danh nhà nước) Đây là trường họp mà người thực hiện mặc dù không phải là viên chức nhà nước nhưng lại hành động theo sự cho phép hoặc được trao quyền bởi nhà nước. Theo Dự thảo năm 2001 thì “việc thực hiện hành vi của một người hay một tổ chítc mà không phải là một cơ quan nhà nước nhưng có sự trao quyển trong luật của quốc gia đó để thực thi các yểu tổ của quyền lực nhà nước cũng sẽ được coi là hành vi của quốc gia theo luật quốc tế, miễn là họ hành động trongphạm vi quyền hạn được phép”.29 - Hành vi thực hiện trong những trường hợp tự “thay thế quyền lực nhà nước”. Trong trường hợp này, hành vi của các cá nhân, công dân đó có thể được coi như là một hành vi nhân danh quốc gia với lý do họ đã thực hiện hành vi như một viên chức nhà nước do sự vắng mặt các viên chức nhà nước đó. Ví dụ: hành vi của công dân trong trường hợp do thiên tai, động đất, hỏa hoạn, tham gia làm công tác trật tự ... Theo Dự thảo năm 2001 thì: “ Việc thực hiện hành vi của một người hay một nhóm người cũng sẽ được coi là một hành vi của quốc gia theo luật quốc tể nếu như người đó hoặc nhóm người đỏ hành động trong trường hợp thực hiện những yêu tô của quyên lực trong khi vắng mặt những người có thấm quyển chỉnh thức và trong những trường hợp cần phải thực hiện những yếu tố của quyền lực nhà nước”30 - Hành vi thực hiện không nhân danh nhà nước hoặc không liên quan đến chính sách của nhà nước 39 Điều 5 Dự thảo 2001. 30 Điều 9 Dự thảo 2001. 442
  • 444. về nguyên tắc, quốc gia không phải chịu trách nhiệm đối với những hành vi của công dân thực hiện “không nhân danh nhà nước”, không liên quan đến các chính sách của nhà nước hoặc những cá nhân, công dân đó không nằm dưới sự kiểm soát của nhà nước. Ví dụ: trong vụ Con tin Iran ngoại giao giữa Mỹ và Iran (1980), Tòa án Quốc tế đã khẳng định rằng việc tấn công của các nhóm binh sĩ, sinh viên Hồi giáo vào Đại sứ quán Mỹ sẽ không quy trách nhiệm cho phía Iran vì rõ ràng lúc đó, họ không phải là những viên chức, nhân viên của cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, việc chấp nhận tiếp theo của Giáo chủ Ayatolah Khomeini và những cơ quan khác của Iran về vụ tấn công và việc tiếp tục cầm giữ con tin lại có thể coi như là hành vi của nhà nước. Tòa cho Tằng, những người này đã trở thành những viên chức của nhà nước Iran và vì thế mà Iran sẽ phải chịu trách nhiệm pháp lý.3 1 Mặc dù vậy, trách nhiệm pháp lý vẫn có thể sẽ được đặt ra đôi với quôc gia do hành vi của công dần mình, mặc dù việc thực hiện các hành vi đó không nhân danh nhà nước, khi xảy ra nhũng trường hợp sau: + Việc ngăn chặn những hành vi vi phạm đó là một nghĩa vụ của quôc gia; + Quốc gia đã thất bại trong việc ngăn chặn nhũng hành vi đó;32 + Quôc gia đã không áp dụng những biện pháp cân thiêt đê trừng trị những kẻ phạm tội; 31 Case Concerning United States Diplomatic and Consular Staff in Tehran (United States ofAmerica V. Iran) (1979), ICJ Reports 1979, tr. 7. 32 Ví dụ, đầu năm 1969, Anh đã bồi thường cho Nam Phi những thiệt hại do những nhóm biểu tinh gây ra cho Đại sứ quan Nam Phi tại London. Nhóm biểu tình đã thông báo vẽ cuộc biêu tình vài ngày trước đó, nghĩa là cuộc tân công là có thể thấy trước được. Tuy nhiên, lúc đó chì có duy nhât một viên cảnh sát có nhiệm vụ bảo vệ Đại sứ quán. 443
  • 445. + Quốc gia đã không tiến hành những biện pháp cần thiết để điều tra, truy bắt tội phạm; + Quốc gia thừa nhận những hành vi bất hợp pháp đó là hành vi “nhân danh nhà nước”. - Hành vi thực hiện dưới sự chỉ đạo hoặc điều khiển bởi quốc gia Đây là trường hợp hành vi sai trái được thực hiện bởi một cá nhân hoặc một nhóm cá nhân, từ đó dẫn đến trách nhiệm của quốc gia liên quan. Cá nhân hoặc nhóm cá nhân này không phải là công dân của quốc gia liên quan tuy nhiên trên thực tế có sự liên hệ chặt chẽ với quốc gia thông qua việc chỉ đạo hoặc điều khiển. Chẳng hạn, các cơ quan của nhà nước có thể tuyển mộ hoặc xúi giục cá nhân hoặc nhốm cá nhân thực hiện hành vi trái pháp luật quốc tế như tiến hành các hoạt động quân sự hoặc bán quân sự chống lại chính quyền của một quốc gia khác, vấn đề này được quy định tại Điều 8 Dự thảo năm 2001 như sau: “Hành vi cùa một cả nhân hoặc một nhóm cá nhân sẽ đitợc xem là một hành vì của quốc gia theo luật quốc tế nếu cả nhân hoặc nhóm cá nhân này trên thực tế hành động theo sự hưởng dẫn hoặc dưới sự chỉ đạo hoặc điều khiển của quốc gia đó Tòa án Công lý quốc tế trong vụ Các hoạt động quân sự và bán quân sự chổng lại Nicaragua đã lập luận rằng những hành vi của nhóm vũ trang contra chống lại nhà nước Nicaragua sẽ được quy trách nhiệm pháp lý cho Mỹ, do đó tuyên bố Mỹ phải chịu trách nhiệm cho hành vi của nhóm contra trong việc vi phạm các quy tắc về luật nhân đạo. Cơ sở của tuyên bố này là việc chính quyền Mỹ đã có sự “điều khiển” trên thực tế, thông qua việc “lập kế hoạch, chỉ đạo và tài trợ”. Tuy nhiên, Tòa cũng không chấp nhận yêu cầu của phía Nicaragua cho rằng Mỹ phải 444
  • 446. chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của nhóm này ihông qua sự “điều khiển” nói trên.333 4 Cuối cùng, trách nhiệm pháp lý quốc tế cũng có thể quy cho quốc gia trong trường hợp quốc gia công nhận hoặc thừa nhận hành vi trái pháp luật quốc tế là hành vi của quốc gia mình. Vấn đề này được quy định tại Điều 11 Dự thảo năm 2001. Trên thực tế, Tòa án Công lý quốc tế trong vụ Con tin ngoại giao tại Tehran đã coi hành vi công nhận và phê chuẩn việc chiếm và cầm giữ con tin tại Iran bời Giáo chủ Ayatollah Khomeini cũng như các cơ quan nhà nước của nước này là cơ sở để quy trách nhiệm cho Cộng hòa Hồi giáo Iran. Trách nhiệm này tồn tại song song với trách nhiệm của nhà nước Iran vì không thực hiện các biện pháp bảo vệ và ngăn chặn sự tấn công vào tòa đại sứ Mỹ tại đây, vi phạm những nghĩa vụ theo Công ước Vienna năm 1961 .j4 2.1.4. Trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia liên quan đên việc đôi x ử với công dân nước ngoài Quốc gia không chỉ chịu trách nhiệm pháp lý quốc tế đối với quôc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế, mà còn đôi với cả công dân nước ngoài. Trình tự gánh chịu trách nhiệm được thực hiện theo lộ trình như sau: -Trước tiên, quốc gia (nhà nước) phải chịu trách nhiệm pháp lý theo các quy trình cùa luật quốc gia nước mình. Trong trường hợp quồc gia không thỏa mãn các đòi hỏi và yêu câu hợp pháp của người bị hại (người nước ngoài), thì trách nhiệm pháp lý của quốc gia sẽ được nâng cấp và trở thành trách nhiệm pháp lý quốc tế. 33 Militaiy and Paramilitary Activities in and against Nicaragua (Nicaragua V. United States of America), Merits, Judgment, ICJ Reports 1986, tr. 51, đoạn 86. 34 United States Diplomatic and Consular Staff in Tehran, Judgment, ICJ Reports 1980, tr. 35, đoạn 74. 445
  • 447. - Quốc gia mà người bị hại là công dân sẽ chính thức thực hiện các hoạt động bảo hộ ngoại giao theo luật quốc tê, có thể khởi kiện theo luật quốc tế chống lại quốc gia gây hại cho công dân nước mình. Trong trường hợp diễn tiến như trên, trách nhiệm pháp lý quốc tế phát sinh giữa quốc gia gây hại cho người nước ngoài với quôc gia mà người bị hại là công dân. 2.2. Căn cứ xác định trách nhiệm pháp lý quốc tế Nguyên tắc về trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia về hành vi sai trái quốc tế đã được khẳng định tại Điêu 1 của các Dự thảo năm 1996 và 2001, theo đó “mọi hành vi sai trái có tỉnh quốc tế của quốc gia đều dẫn đến trách nhiệm pháp lý của quốc gia đó”.ĩ5 Nguyên tắc này đã được Tòa Thường trực của Hội quốc liên áp dụng trong án lệ Phosphates in Morroco năm 1938, theo đó Tòa tuyên bố hành vi sai trái của một quốc gia chống lại một quôc gia khác sẽ “tức thì dân đên trách nhiệm pháp lý quôc tế giữa hai quốc gia «ày”3 5 36 và một sô án lệ nổi tiêng như Nhà máỵ Chorzow (1927)37 và Wimbledon (1923).38 Tòa án Công lỵ quốc tế cũng đã áp dụng nguyên tắc nói trên tại các phán quyết của mình trong các vụ Corfu (1949);39 Hành động quân sự và bản quân sự chống lại Nicaragua (1986)40 và Dự án Gabcikovo- Nagymaros (1997)41 cũng như đề cập trong kết luận tư vấn trong vụ Reparation o fInjuries (1949).42 35 Điều 1 Dự thảo 2001. 36Phosphates in Morocco [1938] PCD Series B No. 74. j7 Factory at Chorzow, Jurisdiction, Judg ment No. 8, 1927, PCD, Series A, No. 9. s.s. “ Wimbledon ”, 1923, P.C.I.J., Series A, No. 1. Corfu Channel, Merits, Judgment, ICJ Reports 1949. Military and Paramilitary Activities in and against Nicaragua (Nicaragua V. United States of America), Merits, Judgment, ICJ Reports 1986. Gabcikovo-Nagymaros Project (HungarylSlovakia), Judgment, I CJ Reports 1997. Reparation for Injuries Suffered in the Service of the United Nations, Advisory Opinion, ICJ Reports 1949. 4 4 6
  • 448. Dựa trên cơ sở Dự thảo Công ước năm 2001, cũng như các điều ước quốc tế chung hay chuyên môn và các nghị quyết của LHQ, có thể xác định căn cứ mà dựa trên đó trách nhiệm pháp lý quốc tế chủ quan của chủ thể luật quốc tế có thể bị truy cứu. Cụ thể, phải có hành vi trái pháp luật quốc tế, có thiệt hại thực tế phát sinh và có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật quốc tế và thiệt hại thực tế. 2.2.1. Hành vi trái pháp luật quốc tế Đây là căn cứ đầu tiên để tiến hành các thủ tục tố tụng càn thiết truy cứu trách nhiệm pháp lý quốc tế chủ quan của quốc gia. Việc xác nhận sự tồn tại của hành vi trái pháp luật quốc tế cần phải cụ thể và rõ ràng, bao gồm những nội dung sau đây: * Hành vi vỉ phạm bao gồm hành động {action) hoặc không hành động {omission) trái pháp luật quốc tế Hành vi trái pháp luật quốc tế bao gồm hành vi của các cơ quan nhà nước, nhân viên, viên chức nhà nước hay công dân của quốc gia đó. Hành vi trái pháp luật quốc tế bao gồm hành động và việc không hành động trái với pháp luật quốc tế. Dự thảo Công ước về trách nhiệm pháp lý của quốc gia năm 2001 đã chi rõ: "Hành vi sai trái mang tỉnh chất quốc tế của một quốc gia xuât hiện khi quôc gia đó thực hiện một hành động hoặc không hành động và: a. Hành vi được quy cho quốc gia căn cứ vào luật quốc tế; b. Hành vi tạo ra một sự vi phạm nghĩa vụ quốc tế của quốc gia đó ”43 Hành động trái pháp luật quốc tế có thể là: xâm chiếm lãnh thổ của quốc gia khác; tấn công vũ trang nhằm vào một 43 Đi